Người
thương của tôi mất rồi,
tôi phải đi
tìm ở đâu ?
(Phần I)
Kính
thưa Đại chúng,
Hôm nay là
ngày 16 tháng 3 năm 2007, chúng ta đang ở tại chùa Vĩnh Nghiêm trong
Đại Trai Đàn Giải Oan Chẩn Tế Bình Đẳng. Hôm nay là ngày đầu của Đại
Trai Đàn. Đề tài của buổi thuyết giảng của hôm nay là:
” Người
thương của tôi mất rồi, tôi phải đi tìm ở đâu ?”
Người thương
tôi chết tôi phải đi tìm người đó ở đâu? Chúng phải lắng lòng và
cùng quán chiếu để có thể thấy được.
Ví dụ như khi
chúng ta gieo
một hạt bắp xuống đất và nếu có trận mưa thì trong năm ngày hay bảy
ngày, hạt bắp sẽ nẩy mầm và sẽ lên một cây bắp. Mười ngày sau đó,
chúng ta thấy được một cây bắp non, hai lá hay là ba lá và nhìn kỹ
thì không có thấy hạt bắp nữa. Bây giờ đây thay vì thấy hạt bắp thì
mình thấy một cây bắp con và mình nói hạt bắp đã chết rồi.
Kỳ thật hạt
bắp không có chết! Hạt bắp đã trở thành cây bắp con. Nó thay hình
đổi dạng.
Nếu mà nhìn
cho kỹ, nhìn bằng con mắt của người Phật tử, nhìn bằng con mắt của
người biết tu, biết quán chiếu, thì khi mình thấy cây bắp non, mình
cũng có thể thấy được hạt bắp ngày xưa đang có mặt trong cây bắp non
đấy.
Nó chưa chết!
Nó vẫn còn tiếp tục ở trong cây bắp non và nó thay hình đổi dạng.
Chúng ta cũng
vậy. Khi chúng ta nhìn vào trong thân thể chúng ta, mà nhìn cho
thiệt kỹ, thì chúng ta thấy cha ở trong ta, mẹ ở trong ta. Có thể
cha ở ngoài mất rồi, mẹ ở ngoài mất rồi. Nhưng cha trong ta và mẹ
trong ta vẫn còn sống, vẫn còn tiếp tục, tại vì mình là sự tiếp nối
của cha, mình là sự tiếp nối của mẹ. Mình đang mang cha và mẹ đi vào
trong tương lai.
Khoa học cũng
nói như vậy. Tất cả những cái „gen“ của cha và mẹ đang có
ở trong từng tế bào cơ thể của mình và vì vậy cho nên khi mình thở
vào thì cha cũng thở vào với mình. Khi mình thở ra thì mẹ cũng thở
ra với mình. Đây là một chuyện hết sức khoa học.
Nếu mình buồn
khổ thì cha mẹ trong mình cũng buồn khổ,
nếu
mình nhẹ nhàng khỏe khoắn thì cha mẹ ở trong mình cũng nhẹ nhàng
khỏe khoắn. Cho nên mình sống như thế nào, mình phải tu tập như thế
nào để mình có sự nhẹ nhàng khỏe khoắn và cha mẹ trong ta cũng được
nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Mình là một đứa con có hiếu. Nếu mình giận
dữ, mình buồn tủi, mình khổ đau thì là cha trong mình cũng giận dữ,
buồn tủi, khổ đau, mẹ trong mình cũng giận dữ buồn tủi, khổ đau.
Nhưng nếu
mình mỉm cười hoan hỷ được, thì cha ở trong mình cũng mỉm cười hoan
hỷ, và mẹ ở trong mình cũng có thể mỉm cười hoan hỷ được. Mình như
thế là một đứa con có hiếu. Cái sự thật là : chúng ta là sự tiếp nối
của cha, của mẹ và của ông bà, tổ tiên. Mình tưởng rằng ông bà tổ
tiên đã mất rồi, không còn nữa, nhưng kỳ thật ông bà tổ tiên vẫn
đang còn ở trong ta, ở trong mình và mình mang tất cả ông bà tổ tiên
dòng họ và cha mẹ mà đi vào trong tương lai. Mình cũng sẽ trao
truyền tất cả tổ tiên ông bà cha mẹ cho con của mình và cho cháu của
mình. Đó là con cháu huyết thống. Mình trao truyền tổ tiên, ông bà,
cha mẹ cho con cháu huyết thống.
Khi đi xuất
gia thì mình sẽ không có con cháu huyết thống nữa, nhưng mình có con
cháu tinh thần. Và khi mình có đệ tử, và đệ tử của đệ tử thì đó cũng
là một loại con cháu và con cháu này gọi là dòng họ tâm linh. Mình
cũng trao truyền tất cả những sự tu học, thành đạt, an lạc, hạnh
phúc, giải thoát của mình cho đệ tử và đệ tử của đệ tử.
Vì vậy cho
nên trong người đệ tử có thầy và mỗi khi người đệ tử đó nói
một câu dễ thương thì thầy trong người đệ tử cũng đang nói
một câu dễ thương. Nếu người đệ tử nói một câu khó thương thì thầy
trong người đệ tử cũng nói một câu khó thương. Người đệ tử đó là
không có hiếu với thầy. Nếu người đệ tử có tu học, biết thở vào cảm
thấy khỏe, thở ra cảm thấy nhẹ thì đó là người đệ tử đang làm cho
thầy mình hạnh phúc. Nếu mình tu học thành công, mình có sự thảnh
thơi, giải thoát, lòng từ bi nhiều thì mình sẽ trao truyền được
những cái đó cho các đệ tử và đệ tử của đệ tử mình.
Vì vậy cho
nên chúng ta có hai gia đình. Một là gia đình huyết thống và một cái
là gia đình tâm linh.
Nếu thiếu một gia đình thì nó còn thiếu nhiều. Trên hai vai chúng ta
mang hai gia đình. Một vai mang gia đình huyết thống gồm có tổ tiên
ông bà cha mẹ và một vai thì mang gia đình tâm linh : có thầy, có
tổ, có Bụt và chư vị Bồ Tát.
Trong con
người của mình có sự tiếp tục của ông bà tổ tiên trong huyết thống
và có sự tiếp tục của ông bà tổ tiên tâm linh. Vì vậy mình phải là
những người con có hiếu. Mình phải làm thế nào để đừng đánh mất cái
giá trị của tổ tiên ông bà đã trao truyền cho mình.
Không
sinh không diệt.
Bây giờ mình
hãy quán chiếu về một đám mây ở trên trời. Khi đám mây ở trên trời
biến thành mưa thì mình có thể gọi đám mây đó đã chết, tại vì nhìn
lên không thấy đám mây nữa. Nhưng điều đó không có nghĩa là đám mây
không còn. Nó còn nhưng mà nó
đã
thay hình đổi dạng. Nó đã biến thành mưa. Trong kiếp trước nó là đám
mây, nhưng mà trong kiếp hiện tại nó là mưa, và ngày mai nó có thể
biến thành dòng suối. Và vì vậy cho nên đám mây cũng thay hình đổi
dạng.
Ông bà của
mình cũng vậy, tổ tiên của mình cũng vậy và cha mẹ của mình cũng
vậy. Có thể là họ không còn với hình thức cũ nhưng mà họ không phải
là đã mất. Mình nói “Ba tôi mất rồi!” không có đúng. Nói ba
tôi thay hình đổi dạng rồi thì đúng hơn. Cũng như khi mình nói là
cái hạt bắp đã chết thì nó không đúng. Nói: “Cái hạt bắp
nó đã thay hình đổi dạng để trở thành cây bắp non “ thì nó đúng
hơn. Cho nên ba mình, ông nội mình, ông ngoại mình đang còn đâu đó.
Đừng có nói rằng những người đó đã mất rồi. Không ! Họ không có mất.
Đám mây không
thể nào chết được. Đám mây chỉ có thể trở thành mưa, thành nước đá,
mưa đá, trở thành tuyết, trở thành…
nước
trà. Khi tôi nâng một ly trà lên tôi uống, mà uống trong chánh niệm,
nhìn cho sâu, cho kỹ thì tôi thấy rõ ràng đám mây đang ở trong ly
trà của tôi. Và thay vì uống trà thì tôi đang uống mây. Mỗi ngày
quý vị uống mây rất nhiều nhưng mà quý vị không biết là mình đang
uống mây. Mây nó chưa bao giờ chết. Mây nó đã trở thành nước mưa. Nó
trở thành canh. Trở thành nước trà. Nó trở thành nước dừa. Nó trở
thành nước mía. Và vì vậy cho nên bản chất của đám mây là không
sinh không diệt.
Ban đầu mình
nhìn khơi khơi trên bề mặt thì mình thấy như đám mây có sanh có
diệt. Nhưng mà khi mình nhìn cho kỹ -gọi là thiền quán- thì
mình khám phá ra rằng đám mây nó không sinh không diệt. Trước khi
đám mây là đám mây thì nó đã là sông, đã là hồ, đã là biển cả. Rồi
nhờ sức nóng, nhờ ánh sáng chiếu xuống nước bốc hơi thành đám mây.
Đám mây đó không phải từ không mà trở thành có. Đám mây đã tới từ ao
hồ, sông ngòi, rạch và biển cả. Và đám mây có một kiếp trước của nó.
Trước khi đám mây biểu hiện thành đám mây thì nó đã là những cái gì
khác rồi. Thì mình cũng vậy. Trước khi mình sanh ra thì mình đã là
cái gì đó trước rồi. Chứ không phải sau khi mình sanh ra mới bắt đầu
có.
Tờ giấy này,
trước khi nó sanh ra ở trong nhà máy giấy thì nó có là con số không
đâu ? Từ con số không làm sao mà trở thành tờ giấy được. Mình nhìn
kỹ vào trong tờ giấy mình thấy rằng ở trong đó có rừng cây.
Nếu không
có rừng cây thì làm sao có bột giấy được. Người thông minh nhìn vào
tờ giấy họ thấy rừng cây, họ thấy mưa ! Nếu không có mưa thì làm sao
cây mọc được. Cho nên trong tờ giấy có rừng cây, có mưa. Trong nó có
mặt trời. Nếu không có mặt trời chiếu xuống thì làm sao cây cối mọc?
Trong này có đất. Nếu không có đất thì làm sao cây mọc? Vì vậy cho
nên nhìn vào tờ giấy mà nhìn cho thật lâu thật kỹ, sẽ thấy rất nhiều
các yếu tố kiếp trước của nó. Những yếu tố kiếp trước của nó là đất,
là đám mây, là mặt trời, là rừng cây.
Là
những biểu hiện
Người tu
thiền nhìn rất là sâu. Nhìn vào một cái thì thấy được rất nhiều cái.
Cũng như khi mình nhìn vào cây bắp thì mình thấy được hột
bắp. Tuy là cái tướng của hột bắp nó không còn nữa, nhưng kỳ thực
hột bắp nó đang còn ở trong cây bắp. Nó thay hình đổi dạng. Vì vậy
cho nên người thương của mình không thật sự mất. Người thương của
mình thay hình đổi dạng. Và nếu như mình có khả năng nhìn cho kỹ,
nhìn cho sâu, thì mình vẫn thấy được sự có mặt của người mình thương
đâu đó, nhất là ở trong tự thân của mình và xung quanh mình. Rất
gần. mà mình tưởng là xa. Cũng như là khi mình nâng ly trà lên uống,
ở trong ly trà đá mình uống đâu có thấy đám mây. Nhưng kỳ thực đám
mây nó rất gần. Trong khi mình đang uống ly trà đá thì mình đang
uống mây. Và mây ở đâu ? Mây ở trong mạch máu của mình. Mình có tới
mấy chục lít mây ở trong con người. Nếu không có mây ở trong con
người của mình thì mình khô héo. Cho nên mây không phải chỉ ở trên
trời mà thôi, mây còn ở trong bình trà của mình. Mây ở trong cây
mía, ở trong trái dừa, ở trong máu của mình. Như vậy thì mây rất gần
mà mình tưởng là mây xa.
Người
thương của mình cũng vậy, rất gần mình mà mình cứ tưởng ở đâu rất là
xa. Nhờ quán chiếu mà mình thấy được người thuơng của mình rất gần
gũi với mình và mình có thể xúc chạm, có thể nói chuyện
với người đó được. Nếu mình biết người thương của mình đã thay hình
đổi dạng thì mình biết rằng người đó vẫn còn, vẫn còn đó. Mình có
thể tiếp xúc với người đó bằng nhiều cách. Mình có thể nói chuyện
với người đó.
Ba tôi mất
đã từ lâu rồi nhưng mà mỗi ngày tôi có thể nói chuyện được với
người. Tại vì tôi biết rằng ba tôi đang có mặt trong từng tế bào của
cơ thể. Có một bữa ngồi thiền tôi thấy khỏe quá, tôi thấy nhẹ nhàng
quá, thấy trong lòng rất là bình an, không có ước mơ cái gì hết,
không có chạy theo cái gì hết.
Tôi
có hạnh phúc rất lớn. Tôi nói cha con mình thành công rồi. Mình giải
thoát rồi. Mình nhẹ nhàng rồi. Thật đúng như vậy. Tu là mình tu cho
cha, mình tu cho mẹ, cho ông bà tổ tiên. Nếu mà mình có an lạc có
giải thoát, có lòng từ bi thì tổ tiên của mình, ông bà của mình, cha
mẹ mình cũng có an lạc, giải thoát và từ bi. Mình là đứa con rất là
có hiếu. Ai bảo đi tu là không có hiếu. Đi tu là một phương pháp
báo hiếu rất là sâu sắc.
Mỗi khi
tôi đi thì tôi đi những bước chân rất là nhẹ nhàng thanh thản, bước
nào cũng vững chãi, bước nào cũng thảnh thơi. Bước chân nào cũng
nuôi dưỡng tôi và bước chân nào cũng đem lại hạnh phúc. Trong khi
tôi đi như vậy tôi tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống,
trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở. Những cái đó nuôi
dưỡng tôi, trị liệu cho tôi. Đi như vậy tôi đi như là con người tự
do. Tôi đi như đức Thế Tôn đã từng đi ngày xưa. Từng bước chân
thảnh thơi. Từng bước nở hoa sen. Mình đi như vậy thì cha
mẹ ông bà và tổ tiên ở trong người mình cũng đi được như vậy. Mình
là một đứa con có hiếu. Mình là một đứa đệ tử có hiếu. Tôi cảm thấy
tôi là một đứa con có hiếu là một đứa đệ tử có hiếu tại vì tôi thở
cho thầy, tôi thở cho Phật, tôi thở cho ông bà tổ tiên. Tôi mỉm cười
cho thầy, tôi mỉm cười cho Phật, tôi mỉm cười cho tổ tiên. Tôi không
có những phiền não. Tôi có nhiều lòng từ bi. Tôi biết là Phật, thầy
tổ, ông bà tổ tiên ở trong tôi đang hạnh phúc. Tôi biết rằng tôi là
một đứa con có hiếu nhờ tôi có tu.
Trước hết
mình phải từ bỏ quan niệm là người thương của mình bây giờ không còn
nữa, người thương mình mất rồi, từ có mà trở thành không. Đó là một
cái tà kiến, tức là một cái thấy sai lầm (tiếng Anh gọi là wrong
perception, wrong view). Trước khi tờ giấy là tờ giấy thì nó không
phải là con số không. Quí vị có đồng ý với tôi như vậy chăng? Trước
đó nó đã là cái gì rồi. Nó không phải từ không mà trở thành có. Nó
là sự tiếp nối. Ngày mình ra đời là ngày tiếp nối, chứ không phải là
ngày từ không mình trở thành có. Danh từ ngày sinh cũng không
có đúng lắm vì sinh có nghĩa là từ không mà trở thành có. Danh từ
ngày tiếp nối hay hơn nhiều. Trước đó mình đã có rồi dưới một
hình dạng khác, bây giờ mình tiếp nối dưới một hình dạng khác. Thật
sự ra ngày sinh không phải là ngày sinh mà là ngày thay hình đổi
dạng, ngày tiếp nối.
Chỉ
có sự tiếp nối thôi
Tôi có nói
trước tiên mình phải bỏ đi ý tưởng từ không đến có và từ có trở
thành không. Cái đó gọi là tà kiến (wrong view). Nhìn vào đám
mây mình biết rằng trưóc khi là đám mây, nó đã là cái gì khác. Nhìn
vào tờ giấy, mình biết rằng trước khi là tờ giấy nó đã là cái gì
khác rồi, như rừng cây chẳng hạn. Nhìn vào cây bắp mình biết rằng
cây bắp nó không phải sinh ra mà là sự tiếp nối của hạt bắp và hạt
bắp cũng là sự tiếp nối của cây bắp. Chỉ có sự tiếp nối thôi.
Cho nên thay vì chúc mừng ngày sinh mình nên chúc mừng ngày tiếp
nối. Thay vì chúc happy birthday thì mình chúc happy continuation
day. Ngày mình chết cũng thật chưa phải là ngày chết, là ngày
tiếp nối, tiếp nối với một cái dạng khác, thay hình đổi dạng mà
thôi! Cũng vậy, đám mây đâu có chết! Đám mây không còn trong hình
thái của đám mây nữa. Đám mây đã trở thành mưa. Nếu nhìn cho kỹ thì
thấy trong mưa có đám mây, trong trà có đám mây.
Tu thiền
giúp cho mình thấy những cái mà người không tu không thấy được. Đám
mây không chết! Đám mây chỉ thay hình đổi dạng. Người thương của
mình cũng vậy. Người thương của mình không chết. Người thương của
mình chỉ thay đổi dạng mà thôi. Cái ý tưởng từ không trở thành có,
từ có trở thành không : trước khi sinh mình không là cái gì hết, sau
khi sinh mình mới là một cái gì, rồi sau một trăm năm hay ít hơn
mình chết, mình từ có trở thành không, ý tưởng đó là một tà kiến.
Cái thấy đó rất sai lầm. Mình phải lấy cái thấy đó ra khỏi đầu của
mình. Mình gần với Phật nhiều hơn.
Bản chất
của đám mây là không sinh không diệt. Bản chất của tờ giấy là không
sinh không diệt. Bản chất của người thương của mình cũng vậy : không
sinh không diệt. Người thương của mình vẫn có đó, vẫn đang có mặt
rất gần mà mình không thấy được. Mình tưởng đây chỉ là nước mà không
phải là mây. Nhưng kỳ thật đây cũng là mây.
Sai lầm
đầu tiên mình phải lấy ra khỏi đầu mình là tà kiến : từ không trở
thành có và từ có trở thành không. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương
có một câu thơ :
”Đâu có lẽ có chiều qua mà không sáng nay”.
Thay
đổi trong từng phút từng giây
Ý tưởng
thứ hai, cũng là một tà kiến: người thương của mình bây giờ cũng
y hệt như người thương của mình mười năm, hai mươi năm trước.
Người thương của mình đã thay hình đổi dạng. Nếu mình tìm người
thương của mình dưới cái dạng ngày xưa thì mình sẽ không tìm thấy
được. Nếu mình tìm đám mây trong dạng hiện tại thì mình sẽ thấy đám
mây. Nhưng nếu trong đầu mình chỉ nghĩ đến cái dạng nổi trên trời
thì mình sẽ không tiếp xúc được với đám mây. Mình phải thấy rằng sự
vật thay đổi hình dạng. Nếu mình muốn tìm người thương của mình thì
mình đừng bị kẹt vào hình tướng cũ của người thương.
Giáo lý
của đạo Phật nói về vô thường, có nghĩa là thay đổi, thay đổi
trong từng phát từng giây. Chính chúng ta cũng thay hình đổi dạng
trong từng phút từng giây. Mình lật cuốn album của mình hồi còn nhỏ.
Mình thấy cái hình của mình lúc năm tuổi. Bây giờ mình rất khác với
em bé năm tuổi đó. Mình đã thay hình đổi dạng. Tuy rằng mình vẫn còn
tên là Nguyễn Thi Thu Nguyệt, nhưng em bé tên Nguyễn Thị Thu Nguyệt
và thiếu phụ bốn mươi, năm mươi tuổi Nguyễn Thi Thu Nguyệt rất là
khác nhau. Nếu tìm em bé đó thì bây giờ sẽ không tìm thấy được vì em
đã thay hình đổi dạng. Nguyễn Thị Thu Nguyệt của năm tuổi đã trở
thành Nguyễn Thị Thu Nguyệt của bốn mươi,
năm
mươi tuổi. Vì vậy phải nhìn vào Nguyễn Thi Thu Nguyệt của năm mươi
tuổi tìm gặp Nguyễn Thị Thu Nguyệt của năm tuổi. Mình còn thay hình
đổi dạng huống hồ là người thuơng của mình. Mình đừng đi tìm người
thương của mình dưới hình thức quen thuộc mà mình có trong đầu.
Ngày xưa
trong văn phòng của của chúng tôi bên Pháp có một bà người Anh. Bà
đến làm việc tự nguyện giúp cho văn phòng. Là người Anh nên bà viết
thư từ bằng thiếng Anh rất giỏi. Lúc đó bà đã bảy mươi tuổi nhưng
còn mạnh lắm. Bà là người Anh giáo, không phải là Phật tử, nhưng bà
rất thương mình nên tình nguyện làm thư ký không công cho phái đoàn
Phật giáo hòa bình tại hội nghị Paris. Mỗi ngày bà chỉ ăn hai bửa
cơm chay, không có lương tiền mà làm việc rất giỏi. Bà nói chồng bà
ngày xưa rất đẹp trai nhưng ông chết lúc ba mươi tuổi. Hình ảnh của
người con trai ba mươi tuổi đó còn ở mãi trong bà. Bà tin rằng khi
chết bà lên thiên đường sẽ gặp ông trở lại.
Một hôm ăn
sáng xong tôi hỏi bà :
”Này bà, bà nói rằng khi chết bà lên thiên đường sẽ gặp lại ông,
nhưng bà gặp lại ông dưới hình thức nào? ba mươi tuổi hay bảy mươi
tuổi. Bây giờ bà đã bảy mươi tuổi rồi, nếu gặp ông, ông sẽ không
nhận ra bà đâu. Hồi đó bà là một thiếu phụ rất trẻ, rất đẹp. Bây giờ
bà bảy mươi tuổi, lên trên đó làm sao ông nhận ra.
-
Ông sẽ nói “Bà không phải là người thương của tôi! Người thương của
tôi trẻ lắm mà. Bà đâu phải là người thương của tôi. Bà đừng có nhận
là người thương của tôi”. Tại vì bà đã thay hình đổi dạng, mà ông có
lẽ cũng thay hình đổi dạng. Nếu bà tìm hình bóng của người con trai
ba mưoi tuổi năm xưa thì có thể bà sẽ thất bại.
Đó là cách
tôi chia xẻ giáo lý vô thường vô ngã của đạo Phật cho một người Anh
giáo. Bà có hơi lúng túng. Sự thật là như vậy, là vô thường. Ngay
sự sống của mình cũng vô thường huống hồ là cuộc sống chung quanh
mình.
Vậy thì
hai tà kiến mình phải lấy ra khỏi đầu là : một là có sinh và có diệt
, hai là sự vật vẫn y như vậy không thay đổi. Sự vật luôn luôn thay
hình đổi dạng. Nếu nắm được hai điều đó thì gần với tuệ giác của
đức Thế tôn.
Người
thương của mình ở khắp nơi
Trong cuộc
chiến tranh dai dẳng trên đất nước chúng ta có gần năm sáu triệu
đồng bào đã chết vì bom đạn hoặc vì những nguyên do khác. Chúng ta
thiết lập Trai Đàn Thủy Lục Giải Oan Bình Đẳng Cứu Bạt để cầu nguyện
cho tất cả đồng bào của chúng ta. Bình đẳng có nghĩa là cho tất cả
các đồng bào không phân biệt tôn giáo, đảng phái chính trị. Chúng ta
cầu nguyện cho người cộng sản và cho người chống cộng sản. Người
miền Nam chúng ta cũng cầu nguyện cho, người miền bắc chúng ta cũng
cầu nguyện cho. Không có sự phân chia, không có sự kỳ thị hận thù.
Cái
đó gọi là bình đẳng. Nước Đức cũng bị chia đôi như nước Việt nam,
nhưng họ có phước hơn mình vì sau đó họ thống nhất được nước Đức mà
không cần phải có chiến tranh đổ máu. Đông Đức và Tây Đức bây giờ là
một nước và họ đang đóng vai trò lãnh đạo trong Liên minh Châu Âu.
Năm sáu
triệu người mình chết cũng oan ức. Nếu mình khôn khéo hơn, nếu mình
biết con đường bất bạo động thì mình không cần phải đi qua cuộc
chiến tranh như vậy. Những người chết trong chiến tranh, những người
đó là ai, họ là đồng bào của mình.
Họ là cha, là anh, con
trai, em trai của mình.
Họ đã
chiến đấu anh dũng để bảo vệ đất nước, để dành độc lập cho đất nước.
Cái chết của họ rất oai hùng nhưng cũng có người chết không vẻ vang
như vậy mà chết trong hoàn cảnh rất là tăm tối, rất oan ức và hài
cốt của hằng trăm ngàn người vẫn chưa thể tìm ra được. Người thương
của mình ở khắp nơi, có đến năm sáu triệu người chứ không phải chỉ
có bốn năm người thân trong gia đình. Chúng ta quy tụ lại để cầu
nguyện siêu độ cho tất cả mọi người chứ không phải chỉ cho người
thân trong gia đình mà thôi.
Thực
tập buông bỏ, tha thứ
Kỳ này về
thăm quê hương, tôi đã được thủ tướng chính phủ cho phép hợp tác với
giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức ba trai đàn : một ở miền Nam
theo nghi lễ cổ truyền miền Nam tại chùa Vĩnh Nghiêm. Một ở Quốc tự
Diệu Đế miền Trung theo nghi thức cổ truyền miền Trung, một ở chùa
Non ( Sóc Sơn ) miền Bắc theo nghi thức cổ truyền miền Bắc.
Chúng ta
có những khổ đau, oan ức trong lòng chưa có cơ hội nói ra được.
Chúng ta nén những khổ đau đó xuống. Trong cuộc sống hằng ngày chúng
ta bận rộn, có khi ta giận con cháu, ta la rầy đánh đập chúng. Có
thể vì những khổ đau oan ức bị dồn nén xúi đẩy chúng ta có những lời
nói, hành động không dễ thương. Chúng ta chưa có cơ hội nhận diện
những khổ đau oan ức ở trong lòng. Trai Đàn Chẩn tế Giải oan là một
trong những phương pháp thực tập trị liệu, cho phép những đau khổ
oan ức trào lên ánh sáng của ý thức. Ta nhận diện những khổ đau oan
ức đó là có thật để cầu nguyện chuyển hóa cho thân tâm được nhẹ
nhàng. Khi thân tâm được nhe nhàng thì chúng ta không có những lời
nói, hành động gây tổn thương cho người thương của chúng ta.
Nếu không
thực tập chúng ta có thể sẽ trao truyền những oan khổ đó cho các thế
hệ tương lai. Con cháu chúng ta có thể sẽ hành xử một cách bạo động,
làm khổ những người thương của chúng nó mà không biết tại sao. Sự
thật là vì những đau khổ uất ức đó chưa được chuyển hóa nên tiếp tục
truyền về các thế hệ tương lai. Cho nên Đai Trai Đàn Chẩn Tế Giải
Oan có mục đích là chuyển hóa những oan khổ của những người đã mất
và cả những oan khổ của những người đang còn sống.
Khi còn
sống, nếu chúng ta có nhiều hận thù buồn tủi, ta không được nhẹ
nhàng thì ta sẽ làm khổ thân mình và làm khổ người thân của mình.
Khi ta chết rồi mà vẫn còn những hận thù oan ức thì ta cũng không
được nhẹ nhàng. Có những phương pháp giúp cho người sống được thảnh
thơi nhẹ nhàng. Có những phương pháp giúp cho người đã chết - những
người thay hình đổi dạng - chuyển hóa được những hận thù, những nổi
khổ niềm đau. Trai Đàn Chẩn tế Giải Oan giúp người sống lẫn người
chết chuyển hóa được cái nặng nề oán thù đã dồn chứa từ tháng này
sang tháng khác, từ năm này sang năm khác.
Mỗi chúng
ta được ban tổ chức đề nghị nên lập một bàn linh trước hiên nhà.
Trên bàn linh có thể cúng cháo trắng, nước trong, cúng gạo, muối,
bắp hay khoai luộc tùy ý. Mỗi ngày phải thay cháo, thay nước trong,
phải tụng kinh, đọc tam quy năm giới. Trong suốt ba ngày liên tục
thắp hương. Mình ráng ăn chay để giúp sự chuyển hóa của những người
chết được dễ dàng hơn. Mình hồi hướng công đức cho những người đã
chết. Trong ba ngày đó mình làm việc thiện. Mình bố thí phóng sanh,
thả chim, thả cá, cấp học bổng cho sinh viên nghèo, cho thuốc người
bệnh, làm việc từ thiện xã hội. Đó là một sự thực tập để chuyển hóa
những nghiệp cũ nặng nề, để cho người sống cũng như người chết có
được nghiệp mới nhẹ nhàng.
Vì vậy Ba
ngày của trai đàn Chẩn tế là ba ngày chúng ta phải thực tập nghiêm
mật. Chúng ta thực tập để đừng có những tư tưởng đen tối hận thù, tư
tưởng trách móc đối với bản thân, con cái, bạn bè. Hãy thương lấy
những người thân của mình, Hãy thương lấy những bạn bè của mình dù
trong quá khứ những người đó đã từng vụng dại lỗi lầm, đã nói và làm
những điều khiến cho mình đau khổ. Trong ba ngày Trai đàn Chẩn tế
chúng ta phải thực tập buông bỏ, tha thứ, thì chúng ta mới có thể
giúp cho các vong linh được nhẹ nhàng.
Trong ba
ngày đó chúng
ta phải nói nhũng lời ái ngữ, không nói những lời buộc tội, oán hờn,
lên án, trách móc. Ta phải tập nói nhũng câu nói dịu dàng đầy tình
thương có khả năng hiểu biết, đùm bọc, đó gọi là khẩu nghiệp.
Về ý
nghiệp ta có những tư tưởng đi đôi với từ bi tha thứ. Nó góp
phần vào sự chuyển nghiệp của chúng ta và sự chuyển nghiệp của người
thương đã chết.
Trong ba
ngày trai đàn chẩn tế, chúng ta nên có những thân nghiệp có
khả năng chuyển hóa
:
Chúng ta không sát sanh, đánh đập, không làm khổ người khác. Trái
lại ta có những cử chỉ chăm sóc, thương yêu, lo lắng, bảo vệ như
phóng sanh, bố thí. Ta có thể sử dụng ba nghiệp
-
thân khẩu,
ý - để chuyển hóa bản thân và giúp chuyển hóa những người đã khuất.
Nếu trong
nước tất cả đều thực tập ba ngày như vậy thì sau ba ngày đó niềm
vui, hạnh phúc, tình huynh đệ, tình đồng bào sẽ lên rất cao. Cả nước
phải cùng thực tập với nhau. Người Phật tử đã đành mà người Công
giáo cũng nên thực tập như vậy. Ban tổ chức đề nghị bên Công giáo và
Tin lành nên lập bàn thờ như vậy, thay vì đọc kinh Phật thì có thể
đọc Thánh kinh. Người Marxist cũng có thể thiết lập một bàn linh
trước hiên nhà và đọc những đoạn văn có tính cách tâm linh của Marx.
Tóm lại,
Trai Đàn Chẩn tế mở rộng lòng để ôm lấy tất cả đồng bào không phân
biệt Nam Bắc, không phân biệt tôn giáo, lập trường chính trị, hoàn
toàn bình đẳng. Chúng ta chấp nhận nhau, chấp nhận đồng bào của
chúng ta, người sống cũng như người chết. Trong tinh thần cởi mở đó,
chúng ta tiếp xúc được với Tam Bảo, với Phật Pháp Tăng, và nhờ vào
năng lượng vĩ đại của Tam bảo mà tất cả các vong linh đều được
chuyển hóa siêu độ. Công đức của chúng ta sẽ vô lượng. Đó là cách
chúng ta giúp nước giúp dân bằng sự tu tập chuyển hóa ba nghiệp của
mình. Về ý nghiệp chỉ phát khởi ý tưởng thương yêu tha thứ. Về khẩu
nghiệp chỉ nói những lời thương yêu, tha thứ, khuyến khích. Về thân
nghiệp chỉ làm những việc có tính cách che chở, đùm bọc, bảo vệ, cứu
độ, phóng sanh từ thiện.
Ban tổ
chức rất trông cậy vào tất cả đồng bào - Phật tử hay không Phật tử -
thực tập nghiêm chỉnh trong ba ngày Trai Đàn Chẩn tế. Chúng ta sẽ
góp phần lớn lao vào sự chuyển hóa nghiệp của cộng đồng của đất
nước, giúp cho những đồng bào nạn nhân của cuộc chiến tranh dai dẳng
được nhẹ nhàng siêu thoát.
Niềm
vui và và sự siêu thoát của họ cũng sẽ trở thành niềm vui và sự siêu
thoát của chúng ta và của con cháu chúng ta.
(Còn tiếp) |