Nền Tảng
của Chánh Niệm
Kính thưa các vị tôn đức, thưa các huynh đệ, hôm nay là ngày
mùng năm tháng ba dương lịch năm hai ngàn không trăm lẻ bảy.
Chúng ta đang ở tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc, Lâm Đồng trong
khóa tu dành cho những người xuất gia.
Trong suốt
những ngày của khóa tu, cổng chùa Bát Nhã sẽ đóng lại không để cho
khách tham quan ra vào, để chúng ta có cơ hội tu tập cho thành công.
Và trong suốt những ngày đó chúng ta ở trong khuôn viên của tu viện,
chỉ trừ những trường hợp cấp bách lắm mới phải đi ra ngoài mà thôi.
Đây là một
cơ hội, chúng ta chỉ có một số ít ngày, chúng ta phải tìm cách lợi
dụng thì giờ mà chúng ta có, để cho sự tu tập đạt tới những kết quả
mà chúng ta mong muốn. Một khóa tu năm ngày hay bảy ngày cho phép
chúng ta nếm được pháp vị của giải thoát, của an lạc. Và sau khóa tu
chúng ta phải tiếp tục bằng cách này hay bằng cách khác thì sự giải
thoát và an lạc đó mới được kéo dài và được phát triển. Nếu sau khóa
tu chúng ta không có môi trường tốt, không có cơ hội thực tập thì
cái an lạc, cái giải thoát, cái hạnh phúc đó chỉ kéo dài vài ba tuần
lễ rồi chúng ta sẽ sa vào tình trạng cũ. Và chúng ta phải chờ một
khóa tu khác để nếm lại một ít hương vị của sự an lạc, của sự giải
thoát, của hạnh phúc. Cũng như mình đi châm cứu, mình tới được ông
thầy ông châm cứu thì mình thấy khỏe và cái khỏe đó có thể kéo dài
được một hai tuần. Cách sống, cách làm việc, cách ăn uống của mình
không cho phép mình duy trì sự an lạc trong thân thể của mình. Và vì
vậy vài ba tháng sau mình phải đi ông thầy châm cứu trở lại. Thì tu
cũng vậy, khóa tu năm ngày hay bảy ngày cho phép chúng ta nếm được
một chút nào hương vị của tình huynh đệ, của an lạc, của thong dong,
của giải thoát. Cho nên chúng ta phải có chủ tâm, nghĩa là phải nắm
được pháp môn, nắm được phương pháp thực tập. Chúng ta phải suy nghĩ
để làm thế nào sau khóa tu chúng ta có thể bảo trì được sự tu tập,
có thể tiếp tục được sự tu tập. Và môi trường rất là quan trọng, nếu
môi trường không thuận lợi thì rất khó mà duy trì được sự thực tập
và làm cho cái an lạc, cái giải thoát của mình lớn lên và kéo dài,
sự thật là như vậy. Chắc chắn là khi mình tu năm ngày hay bảy ngày,
thế nào cũng nếm được một ít an lạc, hạnh phúc và thảnh thơi. Cũng
như mình đi châm cứu, ông thầy châm cứu giỏi thế nào mình cũng khỏe
ra, những huyệt đạo được khai thông, mình thở được, mình đi đứng
được, không đau nhức lắm. Nhưng cái đó chỉ có kết quả nhất thời.
Công phu
tu tập bắt đầu từ sự dừng lại. Dừng lại là một cái phương pháp thực
tập, dừng lại cái gì? Dừng lại sự rong ruổi của chúng ta, chúng ta
đang đuổi theo một cái gì đó. Nhiều khi chúng ta không muốn đuổi
theo, không muốn rong ruổi, nhưng chúng ta bị kéo theo và chúng ta
không cưỡng lại được. Chúng ta chìm đắm, trôi lăn theo một cái gì
đó, theo một hướng nào đó, tiếng Hán Việt là trầm luân. Sự trôi lăn
đó có thể thấy được trong ban ngày, những cái ta nghĩ, những cái ta
nói và những cái ta làm, chứng tỏ là ta đang bị cuốn hút theo một
cái gì đó, chúng ta không dừng lại được. Và ban đêm trong giấc mơ
chúng ta cũng vẫn trôi lăn như thường. Nếu chúng ta quán sát thì
không những ban ngày mà ban đêm chúng ta cũng đang trôi lăn, chúng
ta đang bị cuốn hút theo một cái gì đó. Và đi theo cái đó ta không
có thì giờ để sống thảnh thơi an lạc trong cái giây phút hiện tại.
Vì vậy cho nên tu trước hết là dừng lại, tập dừng lại.
Chữ
samatha mình dịch là chỉ, có nghĩa là dừng lại. Trong kinh A Hàm
được dịch vào khoảng thế kỷ thứ tư thứ năm thì chúng ta có danh từ
tức, Tức tức là dừng lại, chấm dứt, dừng lại như trong danh
từ hưu tức, hưu là nghỉ ngơi, hưu là ngừng lại giống như là về hưu.
Hưu tức, chữ tức là chấm dứt, dịch ra tiếng Anh là stop. Và chữ chỉ
hay chữ tức cũng có nghĩa là làm cho lắng dịu trở lại, sâu lắng trở
lại, nó nhẹ nhàng ra thì gọi là tức. Như trong kinh An Ban Thủ Ý,
đức Thế Tôn dạy chúng ta phương pháp thở có danh từ thân hành tức.
Thân hành là cái hình hài của mình, thân hành tức tức là làm
lắng dịu con người, cái thân thể của mình. Và có danh từ tâm hành
tức có nghĩa là sự lắng dịu của những tâm hành, thân hành
là những hoạt động của cơ thể, còn tâm hành là những hoạt
động của tâm ý. Và trong hoạt động của cơ thể có sự căng thẳng, có
sự đau nhức, có sự rong ruổi, có sự trôi lăn. Cho nên làm thế nào để
cho nó ngưng lại, nó lắng lại, nó êm dịu trở lại, cái đó gọi là
chỉ, cũng gọi là tức. Trước là phải học thân hành tức
là làm cho lắng dịu cái thân hành của mình, cái thân của mình, cho
nó ngừng nghỉ, cho nó nghỉ ngơi. Tại vì chúng ta đày đọa tấm thân
của chúng ta hơi nhiều, chúng ta không cho phép thân của chúng ta
thư giãn, lắng dịu. Và những cái căng thẳng, những cái đau nhức phát
sinh ra trong thân tại vì chúng ta không biết cách làm lắng dịu,
không biết cách dừng lại, nghĩa là không biết chỉ. Chúng ta
nhân danh Tam Bảo, chúng ta nhân danh Phật sự, chúng ta làm quá trời
quá đất. Cho nên những cái căng thẳng được dồn chứa trong thân của
mình, tạo ra những cái đau nhức. Những căng thẳng và đau nhức đó một
khi dồn chứa tới mức nào đó, thì nó bắt đầu phát sinh ra bệnh, đủ
thứ bệnh tật hết.
Cho nên
trong kinh An Ban Thủ Ý tức là kinh Quán Niệm Hơi Thở có một bài
thực tập gọi là an tịnh thân hành, tức là làm cho cơ thể mình
buông thư, lắng dịu trở lại, không còn bị đày đọa. Nhiều khi mình
đày đọa thân thể mình nhân danh Phật sự, nhân danh Pháp sự, nhân
danh Tăng sự, mình không có sự thư giãn, mình không có sự nhẹ nhàng
trong thân, nó đưa tới bệnh, phương pháp tu đó gọi là an tịnh
thân hành. Có một bài tập nữa trong kinh Quán Niệm Hơi Thở gọi
là an tịnh tâm hành, tại vì trong tâm chúng ta cũng có sự
căng thẳng, cũng có sự đau nhức. Chúng ta có những cái sợ, những cái
buồn, những cái lo và dồn chứa lâu ngày tâm thần của chúng ta căng
thẳng. Và nếu chúng ta không biết giải tỏa, không biết tháo gỡ,
không biết làm lắng dịu, không biết chỉ, không biết tức
thì sự dồn nén đó sẽ làm cho chúng ta bệnh và có thể là những bệnh
tâm thần, thân bệnh rồi tới tâm bệnh.
Mình là
người tu phải nắm cho được cái phương pháp làm lắng dịu cái thân,
thân hành tức là thân mình đó. Hành là một từ chuyên môn
trong đạo Bụt, tất cả mọi sự mọi vật đều gọi là hành, hành có nghĩa
là những sự vật, những hiện tượng. Ví dụ như cái bình thủy này là
một hành, có khi mình gọi là hạnh, khi mình nói chư hạnh vô
thường tức là các sự vật đều vô thường, hành vô thường, cái bình
này vô thường, cái microphone này vô thường, cái bàn tay này vô
thường. Cái bình thủy là một hành, cái bàn tay là một hành, cái thân
mình là một hành gọi là thân hành. Còn tâm mình có những cái
buồn giận, những cái lo lắng, những cái sầu khổ, thì những cái buồn
giận, những cái lo lắng sầu khổ đó không phải là thân hành mà nó là
tâm hành. Người tu phải biết cách làm lắng dịu thân hành và
tâm hành, cái đó mình phải nắm cho được.
Trong
kinh Quán Niệm Hơi Thở, kinh An Ban Thủ Ý đức Thế Tôn dạy cho chúng
ta nhiều bài thực tập, trong đó có những bài giúp chúng ta làm lắng
dịu cái thân hành tức là thân thể của chúng ta, lấy ra khỏi thân
những cái căng thẳng, những đau nhức, những dồn nén. Và những bài
tập giúp cho chúng ta lắng dịu tâm hành, lấy ra khỏi tâm những cái
căng thẳng, những cái dồn nén, những đau nhức, những ẩn ức. Như vậy
thì phép tu nó trị thân và nó trị tâm. Cũng vì vậy đức Thế Tôn được
gọi là một y sĩ, một y vương, một ông vua của thầy thuốc.
Trong kinh
Quán Niệm Hơi Thở có một bài tập, bài tập thứ ba, thở vào tôi ý thức
sự có mặt của thân thể tôi và bài tập thứ tư thở vào tôi làm cho
thân thể tôi lắng dịu xuống. Nghĩa là mình buông thư thân thể, mình
lấy ra những cái căng thẳng, những cái đau nhức trong thân thể, đó
là bài tập thứ ba và bài tập thứ tư. Thở vào tôi ý thức được cái
thân thể của tôi, cái tiếng chuông boong là thân hành giác, thân
hành giác tức là ý thức được sự có mặt của cơ thể mình. Thở vào tôi
ý thức được sự có mặt của thân thể tôi, thở ra tôi ý thức được sự có
mặt của thân thể tôi, tôi công nhận là nó đang có mặt đó. Tức là
mình lấy cái tâm mình trở về với thân thể, mình ôm lấy cái thân thể,
mình công nhận sự có mặt của thân thể. Tại vì ban ngày những lúc bận
rộn mình quên luôn thân của mình, cái tâm của mình đi rong ruổi, đi
về quá khứ đi về tương lai, đi về những dự án, những âu lo, những sợ
hãi. Cái thân luôn luôn rời khỏi cái tâm thì hơi thở là đưa tâm trở
về với thân để nhận diện sự có mặt của tâm để ôm lấy cái tâm và để
làm cho cái thân nó lắng dịu xuống, đó là bài tập thứ ba và bài tập
thứ tư của kinh Quán Niệm Hơi Thở.
Kinh Quán
Niệm Hơi Thở là sách gối đầu giường của các thầy và các sư cô. Mình
phải thuộc nằm lòng kinh đó, kinh đó đi đôi với kinh Niệm Xứ. Kinh
Niệm Xứ là kinh dạy cho chúng ta quán niệm về thân, về thọ, về các
tâm hành và về Pháp tức là đối tượng của tri giác, tức là đối tượng
của tưởng. Đó là bốn lĩnh vực của sự quán chiếu, bốn lĩnh vực của
kinh quán niệm gọi là kinh Tứ Niệm Xứ. Kinh đó cũng là kinh gối đầu
giường của các thầy các sư cô trong thời đức Thế Tôn tại thế. Và
trong thời đức Thế Tôn tại thế thì tất cả các thầy các sư cô đều
thuộc lòng kinh đó và thuộc lòng kinh Quán Niệm Hơi Thở, hai kinh đó
là hai kinh căn bản. Chúng ta thuộc kinh A Di Đà nhiều hơn, chúng ta
thuộc kinh Lăng Nghiêm nhiều hơn mà chúng ta không thuộc kinh Niệm
Xứ và chúng ta không thuộc kinh Quán Niệm Hơi Thở, trong khi hai
kinh đó rất là thiết yếu cho người tu. Nếu chúng ta thuộc Lăng
Nghiêm được thì chúng ta thuộc kinh Quán Niệm Hơi Thở được.
Đối với
người hành giả, hành giả tức là người tu phải nắm trong tay những
pháp môn tu tập. Và bài tập mà đức Thế Tôn đưa ra, bài tập đầu đưa
ra hết sức là đơn giản, thở vào tôi biết đây là hơi thở vào, thở ra
tôi biết đây là hơi thở ra, đó là nhập tức xuất tức, nhập tức
là hơi thở vào, xuất tức là hơi thở ra. Thở vào thì mình biết
rằng đây là hơi thở vào, thở ra biết đây là hơi thở ra, điểm mặt nó
‘ mày là hơi thở vào, còn mày là hơi thở ra’. Bài tập đầu như vậy đó
nhưng mà mầu nhiệm vô cùng. Mình chỉ ngồi đó thôi để nhận diện hơi
thở vào, nhận diện hơi thở ra. Giống như người lính gác cổng nhận
diện người này là người Việt mới đi vô, nhận diện người kia là người
ngoại quốc mới đi ra, vậy đó. Bài tập đầu tiên là nhận diện hơi thở,
nhận diện hơi thở vào và nhận diện hơi thở ra. Nó mầu nhiệm tại vì
sao, tại vì tâm mình nó đang rong ruổi, nó đang trôi lăn, nó đi về
quá khứ, nó tiếc nuối quá khứ hay nó sầu não về quá khứ hoặc nó đi
về tương lai, nó lo lắng, nó sợ hãi về ngày mai. Hay nó bị cuốn theo
những cái suy tư, những cái lo lắng, những cái sầu khổ, những cái
bực bội. Thì khi mình đem nó trở về với hơi thở, mình nhận diện hơi
thở thì tự nhiên tâm của mình buông mấy cái đó ra, nó buông quá khứ
ra, nó buông tương lai ra, nó buông những cái vướng mắc đó ra, nó
trở về với hơi thở và tâm mình nó tự do. Tâm mình bây giờ bám lấy
hơi thở vào và hơi thở ra thì lúc đó mình bắt đầu có tự do. Có tự do
đối với những vướng mắc về quá khứ, về tương lai, về đối tượng tìm
cầu của mình. Và cứ thở một hồi như vậy thì tự nhiên hơi thở vào nó
sâu xuống, hơi thở ra nó nhẹ thêm và mình bắt đầu có pháp lạc, có
hạnh phúc. Và hơi thở thứ hai cũng dễ thôi, bài tập thứ hai là thở
vào, tôi theo dõi hơi thở vào từ đầu tới cuối, bám sát lấy hơi thở
vào không để tâm thoát ra mà chạy tứ tán. Tôi đang thở ra và tôi
theo dõi hơi thở ra từ đầu tới cuối, tôi bám sát lấy hơi thở ra như
là người chết đuối bám sát lấy cái phao, là người đi qua cầu khỉ bám
sát lấy thanh cầu để đừng rơi xuống. Trong khi mình thở vào mình bám
sát lấy hơi thở vào và trong khi mình thở ra mình bám sát hơi thở ra
từ đầu tới cuối. Và vì vậy cho nên mình bắt đầu có định, nó rất là
hay, không khó mà rất là vui. Ngay trong bài tập thứ nhất và bài tập
thứ hai, mình bắt đầu mình chấm dứt được tán loạn và mình bắt đầu có
định.
Tới bài
tập thứ ba, thở vào tôi ý thức về sự có mặt của thân thể tôi, thở ra
tôi ý thức rằng thân thể tôi có đó. Tức là đem tâm về với thân, đem
tâm hòa giải với thân. Và bài tập thứ tư, thở vào tôi làm lắng dịu
những căng thẳng ở trong cơ thể tôi. Thở ra tôi buông thư tất cả
những cái căng thẳng trong cơ thể tôi. Trong tư thế ngồi, bằng hơi
thở đó mình làm cho các cơ bắp ở trong thân thể nó buông thư xuống
hết, trước hết là những cơ bắp trên mặt, đếm có khoảng ba trăm bắp
thịt nho nhỏ, những cơ bắp nhỏ ở trên mặt. Mỗi khi mình lo lắng,
mình sầu khổ, mình sợ hãi thì nó căng thẳng, nhìn vô kiếng thì thấy
ghê lắm, giống trái bom sắp nổ, nhưng mà nếu mình thở vào một cái, ý
thức được cơ thể, thở ra một cái, mỉm cười buông thư thì mặt mình dễ
ngó hơn nhiều. Và nụ cười khi thở ra nó mầu nhiệm vô cùng, đang căng
thẳng như vậy mà hễ mỉm cười một cái thì tất cả ba trăm bắp thịt
trên mặt thư giãn liền, mặt mình đẹp hơn trước rất nhiều, nhìn vào
kiếng thì thấy. Và mình có những bắp thịt, những cơ bắp ở trên vai,
lo lắng sầu khổ, tính toán nó co rút lại, nó cứng ngắc. Cho nên
trong tư thế ngồi hay trong tư thế nằm mình thực tập buông thư, cái
đó gọi là an tịnh thân hành. Trong kinh gọi là an tịnh thân hành
hoặc là thân hành tức.
Rồi tới
những sầu khổ, những lo lắng, những buồn bực, những giận hờn trong
người gọi là tâm hành. Hơi thở thứ bảy, bài tập thứ bảy trong
kinh: thở vào tôi nhận diện được cái cảm thọ đang có mặt trong tôi,
thở ra tôi nhận diện cái cảm thọ đang có mặt trong tôi. Và cảm thọ
này là cảm thọ đau đớn, sầu khổ, lo lắng, giận hờn, cảm thọ tiêu
cực. Rồi hơi thở thứ tám, thở vào tôi làm lắng dịu những cảm thọ
trong tôi, tôi làm lắng dịu những cái nỗi khổ niềm đau trong tôi,
cái đó gọi là tâm hành tức hoặc là an tịnh tâm hành.
Cái trên là thân hành tức hay là an tịnh thân hành,
cái dưới là tâm hành tức hay là an tịnh tâm hành, mình
phải nắm cho được.
Trong khóa
tu chúng ta sẽ thiền ngồi và trong khi mình thiền ngồi thì mình phải
làm việc đó cho được, mình ngồi như thế nào cho thật thoải mái và có
an có lạc. Ngồi thiền không phải là một lao tác mệt nhọc, một sự đày
đọa hình hài của mình. Nếu mình cảm thấy đau khổ trong khi ngồi
thiền, thì tại sao mình phải ngồi thiền. Ngồi thiền làm chi để cho
đau khổ thêm, đời có nhiều đau khổ rồi, tại sao phải đau khổ thêm
nữa. Và vì vậy cho nên phải học ngồi như thế nào mà trong thời gian
ngồi mình có sự buông thư, sự nhẹ nhàng và an lạc. Đức Thế Tôn mỗi
khi ngồi có an lạc, có tươi mát, có nhẹ nhàng giống như là ngồi trên
một đóa sen. Đóa sen đó không có nghĩa là Đức Thế Tôn ngồi trên đóa
sen thiệt, mà tại vì ngồi chỗ nào cũng thấy tươi mát, cũng thấy nhẹ
nhàng cho nên gọi là ngồi trên tòa sen. Còn mình, thì mình ngồi trên
đống lửa, ngồi chưa yên đã nhỏm dậy, không có an, không có lạc,
không có an tọa, không có lạc tọa. Vì vậy cho nên phải học ngồi, học
ngồi năm phút, rồi mười phút, rồi mười lăm phút, rồi hai mươi phút.
Và khi mình giỏi rồi mình có thể ngồi một giờ, một giờ rưỡi cũng có
thể có an, cũng có thể lạc. Nhưng đừng có ráng, ráng mà phải gồng
mình rồi phải khổ đau trong ngồi thiền, thì thà rằng không ngồi
thiền còn hơn.
Một ngày
tu mà không có an, không có lạc, không hưởng được cái tình huynh đệ
là một ngày bỏ đi. Chúng ta không chấp nhận như vậy, một ngày tu
phải có an, phải có lạc, phải được nuôi dưỡng bởi tình huynh đệ,
chuyện này có thể làm được. Vậy thì trong khi ngồi, chúng ta ngồi
như thế nào để có an, có lạc và có tình huynh đệ. Trong khi đi chúng
ta đi như thế nào mà mỗi bước có an có lạc, có tình huynh đệ, có
thảnh thơi, có giải thoát, chuyện này là chuyện có thể làm được. Và
nhất định trong khóa tu chúng ta phải làm cho được. Mình ngồi bán
già hay kiết già, toàn già hay mình ngồi trên ghế cũng được, miễn là
ngồi cho thoải mái, cái lưng cho thẳng nhưng mà không có cứng ngắc,
không có gồng. Buông thư hết tất cả mọi cơ bắp, nếu muốn buông thư
ba trăm cái cơ bắp trên mặt thì chỉ cần mỉm cười một cái là nó buông
thư liền, rồi hai tay buông thư hết, rất thẳng nhưng mà rất buông
thư. Đầu với cột sống cùng trên một đường thẳng, không cúi xuống,
không ngả ra, thành một đường thẳng. Và khi ngồi xuống rồi thì không
cần đợi những người khác, lập tức để ý tới hơi thở, thở vào đây là
hơi thở vào, thở ra đây là hơi thở ra. Thở vào khỏe quá, thở ra nhẹ
quá, thở vào, hơi thở vào bây giờ đã sâu, thở ra, hơi thở ra bây giờ
đã chậm. Thở vào tôi theo dõi hơi thở vào từ đầu cho đến chót, thở
ra tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến chót. Thực tập như vậy thì
chỉ nội trong năm phút là phẩm chất của hơi thở, chất lượng của hơi
thở đã cao hơn rồi. Ban đầu chưa thực tập thì mình thở hổn hển,
nhưng ngồi cho thoải mái thì chỉ nội trong vài phút sau với tư thế
ngồi vững chãi và với sự buông thư của các cơ bắp, với sự thư giãn
đó thì hơi thở của mình từ từ sâu hơn, từ từ chậm lại, nó có phẩm
chất cao hơn và mình bắt đầu hưởng được pháp lạc, tức là niềm vui
của sự thực tập. Cái này không khó, hễ mình muốn là mình làm được.
Cũng như những người muốn học đánh tennis, mới bắt đầu đánh trái
banh nó đi tầm bậy tầm bạ, đôi khi mình đánh về hướng đó nhưng mà nó
chạy sang bên này. Nhưng thử độ chừng nửa giờ thì trái banh nó đã đi
đúng hướng rồi. Hơi thở cũng vậy, ban đầu mình có cảm tưởng là mình
không làm được. Nhưng mà cứ thử làm, vừa làm vừa chơi thì nội trong
mười lăm phút sau, nửa giờ sau mình làm được. Hơi thở bắt đầu có
phẩm chất của an và của lạc. Nó đem lại chất liệu của an và lạc
trong thân rồi vào trong tâm. Và mình không phí thì giờ trong khi
mình ngồi. Tại vì mình ngồi như vậy tức là nuôi dưỡng cái thân mình
rất nhiều. Nếu ngồi chưa quen mỏi chân, thì đừng có chịu trận, mình
có thể tháo chân ra, mình vẫn thở và bóp hai chân nhè nhẹ. Miễn là
đừng làm rộn ông thầy ngồi bên phải hay phía trước mặt mình thôi và
mình mỉm cười, mình xoa bóp cho đều hoặc mình đổi chân, chân này lên
trên chân kia xuống dưới, tại sao mà phải chịu trận, tại sao phải
đau nhức, đó là thiền ngồi. Khoan quán tưởng cái gì hết, việc đầu
tiên là phải buông thư, phải lấy đi sự căng thẳng trong thân, phải
làm cho thân hành nó lắng dịu xuống, đó gọi là thân hành tức, an
tịnh thân hành. Và tâm phải ở với thân mới làm được chuyện đó, cái
tâm không được làm chuyện khác, cái tâm phải lo bám lấy hơi thở. Hơi
thở có tâm đi theo gọi là hơi thở có ý thức. Thường ngày mình thở mà
mình không biết là mình thở, đó là hơi thở không có ý thức, trong
khi mình thực tập hơi thở là hơi thở có ý thức. Khi mình thở vào
mình biết là mình đang thở vào, khi thở ra mình biết là mình đang
thở ra. Gọi là hơi thở có ý thức. Danh từ ngày xưa gọi là an ban
thủ ý hoặc là nhập tức xuất tức niệm. Nhập tức xuất tức
niệm tức là niệm hơi thở vào niệm hơi thở ra. Mà niệm ở đây nó có
nghĩa là để ý tới, niệm Bụt là để ý tới Bụt, niệm hơi thở là để ý
tới hơi thở, niệm thân là để ý tới thân, niệm giới là để ý tới giới,
niệm Pháp là để ý tới Pháp. Chữ niệm có nghĩa là để ý tới,
đem cái tâm trở về với cái đó gọi là niệm. Vậy thì an ban thủ ý
có nghĩa là nhập tức xuất tức niệm. Tức có nghĩa là để ý tới
hơi thở vào hơi thở ra hoặc là niệm hơi thở hoặc là quán niệm hơi
thở. Và nói theo kiểu mới là thực tập hơi thở có ý thức, còn nếu
không tu thì hơi thở đó không có ý thức. Hơi thở có ý thức có thể
làm thư giãn những căng thẳng trong cơ thể, có thể làm lắng dịu cơ
thể.
Khi đi,
mình cũng đem cái tâm mình trở về với cơ thể và mỗi bước đi là mỗi
bước đi có ý thức, niệm bước chân, thiền đi tức là niệm bước chân,
tức là bước bước nào mình ý thức bước đó, mình ý thức được sự xúc
chạm giữa chân mình với mặt đất. Mình không để cho bước chân nào lọt
ra khỏi vùng ý thức hết. Bước chân nào cũng là bước chân ý thức,
cũng như hơi thở nào cũng là hơi thở có ý thức. Giống như mình đi
coi hát, trên sân khấu có một cô ca sĩ và người ta tắt đèn hết,
người ta chỉ chiếu đèn sáng vào cô ca sĩ đó thôi, xung quanh thì tối
đen để cô ca sĩ đó nổi bật lên. Ở đây cũng vậy, khi mình tập thở vào
thở ra thì mình tắt hết tất cả đèn ý thức những chỗ khác, mình chỉ
phóng chiếu ý thức của mình vào hơi thở vào và hơi thở ra mà thôi,
cái đó gọi là định, gọi là tập trung ánh sáng của cây đèn vào cô ca
sĩ. Tâm của mình tập trung vào hơi thở vào, tập trung vào hơi thở
ra, đó là niệm hơi thở. Còn khi đi mình niệm bước chân, bước một
bước mình để tâm vào bước đó, bước bước thứ hai mình để hết tâm vào
bước đó. Và không có bước chân nào lọt ra khỏi vùng ánh sáng của ý
thức hết, cái đó gọi là thiền đi. Cái kia gọi là thiền thở, cái này
gọi là thiền đi. Cố nhiên khi mình nói chuyện thì mình đâu làm được
chuyện đó. Vì vậy cho nên trong một trung tâm tu học, khi đi thì
không nói chuyện, khi đi thì phải phối hợp bước chân với hơi thở và
đem tâm về soi sáng cho bước chân và cho hơi thở. Bước một bước mình
thở vào một hơi, bước một bước mình thở ra một hơi. Mình phối hợp
hơi thở vào với một bước, phối hợp hơi thở ra với một bước, đó là đi
thiền, đi thiền chậm. Thở vào, thở ra, đem một trăm phần trăm cái
tâm của mình đầu tư vào bước chân đó. Đức Thế Tôn đi như vậy đó, mỗi
bước chân đều là bước chân có ý thức. Và cố nhiên trong khi bước như
vậy thì mình không suy nghĩ tới quá khứ, không suy nghĩ tới tương
lai, mình không suy nghĩ tới những dự án mà mình phải thực hiện như
vấn đề xây chùa, in kinh, đúc tượng, mình chỉ để ý tới hơi thở hoặc
là bước chân thôi, cái đó gọi là định. Định tức là chỉ để ý tới một
cái mà thôi. Và khi mình để hết tâm ý vào bước chân đang xảy ra
trong giây phút hiện tại thì mình có tự do, mình có thảnh thơi tại
vì mình không bị quá khứ ám ảnh, không bị tương lai làm cho mình lo
lắng sợ hãi. Mình hoàn toàn an trú trong giây phút hiện tại.
Bước một
bước thở vào, bước một bước thở ra, đó là đi thiền chậm. Làng Mai có
những bài kệ rất ngắn để mình sử dụng và thực tập. Bước một bước
mình nói đã về, bước một bước thứ hai, thở ra gọi là đã tới, đã về
đã tới. Tức là không cần phải chạy nữa, lâu nay mình chạy như bị ma
đuổi, bây giờ mình ngưng lại, mình chỉ, mình tức, chỉ cũng là ngưng
lại, tức cũng là ngưng lại. Chỉ và tức cũng có nghĩa là làm lắng dịu
trở lại, mình đi như vậy rất là thư thái, rất là thong dong, đi như
một con người tự do, không lo lắng. Và đức Thế Tôn đi như vậy đó.
Trong lưu vực sông Hằng ngài đã đi những bước chân như vậy và đi với
một đoàn đệ tử khá đông một ngàn hai trăm năm chục thầy. Và trong
khi đi toát ra cái năng lượng của sự vững chãi, của sự thảnh thơi,
thảnh thơi tức là không có bận rộn, không bị hệ lụy không bị bó buộc
vào một đam mê, một hờn giận, một dự án nào hết. Tại vì hoàn toàn
sống trong giây phút hiện tại.
Trong khóa
tu anh em, chị em mình sẽ đi như vậy. Mỗi bước chân nằm trong vùng
ánh sáng của ý thức, phải tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự
sống trong giây phút hiện tại. Mình đi để tiếp xúc với sự sống mầu
nhiệm trong giây phút hiện tại, mình không đi như những người mộng
du. Những người mộng du họ đi họ không biết họ đang đi đâu giữa ban
ngày. Chúng ta nhìn cho kỹ xung quanh thì thấy phần lớn người ta
đang đi như vậy, đang mộng du hết. Đi mà không biết mình đang đi
đâu. Đôi khi đang đi tới những đoạn trường mà không biết mình đang
đi tới chỗ đoạn trường. Thiền đi là mỗi bước chân phải có an, phải
có lạc, phải có sự buông thư. Hai tính chất của một bước đi như vậy
là vững chãi và thảnh thơi. Bước một bước thật vững chãi nghĩa là
không bị quá khứ lôi, không bị tương lai kéo, độc lập đối với quá
khứ, độc lập đối với tương lai. Một bước chân như vậy là một bước
chân có giá trị của sự vững chãi. Tính chất thứ hai của bước chân
là thảnh thơi, đi như vậy nó làm cho mình trở thành một con người tự
do, mình không đi như bị ma đuổi. Chính mình bước một bước như vậy.
Và bước chân đó đưa mình trở về với hiện tại nhiệm mầu: có trời
xanh, có mây trắng, có tăng thân, có thầy, có bạn, có tình huynh đệ.
Cho nên mình đi như một con người tự do. Vững chãi và thảnh thơi là
hai đặc tính của Niết Bàn. Khi mình đi thiền như vậy, mình đã bắt
đầu tiếp xúc được với Niết Bàn rồi, nếu quả thật mình có một chút ít
vững chãi và một chút ít thảnh thơi huống hồ là mình có nhiều vững
chãi có nhiều thảnh thơi. Mình có thể tiếp xúc Niết Bàn bằng hai
chân của mình. Lời của đức Thế Tôn đã nói: “ ta có thể tiếp xúc Niết
Bàn với cái hình hài của chính ta ”. Đó là đi thiền chậm, một bước
đã về, đã tới, bây giờ, ở đây, vững chãi, thảnh thơi, quay về, nương
tựa.
Nay tôi đã
về,
Nay tôi đã tới,
An trú bây giờ,
An trú thảnh thơi,
An trú như núi xanh,
Thảnh thơi dường mây trắng,
Cửa vô sinh mở rồi,
Trạm nhiên và bất động.
Đó là bài
kệ mình đã đặt nhạc và một số các thầy các sư cô ở đây đã thuộc bài
đó rồi. Các thiền sinh Âu châu và Mỹ châu thì họ hát bằng tiếng Anh
hay bằng tiếng Đức. Sang bên Trung Quốc thì mình làm bằng tiếng Hoa.
Mình đã có bài tiếng Việt và nếu quý vị chưa thuộc thì chỉ cần: đã
về ,đã tới, bây giờ, ở đây là được rồi. Bây giờ, ở đây here and
now là địa chỉ của sự sống. Tất cả những mầu nhiệm của sự sống
nó chỉ có mặt ở trong giây phút hiện tại và nó có ở đây. Nếu mình có
mặt ở đây thì mình tiếp xúc được những mầu nhiệm đó của sự sống.
Đã về đã
tới, nó có nghĩa là con không có ruổi rong, con không có chạy như bị
ma đuổi nữa. Con đã chạy như bị ma đuổi suốt đời rồi, bây giờ con
quyết tâm dừng lại. Và mỗi bước như vậy đưa mình trở về với giây
phút hiện tại, đưa mình về với cái bây giờ và ở đây. Tại vì chỉ bây
giờ và ở đây mới có sự sống mà thôi. Còn phần lớn chúng ta đều sống
bằng tương lai, chỉ nghĩ tới tương lai hoặc chỉ mơ về quá khứ. Trong
khi đó đức Thế Tôn dạy là phải hiện pháp lạc trú. Hiện pháp
lạc trú tức là sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, hiện
pháp có nghĩa là những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại, lạc
trú tức là sống hạnh phúc, sống hạnh phúc với những cái đang xảy ra
trong giây phút hiện tại. Trong giây phút hiện tại có trời xanh, có
mây trắng, có suối reo, có chim hót, có đồi thông, có đồi chè, có
huynh, có đệ, có thầy. Thì mình sống với những cái đó, mình không bị
chìm đắm trong quá khứ, mình không bị chìm đắm trong tương lai, thì
đó gọi là hiện pháp lạc trú. Sống hạnh phúc ngay trong hiện tại và
tiếp xúc với những gì đang xảy ra ngay trong giây phút hiện tại. Khi
ngồi thiền mình cũng hiện pháp lạc trú mà khi đi thiền mình cũng
tiếp xúc và mình cũng thực tập hiện pháp lạc trú. Nhưng ngoài cách
đi chậm còn có cách đi nhanh và cách đi bình thường. Đi chậm là thở
vào một hơi mình bước một bước, mình nói mình đã về, thở ra mình
bước một bước, nói mình đã tới, đã về đã tới. Và mình đi như vậy cho
đến khi nào mình về thiệt, mình có cảm tưởng là mình đã về thiệt,
mình đã tới thiệt. Ban đầu mình mới tuyên bố thôi, con đã về nhưng
kỳ thực mình còn rong ruổi chút đỉnh, con đã tới nhưng kỳ thực mình
còn rong ruổi chút đỉnh. Nhưng mà mình đem hết tất cả con người của
mình tập trung bước một bước. Đem hết tất cả tâm ý để dừng lại trong
bước chân đó.
Nếu chúng
ta đi một mình thì chúng ta có thể thực tập như thế này: thở vào một
hơi, bước một bước và nói mình đã về. Tức là mình đã về với giây
phút hiện tại bây giờ và ở đây. Tâm của mình không muốn chạy về quá
khứ tương lai hay nơi khác. Khi bàn chân mình tiếp xúc với mặt đất,
mình để ý nếu quả thật mình hoàn toàn thiết lập thân tâm mình ở ngay
trong giây phút hiện tại, mình thấy an lạc, thấy hạnh phúc ở đây,
thì lúc đó mình đã về thiệt, đã tới thiệt. Nếu mình thấy mình chưa
về thiệt hay là mới về được có hai chục phần trăm hay ba chục phần
trăm thì đừng có bước đi bước nữa, đừng có bước bước thứ hai, cứ dẫm
chân như vậy mà thở ra rồi thở vào cho đến khi nào mình đã thật sự
đã về rồi thì mình mới bước chân thứ hai, đã tới. Mình đã về hay
chưa thì mình biết, mình đã tới hay chưa mình phải biết. Vì trong
con người mình có một năng lượng, có cái tập quán xô đẩy mình đi về
tương lai. Mà năng lượng đó, tập quán đó, thói quen đó rất mạnh,
mình không muốn chạy mà nó cứ xô mình chạy, chạy về phía trước, chạy
về tương lai. Cái tập khí đó, năng lượng đó có thể do ông bà cha mẹ
truyền lại cho mình và tu là phải nhận diện cái tập khí đó, cái thói
quen đó, cái sức mạnh vô hình nó đẩy mình đi tới không cho mình an
trú trong hiện tại. Năng lượng nhận diện đó là hơi thở có ý thức,
hoặc là niệm, niệm hơi thở. Mình nhận diện nó, mình nói mày không
đẩy tao đi được nữa, bây giờ tao quyết tu, tao quyết dừng lại rồi,
mình mỉm cười với năng lượng đó. Khi nhận diện được năng lượng đó
thì nó không đủ sức để đẩy mình đi nữa. Chỉ cần nhận diện nó thôi.
“ Ta biết ngươi là ai rồi, ngươi là cái năng lượng, cái tập khí muốn
chạy về phía trước, muốn theo đuổi, muốn lăn về phía trước, muốn tìm
cầu, ta nhận ra được mặt ngươi rồi, ngươi không thể nào kéo ta đi
được nữa đâu ”. Cái đó là tiếng nói của hơi thở chánh niệm. Và nó
không làm gì mình được cho nên mình mới về được, cho nên mình mới
tới được, đã về đã tới. Đi thiền chậm một mình rất hay, tại vì mình
tự do mình muốn bao nhiêu giây cũng được, mình bước một bước mình
nói mình đã về rồi. Nhưng trong tâm mình thấy rằng mình chưa thật sự
về thì mình nhất định cứ đặt chân ở chỗ đó, ngay chỗ đó rồi cứ thở
ra, thở vào, nói đã về, đã về, đã về cho đến khi về rồi, mình mới
gật đầu, bước một bước khác, đã tới. Phải quyết tâm mới được. Và chỉ
cần thực tập hai chữ đó đã về đã tới cho đến khi bước chân mình vững
lại và có thảnh thơi. Về đâu tới đâu, về chỗ địa chỉ: bây giờ và ở
đây. Cho nên bài tập thứ hai là bây giờ ở đây. Bài tập thứ nhất là
đã về đã tới, bài tập thứ hai là bây giờ ở đây. Bây giờ ở đây là địa
chỉ của tịnh độ, địa chỉ của sự sống. Tại vì quá khứ đã trôi qua mà
tương lai thì chưa tới, sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại.
Đó là lời của đức Thế Tôn nói:
Đừng tìm
về quá khứ,
Đừng nghĩ tới tương lai,
Quá khứ đã không còn,
Tương lai thì chưa tới,
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại,
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi.
Đó là
những câu kinh trong Trung A Hàm, rất rõ ràng, rất đơn giản và dễ
hiểu.
Khi đi một
mình, đi chậm như vậy để rèn luyện cho mình cái khả năng có thể về,
có thể tới trong giây phút hiện tại, đã về đã tới, bây giờ ở đây.
Bây giờ ở đây là địa chỉ của sự sống, địa chỉ của những mầu nhiệm,
địa chỉ của tịnh độ, của Niết Bàn, của Phật tánh, của hạnh phúc, của
an lạc. Bỏ cái bây giờ và ở đây thì không còn hy vọng nữa.
Khi mình
muốn đi nhanh hơn thì một hơi thở vào có thể đi theo với hai bước
chân, mình thở vào thì mình bước hai bước, mình nói đã về, đã về.
Rồi mình thở ra, đã tới, đã tới. Và có thể đi mau hơn nữa, thở vào
một hơi nói đã về, đã về, đã về; thở ra đã tới, đã tới, đã tới. Và
khi mà đại chúng đi thiền hành chung ba trăm người, năm trăm người,
một ngàn người, hai ngàn người thường thường nên đi hai bước hoặc ba
bước, hai bước thôi cũng được, đã về đã về này, đã tới đã tới này,
bây giờ bây giờ, ở đây ở đây, vững chãi vững chãi, thảnh thơi thảnh
thơi, quay về quay về, nương tựa nương tựa. Quay về nương tựa nơi
cái tịnh độ hiện tiền, nơi cái địa chỉ đã về và đã tới.
Bây giờ
chúng ta hãy hát với nhau bài đó để những người chưa thuộc có thể
thuộc được.
Đã về, đã
tới,
Bây giờ, ở đây,
Vững chãi, thảnh thơi
Quay về, nương tựa,
Nay tôi đã về,
Nay tôi đã tới,
An trú bây giờ,
An trú ở đây,
Vững chãi
như núi xanh,
Thảnh thơi dường mây trắng,
Cửa vô sinh mở rồi,
Trạm nhiên và bất động.
Như vậy là
ai cũng thuộc hết rồi, trong khi đi mình có thể thực tập theo bài kệ
đó: đã về đã tới, một hồi mình chuyển sang bây giờ ở đây, rồi vững
chãi thảnh thơi, quay về nương tựa, nay tôi đã về nay tôi đã tới, an
trú bây giờ an trú ở đây, vững chãi như núi xanh, thảnh thơi dường
mây trắng, cửa vô sinh mở rồi, trạm nhiên và bất động.
Mỗi bước
chân phải đem mình về với giây phút hiện tại, mỗi bước chân phải có
phẩm chất của sự vững chãi của sự thảnh thơi. Vững chãi có nghĩa là
không bị quá khứ và tương lai nó lôi mình đi, thảnh thơi có nghĩa là
mình được tự do, an trú và tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống
trong giây phút hiện tại. Cho nên khi đi mình đâu có nói chuyện
được. Nói chuyện thì đâu có vững chãi thảnh thơi được, nói chuyện
thì tâm ý của mình nó đi theo ý tưởng, đi theo lời nói. Cho nên khi
đi là không nói mà khi nói thì không đi. Nếu cần nói một câu gì đó
thì dừng lại hoàn toàn, nói xong câu đó trong chánh niệm rồi tiếp
tục đi. Điều này không phải chỉ xảy ra trong khi đi thiền hành mà
trong suốt ngày. Mình từ nhà bếp đi ra phòng rửa mặt, dầu đi có ba
bốn thước mình cũng sử dụng phép đi thiền. Mình từ Phật đường xuống
tăng xá, mình cũng sử dụng phép đi thiền. Hễ cần di chuyển là mình
áp dụng cái phương pháp thiền đi, nghĩa là phối hợp hơi thở với bước
chân và bước chân nào cũng phải về, cũng phải tới. Nếu làm được
trong năm ngày như vậy thì nó trở thành một thói quen. Trong chương
trình tôi thấy hình như mình sẽ giữ im lặng hùng tráng, từ
sau buổi cơm chiều cho đến sau buổi ăn sáng, thì hay đó nhưng mà hơi
ít. Nếu mình nói chuyện thì mình đâu có thì giờ để thực tập. Hay là
năm nào mình mở một khóa chỉ để nói chuyện thôi, còn khóa này mình
tu cho đàng hoàng. Vì vậy cho nên thiền đi là vậy, không có nói
trong khi đi. Nếu bất đắc dĩ phải nói một cái gì thì ngừng lại để
nói. Không những điều này áp dụng khi mình thực tập thiền đi chung
mà mình áp dụng cho cá nhân mình trong suốt ngày. Hễ cất bước đi là
không nói, hễ nói là không có cất bước đi, là đứng lại. Sự thực tập
là đừng để cho bước chân nào lọt ra khỏi cái vùng ý thức. Vùng ý
thức tức là niệm. Vùng không ý thức gọi là thất niệm. Đừng để cho
bước chân nào lọt ra vùng thất niệm, bước chân nào cũng được đặt
trong ánh sáng của niệm gọi là thiền đi. Và phải thực tập một trăm
phần trăm và nếu mình thực tập khơi khơi thì không thành công được.
Phải hạ thủ công phu, phải cương quyết thành công mới được. Cho nên
thì giờ chúng ta có với nhau năm ngày rất là quý, mình đừng để phí
vào những cái câu chuyện không có bổ ích. Nếu có thể được, mình giữ
im lặng hùng tráng cho tới sau buổi cơm trưa thì càng hay nữa. Cái
đó tùy theo đại chúng, cố nhiên huynh đệ xa nhau lâu ngày gặp nhau
thế nào cũng muốn hàn huyên, cho nên tôi mới đề nghị thôi để mai này
mình có một khóa chỉ để hàn huyên thôi, khóa này mình phải tu cho
đàng hoàng. Khi ăn cơm thì mình cũng phải có hạnh phúc, trong khi ăn
cơm mình chỉ để ý tới hai cái: - Thức ăn, tặng phẩm của đất trời. Để
nuôi dưỡng mình, ăn với lòng biết ơn.- Và tăng thân tức là huynh đệ
xung quanh, được ngồi với nhau như những người huynh đệ, được ăn cơm
với nhau trong chánh niệm, được nuôi dưỡng tình huynh đệ trong khi
ăn đó là một cái hạnh phúc rất là lớn. Ngày xưa đức Thế Tôn thường
ngồi ăn cơm với các thầy. Trong khi ăn cơm không có nói chuyện. Và
chỉ khi nào ăn xong mới đứng dậy, chứ không có nửa chừng đứng dậy.
Thì gọi là nhất tọa thực. Dầu mình ăn qua đường cũng vậy, ăn cơm
trong vòng tròn, trong gia đình xuất gia thì cũng ăn cơm như vậy. Ăn
cơm như thế nào cho thảnh thơi, cho vững chãi, ngồi như là ngồi
thiền. Ăn cơm là một loại thiền tập và mỗi miếng cơm mình nhai, mình
để ý tới thức ăn trong đó. Và đừng nhai những tư tưởng của mình,
những suy tư của mình, những lo lắng, những sầu khổ của mình, nhai
những thứ đó không có lợi cho sức khỏe. Nhất định không nhai những
dự án, những cái buồn khổ, những lo lắng mà chỉ nhai thức ăn thôi.
Và thỉnh thoảng dừng lại mỉm cười nhìn huynh đệ. Ăn một bữa cơm có
thể là tốn hai mươi phút hoặc ba mươi phút. Trong hai mươi hoặc ba
mươi phút đó phải có hạnh phúc, phải có an lạc, phải được nuôi dưỡng
bằng tình huynh đệ. Đức Thế Tôn dạy chúng ta khi ăn nên thiết lập
thân tâm vững chãi trong giây phút hiện tại, chỉ để ý tới thức ăn,
chỉ để ý tới tăng thân mà không để tâm ý suy nghĩ vẩn vơ tới chuyện
quá khứ, tương lai, bên này, bên kia. Ăn cơm như thế nào để có thảnh
thơi an lạc và tình huynh đệ trong khi ăn. Đại chúng nghe tiếng
chuông xin nhất tâm thực tập năm quán, đó là lời quán nguyện trước
mỗi bữa ăn. Vì vậy cho nên ăn cơm cũng là thực tập và nếu trong thời
gian ăn cơm mà không có an lạc, không có hạnh phúc, không có thảnh
thơi, không có tình huynh đệ thì buổi thực tập đó, buổi ăn cơm đó
thất bại. Mỗi khi chúng ta nghe chuông, nhiều là chuông đại hồng
hay là chuông gia trì hay là chuông báo chúng, đó là dấu hiệu đức
Thế Tôn nói: “ Con đừng suy nghĩ vẩn vơ, con đừng nghĩ tới chuyện
quá khứ, tương lai, đừng bị trôi lăn, lôi cuốn theo những dự án,
những mong cầu, con trở về giây phút hiện tại đi.” Nghe tiếng
chuông tất cả mọi người, hàng ngàn người như một đều trở về với hơi
thở và thực tập bài kệ:
Lắng lòng
nghe,
Lắng lòng nghe,
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.
Thực tập
như vậy ít nhất ba lần rồi, đang làm cái gì đó thì tiếp tục làm. Khi
nghe tiếng chuông thì phải ngưng nói năng, dầu mình đang thuyết pháp
mình cũng ngưng, dầu mình đang pháp đàm mình cũng phải ngưng. Quan
trọng hơn nữa là ngưng tư duy, không suy nghĩ nữa và đem tâm trở về
với hơi thở, thở vào thấy khỏe, thở ra thấy nhẹ. Cái đó gọi là chỉ,
cái đó gọi là buông thư. Im lặng hùng tráng là để có cơ hội
thực tập hơi thở và bước chân, chứ không phải là một cái im lặng
ngột ngạt, khó thở. Cái im lặng này cho mình rất nhiều tự do gọi là
im lặng hùng tráng. Khi có nhiều tiếng nói, nhiều tiếng động thì
mình thực tập hơi thở bước chân rất khó. Những tiếng động, lời nói
năng và nhất là những suy tư là những gai châm vào sự thực tập, đó
là trong kinh nói như vậy. Vì vậy cho nên đừng để những cái gai đó
nó xảy ra. Tầm và từ là sự suy nghĩ. Khi mình không nói, khi mình im
lặng nhưng mà thật sự chưa có sự im lặng, tại vì trong này cái tâm
đang nói, cái đó gọi là tầm và từ. Suy nghĩ hết chuyện này tới
chuyện khác, giống như có một cái băng cassette nó cứ quay quay
trong này. Và phải ngưng cái đó, mà muốn ngưng cái đó thì sử dụng
phương pháp nắm lấy hơi thở là hay hơn hết. Thành ra tối nay mình đã
được hướng dẫn như thế nào, nghe tiếng chuông ngưng hết mọi suy tư,
ngưng hết mọi nói năng trở về với hơi thở thực tập bài Lắng lòng
nghe, lắng lòng nghe, tiếng chuông huyền diệu đưa về giây phút hiện
tại, đưa về quê hương, đưa về sự sống ba lần, thì lúc đó mới tiếp
tục nói pháp hay là mới tiếp tục pháp đàm hay tiếp tục đi hay mới
tiếp tục rửa chén. Đó là cái thứ nhất,
Cái thứ
hai là thực tập im lặng hùng tráng để có thì giờ có cơ hội thực tập
theo dõi hơi thở theo dõi bước chân. Thứ ba là khi ngồi, ngồi thế
nào để có vững chãi có thảnh thơi, có an lạc có hạnh phúc, đừng có
đày đọa tấm thân trong khi ngồi.
Trong khi
đi, đi như thế nào để có vững chãi thảnh thơi. Mỗi bước chân đưa
mình về cái giây phút hiện tại để tiếp xúc với những mầu nhiệm của
giây phút hiện tại. Và khi chúng ta người nào cũng làm như vậy thì
chúng ta chế tác được năng lượng chánh niệm tập thể rất là hùng hậu.
Cái năng lượng tập thể hùng hậu đó sẽ thấm vào từng người. Thành ra
tu chung có cái lợi như vậy. Nếu ba người tu chánh niệm thì ba người
đó chế tác ra một năng lượng chánh niệm tập thể của ba người, nó
cũng mạnh hơn một người. Mà ba trăm người, năng lượng tập thể của
chánh niệm được chế tác ra lớn bằng trăm lần. Và ba ngàn người thì
năng lượng tập thể đó lớn ngàn lần. Khi nó lớn như vậy thì nó nâng
đỡ mình, nó đi vào trong từng cá nhân. Vì vậy cho nên khi mà tăng
thân tập hợp lại để tu thì mình được hưởng cái năng lượng tập thể
của chánh niệm. Và năng lượng đó có thể yểm trợ, có thể ôm ấp, có
thể chữa trị được những vết thương, những bệnh tật của mình ở trong
thân cũng như trong tâm. Thì chúng ta tu như một đoàn thể mà không
phải là những cá nhân riêng lẻ. Tối nay, mình chỉ nghe những lời chỉ
dẫn tổng quát như vậy thôi, rồi mỗi ngày mình sẽ thực tập và sẽ bổ
túc những gì mà chưa được đầy đủ lắm.
Xin chúc
đại chúng tối hôm nay ngủ ngon, bốn giờ sáng chúng ta sẽ thức dậy và
chúng ta bắt đầu một ngày tu với nhau trong hạnh phúc, trong an lạc.
|