.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

... Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (...)

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư Nhất Hạnh.

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

 Nghệ thuật sống thiền :



 Người thương của tôi mất rồi,

tôi phải đi tìm ở đâu ?

(Phần II)

 

  • Tháng III 2007 - Chân An Tịnh và Chân Giác Lưu phiên tả và biên tập
    Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 17 - III - 2007 (tiếp theo và hết)
    tại
    chùa Vĩnh Nghiêm - Sài Gòn trong Đại lễ
    Thủy Lục Giải Oan Bình Đẳng Cứu Bạt Trai Đàn
    Â
    m thanh MP3 : Phần 1 (7.01MB)   Phần 2 (7.60MB)

 

Chỉ có chuyển biến mà thôi.

Ngày hôm qua chúng ta ta quán chiếu về một cây bắp non, về một tờ giấy và về một đám mây.
Khi nhìn vào cây bắp non  thì chúng ta không thấy hạt bắp. Nó đã làm ra cây bắp non. Chúng ta nghĩ rằng hạt bắp đã chết nhưng mà kỳ thực nếu chúng ta nhìn cho kỹ thì thấy hạt bắp vẫn còn sống trong cây bắp non. Nó chỉ thay hình đổi dạng. Hạt bắp giống trở thành ra cây bắp non.

Khi chúng ta quán chiếu về tờ giấy chúng ta thấy tờ giấy không phải từ không mà trở thành có. Trước khi là tờ giấy thì nó đã là rừng cây, nó đã là đám mây, đã là cơn mưa, đã là đại địa.

Tờ giấy vì vậy không phải từ không mà trở thành có. Cho nên bản chất của tờ giấy là vô sinh. Không phải từ không mà trở thành có. Giờ phút mà tờ giấy biểu hiện ra dưới hình thức tờ giấy là giờ phút tiếp nối mà thôi.

Khi quán chiếu đám mây chúng ta thấy rằng đám mây cũng là vô sinh. Trước khi đám mây hiện ra như là một đám mây nó chẳng phải là không. Đám mây đã từ sông hồ, từ biển cả, từ sức nóng của mặt trời mà có. Đám mây không phải từ không mà trở thành có. Khi đám mây không còn trên trời nữa thì không phải là đám mây đã chết. Đám mây chỉ trở thành mưa, thành tuyết hay là thành nước đá mà thôi. Đám mây không thể nào chết được mà chỉ có thể thay hình đổi dạng. Vì thế, bản chất của đám mây là không sinh không diệt, chỉ có chuyển biến mà thôi.

Tờ giấy cũng vậy. Khi chúng ta đốt tờ giấy thì tờ giấy không phải từ có mà trở thành không. Trong khi đốt tờ giấy chúng ta quán sát. Ta sẽ thấy tờ giấy trở thành sức nóng, trở thành tro, trở thành khói. Khói đó, tro đó và sức nóng đó là sự tiếp nối của tờ giấy. Không thể nào làm cho một cái gì có trở thành không được, và không thể nào làm cho một cái gì không trở thành có được. Chúng ta có một cái nhìn rất là cạn về cái và về cái không. Trong cái không gian đang ôm ấp chúng ta đây quý vị biết rất rõ là có những tín hiệu của những đài vô tuyến truyền hình, của các đài phát thanh. Nó đầy dẫy ở trong không gian. Nhưng chúng ta không nghe được, không thấy được những tín hiệu đó. Chúng ta cần phải có một cái máy Tivi, hay là cái máy Radio thì chúng ta mới bắt được những tín hiệu đó, mới có thể nghe được hoặc thấy được. Thành thử không thấy được thì đừng nói là nó không có.

Người thương của chúng ta cũng vậy. Bây giờ chúng ta không thấy được người thương của chúng ta dưới cái hình dáng cũ. Nhưng mà người thương của ta vẩn còn. Đã thay hình đổi dạng và đang có mặt với chúng ta dưới những hình dạng mới. Nếu chúng ta biết cách quán chiếu chúng ta có thể tiếp xúc được với tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng ta trong nội thân của chúng ta và chung quanh chúng ta. Vì thế  cho nên chúng ta phải đoạn trừ những tri giác, những quan niệm  sai lầm. Cái quan niệm sai lầm đầu tiên là không thể nào từ không mà trở thành có được, không thể nào từ có mà trở thành không được. Từ không trở thành có, từ có trở thành không là một tà kiến. Theo tuệ giác của đạo Phật, nghĩ rằng từ cái không mà trở thành cái có, và từ cái có trở thành cái không, đó là một tà kiến. Chúng ta phải quán chiếu cho sâu thì mới dứt bỏ được cái tà kiến đó. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có nói: “Đâu lẽ có chiều qua mà không sáng nay“.

Người thân của chúng ta đang còn đó. Nếu chúng ta biết quán chiếu, chúng ta sẽ thấy người thân của chúng ta không ở đâu xa mà ở ngay trong từng tế bào cơ thể của ta và ở chung quanh ta. Bản chất của người thân chúng ta là không sanh không diệt, chỉ biến chuyển mà thôi.

Cho nên, cái chân lý thứ nhất mà ta phải công nhận là : bản chất của chúng ta là không sanh không diệt. Chỉ có sự tiếp nối thôi, và tiếp nối dưới những hình dạng khác nhau : thay hình đổi dạng.

Chính chúng ta sinh ra cách đây ba mươi năm, bốn chục năm, sáu chục năm chúng ta cũng thay hình đổi dạng. Nhìn vào hình em bé lúc năm tuổi và cái hình chúng ta bây giờ ta thấy được là chúng ta thay đổi rất nhiều. Em bé năm tuổi chưa chết đâu. Em bé đã trở thành ra người lớn ba mươi tuổi, hay năm mươi tuổi. Khi nhìn vào hình hài của tôi, tôi tiếp xúc được với em bé năm tuổi và tôi có thể nói chuyện với em bé năm tuổi trong tôi. Nó còn sống. Có khi nào quí vị ngồi nói chuyện với em bé năm tuổi mà ngày xưa quí vị đã từng hay không ?

Mình người nào cũng đã từng là một em bé trai năm tuổi, hay là một em bé gái năm tuổi. Em bé trai năm tuổi, em bé gái năm tuổi đó có thể có những vết thương từ hồi thơ ấu mà chưa lành. Chúng ta bận rộn quá chừng ! Chúng ta không có cơ hội trở về nhận diện em bé năm tuổi đang bị thương trong ta để nói chuyện với nó, ôm ấp nó và để giúp cho những vết thương của em bé năm tuổi trong ta được thuyên giảm.

Quí vị tối nay về thực tập đi. Ngồi thật yên năm phút mười phút và nhận diện em bé năm tuổi, bảy tuổi bị thương trong mình. Hãy ôm lấy nó với tất cả sự trìu mến, công nhận sự có mặt của nó và làm cho những vết thương của em bé mau được chữa lành. Chỉ cần làm vài lần thôi thì vết thương của em bé được chữa lành.Và chúng ta biết rằng em bé đó chưa bao giờ từng chết. Nó còn sống và bây giờ nó có một hình dạng mới. Hình dạng mà nhìn vào trong kính ta có thể thấy được. Bởi vì chính chúng là những người đang còn sống mà còn thay hình đổi dạng huống hồ là người thương của chúng ta đã qua đời rồi thì làm sao mà họ không thay hình đổi dạng. Nhưng mà những hạnh phúc, những kinh nghiệm, những khổ đau và những cái bức xúc vẫn đi theo chúng ta, người sống cũng như người chết.

 

Làm mới thân tâm

Thế nên chúng ta được cái hạnh ngộ gặp Phật, gặp Pháp, gặp Tăng để học những pháp môn tu học mà chuyển hóa thì chúng ta làm cho cái thân tâm chúng ta nhẹ nhàng hơn và chúng ta phải thực tập để làm cho cái thân tâm của người qua đời cũng được nhẹ nhàng hơn, nhờ đó sự siêu thoát trở thành dễ dàng. Bất cứ điều gì  thực hiện được để  làm mới thân tâm, để cho ý nghiệp được thanh tịnh, để cho khẩu nghiệp, thân nghiệp được thanh tịnh chúng ta đều có thể hồi hướng cho người thương của chúng ta đã qua đời.

Trong những ngày của Đại Trai Đàn Chẩn tế chúng ta đã nhất tâm cầu nguyện. Trong ba ngày của Trai Đàn Chẩn tế chúng ta thiết lập bàn linh, chúng ta cúng dường cháo loãng, thức ăn, nước trong. Chúng ta đọc tụng kinh điển. Chúng ta khởi lên những tâm niệm lành, những tâm niệm tích cực mà đức Thế Tôn gọi là chánh tư duy. Những tư tưởng đi theo với sự bao dung, sự tha thứ, sự yêu thương. Chúng ta nghĩ về con chúng ta, về chồng chúng ta, về vợ chúng ta, chúng ta nghĩ về bè bạn chúng ta với một tâm niệm lành. Cái đó là phát khởi chánh tư duy. Một khi có chánh tư duy thì con người ta nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Chúng ta nghĩ tới những người thương yêu của chúng ta đã qua đời bằng tâm niệm thương yêu tha thứ. Và như vậy chúng ta truyền cái năng lượng của chánh tư duy cho những người thương của chúng ta. Mỗi tư tưởng của chúng ta phát ra nếu nó là chánh tư duy thì nó có ảnh hưởng tốt trên sức khỏe của mình và ảnh hưỏng tốt cho vong linh mình cầu nguyện.

Khi chúng ta có một tư tưởng hận thù giận dữ thì tư tưởng đó làm hại cho sức khỏe của thân thể ta, và nó cũng làm hại cái sức khỏe của tâm linh ta. Cho nên một tư tưởng tà -tà tư duy- có hận thù, có bạo động, có kỳ thị không có đem lại cho thân tâm sự lắng dịu, sự thuyên giảm, trị liệu. Những tư tưởng hắc ám, những tư tưởng giận dữ, hận thù làm hại đến sức khỏe.

Khi chúng ta phát khởi được tâm niệm thương yêu thì tư duy đó có khả năng chữa trị cho thân, cho tâm ta và có khả năng chữa trị cho thế giới, cho những người đã khuất. Và vì vậy cho nên suy nghĩ, tư duy là một hành động, là một cái nghiệp. Nếu là chánh tư duy thì đó là thiện nghiệp -nghiệp tốt-, và nếu chúng ta tà tư duy -tức là tư duy với hận thù, với bạo động, với trách móc-, thì cái tà tư duy đó nó làm hại cho sức khỏe chúng ta, làm hại cho thế giới, và không giúp được cho những người đã khuất. Cho nên trong ba ngày Trai Đàn Chẩn tế chúng ta phải thực tập chánh tư duy. Nghĩ về cha về mẹ về con về cháu về người thân với tha thứ, với thương yêu. Đó là chánh tư duy.

Ngày hôm nay tôi phát nguyện sẽ phát ra những tư tưởng  có tha thứ, có bao dung, có thương yêu. Tôi nguyện phát ra những tư tưởng đi theo chánh tư duy. Ngày hôm nay tôi cũng nguyện nói những lời đi đôi với thương yêu và tha thứ, tôi nguyện thực tập chánh ngữ. Tôi sẽ tìm cách nói với cha tôi, mẹ tôi, với vợ tôi, chồng tôi, với các con tôi những lời nói có chứa đựng sự ngọt ngào, sự tha thứ, có chứa đựng sự bao dung. Tôi biết nói như vậy thì lời nói đó trước hết nó làm cho tôi khỏe. Nó có tác dụng trị  liệu cho cơ thể tôi. Nó làm cho tôi khỏe, nhẹ và nó cũng làm người nghe tôi được khỏe và được nhẹ. Người nghe tôi nói đó có thể là vợ, là chồng, là con, là cha, là mẹ, là huynh đệ, bạn bè. Một lời nói mang theo tha thứ và thương yêu là lời nói chánh ngữ. Trong ba ngày Trai Đàn Chẩn tế tôi nguyện nói toàn những câu chánh ngữ để trị liệu thân tâm tôi, để giúp trị liệu thân tâm những người thương và để giúp cho nhẹ cái nghiệp cho những vong linh mà tôi muốn cầu nguyện cho. Chánh tư duy và chánh ngữ là điều mình có thể thực tập trong đời sống hằng ngày, và nhất là trong ba ngày Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải Oan. Sau chánh tư duy và chánh ngữ thì có chánh nghiệp. Chánh nghiệp là những hành động đi theo hướng tha thứ và bao dung cùng thương yêu. Ngày hôm nay tôi nguyện làm một cái gì đó để chứng tỏ rằng tôi có tình thương, tôi có sự tha thứ, tôi có nghĩ được tới những người khổ đau, những loài khổ đau. Tôi nguyện ăn chay, tôi nguyện phóng sinh, tôi nguyện bố thí. Tôi phải làm một cái gì đó để cho hành động của tôi là chánh nghiệp, là thân nghiệp thiện, nó biểu lộ được cái sự tha thứ, bao dung, cái sự thương yêu hay lòng từ bi của tôi. Và tôi biết một khi tôi làm được một điều như thế, có một cử chỉ như thế, nghĩa là một cử chỉ có tác dụng hiểu biết, thương yêu, tha thứ, cứu trợ, cứu khổ thì hành động đó sẽ chữa lành những thương tích của thân và tâm tôi, của những người thương của tôi trong gia đình, và nó có khả năng làm vơi đi cái nghiệp của những hương linh mà tôi đang muốn cầu nguyện cho.

Cho nên ba ngày Đại Trai Đàn Chẩn tế chúng ta phải thực tập chánh ngữ, chánh tư duy và chánh nghiệp. Chánh nghiệp tức là hành động đi theo với tình thương và với sự tha thứ.

 

Chúng ta biết rằng cha mẹ chúng ta có trong ta.Cha mẹ đã trao truyền cho chúng ta những gì.?
Cha mẹ chúng ta đã trao truyền bản thân của họ cho chúng ta. Trong mỗi tế bào cơ thể chúng ta có những cái Gene của cha mẹ, những nhiễm thể của cha và của mẹ. Và như vậy đứng về phương diện khoa học là cha mẹ đang có trong ta và ta đang tiếp nối cha mẹ và tổ tiên. Thành ra mỗi khi ta mĩm cười được thì cha mẹ trong ta mĩm cười được. Mỗi khi ta tha thứ được thì cha mẹ trong ta cũng tha thứ được, mỗi khi chúng ta thương yêu được thì cha mẹ trong ta cũng thương yêu được. Vì thế chúng ta có thể là đứa con rất có hiếu nếu ta thực tập chánh tư duy, chánh ngữ và chánh nghiệp

Những người thân của chúng ta đã qua đời có thể đang có mặt trong từng tế bào cơ thể ta mà có thể cũng đang có mặt ở ngoài ta. Và mỗi khi ta phát khởi một tâm niệm lành, có thương yêu, có tha thứ thì những người đó trong ta được hưởng, những nguời đó chung quanh ta được hưởng. Mỗi khi ta nói được một lời tha thứ, thương yêu -gọi là ái ngữ- thì cha mẹ, tổ tiên trong ta cũng được hưởng. Cha mẹ trong ta, tổ tiên trong ta và những huơng linh chúng ta muốn cầu nguyện cho cũng đuợc hưởng. Do đó cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, cầu nguyện còn là phát khởi những tư tưỏng đi đôi với tha thứ và thương yêu. Cầu nguyện có thể là dưới hình thức những lời nói có tha thứ có thương yêu mà ta nói với những ngưòi trong gia đình, trong dòng họ, với bạn bè, xã hội. Và ta có thể cầu nguyện bằng hành động khi ta phóng sanh, khi ta giúp đỡ trẻ em đói, khi ta cho một học bổng, khi ta cứu mạng cho một con sâu, con kiến. Tất cả những cái đó đều là lời cầu nguyện. Cầu nguyện bằng tư tưởng, cầu nguyện bằng lời nói và cầu nguyện bằng hành động.

 

Bây giờ tôi xin mời quí vị thực tập thiền quán chiếu về có và về không.

Ngọn lửa, bây giờ em ở đâu ?

-Đây là cái hộp quẹt đem từ bên Pháp về- Hộp quẹt nó có mục đích đem lửa tới. Lửa để đốt nhang, lửa dể thắp đèn, lửa để nấu cơm. Bây giờ chúng ta hãy quán chiếu về ngọn lửa. Nếu chúng ta hiểu được bản chất của ngọn lửa thì chúng ta sẽ hiểu được bản chất của người thương mà chúng ta muốn tiếp xúc.

Người thưong không còn ở trong hình dạng cũ mà chúng ta muốn tiếp xúc. Bây giờ tôi xin mời đại chúng nhìn vào hộp quẹt này và trả lời là ngọn lửa nó đã có sẵn chưa ? Hay là nó không có ? Mình biết ngọn lửa nó đang núp ở đâu đó. Mình nói rằng ngọn lửa không có đó thì hình như là không đúng. Cũng như nói rằng ở trong khoảng không gian này không có những tín hiệu của các đài truyền hình truyền thanh là không đúng. Nó có đầy hết. Tại vì mình chưa có cái máy thâu thanh, máy truyền hình nên mình không bắt được (tức là để nó diễn dịch ra cho mình dưới những hình thức mà mình có thể thấy và nghe được). Mình nói những tín hiệu của đài truyền hình, truyền thanh không có giữa không gian này là không có đúng. Ngọn lửa cũng vậy. Nó chưa xuất hiện thôi.  Nhưng mà nói rằng ngọn lửa không có, và từ không nó sẽ trở thành có, là một tà kiến. Đây là giáo lý rất là thậm thâm của đức Thế Tôn mà nếu chúng ta bận rộn quá trong đời sống hằng ngày thì làm thế nào chúng ta thực chứng được cái giáo lý mầu nhiệm đó ?

Mình nói: “Ngọn lửa, bây giờ em ở đâu ? Em núp ở trong cái hộp quẹt hay là em ở đâu ? Tại sao em không xuất hiện để cho ngưòi ta thấy hình dạng của em. Em núp làm gì vậy ?”. Và nếu mình nghe với hết tất cả tấm lòng của mình, mình có niệm, có định, thì mình nghe như thế này: “Thầy ơi, các thầy các sư cô ơi? các đạo hữu ơi, nhìn cho kỹ đi? em đang có mặt đó. Nếu mà thầy, nếu các vị Phật tử cư sĩ muốn em xuất hiện thì em xuất hiện. Em đang có mặt ở trong hộp quẹt, mà em cũng có mặt ở ngoài hộp quẹt nữa. -Trong không gian có dưỡng khí-. Nếu không có dưỡng khí thì em không thể nào biểu hiện được. Ngọn lửa không thể có cơ hội biểu hiện nếu không có oxygen. Cho nên ngọn lửa không phải chỉ núp ở trong hộp diêm mà nó còn núp ở ngoài hộp diêm. Ngọn lửa chỉ còn cần một động tác của hai ngón tay tôi. Vì vậy tức là ngọn lửa nó cũng ẩn ở trong hai ngón tay tôi. Tôi chỉ cần rút ra một que diêm, tôi đánh một cái thì ngọn lửa biểu hiện liền. Vậy thì một trong những điều kiện giúp cho ngọn lửa phát hiện là hành động của hai ngón tay. Ngọn lửa cũng núp ở trong hai ngón tay, nó cũng núp ở trong không gian, nơi có dưỡng khí, và ngọn lửa cố nhiên là cũng núp ở trong hộp diêm. Bây gìờ mình nói: “Ngọn lửa ơi, ta sẽ cung cấp cho em một nhân duyên cuối cùng. Tất cả các nhân duyên, các điều kiện khác đều đầy đủ hết rồi để cho em phát hiện. Nay chỉ còn thiếu một nhân duyên cuối cùng là động tác của hai ngón tay tôi. Ngọn lửa biết rằng nó sẽ xuất hiện. Và chúng ta cũng biết rằng ngọn lửa sẽ xuất hiện. Ngọn lửa không phải từ không mà trở thành có. Ngọn lửa từ chổ ẩn tàng nó trở thành ra biểu hiện. Trước khi ngọn lửa biểu hiện nào phải là nó không có. Nó ở trong cái thế ẩn tàng mà thôi.

Trước khi mình sinh cũng vậy. Không phải là mình không có đâu. Mình đã ở cái thế ẩn tàng. Khi mẹ sinh mình ra thì mình ở vào cái thế biểu hiện.

Bây giờ ngọn lửa đã biểu hiện. Và ngọn lửa sẽ ở lại với mình không biết bao lâu. Nếu que diêm này dài ba thước thì ngọn lửa ở lại lâu hơn. Nếu que diêm này chỉ dài có ba phân thì nó ở lại ngắn hơn. Nghĩa là tùy theo cái điều kiện. Nếu chúng ta có bác sĩ, nếu chúng ta có hoàn cảnh, môi trường tốt thì chúng ta sẽ sống lâu. Nếu ở hoàn cảnh, môi trường xấu thì chúng ta sẽ chết yểu. Thế nên một cái gì đó có thể phát hiện và tồn tại lâu hay mau là tùy thuộc vào những điều kiện ở trong và ở ngoài, những điều kiện trước và những điều kiện sau.

Ngọn lửa đã tắt.
Bây giờ mình không thấy nó nữa !
Chúng ta sẽ hỏi ngọn lửa hai câu hỏi :
“Ngọn lửa ơi, em từ đâu tới ?, và em đã đi về đâu rồi ?”
Nếu mình lắng tai nghe với tất cả niệm và định thì mình sẽ nghe được tiếng trả lời : “Thầy ơi, các thầy các sư cô ơi, các vị đạo hữu cư sĩ ơi, em nào có từ đâu tới. Em không phải tới từ phuơng đông hay phương tây, phương nam hay phương bắc. Khi những điều kiện dầy đủ thì em phát hiện, em xuất hiện, em biểu hiện, vậy thôi! Em không từ đâu tới hết. Không phải từ bằc tới hay từ nam tới, không phải từ tây tới hay từ đông tới.” Và nếu mình nghe được thì mình thấy rằng ngọn lửa nói đúng. Ngọn lửa này đâu phải từ phương nam tới, đâu phải từ phương bắc tới. Khi nào những điều kiện đầy đủ, nhân duyên đã đầy đủ thi ngọn lửa biểu hiện, vậy thôi.

Người thương của mình cũng vậy. Người thương của mình không phải từ cõi này tới hay cõi kia tới. Không từ phương bắc hay phuơng nam, phương tây. Khi những điều kiện có đầy đủ thì người thương đó biểu hiện và mình gọi là người thương được sinh ra. Kỳ thật không phải là sinh. Đó là sự tiếp nối của một cái mà mình chưa thấy. Bây giờ mình bắt đầu thấy được thì mình gọi là sinh.

Bây giờ mình hỏi ngọn lửa câu hỏi thứ hai: “Ngọn lửa ơi, lúc nãy em đã biểu hiện cho chúng tôi thấy, bây giờ em đi về đâu? “

Câu hỏi này rất là quan trọng. Câu hỏi này mình đã từng hỏi người thương của mình đã qua đời. “Anh ơi, anh bỏ em, anh đã đi đâu rồi, bây giờ anh ở đâu?, Em ơi, em bỏ anh mà đi, bây giờ em ở đâu ? Con ơi, con bỏ má mà đi, bây giờ con ở đâu? “ Chúng ta đã hỏi câu hỏi đó nhiều lần rồi. Bây giờ chúng ta hỏi lại một lần nữa với sự quán chiếu: ”Ngọn lửa ơi, em đã đi về đâu ?”. Và nếu chúng ta biết thực tập theo thiền, tức là đem cái tâm trở về với cái thân, ngồi lắng đọng và hỏi câu hỏi cho thật sâu thì chúng ta sẽ nghe được câu trả lời: “Thầy ơi, các thầy các sư cô ơi, các đạo hữu ơi, em nào có đi đâu. Em không có đi về phương nam hay đi về phương bắc, em không đi về phương tây cũng không đi về phương đông. Em không có đi đâu hết! Khi mà những nhân duyên nó không đầy đủ thì em ẩn đi thôi, em không có đi đâu hết”. Mà khi chúng ta suy nghĩ cho kỹ thì chúng ta thấy ngọn lửa nói đúng.

Nó không có đi về đâu hết. Nó không có đi về phương đông hay phương tây, phưong nam hay phương bắc. Khi mà những điều kiện đầy đủ thì ngọn lửa biểu hiện, và khi những điều kiện không đầy đủ nữa hoặc là nó chưa đầy đủ thì ngọn lửa ẩn tàng để rồi nó biểu hiện dưới hình thức mới. Vì vậy cho nên bản chất của ngọn lửa là vô khứ vô lai, tức là không tới cũng không có đi (phi khứ phi lai). Ngọn lửa không phải từ không mà trở thành có, và ngọn lửa cũng không phải từ có mà trở thành không, cho nên bản chất của nó là vô sinh bất diệt. Ngọn lửa không có từ phương đông tới, không từ phương nam tới vì thế cho nên nó là phi lai, là không có tới, no coming. Ngọn lửa không đi về đâu hết, không đi về phương đông, tây, phương nam, phương bắc, nó là phi khứ. Vô khứ vô lai,  bất sinh bất diệt : đó là bản chất của ngọn lửa. Bản chất của đám mây cũng vậy: bất sinh bất diệt, vô khứ vô lai. Bản chất của người thương của chúng ta cũng vậy: là bất sinh bất diệt, vô khứ vô lai. Mình đừng tưởng người thuơng của mình đã từ có mà trở thành không. Người thương của mình đã chuyển hóa, đã thay hình đổi dạng, đã ẩn tàng và đã biểu hiện trở lại nhưng tại vì mình u mê cho nên tuởng rằng người thương của mình không còn nữa. Sự thực là người thưong của mình đang ở rất gần mình mà mình không biết.

Bất cứ ngồi  hay đứng ở đâu mình cũng có  thể nói chuyện được với người thương của mình. Hôm qua chúng ta đã quán chiếu về đám mây. Khi tôi nâng ly trà lên uống tôi thấy ly trà đầy mây vì tôi có quán chiếu.  Đám mây không còn trên trời, nó có mặt ở đây. Không thấy đám mây tôi không khóc thương. Đám mây của tôi chưa bao giờ từng chết, nó chỉ thay  hình đổi dạng thôi. Nếu có trí tuệ tôi sẽ nhận diện được đám mây thân yêu của tôi đang nằm trong chén trà của tôi trong phút giây hiện tại. Khi uống trà tôi thật sự đang uống mây. Quý vị đã uống mây hàng ngày mà quý vị không biết.

Người thương của quý vị đang ở gần quý vị, đang nói chuyện với quý vị, mà quý vị không thấy không nghe được. Quý vị cứ than phiền là người thương của mình không còn nữa. Mình đã mất người thuơng mãi mãi. Điều đó không đúng ! Bản chất của người thương cũng giống như bản chất của đám mây : không sinh, không diệt, không tới, không đi. Đám mây không phải chỉ nằm trong ly nước, nó còn nằm trong cơ thể tôi. Cơ thể tôi có mấy chục lít nước, đó là mây. Tôi chưa bao giờ rời mây và mây cũng chưa bao giờ rời tôi. Người thương của quý vị chưa có bao giờ rời quý vị mà quý vị cứ than là người thương không còn nữa. Quý vị bị kẹt vài hình đáng cũ của người thương. Nếu mình bị kẹt vào hình dáng cũ của đám mây thì mình không thấy đám mây trong cơn mưa hay trong tảng nước đá.

 

Trời phương ngoại

Có một ngày nào quý vị nhìn lên trời và thấy một đám mây rt đẹp, quý vị có cảm tình với đám mây nhưng đám mây thì vô thưòng. Đó là lời đức Thế Tôn dạy : đám mây vô thường.

Nó có đó rồi lát nữa nó sẽ thay hình đổi dạng. Nó là hai đám mây nhỏ nhưng một giờ sau nó sẽ thở thành một đám mây lớn. người thương của chúng ta cũng vậy : cũng vô thường? cũng thay hình đổi dạng. Khi người thương thay hình đổi dạng ta khóc, ta đi tìm cái hình dáng cũ. Ta không thấy được cái hình dáng cũ ta cho rằng người thương không còn nữa. Tại vì ta không có con mắt của Phật, của các vị Bồ Tát, của những người thực tập thiền. Ta không thấy được đám mây trong ly nước, không thấy được người thương đang có mặt cho chúng ta, đang tiếp xúc, trò chuyện với chúng ta. Ta cứ tưởng là người thương đã mất. „Người thương chúng ta đang ở đâu ?“ Đó  là câu hỏi. „Đang ở trên rừng hay ở dưói biển ?“. Khi chúng ta đi vớt vong trên biển hay ở địa điểm của một trận chiến, ta cứ ngỡ là linh hồn của người đó quanh quẩn ở chổ đó. Nhưng kỳ thật bản chất của người đó là không tới không đi. Ta có thể tiếp xúc với người đó bất cứ ở đâu, bất cứ nơi nào.

Khoa học bây giờ, nhất là khoa vật lý mới ( Quantum mechanism ) cho biết là bản chất của những điện tử, những hạt vật chất, những đợt sóng vật chất là phi cục bộ. Phi cục bộ được dịch từ tiếng anh là non local, có nghĩa là không thể tìm thấy được trong không gian. Nó có mặt bất cứ ở đâu. Mình không thể nhận diện ra nó trong một phương hướng hay một không gian nhất định. Đức Thế Tôn cũng vậy. Bản chất của đức Thế Tôn là phi cục bộ. Ở bắc ta có thể tiếp xúc với đức Thế Tôn mà ở nam ta cũng có thể tiếp xúc được với đức Thế Tôn. Trên rừng ta có thể tiếp xúc với đức Thế Tôn mà ở biển cả ta cũng có thể tiếp xúc được với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn có mặt ở khắp mọi nơi trong vũ trụ. Không có nơi nào mà đức Thế Tôn không có mặt.

Trong kho tàng văn chương Phật giáo Phương Đông có  một cái tên rất hay đó là phương ngoại phương, có nghĩa là không gian ở ngoài không gian. Khi mình giải thoát, giác ngộ rồi thì chổ nào cũng là nhà của mình. Ngày xưa ta có Tuệ Trung Thượng sĩ, một vị thiền sư cư sĩ đã chứng ngộ trong khi tu thiền. Ngài là anh ruột của tướng Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo có sự nghiệp vẻ vang về quân sự nhưng Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Quốc Tung  có sự nghiệp vẻ vang về thiền. Tuệ Trung Thượng sĩ có viết câu thơ : „ Chống gậy rong chơi hề phưong ngoại phương„. Mình rong chơi trong trời phương ngoại. Trời phương ngoại là trời không bị cục bộ vào không gian, không bị cục bộ vào đông tây nam bắc. Vượt không gian, và không gian nằm ngoài không gian gọi là trời phương ngoại. Vượt khỏi thời gian gọi là kiếp ngoại.

Kiếp ngoại có nghĩa là thực tại của chúng ta không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Bản chất của chúng ta là phương ngoại phương. Bản chất cũa chúng ta cũng giống như bản chất của đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn có mặt ở mọi thời mọi xứ. Đức Thế Tôn không bị không gian và thời gian giới hạn. Đám mây cũng vậy, cây bắp cũng vậy, ta cũng vậy, người thương của ta cũng vậy. Bản chất của ta, bản chất của ngưòi thương của ta là phi cục bộ, là phương ngoại phương. Đừng nói rằng ta phải đi tới chổ đó mới gặp được người thương. Ta phải trở về thời gian đó mới gặp đưọc người thương. Bản chất của người thương là phi cục bộ. Nếu biết tu mình có thể tiếp xúc với người thương bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Đây là giáo lý thậm thâm vi diệu của đức Thế Tôn mà khoa học ngày hôm nay  đã có cái thấy tương đương. Thay vì dùng chữ rất nên thơ „phương ngoại phương“ hay „kiếp ngoại“ thì khoa học bây giò dùng chữ non local dịch là phi cục bộ. Nhưng phi cục bộ không hay bằng phương ngoại phương của Phật dạy.

 

Rất là uổng ! quý vị bận rộn quá trong đời sống hằng ngày vì chuyện mưu sinh, vì những lo lắng buồn khổ. Giáo lý của đức Thế Tôn có những cái hết sức mầu nhiệm. Hôm nay tôi mời quý vị nếm thử, không khó khăn lắm đâu. Chúng ta biết rằng đạo Phật có phần tôn giáo tín ngưỡng. Cầu nguyện bái sám có thể làm vơi nhẹ một ít đau khổ của chúng ta. Nhưng đạo Phật không chỉ có phần bái sám cầu nguyện mà có phần tuệ giác rất là vĩ đại. Nếu chúng ta tập chọc thủng được cái vỏ cầu nguyện bái sám, chúng ta đi vào kho tàng của tuệ giác đó. Ta dùng tuệ giác đó để tháo gỡ tất cả những bế tắt, những lo âu phiền muộn, sợ hãi của chúng ta.

Chúng ta không làm được chuyện đó nếu chúng ta không quán chiếu về tính bất sinh bất diệt, phi khứ phi lai, phi hữu phi vô. Là Phật tử chúng ta đừng mãn ý với sự cầu nguyện bái sám. Những cái đó rất hay. Nó cần thiết để làm vơi nhẹ nỗi khổ niềm đau của mình. Nhưng muốn giải quyết vấn đề cho triệt để, muốn tháo gỡ những lo lắng, sầu muộn, sợ hãi thì chúng ta phải sử dụng cái kho tàng tuệ giác của đạo Phật mà ít người với tới được.

Sáng nay cũng như ngày hôm qua tôi muốn giới thiệu với quý vị chút ít kho tàng tuệ giác đó để quý vị có thể đi tìm lại người thương của mình một cách dễ dàng hơn. Người thương của mình có tính cách phi cục bộ, phương ngoại phương. Điều này là một chân lý thâm diệu mà khoa học lượng tử ( quantum mechanism ) bắt đầu sờ mó tới được. Trong thế kỷ 21 khoa học lượng tử và Phật giáo có thể tay trong tay để diễn bày cái tuệ giác mà đức Thế Tôn đã đạt được hai ngàn sáu trăm năm trước. Nhà bác học Einstein nói : „ Nếu có một tôn giáo có thể đi đôi với khoa học thì tôn giáo đó là Phật giáo.“ Vì vậy tại các Phật học viện các thầy các sư cô cũng đang học về khoa học. Học khoa học để hiểu Phật giáo hơn. Những nhà khoa học phải học Phật giáo để hiểu khoa học hơn, để có những khám phá sâu sắc hơn.

 

Hạt giống đang nẩy mầm và lớn mạnh

Chúng tôi có một niềm tin rất vững chãi và sâu sắc nơi giáo lý của đức Thế Tôn. Khi chúng ta quán chiếu được theo lời chỉ dẫn của đức Thế Tôn rằng bản chất của vạn pháp là vô sinh bất bất diệt, vô khứ vô lai, không phải một cũng không phải khác nhau, không phải có cũng không phải không, thì chúng ta giải quyết được không biết bao nhiêu vấn đề của cuộc sống. Chúng ta tháo gỡ được những lo ngại, những sợ hãi tuyệt vọng của chúng ta. Điều này là một cái phước cho người Phật tử. Mình đã được sinh ra trong một dòng họ tâm linh, một nền văn hóa siêu việt, đó là Phật giáo. Phật giáo bây giờ có cơ hội được truyền bá sang tây phương. Những đứa con của Cơ đốc giáo, Do thái giáo, Hồi giáo ở Tây phưong bằt đầu làm quen với đạo Phật. Trong 40 năm chúng tôi đã gieo rắc hạt giống của Phật pháp trên Âu châu, Mỹ châu và cả Phi châu. Những hạt giống đó đã gặp thời tiết, đang nẩy mầm và lớn mạnh. Đó là một tin mừng cho nhân loại. Những hạt giống Phật pháp tôi đem gieo rắc ở Tây phương, ở Âu châu, Úc châo, Mỹ châu và Phi châu là những hạt giống lấy từ mảnh đất văn hóa Việt nam.

Chúng tôi đã viết những cuốn sách đối thoại với những tôn giáo khác, nhất là Cơ đốc giáo. Có ít nhất là hai cuốn sách của tôi có cơ duyên đối thoại với Cơ đốc giáo ( Tin Lành và Công giáo). Cuốn đầu là Living Christ Living Buddha? dịch ra tiếng Việt là Chúa ngàn đời Phật ngàn đời. Cuốn sách được viết bằng tiếng Anh và được dịch ra hơn bốn mươi tiếng khác trong đó có tiếng Hoa nhưng chưa có tiếng Việt. Đã có một vài người dịch ra rồi nhưng chưa được in bằng tiếng Vìệt. Tôi mong rằng sách đó được ấn hành ở Việt Nam sớm để người Phật tử, người Công giáo và người Tin Lành có thể tới gần với nhau nhiều hơn. Bên Trung quốc sách được dịch là Sinh Sinh Ki Tô Thế Thế Phật. Có nhiều nhà tu trong tu viện kín Công giáo đã đọc và đã tháo gỡ được nhiều khó khăn trong niềm tin của họ. Họ đã viết thư cám ơn rất nhiều. Cuốn đó có rất nhiều công đức vì đã đem những Phật tử và những người Công giáo tới gần  nhau. Nó giúp cho cả hai bên cởi bỏ những thành kiến sai lầm của nhau. Cuốn thứ hai là Coming Home  - Jesus And Buddha Are Brothers ( Hãy về nhà đi ! Phật và Chúa là hai anh em, không phải người xa lạ ). Bụt sinh trước Chúa mấy trăm năm cố nhiên Bụt phải làm anh, Chúa làm em. Hai anh em nhà họ nắm tay nhau để hóa độ cho thế giới đầy hận thù, đầy tuyệt vọng này. Tôi hy vọng cuốn sách đó được ấn hành tại Việt Nam.

Nhà nước Việt Nam đã cho chúng tôi xuất bản nhiếu cuốn sách tại Việt Nam. Trong bốn mươi năm chúng tôi đã cho ra không biết bao nhiêu sách phát hành trên khắp thế giới, cả ngay tại Trung quốc. Ở Việt Nam có một số rất ít đạo hữu đã được đọc sách đó. Những sách đó được in chui nhưng bây giờ mình khỏi phải in chui nữa vì nhà nước đã cho phép. Có khoảng gần hai mươi cuốn sách đã được xuất bản. Có nhiều cuốn được Nhà Xuất bản Tôn giáo xuất bản. Có nhiều cuốn được Nhà Văn hóa Sài Gòn xuất bản trong đó cuốn Thả một bè lau -cái nhìn thiền quán về truyện Kiều-. Tôi đã dịch truyện Kiều ra văn xuôi dành cho người trẻ? đọc dễ như là đọc tiểu thuyết, không cần phải chú giải. Sau khi đọc truyện Kiều văn xuôi xong mình có thể trở về văn vần và hiểu văn vần dễ dàng hơn. Tôi đã viết lại những truyện truyền kỳ thần tiên của nước Việt như truyện Trầu Cau truyện Sơn Tinh Thủy Tinh truyện Bánh Chưng Bánh Dầy. Sách này được xuất bản ở Việt Nam  với  tựa là Hương Vị Của Đất. Ngày xưa nó đã được xuất bản một lần dưới tên là Văn Lang dị sử. Có một cuốn sách có thể giúp quý vị hiểu sâu xa hơn về đề tài đã nói trong ngày hôm qua và ngày hôm nay đó là cuốn Không Sinh Không Diệt Đừng Sợ Hãi. Nếu quý vị đọc sẽ hiểu sâu hơn về đề tài người thân tôi mất tôi đi tìm ở đâu.

 

Tôi cảm thấy  rất hạnh phúc được ngồi đây với chư tôn đức, các thầy? các sư cô, các Phật tử.

Tôi đi hành đạo ở Tây phương trên bốn mươi năm. Phần lớn người đến với chúng tôi thực tập toàn là người Tây phưong. Người Việt bên đó rất ít. Trong mỗi khóa tu từ tám trăm đến một ngàn người, người Việt chỉ chiếm tỉ số từ hai đến ba phần trăm. Những cái chúng tôi chia sẻ trong giáo lý và trong sự thực tập, người Tây phương tiếp nhận rất nhiều. Họ đã thiết lập trong những thành phố lớn những đoàn thể tu học gọi là community of mindful living – có nghĩa là những tăng thân tu học theo nghệ thuật sống trong chánh niệm. Có hơn tám trăm đoàn thể như vậy. Mỗi tuần họ qui tụ với nhau ngồi thiền, đi thiền, ăn cơm trong chánh niệm, nghe pháp thoại của thầy, tổ chức pháp đàm, tụng giới. Thành phồ Luân Đôn đã có mười tăng thân như vậy. Thành phố Nữu Ước có hơn mười tăng thân toàn là người Mỹ tu tập. Những hạt giống mà chúng tôi đem đi từ Việt Nam cách đây hơn bốn mươi năm đã được gieo trồng khắp ở Tây phương. Đi đâu quý vị cũng có thể nhận diện ra được sự có mặt của văn hóa Việt Nam ở Tây phương. Những cuốn sách khó tìm thấy ở Việt Nam quí vị có thể tìm thấy ở bất cứ một tiệm sách nào ở Âu châu hay Mỹ châu. Bên Mỹ vào bất cứ một tiệm sách nào quí vị cũng có thể thấy sách của chúng tôi trình bày chung với sách của đức Đạt Lai Lạt Ma thành hàng rất dài ba bốn chục cuốn. Tôi nghĩ rằng nếu quí vị tới một tiệm sách ở Sài Gòn ( thành phố Hồ Chí Minh ) hỏi sách của chúng tôi thì cũng có ít nhất là mười hay mười lăm cuốn.

Chúng ta có hạnh phúc được qui tụ với nhau tại đây trong ba ngày để nghe pháp, để thực tập ngồi thiền, đi thiền, ăn cơm trong chánh niệm và để cầu nguyện cho những đồng bào đã tử nạn trong chiến tranh, cũng để chữa lành những thương tích để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau mà bấy lâu nay chúng ta mang nặng ở trong lòng. Đây là một dịp hiếm có. Tôi mong rằng quí vị sẽ thực tập hết lòng để chúng ta đạt đến kết quả là âm siêu dương thái, đất nước được nhẹ nhàng, tươi vui hưng thịnh, lòng người được thống nhất và quê hương có dịp được sánh vai với các nước tiền tiến trên thế giới.

Tôi rất vui. Ngồi như thế này tôi có cảm tưởng là ngồi trong một gia đình chứ không phải ngồi trong quần chúng. Chúng ta là một gia đình. Chúng ta đều là con của đức Thế Tôn, là anh em của nhau, là chị em của nhau. Mong rằng quí vị nuôi dưỡng được tình huynh đệ đó, tình gia  đình tâm linh đó./.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.