.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

... Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (...)

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư Nhất Hạnh.

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

 Nghệ thuật sống thiền :



Nền Tảng của Chánh Niệm 

 

  • Tháng III 2007 - Phúc Quảng biên tập
    Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 5 - III - 2007
    tại
    tu viện Bát Nhã - Bảo Lộc  trong khóa tu dành cho giới Xuất Gia
    Â
    m thanh MP3 :  Phần 1 (13MB)    Phần 2 (10MB)

 

Kính thưa các vị tôn đức, thưa các huynh đệ, hôm nay là ngày mùng năm tháng ba dương lịch năm hai ngàn không trăm lẻ bảy. Chúng ta đang ở tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc, Lâm Đồng trong khóa tu dành cho những người xuất gia.

Trong suốt những ngày của khóa tu, cổng chùa Bát Nhã sẽ đóng lại không để cho khách tham quan ra vào, để chúng ta có cơ hội tu tập cho thành công. Và trong suốt những ngày đó chúng ta ở trong khuôn viên của tu viện, chỉ trừ những trường hợp cấp bách lắm mới phải đi ra ngoài mà thôi.

Đây là một cơ hội, chúng ta chỉ có một số ít ngày, chúng ta phải tìm cách lợi dụng thì giờ mà chúng ta có, để cho sự tu tập đạt tới những kết quả mà chúng ta mong muốn. Một khóa tu năm ngày hay bảy ngày cho phép chúng ta nếm được pháp vị của giải thoát, của an lạc. Và sau khóa tu chúng ta phải tiếp tục bằng cách này hay bằng cách khác thì sự giải thoát và an lạc đó mới được kéo dài và được phát triển. Nếu sau khóa tu chúng ta không có môi trường tốt, không có cơ hội thực tập thì cái an lạc, cái giải thoát, cái hạnh phúc đó chỉ kéo dài vài ba tuần lễ rồi chúng ta sẽ sa vào tình trạng cũ. Và chúng ta phải chờ một khóa tu khác để nếm lại một ít hương vị của sự an lạc, của sự giải thoát, của hạnh phúc. Cũng như mình đi châm cứu, mình tới được ông thầy ông châm cứu thì mình thấy khỏe và cái khỏe đó có thể kéo dài được một hai tuần. Cách sống, cách làm việc, cách ăn uống của mình không cho phép mình duy trì sự an lạc trong thân thể của mình. Và vì vậy vài ba tháng sau mình phải đi ông thầy châm cứu trở lại. Thì tu cũng vậy, khóa tu năm ngày hay bảy ngày cho phép chúng ta nếm được một chút nào hương vị của tình huynh đệ, của an lạc, của thong dong, của giải thoát. Cho nên chúng ta phải có chủ tâm, nghĩa là phải nắm được pháp môn, nắm được phương pháp thực tập. Chúng ta phải suy nghĩ để làm thế nào sau khóa tu chúng ta có thể bảo trì được sự tu tập, có thể tiếp tục được sự tu tập. Và môi trường rất là quan trọng, nếu môi trường không thuận lợi thì rất khó mà duy trì được sự thực tập và làm cho cái an lạc, cái giải thoát của mình lớn lên và kéo dài, sự thật là như vậy. Chắc chắn là khi mình tu năm ngày hay bảy ngày, thế nào cũng nếm được một ít an lạc, hạnh phúc và thảnh thơi. Cũng như mình đi châm cứu, ông thầy châm cứu giỏi thế nào mình cũng khỏe ra, những huyệt đạo được khai thông, mình thở được, mình đi đứng được, không đau nhức lắm. Nhưng cái đó chỉ có kết quả nhất thời.

Công phu tu tập bắt đầu từ sự dừng lại. Dừng lại là một cái phương pháp thực tập, dừng lại cái gì? Dừng lại sự rong ruổi của chúng ta, chúng ta đang đuổi theo một cái gì đó. Nhiều khi chúng ta không muốn đuổi theo, không muốn rong ruổi, nhưng chúng ta bị kéo theo và chúng ta không cưỡng lại được. Chúng ta chìm đắm, trôi lăn theo một cái gì đó, theo một hướng nào đó, tiếng Hán Việt là trầm luân. Sự trôi lăn đó có thể thấy được trong ban ngày, những cái ta nghĩ, những cái ta nói và những cái ta làm, chứng tỏ là ta đang bị cuốn hút theo một cái gì đó, chúng ta không dừng lại được. Và ban đêm trong giấc mơ chúng ta cũng vẫn trôi lăn như thường. Nếu chúng ta quán sát thì không những ban ngày mà ban đêm chúng ta cũng đang trôi lăn, chúng ta đang bị cuốn hút theo một cái gì đó. Và đi theo cái đó ta không có thì giờ để sống thảnh thơi an lạc trong cái giây phút hiện tại. Vì vậy cho nên tu trước hết là dừng lại, tập dừng lại.

Chữ samatha mình dịch là chỉ, có nghĩa là dừng lại. Trong kinh A Hàm được dịch vào khoảng thế kỷ thứ tư thứ năm thì chúng ta có danh từ tức, Tức tức là dừng lại, chấm dứt, dừng lại như trong danh từ hưu tức, hưu là nghỉ ngơi, hưu là ngừng lại giống như là về hưu. Hưu tức, chữ tức là chấm dứt, dịch ra tiếng Anh là stop. Và chữ chỉ hay chữ tức cũng có nghĩa là làm cho lắng dịu trở lại, sâu lắng trở lại, nó nhẹ nhàng ra thì gọi là tức. Như trong kinh An Ban Thủ Ý, đức Thế Tôn dạy chúng ta phương pháp thở có danh từ thân hành tức. Thân hành là cái hình hài của mình, thân hành tức tức là làm lắng dịu con người, cái thân thể của mình. Và có danh từ tâm hành tức có nghĩa là sự lắng dịu của những tâm hành, thân hành là những hoạt động của cơ thể, còn tâm hành là những hoạt động của tâm ý. Và trong hoạt động của cơ thể có sự căng thẳng, có sự đau nhức, có sự rong ruổi, có sự trôi lăn. Cho nên làm thế nào để cho nó ngưng lại, nó lắng lại, nó êm dịu trở lại, cái đó gọi là chỉ, cũng gọi là tức. Trước là phải học thân hành tức là làm cho lắng dịu cái thân hành của mình, cái thân của mình, cho nó ngừng nghỉ, cho nó nghỉ ngơi. Tại vì chúng ta đày đọa tấm thân của chúng ta hơi nhiều, chúng ta không cho phép thân của chúng ta thư giãn, lắng dịu. Và những cái căng thẳng, những cái đau nhức phát sinh ra trong thân tại vì chúng ta không biết cách làm lắng dịu, không biết cách dừng lại, nghĩa là không biết chỉ. Chúng ta nhân danh Tam Bảo, chúng ta nhân danh Phật sự, chúng ta làm quá trời quá đất. Cho nên những cái căng thẳng được dồn chứa trong thân của mình, tạo ra những cái đau nhức. Những căng thẳng và đau nhức đó một khi dồn chứa tới mức nào đó, thì nó bắt đầu phát sinh ra bệnh, đủ thứ bệnh tật hết.

Cho nên trong kinh An Ban Thủ Ý tức là kinh Quán Niệm Hơi Thở có một bài thực tập gọi là an tịnh thân hành, tức là làm cho cơ thể mình buông thư, lắng dịu trở lại, không còn bị đày đọa. Nhiều khi mình đày đọa thân thể mình nhân danh Phật sự, nhân danh Pháp sự, nhân danh Tăng sự, mình không có sự thư giãn, mình không có sự nhẹ nhàng trong thân, nó đưa tới bệnh, phương pháp tu đó gọi là an tịnh thân hành. Có một bài tập nữa trong kinh Quán Niệm Hơi Thở gọi là  an tịnh tâm hành, tại vì trong tâm chúng ta cũng có sự căng thẳng, cũng có sự đau nhức. Chúng ta có những cái sợ, những cái buồn, những cái lo và dồn chứa lâu ngày tâm thần của chúng ta căng thẳng. Và nếu chúng ta không biết giải tỏa, không biết tháo gỡ, không biết làm lắng dịu, không biết chỉ, không biết tức thì sự dồn nén đó sẽ làm cho chúng ta bệnh và có thể là những bệnh tâm thần, thân bệnh rồi tới tâm bệnh.

Mình là người tu phải nắm cho được cái phương pháp làm lắng dịu cái thân, thân hành tức là thân mình đó. Hành là một từ chuyên môn trong đạo Bụt, tất cả mọi sự mọi vật đều gọi là hành, hành có nghĩa là những sự vật, những hiện tượng. Ví dụ như cái bình thủy này là một hành, có khi mình gọi là hạnh, khi mình nói chư hạnh vô thường tức là các sự vật đều vô thường, hành vô thường, cái bình này vô thường, cái microphone này vô thường, cái bàn tay này vô thường. Cái bình thủy là một hành, cái bàn tay là một hành, cái thân mình là một hành gọi là thân hành. Còn tâm mình có những cái buồn giận, những cái lo lắng, những cái sầu khổ, thì những cái buồn giận, những cái lo lắng sầu khổ đó không phải là thân hành mà nó là tâm hành. Người tu phải biết cách làm lắng dịu thân hành và tâm hành, cái đó mình phải nắm cho được.

 Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, kinh An Ban Thủ Ý đức Thế Tôn dạy cho chúng ta nhiều bài thực tập, trong đó có những bài giúp chúng ta làm lắng dịu cái thân hành tức là thân thể của chúng ta, lấy ra khỏi thân những cái căng thẳng, những đau nhức, những dồn nén. Và những bài tập giúp cho chúng ta lắng dịu tâm hành, lấy ra khỏi tâm những cái căng thẳng, những cái dồn nén, những đau nhức, những ẩn ức. Như vậy thì phép tu nó trị thân và nó trị tâm. Cũng vì vậy đức Thế Tôn được gọi là một y sĩ, một y vương, một ông vua của thầy thuốc.

Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở có một bài tập, bài tập thứ ba, thở vào tôi ý thức sự có mặt của thân thể tôi và bài tập thứ tư thở vào tôi làm cho thân thể tôi lắng dịu xuống. Nghĩa là mình buông thư thân thể, mình lấy ra những cái căng thẳng, những cái đau nhức trong thân thể, đó là bài tập thứ ba và bài tập thứ tư. Thở vào tôi ý thức được cái thân thể của tôi, cái tiếng chuông boong là thân hành giác, thân hành giác tức là ý thức được sự có mặt của cơ thể mình. Thở vào tôi ý thức được sự có mặt của thân thể tôi, thở ra tôi ý thức được sự có mặt của thân thể tôi, tôi công nhận là nó đang có mặt đó. Tức là mình lấy cái tâm mình trở về với thân thể, mình ôm lấy cái thân thể, mình công nhận sự có mặt của thân thể. Tại vì ban ngày những lúc bận rộn mình quên luôn thân của mình, cái tâm của mình đi rong ruổi, đi về quá khứ đi về tương lai, đi về những dự án, những âu lo, những sợ hãi. Cái thân luôn luôn rời khỏi cái tâm thì hơi thở là đưa tâm trở về với thân để nhận diện sự có mặt của tâm để ôm lấy cái tâm và để làm cho cái thân nó lắng dịu xuống, đó là bài tập thứ ba và bài tập thứ tư của kinh Quán Niệm Hơi Thở.

Kinh Quán Niệm Hơi Thở là sách gối đầu giường của các thầy và các sư cô. Mình phải thuộc nằm lòng kinh đó, kinh đó đi đôi với kinh Niệm Xứ. Kinh Niệm Xứ là kinh dạy cho chúng ta quán niệm về thân, về thọ, về các tâm hành và về Pháp tức là đối tượng của tri giác, tức là đối tượng của tưởng. Đó là bốn lĩnh vực của sự quán chiếu, bốn lĩnh vực của kinh quán niệm gọi là kinh Tứ Niệm Xứ. Kinh đó cũng là kinh gối đầu giường của các thầy các sư cô trong thời đức Thế Tôn tại thế. Và trong thời đức Thế Tôn tại thế thì tất cả các thầy các sư cô đều thuộc lòng kinh đó và thuộc lòng kinh Quán Niệm Hơi Thở, hai kinh đó là hai kinh căn bản. Chúng ta thuộc kinh A Di Đà nhiều hơn, chúng ta thuộc kinh Lăng Nghiêm nhiều hơn mà chúng ta không thuộc kinh Niệm Xứ và chúng ta không thuộc kinh Quán Niệm Hơi Thở, trong khi hai kinh đó rất là thiết yếu cho người tu. Nếu chúng ta thuộc Lăng Nghiêm được thì chúng ta thuộc kinh Quán Niệm Hơi Thở được.

 Đối với người hành giả, hành giả tức là người tu phải nắm trong tay những pháp môn tu tập. Và bài tập mà đức Thế Tôn đưa ra, bài tập đầu đưa ra hết sức là đơn giản, thở vào tôi biết đây là hơi thở vào, thở ra tôi biết đây là hơi thở ra, đó là nhập tức xuất tức, nhập tức là hơi thở vào, xuất tức là hơi thở ra. Thở vào thì mình biết rằng đây là hơi thở vào, thở ra biết đây là hơi thở ra, điểm mặt nó ‘ mày là hơi thở vào, còn mày là hơi thở ra’. Bài tập đầu như vậy đó nhưng mà mầu nhiệm vô cùng. Mình chỉ ngồi đó thôi để nhận diện hơi thở vào, nhận diện hơi thở ra. Giống như người lính gác cổng nhận diện người này là người Việt mới đi vô, nhận diện người kia là người ngoại quốc mới đi ra, vậy đó. Bài tập đầu tiên là nhận diện hơi thở, nhận diện hơi thở vào và nhận diện hơi thở ra. Nó mầu nhiệm tại vì sao, tại vì tâm mình nó đang rong ruổi, nó đang trôi lăn, nó đi về quá khứ, nó tiếc nuối quá khứ hay nó sầu não về quá khứ hoặc nó đi về tương lai, nó lo lắng, nó sợ hãi về ngày mai. Hay nó bị cuốn theo những cái suy tư, những cái lo lắng, những cái sầu khổ, những cái bực bội. Thì khi mình đem nó trở về với hơi thở, mình nhận diện hơi thở thì tự nhiên tâm của mình buông mấy cái đó ra, nó buông quá khứ ra, nó buông tương lai ra, nó buông những cái vướng mắc đó ra, nó trở về với hơi thở và tâm mình nó tự do. Tâm mình bây giờ bám lấy hơi thở vào và hơi thở ra thì lúc đó mình bắt đầu có tự do. Có tự do đối với những vướng mắc về quá khứ, về tương lai, về đối tượng tìm cầu của mình. Và cứ thở một hồi như vậy thì tự nhiên hơi thở vào nó sâu xuống, hơi thở ra nó nhẹ thêm và mình bắt đầu có pháp lạc, có hạnh phúc. Và hơi thở thứ hai cũng dễ thôi, bài tập thứ hai là thở vào, tôi theo dõi hơi thở vào từ đầu tới cuối, bám sát lấy hơi thở vào không để tâm thoát ra mà chạy tứ tán. Tôi đang thở ra và tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu tới cuối, tôi bám sát lấy hơi thở ra như là người chết đuối bám sát lấy cái phao, là người đi qua cầu khỉ bám sát lấy thanh cầu để đừng rơi xuống. Trong khi mình thở vào mình bám sát lấy hơi thở vào và trong khi mình thở ra mình bám sát hơi thở ra từ đầu tới cuối. Và vì vậy cho nên mình bắt đầu có định, nó rất là hay, không khó mà rất là vui. Ngay trong bài tập thứ nhất và bài tập thứ hai, mình bắt đầu mình chấm dứt được tán loạn và mình bắt đầu có định.

Tới bài tập thứ ba, thở vào tôi ý thức về sự có mặt của thân thể tôi, thở ra tôi ý thức rằng thân thể tôi có đó. Tức là đem tâm về với thân, đem tâm hòa giải với thân. Và bài tập thứ tư, thở vào tôi làm lắng dịu những căng thẳng ở trong cơ thể tôi. Thở ra tôi buông thư tất cả những cái căng thẳng trong cơ thể tôi. Trong tư thế ngồi, bằng hơi thở đó mình làm cho các cơ bắp ở trong thân thể nó buông thư xuống hết, trước hết là những cơ bắp trên mặt, đếm có khoảng ba trăm bắp thịt nho nhỏ, những cơ bắp nhỏ ở trên mặt. Mỗi khi mình lo lắng, mình sầu khổ, mình sợ hãi thì nó căng thẳng, nhìn vô kiếng thì thấy ghê lắm, giống trái bom sắp nổ, nhưng mà nếu mình thở vào một cái, ý thức được cơ thể, thở ra một cái, mỉm cười buông thư thì mặt mình dễ ngó hơn nhiều. Và nụ cười khi thở ra nó mầu nhiệm vô cùng, đang căng thẳng như vậy mà hễ mỉm cười một cái thì tất cả ba trăm bắp thịt trên mặt thư giãn liền, mặt mình đẹp hơn trước rất nhiều, nhìn vào kiếng thì thấy. Và mình có những bắp thịt, những cơ bắp ở trên vai, lo lắng sầu khổ, tính toán nó co rút lại, nó cứng ngắc. Cho nên trong tư thế ngồi hay trong tư thế nằm mình thực tập buông thư, cái đó gọi là an tịnh thân hành. Trong kinh gọi là an tịnh thân hành hoặc là thân hành tức.

Rồi tới những sầu khổ, những lo lắng, những buồn bực, những giận hờn trong người gọi là tâm hành. Hơi thở thứ bảy, bài tập thứ bảy trong kinh: thở vào tôi nhận diện được cái cảm thọ đang có mặt trong tôi, thở ra tôi nhận diện cái cảm thọ đang có mặt trong tôi. Và cảm thọ này là cảm thọ đau đớn, sầu khổ, lo lắng, giận hờn, cảm thọ tiêu cực. Rồi hơi thở thứ tám, thở vào tôi làm lắng dịu những cảm thọ trong tôi, tôi làm lắng dịu những cái nỗi khổ niềm đau trong tôi, cái đó gọi là tâm hành tức hoặc là an tịnh tâm hành. Cái trên là thân hành tức hay là an tịnh thân hành, cái dưới là tâm hành tức hay là an tịnh tâm hành, mình phải nắm cho được.

Trong khóa tu chúng ta sẽ thiền ngồi và trong khi mình thiền ngồi thì mình phải làm việc đó cho được, mình ngồi như thế nào cho thật thoải mái và có an có lạc. Ngồi thiền không phải là một lao tác mệt nhọc, một sự đày đọa hình hài của mình. Nếu mình cảm thấy đau khổ trong khi ngồi thiền, thì tại sao mình phải ngồi thiền. Ngồi thiền làm chi để cho đau khổ thêm, đời có nhiều đau khổ rồi, tại sao phải đau khổ thêm nữa. Và vì vậy cho nên phải học ngồi như thế nào mà trong thời gian ngồi mình có sự buông thư, sự nhẹ nhàng và an lạc. Đức Thế Tôn mỗi khi ngồi có an lạc, có tươi mát, có nhẹ nhàng giống như là ngồi trên một đóa sen. Đóa sen đó không có nghĩa là Đức Thế Tôn ngồi trên đóa sen thiệt, mà tại vì ngồi chỗ nào cũng thấy tươi mát, cũng thấy nhẹ nhàng cho nên gọi là ngồi trên tòa sen. Còn mình, thì mình ngồi trên đống lửa, ngồi chưa yên đã nhỏm dậy, không có an, không có lạc, không có an tọa, không có lạc tọa. Vì vậy cho nên phải học ngồi, học ngồi năm phút, rồi mười phút, rồi mười lăm phút, rồi hai mươi phút. Và khi mình giỏi rồi mình có thể ngồi một giờ, một giờ rưỡi cũng có thể có an, cũng có thể lạc. Nhưng đừng có ráng, ráng mà phải gồng mình rồi phải khổ đau trong ngồi thiền, thì thà rằng không ngồi thiền còn hơn.

Một ngày tu mà không có an, không có lạc, không hưởng được cái tình huynh đệ là một ngày bỏ đi. Chúng ta không chấp nhận như vậy, một ngày tu phải có an, phải có lạc, phải được nuôi dưỡng bởi tình huynh đệ, chuyện này có thể làm được. Vậy thì trong khi ngồi, chúng ta ngồi như thế nào để có an, có lạc và có tình huynh đệ. Trong khi đi chúng ta đi như thế nào mà mỗi bước có an có lạc, có tình huynh đệ, có thảnh thơi, có giải thoát, chuyện này là chuyện có thể làm được. Và nhất định trong khóa tu chúng ta phải làm cho được. Mình ngồi bán già hay kiết già, toàn già hay mình ngồi trên ghế cũng được, miễn là ngồi cho thoải mái, cái lưng cho thẳng nhưng mà không có cứng ngắc, không có gồng. Buông thư hết tất cả mọi cơ bắp, nếu muốn buông thư ba trăm cái cơ bắp trên mặt thì chỉ cần mỉm cười một cái là nó buông thư liền, rồi hai tay buông thư hết, rất thẳng nhưng mà rất buông thư. Đầu với cột sống cùng trên một đường thẳng, không cúi xuống, không ngả ra, thành một đường thẳng. Và khi ngồi xuống rồi thì không cần đợi những người khác, lập tức để ý tới hơi thở, thở vào đây là hơi thở vào, thở ra đây là hơi thở ra. Thở vào khỏe quá, thở ra nhẹ quá, thở vào, hơi thở vào bây giờ đã sâu, thở ra, hơi thở ra bây giờ đã chậm. Thở vào tôi theo dõi hơi thở vào từ đầu cho đến chót, thở ra tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến chót. Thực tập như vậy thì chỉ nội trong năm phút là phẩm chất của hơi thở, chất lượng của hơi thở đã cao hơn rồi. Ban đầu chưa thực tập thì mình thở hổn hển, nhưng ngồi cho thoải mái thì chỉ nội trong vài phút sau với tư thế ngồi vững chãi và với sự buông thư của các cơ bắp, với sự thư giãn đó thì hơi thở của mình từ từ sâu hơn, từ từ chậm lại, nó có phẩm chất cao hơn và mình bắt đầu hưởng được pháp lạc, tức là niềm vui của sự thực tập. Cái này không khó, hễ mình muốn là mình làm được. Cũng như những người muốn học đánh tennis, mới bắt đầu đánh trái banh nó đi tầm bậy tầm bạ, đôi khi mình đánh về hướng đó nhưng mà nó chạy sang bên này. Nhưng thử độ chừng nửa giờ thì trái banh nó đã đi đúng hướng rồi. Hơi thở cũng vậy, ban đầu mình có cảm tưởng là mình không làm được. Nhưng mà cứ thử làm, vừa làm vừa chơi thì nội trong mười lăm phút sau, nửa giờ sau mình làm được. Hơi thở bắt đầu có phẩm chất của an và của lạc. Nó đem lại chất liệu của an và lạc trong thân rồi vào trong tâm. Và mình không phí thì giờ trong khi mình ngồi. Tại vì mình ngồi như vậy tức là nuôi dưỡng cái thân mình rất nhiều. Nếu ngồi chưa quen mỏi chân, thì đừng có chịu trận, mình có thể tháo chân ra, mình vẫn thở và bóp hai chân nhè nhẹ. Miễn là đừng làm rộn ông thầy ngồi bên phải hay phía trước mặt mình thôi và mình mỉm cười, mình xoa bóp cho đều hoặc mình đổi chân, chân này lên trên chân kia xuống dưới, tại sao mà phải chịu trận, tại sao phải đau nhức, đó là thiền ngồi. Khoan quán tưởng cái gì hết, việc đầu tiên là phải buông thư, phải lấy đi sự căng thẳng trong thân, phải làm cho thân hành nó lắng dịu xuống, đó gọi là thân hành tức, an tịnh thân hành. Và tâm phải ở với thân mới làm được chuyện đó, cái tâm không được làm chuyện khác, cái tâm phải lo bám lấy hơi thở. Hơi thở có tâm đi theo gọi là hơi thở có ý thức. Thường ngày mình thở mà mình không biết là mình thở, đó là hơi thở không có ý thức, trong khi mình thực tập hơi thở là hơi thở có ý thức. Khi mình thở vào mình biết là mình đang thở vào, khi thở ra mình biết là mình đang thở ra. Gọi là hơi thở có ý thức. Danh từ ngày xưa gọi là an ban thủ ý hoặc là nhập tức xuất tức niệm. Nhập tức xuất tức niệm tức là niệm hơi thở vào niệm hơi thở ra. Mà niệm ở đây nó có nghĩa là để ý tới, niệm Bụt là để ý tới Bụt, niệm hơi thở là để ý tới hơi thở, niệm thân là để ý tới thân, niệm giới là để ý tới giới, niệm Pháp là để ý tới Pháp. Chữ niệm có nghĩa là để ý tới, đem cái tâm trở về với cái đó gọi là niệm. Vậy thì an ban thủ ý có nghĩa là nhập tức xuất tức niệm. Tức có nghĩa là để ý tới hơi thở vào hơi thở ra hoặc là niệm hơi thở hoặc là quán niệm hơi thở. Và nói theo kiểu mới là thực tập hơi thở có ý thức, còn nếu không tu thì hơi thở đó không có ý thức. Hơi thở có ý thức có thể làm thư giãn những căng thẳng trong cơ thể, có thể làm lắng dịu cơ thể.

Khi đi, mình cũng đem cái tâm mình trở về với cơ thể và mỗi bước đi là mỗi bước đi có ý thức, niệm bước chân, thiền đi tức là niệm bước chân, tức là bước bước nào mình ý thức bước đó, mình ý thức được sự xúc chạm giữa chân mình với mặt đất. Mình không để cho bước chân nào lọt ra khỏi vùng ý thức hết. Bước chân nào cũng là bước chân ý thức, cũng như hơi thở nào cũng là hơi thở có ý thức. Giống như mình đi coi hát, trên sân khấu có một cô ca sĩ và người ta tắt đèn hết, người ta chỉ chiếu đèn sáng vào cô ca sĩ đó thôi, xung quanh thì tối đen để cô ca sĩ đó nổi bật lên. Ở đây cũng vậy, khi mình tập thở vào thở ra thì mình tắt hết tất cả đèn ý thức những chỗ khác, mình chỉ phóng chiếu ý thức của mình vào hơi thở vào và hơi thở ra mà thôi, cái đó gọi là định, gọi là tập trung ánh sáng của cây đèn vào cô ca sĩ. Tâm của mình tập trung vào hơi thở vào, tập trung vào hơi thở ra, đó là niệm hơi thở. Còn khi đi mình niệm bước chân, bước một bước mình để tâm vào bước đó, bước bước thứ hai mình để hết tâm vào bước đó. Và không có bước chân nào lọt ra khỏi vùng ánh sáng của ý thức hết, cái đó gọi là thiền đi. Cái kia gọi là thiền thở, cái này gọi là thiền đi. Cố nhiên khi mình nói chuyện thì mình đâu làm được chuyện đó. Vì vậy cho nên trong một trung tâm tu học, khi đi thì không nói chuyện, khi đi thì phải phối hợp bước chân với hơi thở và đem tâm về soi sáng cho bước chân và cho hơi thở. Bước một bước mình thở vào một hơi, bước một bước mình thở ra một hơi. Mình phối hợp hơi thở vào với một bước, phối hợp hơi thở ra với một bước, đó là đi thiền, đi thiền chậm. Thở vào, thở ra, đem một trăm phần trăm cái tâm của mình đầu tư vào bước chân đó. Đức Thế Tôn đi như vậy đó, mỗi bước chân đều là bước chân có ý thức. Và cố nhiên trong khi bước như vậy thì mình không suy nghĩ tới quá khứ, không suy nghĩ tới tương lai, mình không suy nghĩ tới những dự án mà mình phải thực hiện như vấn đề xây chùa, in kinh, đúc tượng, mình chỉ để ý tới hơi thở hoặc là bước chân thôi, cái đó gọi là định. Định tức là chỉ để ý tới một cái mà thôi. Và khi mình để hết tâm ý vào bước chân đang xảy ra trong giây phút hiện tại thì mình có tự do, mình có thảnh thơi tại vì mình không bị quá khứ ám ảnh, không bị tương lai làm cho mình lo lắng sợ hãi. Mình hoàn toàn an trú trong giây phút hiện tại.

Bước một bước thở vào, bước một bước thở ra, đó là đi thiền chậm. Làng Mai có những bài kệ rất ngắn để mình sử dụng và thực tập. Bước một bước mình nói đã về, bước một bước thứ hai, thở ra gọi là đã tới, đã về đã tới. Tức là không cần phải chạy nữa, lâu nay mình chạy như bị ma đuổi, bây giờ mình ngưng lại, mình chỉ, mình tức, chỉ cũng là ngưng lại, tức cũng là ngưng lại. Chỉ và tức cũng có nghĩa là làm lắng dịu trở lại, mình đi như vậy rất là thư thái, rất là thong dong, đi như một con người tự do, không lo lắng. Và đức Thế Tôn đi như vậy đó. Trong lưu vực sông Hằng ngài đã đi những bước chân như vậy và đi với một đoàn đệ tử khá đông một ngàn hai trăm năm chục thầy. Và trong khi đi toát ra cái năng lượng của sự vững chãi, của sự thảnh thơi, thảnh thơi tức là không có bận rộn, không bị hệ lụy không bị bó buộc vào một đam mê, một hờn giận, một dự án nào hết. Tại vì hoàn toàn sống trong giây phút hiện tại.

Trong khóa tu anh em, chị em mình sẽ đi như vậy. Mỗi bước chân nằm trong vùng ánh sáng của ý thức, phải tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại. Mình đi để tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm trong giây phút hiện tại, mình không đi như những người mộng du. Những người mộng du họ đi họ không biết họ đang đi đâu giữa ban ngày. Chúng ta nhìn cho kỹ xung quanh thì thấy phần lớn người ta đang đi như vậy, đang mộng du hết. Đi mà không biết mình đang đi đâu. Đôi khi đang đi tới những đoạn trường mà không biết mình đang đi tới chỗ đoạn trường. Thiền đi là mỗi bước chân phải có an, phải có lạc, phải có sự buông thư. Hai tính chất của một bước đi như vậy là vững chãi và thảnh thơi. Bước một bước thật vững chãi nghĩa là không bị quá khứ lôi, không bị tương lai kéo, độc lập đối với quá khứ, độc lập đối với tương lai. Một bước chân như vậy là một bước chân có giá trị của sự vững chãi. Tính chất  thứ hai của bước chân là thảnh thơi, đi như vậy nó làm cho mình trở thành một con người tự do, mình không đi như bị ma đuổi. Chính mình bước một bước như vậy. Và bước chân đó đưa mình trở về với hiện tại nhiệm mầu: có trời xanh, có mây trắng, có tăng thân, có thầy, có bạn, có tình huynh đệ. Cho nên mình đi như một con người tự do. Vững chãi và thảnh thơi là hai đặc tính của Niết Bàn. Khi mình đi thiền như vậy, mình đã bắt đầu tiếp xúc được với Niết Bàn rồi, nếu quả thật mình có một chút ít vững chãi và một chút ít thảnh thơi huống hồ là mình có nhiều vững chãi có nhiều thảnh thơi. Mình có thể tiếp xúc Niết Bàn bằng hai chân của mình. Lời của đức Thế Tôn đã nói: “ ta có thể tiếp xúc Niết Bàn với cái hình hài của chính ta ”. Đó là đi thiền chậm, một bước đã về, đã tới, bây giờ, ở đây, vững chãi, thảnh thơi, quay về, nương tựa.

Nay tôi đã về,
Nay tôi đã tới,
An trú bây giờ,
An trú thảnh thơi,
An trú như núi xanh,
Thảnh thơi dường mây trắng,
Cửa vô sinh mở rồi,
Trạm nhiên và bất động.

Đó là bài kệ mình đã đặt nhạc và một số các thầy các sư cô ở đây đã thuộc bài đó rồi. Các thiền sinh Âu châu và Mỹ châu thì họ hát bằng tiếng Anh hay bằng tiếng Đức. Sang bên Trung Quốc thì mình làm bằng tiếng Hoa. Mình đã có bài tiếng Việt và nếu quý vị chưa thuộc thì chỉ cần: đã về ,đã tới, bây giờ, ở đây là được rồi. Bây giờ, ở đây here and now là địa chỉ của sự sống. Tất cả những mầu nhiệm của sự sống nó chỉ có mặt ở trong giây phút hiện tại và nó có ở đây. Nếu mình có mặt ở đây thì mình tiếp xúc được những mầu nhiệm đó của sự sống.

Đã về đã tới, nó có nghĩa là con không có ruổi rong, con không có chạy như bị ma đuổi nữa. Con đã chạy như bị ma đuổi suốt đời rồi, bây giờ con quyết tâm dừng lại. Và mỗi bước như vậy đưa mình trở về với giây phút hiện tại, đưa mình về với cái bây giờ và ở đây. Tại vì chỉ bây giờ và ở đây mới có sự sống mà thôi. Còn phần lớn chúng ta đều sống bằng tương lai, chỉ nghĩ tới tương lai hoặc chỉ mơ về quá khứ. Trong khi đó đức Thế Tôn dạy là phải hiện pháp lạc trú. Hiện pháp lạc trú tức là sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, hiện pháp có nghĩa là những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại, lạc trú tức là sống hạnh phúc, sống hạnh phúc với những cái đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Trong giây phút hiện tại có trời xanh, có mây trắng, có suối reo, có chim hót, có đồi thông, có đồi chè, có huynh, có đệ, có thầy. Thì mình sống với những cái đó, mình không bị chìm đắm trong quá khứ, mình không bị chìm đắm trong tương lai, thì đó gọi là hiện pháp lạc trú. Sống hạnh phúc ngay trong hiện tại và tiếp xúc với những gì đang xảy ra ngay trong giây phút hiện tại. Khi ngồi thiền mình cũng hiện pháp lạc trú mà khi đi thiền mình cũng tiếp xúc và mình cũng thực tập hiện pháp lạc trú. Nhưng ngoài cách đi chậm còn có cách đi nhanh và cách đi bình thường. Đi chậm là thở vào một hơi mình bước một bước, mình nói mình đã về, thở ra mình bước một bước, nói mình đã tới, đã về đã tới. Và mình đi như vậy cho đến khi nào mình về thiệt, mình có cảm tưởng là mình đã về thiệt, mình đã tới thiệt. Ban đầu mình mới tuyên bố thôi, con đã về nhưng kỳ thực mình còn rong ruổi chút đỉnh, con đã tới nhưng kỳ thực mình còn rong ruổi chút đỉnh. Nhưng mà mình đem hết tất cả  con người của mình tập trung bước một bước. Đem hết tất cả tâm ý để dừng lại trong bước chân đó.

Nếu chúng ta đi một mình thì chúng ta có thể thực tập như thế này: thở vào một hơi, bước một bước và nói mình đã về. Tức là mình đã về với giây phút hiện tại bây giờ và ở đây. Tâm của mình không muốn chạy về quá khứ tương lai hay nơi khác. Khi bàn chân mình tiếp xúc với mặt đất, mình để ý nếu quả thật mình hoàn toàn thiết lập thân tâm mình ở ngay trong giây phút hiện tại, mình thấy an lạc, thấy hạnh phúc ở đây, thì lúc đó mình đã về thiệt, đã tới thiệt. Nếu mình thấy mình chưa về thiệt hay là mới về được có hai chục phần trăm hay ba chục phần trăm thì đừng có bước đi bước nữa, đừng có bước bước thứ hai, cứ dẫm chân như vậy mà thở ra rồi thở vào cho đến khi nào mình đã thật sự đã về rồi thì mình mới bước chân thứ hai, đã tới. Mình đã về hay chưa thì mình biết, mình đã tới hay chưa mình phải biết. Vì trong con người mình có một năng lượng, có cái tập quán xô đẩy mình đi về tương lai. Mà năng lượng đó, tập quán đó, thói quen đó rất mạnh, mình không muốn chạy mà nó cứ xô mình chạy, chạy về phía trước, chạy về tương lai. Cái tập khí đó, năng lượng đó có thể do ông bà cha mẹ truyền lại cho mình và tu là phải nhận diện cái tập khí đó, cái thói quen đó, cái sức mạnh vô hình nó đẩy mình đi tới không cho mình an trú trong hiện tại. Năng lượng nhận diện đó là hơi thở có ý thức, hoặc là niệm, niệm hơi thở. Mình nhận diện nó, mình nói mày không đẩy tao đi được nữa, bây giờ tao quyết tu, tao quyết dừng lại rồi, mình mỉm cười với năng lượng đó. Khi nhận diện được năng lượng đó thì  nó không đủ sức để đẩy mình đi nữa. Chỉ cần nhận diện nó thôi. “ Ta biết ngươi là ai rồi, ngươi là cái năng lượng, cái tập khí muốn chạy về phía trước, muốn theo đuổi, muốn lăn về phía trước, muốn tìm cầu, ta nhận ra được mặt ngươi rồi, ngươi không thể nào kéo ta đi được nữa đâu ”. Cái đó là tiếng nói của hơi thở chánh niệm. Và nó không làm gì mình được cho nên mình mới về được, cho nên mình mới tới được, đã về đã tới. Đi thiền chậm một mình rất hay, tại vì mình tự do mình muốn bao nhiêu giây cũng được, mình bước một bước mình nói mình đã về rồi. Nhưng trong tâm mình thấy rằng mình chưa thật sự về thì mình nhất định cứ đặt chân ở chỗ đó, ngay chỗ đó rồi cứ thở ra, thở vào, nói đã về, đã về, đã về cho đến khi về rồi, mình mới gật đầu, bước một bước khác, đã tới. Phải quyết tâm mới được. Và chỉ cần thực tập hai chữ đó đã về đã tới cho đến khi bước chân mình vững lại và có thảnh thơi. Về đâu tới đâu, về chỗ địa chỉ: bây giờ và ở đây. Cho nên bài tập thứ hai là bây giờ ở đây. Bài tập thứ nhất là đã về đã tới, bài tập thứ hai là bây giờ ở đây. Bây giờ ở đây là địa chỉ của tịnh độ, địa chỉ của sự sống. Tại vì quá khứ đã trôi qua mà tương lai thì chưa tới, sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại. Đó là lời của đức Thế Tôn nói:

Đừng tìm về quá khứ,
Đừng nghĩ tới tương lai,
Quá khứ đã không còn,
Tương lai thì chưa tới,
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại,
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi.

Đó là những câu kinh trong Trung A Hàm, rất rõ ràng, rất đơn giản và dễ hiểu.

Khi đi một mình, đi chậm như vậy để rèn luyện cho mình cái khả năng có thể về, có thể tới trong giây phút hiện tại, đã về đã tới, bây giờ ở đây. Bây giờ ở đây là địa chỉ của sự sống, địa chỉ của những mầu nhiệm, địa chỉ của tịnh độ, của Niết Bàn, của Phật tánh, của hạnh phúc, của an lạc. Bỏ cái bây giờ và ở đây thì không còn hy vọng nữa.

Khi mình muốn đi nhanh hơn thì một hơi thở vào có thể đi theo với hai bước chân, mình thở vào thì mình bước hai bước, mình nói đã về, đã về. Rồi mình thở ra, đã tới, đã tới. Và có thể đi mau hơn nữa, thở vào một hơi nói đã về, đã về, đã về; thở ra đã tới, đã tới, đã tới. Và khi mà đại chúng đi thiền hành chung ba trăm người, năm trăm người, một ngàn người, hai ngàn người thường thường nên đi hai bước hoặc ba bước, hai bước thôi cũng được, đã về đã về này, đã tới đã tới này, bây giờ bây giờ, ở đây ở đây, vững chãi vững chãi, thảnh thơi thảnh thơi, quay về quay về, nương tựa nương tựa. Quay về nương tựa nơi cái tịnh độ hiện tiền, nơi cái địa chỉ đã về và đã tới.

Bây giờ chúng ta hãy hát với nhau bài đó để những người chưa thuộc có thể thuộc được.

Đã về, đã tới,
Bây giờ, ở đây,
Vững chãi, thảnh thơi
Quay về, nương tựa,
Nay tôi đã về,
Nay tôi đã tới,
An trú bây giờ,
An trú ở đây,

Vững chãi như núi xanh,
Thảnh thơi dường mây trắng,
Cửa vô sinh mở rồi,
Trạm nhiên và bất động.

Như vậy là ai cũng thuộc hết rồi, trong khi đi mình có thể thực tập theo bài kệ đó: đã về đã tới, một hồi mình chuyển sang bây giờ ở đây, rồi vững chãi thảnh thơi, quay về nương tựa, nay tôi đã về nay tôi đã tới, an trú bây giờ an trú ở đây, vững chãi như núi xanh, thảnh thơi dường mây trắng, cửa vô sinh mở rồi, trạm nhiên và bất động.

Mỗi bước chân phải đem  mình về với giây phút hiện tại, mỗi bước chân phải có phẩm chất của sự vững chãi của sự thảnh thơi. Vững chãi có nghĩa là không bị quá khứ và tương lai nó lôi mình đi, thảnh thơi có nghĩa là mình được tự do, an trú và tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại. Cho nên khi đi mình đâu có nói chuyện được. Nói chuyện thì đâu có vững chãi thảnh thơi được, nói chuyện thì tâm ý của mình nó đi theo ý tưởng, đi theo lời nói. Cho nên khi đi là không nói mà khi nói thì không đi. Nếu cần nói một câu gì đó thì dừng lại hoàn toàn, nói xong câu đó trong chánh niệm rồi tiếp tục đi. Điều này không phải chỉ xảy ra trong  khi đi thiền hành mà trong suốt ngày. Mình từ nhà bếp đi ra phòng rửa mặt, dầu đi có ba bốn thước mình cũng sử dụng phép đi thiền. Mình từ Phật đường xuống tăng xá, mình cũng sử dụng phép đi thiền. Hễ cần di chuyển là mình áp dụng cái phương pháp thiền đi, nghĩa là phối hợp hơi thở với bước chân và bước chân nào cũng phải về, cũng phải tới. Nếu làm được trong năm ngày như vậy thì nó trở thành một thói quen. Trong chương trình tôi thấy hình như mình  sẽ giữ im lặng hùng tráng, từ sau buổi cơm chiều cho đến sau buổi ăn sáng, thì hay đó nhưng mà hơi ít. Nếu mình nói chuyện thì mình đâu có thì giờ để thực tập. Hay là năm nào mình mở một khóa chỉ để nói chuyện thôi, còn khóa này mình tu cho đàng hoàng. Vì vậy cho nên thiền đi là vậy, không có nói trong khi đi. Nếu bất đắc dĩ phải nói một cái gì thì ngừng lại để nói. Không những điều này áp dụng khi mình thực tập thiền đi chung mà mình áp dụng cho cá nhân mình trong suốt ngày. Hễ cất bước đi là không nói, hễ nói là không có cất bước đi, là đứng lại. Sự thực tập là đừng để cho bước chân nào lọt ra khỏi cái vùng ý thức. Vùng ý thức tức là niệm. Vùng không ý thức gọi là thất niệm. Đừng để cho bước chân nào lọt ra vùng thất niệm, bước chân nào cũng được đặt trong ánh sáng của niệm gọi là thiền đi. Và phải thực tập một trăm phần trăm và nếu mình thực tập khơi khơi thì không thành công được. Phải hạ thủ công phu, phải cương quyết thành công mới được. Cho nên thì giờ chúng ta có với nhau năm ngày rất là quý, mình đừng để phí vào những cái câu chuyện không có bổ ích. Nếu có thể được, mình giữ  im lặng hùng tráng cho tới sau buổi cơm trưa thì càng hay nữa. Cái đó tùy theo đại chúng, cố nhiên huynh đệ xa nhau lâu ngày gặp nhau thế nào cũng muốn hàn huyên, cho nên tôi mới đề nghị thôi để mai này mình có một khóa chỉ để hàn huyên thôi, khóa này mình phải tu cho đàng hoàng. Khi ăn cơm thì mình cũng phải có hạnh phúc, trong khi ăn cơm mình chỉ để ý tới hai cái: - Thức ăn, tặng phẩm của đất trời. Để nuôi dưỡng mình, ăn với lòng biết ơn.- Và tăng thân tức là huynh đệ xung quanh, được ngồi với nhau như những người huynh đệ, được ăn cơm với nhau trong chánh niệm, được nuôi dưỡng tình huynh đệ trong khi ăn đó là một cái hạnh phúc rất là lớn. Ngày xưa đức Thế Tôn thường ngồi ăn cơm với các thầy. Trong khi ăn cơm không có nói chuyện. Và chỉ khi nào ăn xong mới đứng dậy, chứ không có nửa chừng đứng dậy. Thì gọi là nhất tọa thực. Dầu mình ăn qua đường cũng vậy, ăn cơm trong vòng tròn, trong gia đình xuất gia thì cũng ăn cơm như vậy. Ăn cơm như thế nào cho thảnh thơi, cho vững chãi, ngồi như là ngồi thiền. Ăn cơm là một loại thiền tập và mỗi miếng cơm mình nhai, mình để ý tới thức ăn trong đó. Và đừng nhai những tư tưởng của mình, những suy tư của mình, những lo lắng, những sầu khổ của mình, nhai những thứ đó không có lợi cho sức khỏe. Nhất định không nhai những dự án, những cái buồn khổ, những lo lắng mà chỉ nhai thức ăn thôi. Và thỉnh thoảng dừng lại mỉm cười nhìn huynh đệ. Ăn một bữa cơm có thể là tốn hai mươi phút hoặc ba mươi phút. Trong hai mươi hoặc ba mươi phút đó phải có hạnh phúc, phải có an lạc, phải được nuôi dưỡng bằng tình huynh đệ. Đức Thế Tôn dạy chúng ta khi ăn nên thiết lập thân tâm vững chãi trong giây phút hiện tại, chỉ để ý tới thức ăn, chỉ để ý tới tăng thân mà không để tâm ý suy nghĩ vẩn vơ tới chuyện quá khứ, tương lai, bên này, bên kia. Ăn cơm như thế nào để có thảnh thơi an lạc và tình huynh đệ trong khi ăn. Đại chúng nghe tiếng chuông xin nhất tâm thực tập năm quán, đó là lời quán nguyện trước mỗi bữa ăn. Vì vậy cho nên ăn cơm cũng là thực tập và nếu trong thời gian ăn cơm mà không có an lạc, không có hạnh phúc, không có thảnh thơi, không có tình huynh đệ thì buổi thực tập đó, buổi ăn cơm đó thất bại. Mỗi khi chúng ta nghe chuông, nhiều là chuông đại hồng  hay là chuông gia trì hay là chuông báo chúng, đó là dấu hiệu đức Thế Tôn nói: “ Con đừng suy nghĩ vẩn vơ, con đừng nghĩ tới chuyện quá khứ, tương lai, đừng bị trôi lăn, lôi cuốn theo những dự án, những mong cầu, con trở về giây phút hiện tại đi.”  Nghe tiếng chuông tất cả mọi người, hàng ngàn người như một đều trở về với hơi thở và thực tập bài kệ:

Lắng lòng nghe,
Lắng lòng nghe,
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.

Thực tập như vậy ít nhất ba lần rồi, đang làm cái gì đó thì tiếp tục làm. Khi nghe tiếng chuông thì phải ngưng nói năng, dầu mình đang thuyết pháp mình cũng ngưng, dầu mình đang pháp đàm mình cũng phải ngưng. Quan trọng hơn nữa là ngưng tư duy, không suy nghĩ nữa và đem tâm trở về với hơi thở, thở vào thấy khỏe, thở ra thấy nhẹ. Cái đó gọi là chỉ, cái đó gọi là buông thư. Im lặng hùng tráng là để có cơ hội thực tập hơi thở và bước chân, chứ không phải là một cái im lặng ngột ngạt, khó thở. Cái im lặng này cho mình rất nhiều tự do gọi là im lặng hùng tráng. Khi có nhiều tiếng nói, nhiều tiếng động thì mình thực tập hơi thở bước chân rất khó. Những tiếng động, lời nói năng và nhất là những suy tư là những gai châm vào sự thực tập, đó là trong kinh nói như vậy. Vì vậy cho nên đừng để những cái gai đó nó xảy ra. Tầm và từ là sự suy nghĩ. Khi mình không nói, khi mình im lặng nhưng mà thật sự chưa có sự im lặng, tại vì trong này cái tâm đang nói, cái đó gọi là tầm và từ. Suy nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác, giống như có một cái băng cassette nó cứ quay quay trong này. Và phải ngưng cái đó, mà muốn ngưng cái đó thì sử dụng phương pháp nắm lấy hơi thở là hay hơn hết. Thành ra tối nay mình đã được hướng dẫn như thế nào, nghe tiếng chuông ngưng hết mọi suy tư, ngưng hết mọi nói năng trở về với hơi thở thực tập bài Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe, tiếng chuông huyền diệu đưa về giây phút hiện tại, đưa về quê hương, đưa về sự sống ba lần, thì lúc đó mới tiếp tục nói pháp hay là mới tiếp tục pháp đàm hay tiếp tục đi hay  mới tiếp tục rửa chén. Đó là cái thứ nhất,

Cái thứ hai là thực tập im lặng hùng tráng để có thì giờ có cơ hội thực tập theo dõi hơi thở theo dõi bước chân. Thứ ba là khi ngồi, ngồi thế nào để có vững chãi có thảnh thơi, có an lạc có hạnh phúc, đừng có đày đọa tấm thân trong khi ngồi.

Trong khi đi, đi như thế nào để có vững chãi thảnh thơi. Mỗi bước chân đưa mình về cái giây phút hiện tại để tiếp xúc với những mầu nhiệm của giây phút hiện tại. Và khi chúng ta người nào cũng làm như vậy thì chúng ta chế tác được năng lượng chánh niệm tập thể rất là hùng hậu. Cái năng lượng tập thể hùng hậu đó sẽ thấm vào từng người. Thành ra tu chung có cái lợi như vậy. Nếu ba người tu chánh niệm thì ba người đó chế tác ra một năng lượng chánh niệm tập thể của ba người, nó cũng mạnh hơn một người. Mà ba trăm người, năng lượng tập thể của chánh niệm được chế tác ra lớn bằng trăm lần. Và ba ngàn người thì năng lượng tập thể đó lớn ngàn lần. Khi nó lớn như vậy thì nó nâng đỡ mình, nó đi vào trong từng cá nhân. Vì vậy cho nên khi mà tăng thân tập hợp lại để tu thì mình được hưởng cái năng lượng tập thể của chánh niệm. Và năng lượng đó có thể yểm trợ, có thể ôm ấp, có thể chữa trị được những vết thương, những bệnh tật của mình ở trong thân cũng như trong tâm. Thì chúng ta tu như một đoàn thể mà không phải là những cá nhân riêng lẻ. Tối nay, mình chỉ nghe những lời chỉ dẫn tổng quát như vậy thôi, rồi mỗi ngày mình sẽ thực tập và sẽ bổ túc những gì mà chưa được đầy đủ lắm.

Xin chúc đại chúng tối hôm nay ngủ ngon, bốn giờ sáng chúng ta sẽ thức dậy và chúng ta bắt đầu một ngày tu với nhau trong hạnh phúc, trong an lạc.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.