Người
thương của tôi mất rồi,
tôi phải đi
tìm ở đâu ?
(Phần II)
Chỉ
có chuyển biến mà thôi.
Ngày hôm qua
chúng ta ta quán chiếu về một cây bắp non, về một tờ giấy và về một
đám mây.
Khi nhìn vào cây bắp non thì chúng ta không thấy hạt bắp. Nó đã làm
ra cây bắp non. Chúng ta nghĩ rằng hạt bắp đã chết nhưng mà kỳ thực
nếu chúng ta nhìn cho kỹ thì thấy hạt bắp vẫn còn sống trong cây bắp
non. Nó chỉ thay hình đổi dạng. Hạt bắp giống trở thành ra cây bắp
non.
Khi chúng ta
quán chiếu về tờ giấy chúng ta thấy tờ giấy không phải từ không mà
trở thành có. Trước khi là tờ giấy thì nó đã là rừng cây, nó đã là
đám mây, đã là cơn mưa, đã là đại địa.
Tờ giấy vì
vậy không phải từ không mà trở thành có. Cho nên bản chất của tờ
giấy là vô sinh. Không phải từ không mà trở thành có. Giờ phút mà tờ
giấy biểu hiện ra dưới hình thức tờ giấy là giờ phút tiếp nối mà
thôi.
Khi quán
chiếu đám mây chúng ta thấy rằng đám mây cũng là vô sinh. Trước khi
đám mây hiện ra như là một đám mây nó chẳng phải là không. Đám mây
đã từ sông hồ, từ biển cả, từ sức nóng của mặt trời mà có. Đám mây
không phải từ không mà trở thành có. Khi đám mây không còn trên trời
nữa thì không phải là đám mây đã chết. Đám mây chỉ trở thành mưa,
thành tuyết hay là thành nước đá mà thôi. Đám mây không thể nào chết
được mà chỉ có thể thay hình đổi dạng. Vì thế, bản chất của đám mây
là không sinh không diệt, chỉ có chuyển biến mà thôi.
Tờ giấy cũng
vậy. Khi chúng ta đốt tờ giấy thì tờ giấy không phải từ có mà trở
thành không. Trong khi đốt tờ giấy chúng ta quán sát. Ta sẽ thấy tờ
giấy trở thành sức nóng, trở thành tro, trở thành khói. Khói đó, tro
đó và sức nóng đó là sự tiếp nối của tờ giấy. Không thể nào làm cho
một cái gì có trở thành không được, và không thể nào làm cho
một cái gì không trở thành có được. Chúng ta có một cái nhìn rất là
cạn về cái có và về cái không.
Trong cái không gian đang ôm ấp chúng ta đây quý vị biết rất rõ là
có những tín hiệu của những đài vô tuyến truyền hình, của các đài
phát thanh. Nó đầy dẫy ở trong không gian. Nhưng chúng ta không nghe
được, không thấy được những tín hiệu đó. Chúng ta cần phải có một
cái máy Tivi, hay là cái máy Radio thì chúng ta mới bắt được những
tín hiệu đó, mới có thể nghe được hoặc thấy được. Thành thử không
thấy được thì đừng nói là nó không có.
Người thương
của chúng ta cũng vậy. Bây giờ chúng ta không thấy được người thương
của chúng ta dưới cái hình dáng cũ. Nhưng mà người thương của ta vẩn
còn. Đã thay hình đổi dạng và đang có mặt với chúng ta dưới những
hình dạng mới. Nếu chúng ta biết cách quán chiếu chúng ta có thể
tiếp xúc được với tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng ta trong nội thân
của chúng ta và chung quanh chúng ta. Vì thế cho nên chúng ta phải
đoạn trừ những tri giác, những quan niệm sai lầm. Cái quan niệm sai
lầm đầu tiên là không thể nào từ không mà trở thành có được,
không thể nào từ có mà trở thành không được. Từ không trở
thành có, từ có trở thành không là một tà kiến. Theo tuệ giác của
đạo Phật, nghĩ rằng từ cái không mà trở thành cái có, và từ cái có
trở thành cái không,
đó là một tà kiến. Chúng ta phải quán chiếu cho sâu thì mới dứt bỏ
được cái tà kiến đó. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có nói:
“Đâu
lẽ có chiều qua mà không sáng nay“.
Người thân
của chúng ta đang còn đó. Nếu chúng ta biết quán chiếu, chúng ta sẽ
thấy người thân của chúng ta không ở đâu xa mà ở ngay trong từng tế
bào cơ thể của ta và ở chung quanh ta. Bản chất của người thân chúng
ta là không sanh không diệt, chỉ biến chuyển mà thôi.
Cho nên, cái
chân lý thứ nhất mà ta phải công nhận là : bản chất của chúng ta
là không sanh không diệt. Chỉ có sự tiếp nối thôi, và
tiếp nối dưới những hình dạng khác nhau : thay hình đổi dạng.
Chính chúng
ta sinh ra cách đây ba mươi năm, bốn chục năm, sáu chục năm chúng ta
cũng thay hình đổi dạng. Nhìn vào hình em bé lúc năm tuổi và cái
hình chúng ta bây giờ ta thấy được là chúng ta thay đổi rất nhiều.
Em bé năm tuổi chưa chết đâu. Em bé đã trở thành ra người lớn ba
mươi tuổi, hay năm mươi tuổi. Khi nhìn vào hình hài của tôi, tôi
tiếp xúc được với em bé năm tuổi và tôi có thể nói chuyện với em bé
năm tuổi trong tôi. Nó còn sống. Có khi nào quí vị ngồi nói chuyện
với em bé năm tuổi mà ngày xưa quí vị đã từng là hay
không ?
Mình người
nào cũng đã từng là một em bé trai năm tuổi, hay là một em bé gái
năm tuổi. Em bé trai năm tuổi, em bé gái năm tuổi đó có thể có những
vết thương từ hồi thơ ấu mà chưa lành. Chúng ta bận rộn quá chừng !
Chúng ta không có cơ hội trở về nhận diện em bé năm tuổi đang bị
thương trong ta để nói chuyện với nó, ôm ấp nó và để giúp cho những
vết thương của em bé năm tuổi trong ta được thuyên giảm.
Quí vị tối
nay về thực tập đi. Ngồi thật yên năm phút mười phút và nhận diện em
bé năm tuổi, bảy tuổi bị thương trong mình. Hãy ôm lấy nó với tất cả
sự trìu mến, công nhận sự có mặt của nó và làm cho những vết thương
của em bé mau được chữa lành. Chỉ cần làm vài lần thôi thì vết
thương của em bé được chữa lành.Và chúng ta biết rằng em bé đó chưa
bao giờ từng chết. Nó còn sống và bây giờ nó có một hình dạng mới.
Hình dạng mà nhìn vào trong kính ta có thể thấy được. Bởi vì chính
chúng là những người đang còn sống mà còn thay hình đổi dạng huống
hồ là người thương của chúng ta đã qua đời rồi thì làm sao mà họ
không thay hình đổi dạng. Nhưng mà những hạnh phúc, những kinh
nghiệm, những khổ đau và những cái bức xúc vẫn đi theo chúng ta,
người sống cũng như người chết.
Làm
mới thân tâm
Thế nên chúng
ta được cái hạnh ngộ gặp Phật, gặp Pháp, gặp Tăng để học những pháp
môn tu học mà chuyển hóa thì chúng ta làm cho cái thân tâm chúng ta
nhẹ nhàng hơn và chúng ta phải thực tập để làm cho cái thân tâm của
người qua đời cũng được nhẹ nhàng hơn, nhờ đó sự siêu thoát trở
thành dễ dàng. Bất cứ điều gì thực hiện được để làm mới thân
tâm, để cho ý nghiệp được thanh tịnh, để cho khẩu
nghiệp, thân nghiệp được thanh tịnh chúng ta đều có thể hồi
hướng cho người thương của chúng ta đã qua đời.
Trong những
ngày của Đại Trai Đàn Chẩn tế chúng ta đã nhất tâm cầu nguyện. Trong
ba ngày của Trai Đàn Chẩn tế chúng ta thiết lập bàn linh, chúng ta
cúng dường cháo loãng, thức ăn, nước trong. Chúng ta đọc tụng kinh
điển. Chúng ta khởi lên những tâm niệm lành, những tâm niệm tích cực
mà đức Thế Tôn gọi là chánh tư duy. Những tư tưởng đi
theo với sự bao dung, sự tha thứ, sự yêu thương. Chúng ta nghĩ về
con chúng ta, về chồng chúng ta, về vợ chúng ta, chúng ta nghĩ về bè
bạn chúng ta với
một tâm niệm lành. Cái đó là phát khởi chánh tư duy. Một khi
có chánh tư duy thì con người ta nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Chúng ta
nghĩ tới những người thương yêu của chúng ta đã qua đời bằng tâm
niệm thương yêu tha thứ. Và như vậy chúng ta truyền cái năng lượng
của chánh tư duy cho những người thương của chúng ta. Mỗi tư
tưởng của chúng ta phát ra nếu nó là chánh tư duy thì nó có
ảnh hưởng tốt trên sức khỏe của mình và ảnh hưỏng tốt cho vong linh
mình cầu nguyện.
Khi chúng ta
có một tư tưởng hận thù giận dữ thì tư tưởng đó làm hại cho sức khỏe
của thân thể ta, và nó cũng làm hại cái sức khỏe của tâm linh ta.
Cho nên một tư tưởng tà
-tà
tư duy-
có hận
thù, có bạo động, có kỳ thị không có đem lại cho thân tâm sự lắng
dịu, sự thuyên giảm, trị liệu. Những tư tưởng hắc ám, những tư tưởng
giận dữ, hận thù làm hại đến sức khỏe.
Khi chúng ta
phát khởi được tâm niệm thương yêu thì tư duy đó có khả năng chữa
trị cho thân, cho tâm ta và có khả năng chữa trị cho thế giới, cho
những người đã khuất. Và vì vậy cho nên suy nghĩ, tư duy là một hành
động, là một cái nghiệp. Nếu là chánh tư duy thì đó là thiện
nghiệp -nghiệp
tốt-,
và nếu chúng
ta tà
tư duy
-tức là tư
duy với hận thù, với bạo động, với trách móc-, thì cái tà tư duy
đó nó làm hại cho sức khỏe chúng ta, làm hại cho thế giới, và không
giúp được cho những người đã khuất. Cho nên trong ba ngày Trai Đàn
Chẩn tế chúng ta phải thực tập chánh tư duy. Nghĩ về cha về mẹ về
con về cháu về người thân với tha thứ, với thương yêu. Đó là chánh
tư duy.
Ngày hôm nay
tôi phát nguyện sẽ phát ra những tư tưởng có tha thứ, có bao dung,
có thương yêu. Tôi nguyện phát ra những tư tưởng đi theo chánh tư
duy. Ngày hôm nay tôi cũng nguyện nói những lời đi đôi với thương
yêu và tha thứ, tôi nguyện thực tập chánh ngữ. Tôi sẽ tìm
cách nói với cha tôi, mẹ tôi, với vợ tôi, chồng tôi, với các con tôi
những lời nói có chứa đựng sự ngọt ngào, sự tha thứ, có chứa đựng sự
bao dung. Tôi biết nói như vậy thì lời nói đó trước hết nó làm cho
tôi khỏe. Nó có tác dụng trị liệu cho cơ thể tôi. Nó làm cho tôi
khỏe, nhẹ và nó cũng làm người nghe tôi được khỏe và được nhẹ. Người
nghe tôi nói đó có thể là vợ, là chồng, là con, là cha, là mẹ, là
huynh đệ, bạn bè. Một lời nói mang theo tha thứ và thương yêu là lời
nói chánh ngữ. Trong ba ngày Trai Đàn Chẩn tế tôi nguyện nói toàn
những câu chánh ngữ để trị liệu thân tâm tôi, để giúp trị liệu thân
tâm những người thương và để giúp cho nhẹ cái nghiệp cho những vong
linh mà tôi muốn cầu nguyện cho. Chánh tư duy và chánh ngữ là điều
mình có thể thực tập trong đời sống hằng ngày, và nhất là trong ba
ngày Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải Oan. Sau chánh tư duy và chánh
ngữ thì có chánh nghiệp. Chánh nghiệp là những hành
động đi theo hướng tha thứ và bao dung cùng thương yêu. Ngày hôm nay
tôi nguyện làm một cái gì đó để chứng tỏ rằng tôi có tình thương,
tôi có sự tha thứ, tôi có nghĩ được tới những người khổ đau, những
loài khổ đau. Tôi nguyện ăn chay, tôi nguyện phóng sinh, tôi nguyện
bố thí. Tôi phải làm một cái gì đó để cho hành động của tôi là chánh
nghiệp, là thân nghiệp thiện, nó biểu lộ được cái sự tha thứ, bao
dung, cái sự thương yêu hay lòng từ bi của tôi. Và tôi biết một khi
tôi làm được một điều như thế, có một cử chỉ như thế, nghĩa là một
cử chỉ có tác dụng hiểu biết, thương yêu, tha thứ, cứu trợ, cứu khổ
thì hành động đó sẽ chữa lành những thương tích của thân và tâm tôi,
của những người thương của tôi trong gia đình, và nó có khả năng làm
vơi đi cái nghiệp của những hương linh mà tôi đang muốn cầu nguyện
cho.
Cho nên ba
ngày Đại Trai Đàn Chẩn tế chúng ta phải thực tập chánh ngữ, chánh tư
duy và chánh nghiệp. Chánh nghiệp tức là hành động đi theo với tình
thương và với sự tha thứ.
Chúng ta
biết rằng cha mẹ chúng ta có trong ta.Cha mẹ đã trao truyền cho
chúng ta những gì.?
Cha mẹ chúng ta đã trao truyền bản thân của họ cho chúng ta. Trong
mỗi tế bào cơ thể chúng ta có những cái Gene của cha mẹ, những nhiễm
thể của cha và của mẹ. Và như vậy đứng về phương diện khoa học là
cha mẹ đang có trong ta và ta đang tiếp nối cha mẹ và tổ tiên. Thành
ra mỗi khi ta mĩm cười được thì cha mẹ trong ta mĩm cười được. Mỗi
khi ta tha thứ được thì cha mẹ trong ta cũng tha thứ được, mỗi khi
chúng ta thương yêu được thì cha mẹ trong ta cũng thương yêu được.
Vì thế chúng ta có thể là đứa con rất có hiếu nếu ta thực tập chánh
tư duy, chánh ngữ và chánh nghiệp
Những người
thân của chúng ta đã qua đời có thể đang có mặt trong từng tế bào cơ
thể ta mà có thể cũng đang có mặt ở ngoài ta. Và mỗi khi ta phát
khởi một tâm niệm lành, có thương yêu, có tha thứ thì những người đó
trong ta được hưởng, những nguời đó chung quanh ta
được
hưởng. Mỗi khi ta nói được một lời tha thứ, thương yêu -gọi là ái
ngữ- thì cha mẹ, tổ tiên trong ta cũng được hưởng. Cha mẹ trong
ta, tổ tiên trong ta và những huơng linh chúng ta muốn cầu nguyện
cho cũng đuợc hưởng. Do đó cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, cầu
nguyện còn là phát khởi những tư tưỏng đi đôi với tha thứ và thương
yêu. Cầu nguyện có thể là dưới hình thức những lời nói có tha thứ có
thương yêu mà ta nói với những ngưòi trong gia đình, trong dòng họ,
với bạn bè, xã hội. Và ta có thể cầu nguyện bằng hành động khi ta
phóng sanh, khi ta giúp đỡ trẻ em đói, khi ta cho một học bổng, khi
ta cứu mạng cho một con sâu, con kiến. Tất cả những cái đó đều là
lời cầu nguyện. Cầu nguyện bằng tư tưởng, cầu nguyện bằng lời nói và
cầu nguyện bằng hành động.
Bây giờ tôi
xin mời quí vị thực tập thiền quán chiếu về có và về không.
Ngọn lửa,
bây giờ em ở đâu ?
-Đây là cái hộp quẹt
đem từ bên Pháp về-
Hộp quẹt nó
có mục đích đem lửa tới. Lửa để đốt nhang, lửa dể thắp đèn, lửa để
nấu cơm. Bây giờ chúng ta hãy quán chiếu về ngọn lửa. Nếu chúng ta
hiểu được bản chất của ngọn lửa thì chúng ta sẽ hiểu được bản chất
của người thương mà chúng ta muốn tiếp xúc.
Người thưong
không còn ở trong hình dạng cũ mà chúng ta muốn tiếp xúc. Bây giờ
tôi xin mời đại chúng nhìn vào hộp quẹt này và trả lời là ngọn lửa
nó đã có sẵn chưa ? Hay là nó không có ? Mình biết ngọn lửa nó đang
núp ở đâu đó. Mình nói rằng ngọn lửa không có đó thì hình như là
không đúng. Cũng như nói rằng ở trong khoảng không gian này không có
những tín hiệu của các đài truyền hình truyền thanh là không đúng.
Nó có đầy hết. Tại vì mình chưa có cái máy thâu thanh, máy truyền
hình nên mình không bắt được
(tức
là để nó diễn dịch ra cho mình dưới những hình thức mà mình có thể
thấy và nghe được). Mình nói những tín hiệu của đài truyền hình,
truyền thanh không có giữa không gian này là không có đúng. Ngọn lửa
cũng vậy. Nó chưa xuất hiện thôi. Nhưng mà nói rằng ngọn lửa không
có, và từ không nó sẽ trở thành có, là một tà kiến. Đây là
giáo lý rất là thậm thâm của đức Thế Tôn mà nếu chúng ta bận rộn quá
trong đời sống hằng ngày thì làm thế nào chúng ta thực chứng được
cái giáo lý mầu nhiệm đó ?
Mình nói:
“Ngọn lửa, bây giờ em ở đâu ? Em núp ở trong cái hộp quẹt hay là em
ở đâu ? Tại sao em không xuất hiện để cho ngưòi ta thấy hình dạng
của em. Em núp làm gì vậy ?”.
Và nếu mình nghe với hết tất cả tấm lòng của mình, mình có niệm, có
định, thì mình nghe như thế này: “Thầy ơi, các thầy các sư cô ơi?
các đạo hữu ơi, nhìn cho kỹ đi? em đang có mặt đó. Nếu mà thầy, nếu
các vị Phật tử cư sĩ muốn em xuất hiện thì em xuất hiện. Em đang có
mặt ở trong hộp quẹt, mà em cũng có mặt ở ngoài hộp quẹt nữa.
-Trong
không gian có dưỡng khí-.
Nếu
không có dưỡng khí thì em không thể nào biểu hiện được. Ngọn lửa
không thể có cơ hội biểu hiện nếu không có oxygen. Cho nên ngọn lửa
không phải chỉ núp ở trong hộp diêm mà nó còn núp ở ngoài hộp diêm.
Ngọn lửa chỉ còn cần một động tác của hai ngón tay tôi. Vì vậy tức
là ngọn lửa nó cũng ẩn ở trong hai ngón tay tôi. Tôi chỉ cần rút ra
một que diêm, tôi đánh một cái thì ngọn lửa biểu hiện liền. Vậy thì
một trong những điều kiện giúp cho ngọn lửa phát hiện là hành động
của hai ngón tay. Ngọn lửa cũng núp ở trong hai ngón tay, nó cũng
núp ở trong không gian, nơi có dưỡng khí, và ngọn lửa cố nhiên là
cũng núp ở trong hộp diêm. Bây gìờ mình nói: “Ngọn lửa ơi, ta sẽ
cung cấp cho em một nhân duyên cuối cùng. Tất cả các nhân duyên, các
điều kiện khác đều đầy đủ hết rồi để cho em phát hiện. Nay chỉ còn
thiếu một nhân duyên cuối cùng là động tác của hai ngón tay tôi.
Ngọn lửa biết rằng nó sẽ xuất hiện. Và chúng ta cũng biết rằng ngọn
lửa sẽ xuất hiện. Ngọn lửa không phải từ không mà trở thành có. Ngọn
lửa từ chổ ẩn tàng nó trở thành ra biểu hiện. Trước khi ngọn lửa
biểu hiện nào phải là nó không có. Nó ở trong cái thế ẩn tàng mà
thôi.
Trước khi
mình sinh cũng vậy. Không phải là mình không có đâu. Mình đã ở cái
thế ẩn tàng. Khi mẹ sinh mình ra thì mình ở vào cái thế biểu hiện.
Bây giờ ngọn
lửa đã biểu hiện. Và ngọn lửa sẽ ở lại với mình không biết bao lâu.
Nếu que diêm này dài ba thước thì ngọn lửa ở lại lâu hơn. Nếu que
diêm này chỉ dài có ba phân thì nó ở lại ngắn hơn. Nghĩa là tùy theo
cái điều kiện. Nếu chúng ta có bác sĩ, nếu chúng ta có hoàn cảnh,
môi trường tốt thì chúng ta sẽ sống lâu. Nếu ở hoàn cảnh, môi trường
xấu thì chúng ta sẽ chết yểu.
Thế nên một cái gì đó có thể phát hiện và tồn tại lâu hay mau là tùy
thuộc vào những điều kiện ở trong và ở ngoài, những điều kiện trước
và những điều kiện sau.
Ngọn lửa đã
tắt.
Bây giờ mình không thấy nó nữa !
Chúng ta sẽ hỏi ngọn lửa hai câu hỏi :
“Ngọn
lửa ơi, em từ đâu tới ?, và em đã đi về đâu rồi ?”
Nếu
mình lắng tai nghe với tất cả niệm và định thì mình sẽ nghe được
tiếng trả lời :
“Thầy
ơi, các thầy các sư cô ơi, các vị đạo hữu cư sĩ ơi, em nào có từ đâu
tới. Em không phải tới từ phuơng đông hay phương tây, phương nam hay
phương bắc.
Khi
những điều kiện dầy đủ thì em phát hiện, em xuất hiện, em biểu hiện,
vậy thôi! Em không từ đâu tới hết. Không phải từ bằc tới hay từ nam
tới, không phải từ tây tới hay từ đông tới.” Và nếu mình nghe được
thì mình thấy rằng ngọn lửa nói đúng. Ngọn lửa này đâu phải từ
phương nam tới, đâu phải từ phương bắc tới. Khi nào những điều kiện
đầy đủ, nhân duyên đã đầy đủ thi ngọn lửa biểu hiện, vậy thôi.
Người thương
của mình cũng vậy. Người thương của mình không phải từ cõi này tới
hay cõi kia tới. Không từ phương bắc hay phuơng nam, phương tây. Khi
những điều kiện có đầy đủ thì người thương đó biểu hiện và mình gọi
là người thương được sinh ra. Kỳ thật không phải là sinh. Đó là sự
tiếp nối của một cái mà mình chưa thấy. Bây giờ mình bắt đầu thấy
được thì mình gọi là sinh.
Bây giờ mình
hỏi ngọn lửa câu hỏi thứ hai:
“Ngọn
lửa ơi, lúc nãy em đã biểu hiện cho chúng tôi thấy, bây giờ em đi về
đâu? “
Câu hỏi này
rất là quan trọng. Câu hỏi này mình đã từng hỏi người thương của
mình đã qua đời. “Anh ơi, anh bỏ em, anh đã đi đâu rồi, bây giờ anh
ở đâu?, Em ơi, em bỏ anh mà đi, bây giờ em ở đâu ? Con ơi, con bỏ má
mà đi, bây giờ con ở đâu? “ Chúng ta đã hỏi câu hỏi đó nhiều lần
rồi. Bây giờ chúng ta hỏi lại một lần nữa với sự quán chiếu:
”Ngọn
lửa ơi, em đã đi về đâu ?”. Và nếu chúng ta biết thực tập theo
thiền, tức là đem cái tâm trở về với cái thân, ngồi lắng đọng và hỏi
câu hỏi cho thật sâu thì chúng ta sẽ nghe được câu trả lời: “Thầy
ơi, các thầy các sư cô ơi, các đạo hữu ơi, em nào có đi đâu. Em
không có đi về phương nam hay đi về phương bắc, em không đi về
phương tây cũng không đi về phương đông. Em không có đi đâu hết! Khi
mà những nhân duyên nó không đầy đủ thì em ẩn đi thôi, em không có
đi đâu hết”. Mà khi chúng ta suy nghĩ cho kỹ thì chúng ta thấy ngọn
lửa nói đúng.
Nó không có
đi về đâu hết.
Nó
không có đi về phương đông hay phương tây, phưong nam hay phương
bắc. Khi mà những điều kiện đầy đủ thì ngọn lửa biểu hiện, và khi
những điều kiện không đầy đủ nữa hoặc là nó chưa đầy đủ thì ngọn lửa
ẩn tàng để rồi nó biểu hiện dưới hình thức mới. Vì vậy cho nên bản
chất của ngọn lửa là vô khứ vô lai, tức là không tới cũng không
có đi
(phi khứ phi lai). Ngọn lửa không phải từ không mà trở thành có, và
ngọn lửa cũng không phải từ có mà trở thành không, cho nên bản chất
của nó là vô sinh bất diệt. Ngọn lửa không có từ phương đông
tới, không từ phương nam tới vì thế cho nên nó là phi lai, là không
có tới, no coming.
Ngọn lửa không đi về đâu hết, không đi về phương đông, tây, phương
nam, phương bắc, nó là phi khứ. Vô khứ vô lai, bất sinh bất diệt :
đó là bản chất của ngọn lửa. Bản chất của đám mây cũng vậy: bất sinh
bất diệt, vô khứ vô lai. Bản chất của người thương của chúng ta cũng
vậy: là bất sinh bất diệt, vô khứ vô lai. Mình đừng tưởng người
thuơng của mình đã từ có mà trở thành không. Người thương của mình
đã chuyển hóa, đã thay hình đổi dạng, đã ẩn tàng và đã biểu hiện trở
lại nhưng tại vì mình u mê cho nên tuởng rằng người thương của mình
không còn nữa. Sự thực là người thưong của mình đang ở rất gần mình
mà mình không biết.
Bất cứ ngồi
hay đứng ở đâu mình cũng có thể nói chuyện được với người thương
của mình. Hôm qua chúng ta đã quán chiếu về đám mây. Khi tôi nâng ly
trà lên uống tôi thấy ly trà đầy mây vì tôi có quán chiếu. Đám mây
không còn trên trời, nó có mặt ở đây. Không thấy đám mây tôi không
khóc thương. Đám mây của tôi chưa bao giờ từng chết, nó chỉ thay
hình đổi dạng thôi. Nếu có trí tuệ tôi sẽ nhận diện được đám mây
thân yêu của tôi đang nằm trong chén trà của tôi trong phút giây
hiện tại. Khi uống trà tôi thật sự đang uống mây. Quý vị đã uống mây
hàng ngày mà quý vị không biết.
Người thương
của quý vị đang ở gần quý vị, đang nói chuyện với quý vị, mà quý vị
không thấy không nghe được. Quý vị cứ than phiền là người thương của
mình không còn nữa. Mình đã mất người thuơng mãi mãi. Điều đó không
đúng ! Bản chất của người thương cũng giống như bản chất của đám mây
: không sinh, không diệt, không tới, không đi. Đám mây không phải
chỉ nằm trong ly nước, nó còn nằm trong cơ thể tôi. Cơ thể tôi có
mấy chục lít nước, đó là mây. Tôi chưa bao giờ rời mây và mây cũng
chưa bao giờ rời tôi. Người thương của quý vị chưa có bao giờ rời
quý vị mà quý vị cứ than là người thương không còn nữa. Quý vị bị
kẹt vài hình đáng cũ của người thương. Nếu mình bị kẹt vào hình dáng
cũ của đám mây thì mình không thấy đám mây trong cơn mưa hay trong
tảng nước đá.
Trời
phương ngoại
Có một ngày
nào quý vị nhìn lên trời và thấy một đám mây rất
đẹp, quý vị có cảm tình với đám mây nhưng đám mây thì vô thưòng. Đó
là lời đức Thế Tôn dạy : đám mây vô thường.
Nó có đó rồi
lát nữa nó sẽ thay hình đổi dạng. Nó là hai đám mây nhỏ nhưng một
giờ sau nó sẽ thở thành một đám mây lớn. người thương của chúng ta
cũng vậy : cũng vô thường? cũng
thay
hình đổi dạng. Khi người thương thay hình đổi dạng ta khóc, ta đi
tìm cái hình dáng cũ. Ta không thấy được cái hình dáng cũ ta cho
rằng người thương không còn nữa. Tại vì ta không có con mắt của
Phật, của các vị Bồ Tát, của những người thực tập thiền. Ta không
thấy được đám mây trong ly nước, không thấy được người thương đang
có mặt cho chúng ta, đang tiếp xúc, trò chuyện với chúng ta. Ta cứ
tưởng là người thương đã mất. „Người thương chúng ta đang ở đâu ?“
Đó là câu hỏi. „Đang ở trên rừng hay ở dưói biển ?“. Khi chúng ta
đi vớt vong trên biển hay ở địa điểm của một trận chiến, ta cứ ngỡ
là linh hồn của người đó quanh quẩn ở chổ đó. Nhưng kỳ thật bản chất
của người đó là không tới không đi. Ta có thể tiếp xúc với người đó
bất cứ ở đâu, bất cứ nơi nào.
Khoa học bây
giờ, nhất là khoa vật lý mới ( Quantum mechanism ) cho biết là bản
chất của những điện tử, những hạt vật chất, những đợt sóng vật chất
là phi cục bộ. Phi cục bộ được dịch từ tiếng anh là
non local, có nghĩa là không thể tìm thấy được trong
không gian. Nó có mặt bất cứ ở đâu. Mình không thể nhận diện ra nó
trong một phương hướng hay một không gian nhất định. Đức Thế Tôn
cũng vậy. Bản chất của đức Thế Tôn là phi cục bộ. Ở bắc ta có thể
tiếp xúc với đức Thế Tôn mà ở nam ta cũng có thể tiếp xúc được với
đức Thế Tôn. Trên rừng ta có thể tiếp xúc với đức Thế Tôn mà ở biển
cả ta cũng có thể tiếp xúc được với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn có mặt
ở khắp mọi nơi trong vũ trụ. Không có nơi nào mà đức Thế Tôn không
có mặt.
Trong kho
tàng văn chương Phật giáo Phương Đông có một cái tên rất hay đó là
phương ngoại phương, có nghĩa là không gian ở ngoài
không gian. Khi mình giải thoát, giác ngộ rồi thì chổ nào cũng là
nhà của mình. Ngày xưa ta có Tuệ Trung Thượng sĩ, một vị thiền sư cư
sĩ đã chứng ngộ trong khi tu thiền. Ngài là anh ruột của tướng Trần
Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo có sự nghiệp vẻ vang về quân sự nhưng Tuệ
Trung Thượng sĩ Trần Quốc Tung có sự nghiệp vẻ vang về thiền. Tuệ
Trung Thượng sĩ có viết câu thơ : „ Chống gậy rong chơi hề phưong
ngoại phương„.
Mình rong chơi trong trời phương ngoại. Trời phương ngoại là
trời không bị cục bộ vào không gian, không bị cục bộ vào đông tây
nam bắc. Vượt không gian, và không gian nằm ngoài không gian gọi là
trời phương ngoại. Vượt khỏi thời gian gọi là kiếp ngoại.
Kiếp ngoại có
nghĩa là thực tại của chúng ta không bị giới hạn bởi thời gian và
không gian. Bản chất của chúng ta là phương ngoại phương. Bản
chất cũa chúng ta cũng giống như bản chất của đức Thế Tôn. Đức Thế
Tôn có mặt ở mọi thời mọi xứ. Đức Thế Tôn không bị không gian và
thời gian giới hạn. Đám mây cũng vậy, cây bắp cũng vậy, ta cũng vậy,
người thương của ta cũng vậy. Bản chất của ta, bản chất của ngưòi
thương của ta là phi cục bộ, là phương ngoại phương. Đừng nói rằng
ta phải đi tới chổ đó mới gặp được người thương. Ta phải trở về thời
gian đó mới gặp đưọc người thương. Bản chất của người thương là phi
cục bộ. Nếu biết tu mình có thể tiếp xúc với người thương bất cứ ở
đâu, bất cứ lúc nào. Đây là giáo lý thậm thâm vi diệu của đức Thế
Tôn mà khoa học ngày hôm nay đã có cái thấy tương đương. Thay vì
dùng chữ rất nên thơ „phương ngoại phương“ hay „kiếp
ngoại“ thì khoa học bây giò dùng chữ non local
dịch là phi cục bộ. Nhưng phi cục bộ không hay bằng
phương ngoại phương của Phật dạy.
Rất là uổng !
quý vị bận rộn quá trong đời sống hằng ngày vì chuyện mưu sinh, vì
những lo lắng buồn khổ. Giáo lý của đức Thế Tôn có những cái hết sức
mầu nhiệm. Hôm nay tôi mời quý vị nếm thử, không khó khăn lắm đâu.
Chúng ta biết rằng đạo Phật có phần tôn giáo tín ngưỡng. Cầu nguyện
bái sám có thể làm vơi nhẹ một ít đau khổ của chúng ta. Nhưng đạo
Phật không chỉ có phần bái sám cầu nguyện mà có phần tuệ giác rất là
vĩ đại. Nếu chúng ta
tập
chọc thủng được cái vỏ cầu nguyện bái sám, chúng ta đi vào kho tàng
của tuệ giác đó. Ta dùng tuệ giác đó để tháo gỡ tất cả những bế tắt,
những lo âu phiền muộn, sợ hãi của chúng ta.
Chúng ta
không làm được chuyện đó nếu chúng ta không quán chiếu về tính bất
sinh bất diệt, phi khứ phi lai, phi hữu phi vô. Là Phật tử chúng ta
đừng mãn ý với sự cầu nguyện bái sám. Những cái đó rất hay. Nó cần
thiết để làm vơi nhẹ nỗi khổ niềm đau của mình. Nhưng muốn giải
quyết vấn đề cho triệt để, muốn tháo gỡ những lo lắng, sầu muộn, sợ
hãi thì chúng ta phải sử dụng cái kho tàng tuệ giác của đạo Phật mà
ít người với tới được.
Sáng nay cũng
như ngày hôm qua tôi muốn giới thiệu với quý vị chút ít kho tàng tuệ
giác đó để quý vị có thể đi tìm lại người thương của mình một cách
dễ dàng hơn. Người thương của mình có tính cách phi cục bộ, phương
ngoại phương. Điều này là một chân lý thâm diệu mà khoa học lượng tử
( quantum mechanism ) bắt đầu sờ mó tới được.
Trong
thế kỷ 21 khoa học lượng tử và Phật giáo có thể tay trong tay để
diễn bày cái tuệ giác mà đức Thế Tôn đã đạt được hai ngàn sáu trăm
năm trước. Nhà bác học Einstein nói : „ Nếu có một tôn giáo có thể
đi đôi với khoa học thì tôn giáo đó là Phật giáo.“ Vì vậy tại các
Phật học viện các thầy các sư cô cũng đang học về khoa học. Học khoa
học để hiểu Phật giáo hơn. Những nhà khoa học phải học Phật giáo để
hiểu khoa học hơn, để có những khám phá sâu sắc hơn.
Hạt
giống đang nẩy mầm và lớn mạnh
Chúng tôi có
một niềm tin rất vững chãi và sâu sắc nơi giáo lý của đức Thế Tôn.
Khi chúng ta quán chiếu được theo lời chỉ dẫn của đức Thế Tôn rằng
bản chất của vạn pháp là vô sinh bất bất diệt, vô khứ vô lai, không
phải một cũng không phải khác nhau, không phải có cũng không phải
không, thì chúng ta giải quyết được không biết bao nhiêu vấn đề của
cuộc sống. Chúng ta tháo gỡ được những lo ngại, những sợ hãi tuyệt
vọng của chúng ta. Điều này là một cái phước cho người Phật tử. Mình
đã được sinh ra trong một dòng họ tâm linh, một nền văn hóa siêu
việt, đó là Phật giáo. Phật giáo bây giờ có cơ hội được truyền bá
sang tây phương. Những đứa con của Cơ đốc giáo, Do thái giáo, Hồi
giáo ở Tây phưong bằt đầu làm quen với đạo Phật. Trong 40 năm chúng
tôi đã gieo rắc hạt giống của Phật pháp trên Âu châu, Mỹ châu
và cả Phi châu. Những hạt giống đó đã gặp thời tiết, đang nẩy mầm và
lớn mạnh. Đó là một tin mừng cho nhân loại. Những hạt giống Phật
pháp tôi đem gieo rắc ở Tây phương, ở Âu châu, Úc châo, Mỹ châu và
Phi châu là những hạt giống lấy
từ
mảnh đất văn hóa Việt nam.
Chúng tôi đã
viết những cuốn sách đối thoại với những tôn giáo khác, nhất là Cơ
đốc giáo. Có ít nhất là hai cuốn sách của tôi có cơ duyên đối thoại
với Cơ đốc giáo ( Tin Lành và Công giáo). Cuốn đầu là Living
Christ Living Buddha? dịch ra tiếng Việt là Chúa ngàn đời
Phật ngàn đời. Cuốn sách được viết bằng tiếng Anh và được dịch
ra hơn bốn mươi tiếng khác trong đó có tiếng Hoa nhưng chưa có tiếng
Việt. Đã có một vài người dịch ra rồi nhưng chưa được in bằng tiếng
Vìệt. Tôi mong rằng sách đó được ấn hành ở Việt Nam sớm để người
Phật tử, người Công giáo và người Tin Lành có thể tới gần với nhau
nhiều hơn. Bên Trung quốc sách được dịch là Sinh Sinh Ki Tô Thế
Thế Phật. Có nhiều nhà tu trong tu viện kín Công giáo đã đọc và
đã tháo gỡ được nhiều khó khăn trong niềm tin của họ. Họ đã viết thư
cám ơn rất nhiều. Cuốn đó có rất nhiều công đức vì đã đem những Phật
tử và những người Công giáo tới gần nhau. Nó giúp cho cả hai bên
cởi bỏ những thành kiến sai lầm của nhau.
Cuốn thứ
hai là Coming Home - Jesus And Buddha Are Brothers ( Hãy
về nhà đi ! Phật và Chúa là hai anh em, không phải người xa lạ
). Bụt sinh trước Chúa mấy trăm năm cố nhiên Bụt phải làm anh, Chúa
làm em. Hai anh em nhà họ nắm tay nhau để hóa độ cho thế giới đầy
hận thù, đầy tuyệt vọng này. Tôi hy vọng cuốn sách đó được ấn hành
tại Việt Nam.
Nhà nước
Việt Nam đã cho chúng tôi xuất bản nhiếu cuốn sách tại Việt Nam.
Trong bốn mươi năm chúng tôi đã cho ra không biết bao nhiêu sách
phát hành trên khắp thế giới, cả ngay tại Trung quốc. Ở Việt Nam có
một số rất ít đạo hữu đã được đọc sách đó. Những sách đó được in
chui nhưng bây giờ mình khỏi phải in chui nữa vì nhà nước đã cho
phép. Có khoảng gần hai mươi cuốn sách đã được xuất bản. Có nhiều
cuốn được Nhà Xuất bản Tôn giáo xuất bản. Có nhiều cuốn được Nhà Văn
hóa Sài Gòn xuất bản trong đó cuốn Thả một bè lau
-cái
nhìn thiền quán về truyện Kiều-.
Tôi đã dịch truyện Kiều ra văn xuôi dành cho người trẻ? đọc dễ như
là đọc tiểu thuyết, không cần phải chú giải. Sau khi đọc truyện Kiều
văn xuôi xong mình có thể trở về văn vần và hiểu văn vần dễ dàng
hơn. Tôi đã viết lại những truyện truyền kỳ thần tiên của nước Việt
như truyện Trầu Cau truyện Sơn Tinh Thủy Tinh truyện
Bánh Chưng Bánh Dầy. Sách này được xuất bản ở Việt Nam với
tựa là Hương Vị Của Đất. Ngày xưa nó đã được xuất bản một lần
dưới tên là Văn Lang dị sử. Có một cuốn sách có thể giúp quý
vị hiểu sâu xa hơn về đề tài đã nói trong ngày hôm qua và ngày hôm
nay đó là cuốn Không Sinh Không Diệt Đừng Sợ Hãi. Nếu quý vị
đọc sẽ hiểu sâu hơn về đề tài người thân tôi mất tôi đi tìm ở
đâu.
Tôi cảm
thấy rất hạnh phúc được ngồi đây với chư tôn đức, các thầy? các sư
cô, các Phật tử.
Tôi đi
hành đạo ở Tây phương trên bốn mươi năm. Phần lớn người đến với
chúng tôi thực tập toàn là người Tây phưong. Người Việt bên đó rất
ít. Trong mỗi khóa tu từ tám trăm đến một ngàn người, người Việt chỉ
chiếm tỉ số từ hai đến ba phần trăm. Những cái chúng tôi chia sẻ
trong giáo lý và trong sự thực tập, người Tây phương tiếp nhận rất
nhiều. Họ đã thiết lập trong những thành phố lớn những đoàn thể tu
học gọi là community of mindful living – có nghĩa là những
tăng thân tu học theo nghệ thuật sống trong chánh niệm. Có hơn tám
trăm đoàn thể như vậy. Mỗi tuần họ qui tụ với nhau ngồi thiền, đi
thiền, ăn cơm trong chánh niệm, nghe pháp thoại của thầy, tổ chức
pháp đàm, tụng giới. Thành phồ Luân Đôn đã có mười tăng thân như
vậy. Thành phố Nữu Ước có hơn mười tăng thân toàn là người Mỹ tu
tập. Những hạt giống mà chúng tôi đem đi từ Việt Nam cách đây hơn
bốn mươi năm đã được gieo trồng khắp ở Tây phương. Đi đâu quý vị
cũng có thể nhận diện ra được sự có mặt của văn hóa Việt Nam ở Tây
phương. Những cuốn sách khó tìm thấy ở Việt Nam quí vị có thể tìm
thấy ở bất cứ một tiệm sách nào ở Âu châu hay Mỹ châu. Bên Mỹ vào
bất cứ một tiệm sách nào quí vị cũng có thể thấy sách của chúng tôi
trình bày chung với sách của đức Đạt Lai Lạt Ma thành hàng rất dài
ba bốn chục cuốn. Tôi nghĩ rằng nếu quí vị tới một tiệm sách ở Sài
Gòn ( thành phố Hồ Chí Minh ) hỏi sách của chúng tôi thì cũng có ít
nhất là mười hay mười lăm cuốn.
Chúng ta
có hạnh phúc được qui tụ với nhau tại đây trong ba ngày để nghe
pháp, để thực tập ngồi thiền, đi thiền, ăn cơm trong chánh niệm và
để cầu nguyện cho những đồng bào đã tử nạn trong chiến tranh, cũng
để chữa lành những thương tích để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau
mà bấy lâu nay chúng ta mang nặng ở trong lòng. Đây là một dịp hiếm
có. Tôi mong rằng quí vị sẽ thực tập hết lòng để chúng ta đạt đến
kết quả là âm siêu dương thái, đất nước được nhẹ nhàng, tươi
vui hưng thịnh, lòng người được thống nhất và quê hương có dịp được
sánh vai với các nước tiền tiến trên thế giới.
Tôi rất
vui. Ngồi như thế này tôi có cảm tưởng là ngồi trong một gia đình
chứ không phải ngồi trong quần chúng. Chúng ta là một gia đình.
Chúng ta đều là con của đức Thế Tôn, là anh em của nhau, là chị em
của nhau. Mong rằng quí vị nuôi dưỡng được tình huynh đệ đó, tình
gia đình tâm linh đó./.
|