Hơi thở chánh niệm
trong đời sống
Thở vào
tôi biết rằng đây là hơi thở vào, thở ra tôi biết rằng đây là hơi
thở ra,
vào,
ra (chuông).
Thở vào
tôi thấy hơi thở vào của tôi đã sâu hơn một chút, thở ra tôi thấy
hơi thở ra của tôi đã chậm hơn một chút. Sâu hơn, chậm hơn
(chuông).
Thở vào
tôi cảm thấy thích thú khi thở vào, thở ra tôi cảm thấy thích thú
khi thở ra. Thích thú thở vào, thích thú thở ra (chuông).
Thở vào
tôi thấy khỏe, thở ra tôi thấy nhẹ. Khỏe, nhẹ (chuông).
Thở vào
tôi trở về làm quen với hình hài tôi, tôi ý thức về cái toàn thân
tôi, thở ra tôi buông thư toàn thân cho nhẹ nhàn, an tịnh toàn thân,
lắng dịu toàn thân. Thở vào ý thức toàn thân, thở ra làm lắng dịu
toàn thân (chuông).
Kính thưa
đại chúng hôm nay là ngày sáu tháng ba dương lịch năm hai ngàn không
trăm lẻ bảy. Chúng ta đang ở tại tu viện Bát Nhã Lâm Đồng và đang ở
trong khóa tu dành riêng cho những người xuất gia. Hôm qua chúng ta
nói đến kinh Quán Niệm Hơi Thở, một thiền phổ rất quan trọng. Tôi
phải nói rằng ngày tôi khám phá được kinh Quán Niệm Hơi Thở, tôi có
cảm giác như là mình là người hạnh phúc nhất trên đời.
Bốn bài
tập
Bài tập
đầu tiên của kinh Quán Niệm Hơi Thở là nhận diện hơi thở, nhận diện
hơi thở vào là hơi thở vào, nhận diện hơi thở ra là hơi thở ra. Nên
hơi thở đầu là vào ra tức là nhận diện hơi thở.
Bài tập
thứ hai của kinh Quán Niệm Hơi Thở là theo dõi hơi thở. Trong kinh
nói rằng thở vào một hơi dài thì tôi biết rằng đó là một hơi thở
dài, thở ra một hơi dài tôi biết rằng tôi đang thở ra một hơi dài.
Thở vào một hơi thở ngắn tôi biết rằng đây là một hơi thở ngắn. Thở
ra một hơi thở ngắn tôi biết rằng đây là một hơi thở ngắn. Cái nghĩa
chính của kinh là mình theo dõi hơi thở từ đầu tới cuối. Hơi thở
ngắn cũng được, hơi thở dài cũng được, miễn là mình phải theo dõi nó
từ đầu cho tới cuối, bám lấy nó đừng có để cho nó lọt ra khỏi ý của
mình, tâm của mình. Đây là theo bản trong Hán Tạng, trong kinh Tạp A
Hàm.
Bản tiếng
Pali thì khác. Theo bản này hơi thở đầu là thở vào một hơi dài tôi
biết là một hơi dài, thở ra một hơi dài tôi biết là tôi đang thở ra
một hơi dài. Bài tập thứ hai thở vào một hơi thở ngắn, tôi biết rằng
đây là một hơi thở vào ngắn, thở ra một hơi ngắn tôi biết rằng đây
là một hơi thở ra ngắn.
Nếu ta so
sánh với bản Hán tạng thì thấy có khuyết điểm trong sự truyền thừa.
Thành ra mình thích, mình thấy bản chữ Hán nó đúng hơn, bản chữ Hán
là xuất nhập rồi đến trường đoản, xuất tức, nhập tức, trường tức,
đoản tức. Ban đầu là nhận diện đây là hơi thở vào đây là hơi thở ra,
đừng có lộn, trong khi thở vào mà mình nói đây là hơi thở ra thì
không đúng. Đây là một trò chơi trẻ con rất là dể, nhận diện hơi thở
rất dể.
Mình bước
một bước nữa là theo dõi hơi thở, trong khi mình thở vào thì mình
hoàn toàn chú ý tới hơi thở vào từ đầu tới cuối, mình bám lấy hơi
thở vào. Cho nên mình buông thả tất cả những cái khác, những đối
tượng khác của tâm ý, lúc đó mình chỉ là hơi thở vào, vũ trụ chỉ là
hơi thở vào của mình. Và trong giây phút đó, trong thời gian mà mình
thở vào đó, mình có thể có pháp lạc. Vì thở vào mà nhẹ nhàng mà sâu
lắng thì nó làm cho lắng dịu cái hơi thở và lắng dịu thân và tâm.
Nên khi mà quý vị thở vào mà thấy nhẹ thấy khỏe thì đó là quý vị
thực tập đúng, có pháp lạc.
Thở ra thì
theo dõi hơi thở ra từ đầu cho tới chót luôn. Tâm của mình hoàn toàn
chú trọng tới hơi thở ra. Lúc đó đã là định rồi, định luôn luôn có ý
nghĩa là định về một cái gì, định tức là chú tâm, mà chú tâm là phải
chú tâm vào một cái gì gọi là định, định nó có đối tượng, niệm cũng
có đối tượng, niệm hơi thở, tức là để ý tới hơi thở, đừng có để ý
tới những cái khác. Như vậy trong niệm nó đã có mầm mống của định
rồi. Ví dụ cái vòng tròn này nó tượng trưng cho niệm, một vùng năng
lượng. Khi mình thở vào thì mình đem cái tâm của mình để ý tới hơi
thở, cái đó là niệm hơi thở, niệm là để ý tới, chú ý tới. Nhưng mà
khi mình chú ý tới một cái đó thôi, đừng có chú ý tới những cái khác
thì tức là định rồi, trong niệm nó có định. Vì vậy cứ tiếp tục niệm
thì định lớn, mà niệm sinh hỷ lạc, định cũng sinh hỷ lạc. Nếu không
có hỷ không có lạc thì cái đó chưa phải là niệm, chưa phải là định.
Xin nhắc
lại niệm tức là chú ý tới và khi mà chú ý tức là chú ý tới một cái
gì, thành ra cái sự chú ý nó có chủ thể và có một đối tượng, đối
tượng đó là hơi thở, khi mình thở có chánh niệm thì đối tượng của
niệm là hơi thở. Và khi mình bước đi có chánh niệm thì đối tượng của
niệm là bước chân, niệm bao giờ cũng là niệm cái gì và định bao giờ
cũng là định vào cái gì. Không có thể có định không mà không có đối
tượng. Cho nên trong khi tôi để ý tới hơi thở thì cái tâm tôi là chủ
thể, hơi thở là đối tượng. Khi tôi thở vào và bám sát lấy hơi thở
vào và không để ý tới cái chuyện gì khác thì tâm tôi định trên hơi
thở và hơi thở trở thành đối tượng của cái định, đối tượng của niệm
cũng là hơi thở, đối tượng của định cũng là hơi thở. Duy trì niệm
thì phát triển định. Cho nên người ta nói niệm định tuệ, niệm định
tuệ tức là ba sự luyện tập gọi là tam học. Vậy ngay cái bài tập đầu
tiên là nhận diện hơi thở, mình là người hành giả bắt đầu có niệm và
có định rồi, niệm nhiều định bắt đầu có.
Đến bài
tập thứ hai theo dõi hơi thở dài ngắn có nghĩa là bám sát lấy hơi
thở vào hơi thở ra từ đầu cho tới cuối, chữ dài ngắn nó có nghĩa như
vậy. Nếu ta muốn dùng chữ tùy tức thì cũng được, tùy tức là theo dõi
hơi thở.
Cái thứ tự
này thì hơi buồn cười, bài tập thứ nhất thở vào một hơi dài, tôi
biết rằng tôi thở vào một hơi dài, thở ra một hơi dài tôi biết rằng
tôi đang thở ra một hơi dài, sau đó tôi thở vào một hơi ngắn tôi
biết rằng tôi đang thở ra một hơi ngắn thì cái thứ tự đó không có
hợp lý. Trong sự truyền thừa, trong sự trùng tụng, trong sự tụng đọc
lại kinh điển có sự thất thoát. Cho nên trình bày hai cái bài tập
đầu là dài dài ngắn ngắn là không có đúng. Ta rất là may mắn có được
bản chữ Hán là vào ra và dài ngắn, vào ra là một bài, dài ngắn là
một bài chứ không phải là hai bài khác nhau. Đây là cái văn bản
Pali, đây là cái văn bản chữ Hán, tôi đã dịch kinh Quán Niệm Hơi Thở
từ tiếng Pali và cũng dịch từ chữ Hán ra. Năm ngoái ở làng Mai có
một khóa tu hai mươi mốt ngày và nghiên cứu thực tập về kinh Quán
Niệm Hơi Thở cho một khóa tu quốc tế. Tiếc là khóa tu đó giảng bằng
tiếng Anh thành ra nhiều người trong chúng ta không có thể nghe
được. Nếu trong đại chúng có người giỏi tiếng Anh thì nên dịch những
cái bài pháp thoại đó ra tiếng Việt. Khóa tu hai mươi mốt ngày thì
có mưới tám bài pháp thoại, mười tám bài pháp thoại về chủ đề Quán
Niệm Hơi Thở và trình bày rất khoa học. Chúng ta cần những cái bài
pháp thoại như vậy, những tư liệu như vậy để thực tập. Tôi đang chùi
bảng và tôi biết rằng tôi đang chùi bảng.
Bài tập
thứ ba là thở vào nhận diện toàn thân, thở ra nhận diện toàn thân.
Đem cái tâm về làm quen với cái thân trở lại. Thân tâm của người
không có tu thì không có hợp nhất, cái thân ở chỗ này nhưng mà cái
tâm nó rong ruổi ở chỗ khác. Còn người tu thì đem tâm trở lại thân
để cho có thân tâm nhất như.
Bài thứ
nhất là bắt đầu nhận diện thân vì hơi thở là một phần của thân. Mình
đi vào một cái nhà trước hết mình đi vào cổng rồi mới đi vào nhà
được. Ở đây là một cuộc trở về, trước hết mình trở về với hơi thở,
hơi thở là cái cổng nhà và cái cổng nhà nó đưa thẳng vào nhà. Cái
trình tự này rất là hay. Vậy thì bài tập thứ nhất là nhận diện hơi
thở và bài tập thứ ba là nhận diện toàn thân, hơi thở là một phần
của toàn thân. Mình trở về nhà của mình, cái tâm nó trở về cái nhà
của nó là hơi thở, trong cái nhà của nó, có cái tình trạng không
ngăn nắp, có tình trạng căng thẳng, có tình trạng đau nhức, có tình
trạng hổn loạn. Nên trở về để chấm dứt cái tình trạng đó, làm cho
cái thân của mình an tịnh trở lại, hết đi căng thẳng, hết đi sự đau
nhức. Hơi thở thứ ba là nhận diện hình hài, nhận diện toàn thân.
Hơi thứ tư
là buông thư toàn thân. Chúng ta là những người xuất gia, chúng ta
phải nắm cho thật vững những phương pháp này. Những phương pháp này
thuộc về niệm thân tức là quán niệm về thân thể. Nó có khả năng lấy
ra những căng thẳng, những dồn nén, những đau nhức trong hình hài
của chúng ta, nguyên do của không biết bao nhiêu là chứng bệnh, kể
cả bệnh ung thư. Sự căng thẳng của thân đưa tới sự căng thẳng của
tâm bực bội giận hờn cáu kỉnh, lo lắng. Rồi những bực bội giận hờn
cáu kỉnh lo lắng đó dồn chứa lâu ngày thì lại sinh ra những bệnh
khác cho thân và cho tâm, những bệnh tâm thần. Nên bắt đầu bằng cách
trở về với thân để làm cho buông thư toàn thân rất là quan trọng.
Đối trị
căng thẳng của thân và tâm
Sự phát
triển kinh tế làm cho mọi người dồn hết cái năng lượng của mình vào
chuyện chạy đua, thi nhau làm giàu, tranh đấu cho sự sống. Và tạo ra
biết bao nhiêu căng thẳng ở trong thân và trong tâm và sinh ra đủ
chứng bệnh và sinh ra đủ mọi gắt gổng, những chia rẽ, những hận thù.
Bắt đầu bằng thân mà thành công được thì mình có thể giải cứu cái
tâm. Cho nên mình là người tu mình phải đi tiên phong, mình phải học
được cái phương pháp đối trị với sự căng thẳng, sự đau nhức, sự dồn
nén ở trong thân. Rồi lúc đó bước một bước nữa mình đối trị được với
sự căng thẳng nhức nhối dồn nén ở trong tâm. Khi làm được như vậy
trong đoàn thể xuất gia rồi, mình có hạnh phúc có nuôi dưỡng ở trong
phạm vi đoàn thể những người xuất gia rồi, có kinh nghiệm thì mình
mới đem ra để mà giúp đời được. Mình giúp những gia đình, những cá
nhân những đoàn thể ở ngoài, họ bị căng thẳng rất nhiều. Giới chính
trị, giới doanh thương, giới giáo chức, giới sinh viên, đều bị căng
thẳng, học trò bây giờ rất là căng thẳng. Vì muốn con mình học giỏi
nhất, ta cho con vào những trường nổi tiếng nhất, trả học phí cao
nhất để cho nó thi đua trở thành những đứa giỏi nhất trong xã hội.
Trong những trường đó họ bắt con mình học rất nhiều, cả ngày cả đêm,
nên người học trò người sinh viên trở nên rất căng thẳng, tới một
mức nào đó học không có vô nữa và bị bệnh tâm thần. Cho nên giáo lý
này của đức Thế Tôn cách đây gần hai ngàn sáu trăm năm nó vẫn còn
cần thiết, vẫn còn thích hợp với cái xã hội và càng ngày nó càng cần
thiết nhiều hơn. Là người tu mình phải nắm cho vững, mình phải hạ
thủ công phu, mình như là một nhà kỹ sư, kỹ sư cầu cống thì mình
phải xây cho được cầu và cống để cho xe vận tải đi ngang qua không
có sụp. Thì mình là những kỹ sư chuyên về những phương pháp cụ thể
để lấy ra những sự căng thẳng dồn chứa trong thân và trong tâm. Phải
làm cho được, phải làm một vị kỹ sư, chứ đừng có làm một lý thuyết
gia Phật học. Mà bây giờ các trường Phật học đào tạo các lý thuyết
gia Phật giáo chứ không có đào tạo ra những kỹ sư có khả năng đem
Phật pháp áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình. Nếu các vị là
những vị giáo thọ của các trường cơ bản Phật học, trung cấp Phật
học, học viện thì quý vị phải biết là quý vị đang đào tạo những lý
thuyết gia Phật học. Những lý thuyết gia Phật học đó có thể không áp
dụng được những cái mình học vào trong đời sống của chính mình. Mình
có thể giảng dạy duy thức học rất là giỏi, nhưng mà đến khi nói
chuyện đem áp dụng duy thức học vào để giải tỏa những bệnh tâm thần,
những bệnh của thân và của tâm thì mình không làm được. Mình có thể
giảng giải kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng Nghiêm, kinh
Kim Cương được, nhưng mình không biết áp dụng những kinh đó được vào
trong đời sống hàng ngày để giải quyết những mâu thuẫn, những căng
thẳng, những tuyệt vọng của con người. Là những vị giáo thọ ở trong
các trường Phật học, quý vị phải để ý tới chuyện đó. Là sinh viên là
học tăng, là học ni của các trường đó, mình phải xin cho được trong
chương trình học phải có phần thực tập. Trong khóa tu, mình không
học lý thuyết, mình phải học thực tập.
Trong khóa
tu có những người đã học, đã tập được một năm, có những người đã tập
được hai năm ba năm, năm năm, mười năm, có những người đã tập được
hai mươi năm. Họ có khả năng làm thư giản thân và tâm của họ. Họ có
khả năng chuyển hóa những căng thẳng ở trong thân và tâm của họ, họ
có khả năng xử lý được những căng thẳng trong thân và trong tâm, họ
có khả năng xử lý được cái giận cái lo cái ganh. Khi tới một khóa tu
mà có những người có khả năng đó thì mình thực tập rất là hay, vì họ
làm mẫu cho mình. Họ ngồi rất thoải mái, họ có pháp lạc trong khi
ngồi trong khi thở, họ đi rất là thanh thản, nhẹ nhàn, họ có pháp
lạc trong khi đi. Nhìn vào họ thì mình có niềm tin rằng mình cũng có
thể làm được.
Mỗi khi đi
hướng dẫn một khóa tu cho người Tây Phương, tôi không bao giờ đi một
mình, tôi phải đi với một số các thầy các sư cô. Những vị này là
những người có khả năng thở, có khả năng ngồi, có khả năng đi, nơi
họ tỏa ra sự thảnh thơi và an lạc. Thiền sinh nhìn phía trước cũng
thấy một thầy như vậy hay một sư cô như vậy, nhìn phía sau cũng thấy
một thầy một sư cô như vậy. Hơi tốn tiền máy bay một chút nhưng mà
phẩm chất của khóa tu cao vì có nhiều người để làm mẫu. Còn nếu
tiếc tiền máy bay, mình đi một thân một mình làm giáo thọ thì không
có thể nào cáng đáng nổi một khóa tu năm trăm người hay là bảy trăm
người.
Thuốc an
thần
Hiện bây
giờ sinh ra những cái chứng bệnh rất là kỳ lạ vì sự căng thẳng quá
nhiều không những trong thân mà trong tâm. Các nhà học giả bây giở
họ thấy rõ ràng rằng nguồn gốc của hầu hết các chứng bệnh là do sự
căng thẳng, “strained” là sự căng thẳng, “stress” cũng là sự căng
thẳng dồn nén, hai cái đó là nguồn gốc của không biết bao nhiêu bệnh
tật về thân và về tâm. Mỗi khi thấy căng thẳng quá thì đi uống thuốc
an thần hoặc là thuốc ngủ, càng uống thì mình càng dính vào đó, cho
đến một giờ nào đó, một ngày nào đó thuốc không còn hiệu nghiệm nữa
và cả một nước nằm dưới ảnh hưởng của thuốc an thần, cả một nước
dùng thuốc ngủ, quý vị tưởng tượng được không. Và cái số lượng của
những viên thuốc ngủ, viên thuốc an thần bán tại các tiệm nó lớn hơn
cái núi Bảo Lộc này nhiều lắm, tới những nhà sản xuất mà coi, nó nén
từng viên từng viên, hàng trăm hàng ngàn hàng chục ngàn viên thành
từng núi như vậy rồi phân phát ra các nhà thuốc. Và đó là con đường
duy nhất để người ta đối trị lại cái sự căng thẳng, cái sự mệt mỏi,
cái sự hổn loạn của tâm. Có những thứ thuốc chống lại trầm cảm gọi
là “antidepression”, nó ghê lắm, những cái lúc đó mình sắp điên rồi,
mình ngồi cũng không được, mình đi cũng không được, đứng cũng không
được , mình không có bình thường nữa và tới bác sĩ cho thuốc anti
depression. Nếu mình sử dụng liên tiếp những cái đó thì mình dính
vào đó và một thời gian sau nó không có hiệu nghiệm nữa, phải tăng
cái liều lượng đó lên. Cho nên trong gia đình trong trường học,
trong cộng đồng, trong xã hội mình phải quảng bá cái phương pháp này
của đức Thế Tôn, mình sử dụng hơi thở, mình sử dụng bước chân, mình
sử dụng nụ cười, mình sử dụng phương pháp buông thư thay vì mình sử
dụng thuốc.
Khả năng
trị liệu của buông thư
Ai là
người làm chuyện này, có một số bác sĩ ở Tây Phương họ bắt đầu họ
làm chuyện này. Có một bác sĩ tên là Bernie Siegle ông đã nghiên
cứu, ông đã đem ra thí nghiệm và ông thấy khi nào mà mình buông thư
được, mình giúp cho người bệnh buông thư được thì cái cơ thể của
người bệnh bắt đầu có khả năng tự trị liệu lấy. Ông đã làm hàng ngàn
cái thí nghiệm và ông đã viết ra cuốn sách sự đáp ứng của sự buông
thư. Có một bác sĩ khác tên là John Kabat Zinn ở tại trường đại học
y khoa ông dựng lên một cái viện lấy tên là viện làm giảm thiểu sự
căng thẳng. Trong đó các bệnh nhân tới ông nói chuyện với họ và các
bạn ông cũng là bác sĩ nói chuyện với họ và hàng chục y tá, hàng
trăm y tá của ông cũng nói chuyện với các bệnh nhân và chỉ cho các
bệnh nhân những cái phương pháp buông thư trong đó có phương pháp
thở. John Kabat Zinn là đã được học thiền Nam tông và thiền Bắc
tông. Ông đã theo học một khóa tu với tôi ở tại tiểu bang
Massachusetts. Ông viết nhiều sách rất rõ ràng là khi mà mình thực
tập buông thư được thì cơ hội trị liệu những chứng bệnh trong thân
và trong tâm nó nhiều hơn. Có những bệnh nhân mà các bác sĩ khác
chạy rồi, trao gởi cho ông, ông nói bây giờ tập buông thư đi. Ông có
những bác sĩ và những y tá dưới quyền ông đã từng học thở đã từng
học buông thư giúp bệnh nhân làm cái việc đó. Với cái buông thư đó
thì thuốc men bắt đầu có hiệu quả.
Chúng ta
có nhiều chùa, nhiều thiền viện, chúng ta phải nên đào tạo các thầy
các sư cô các Phật tử cư sĩ có khả năng nắm lấy những cái phương
pháp này, thực tập trong đời sống cá nhân, thực tập trong đời sống
tăng thân, thực tập trong đời sống gia đình và cộng đồng cho thành
công và đem ra để giúp xã hội. Người thời đại bây giờ không có biết
nghỉ ngơi, mỗi năm họ cũng có một số ngày nghỉ nhưng mà họ không có
biết làm gì, họ chỉ vui chơi trong những ngày nghỉ đó thôi. Họ tới
những khu giải trí để họ chơi, họ gọi là nghỉ. Nhưng mà sau cái thời
gian nghỉ ngơi đó họ mệt còn hơn là trước khi nghỉ ngơi nữa.
Những con
thú ở trong rừng mỗi khi bị thương thì nó biết phải làm thế nào để
chữa trị thương tích của nó. Khi nó bị thương nặng thì nó đi tìm một
chỗ vắng khuất nằm xuống để nghỉ ngơi. Đó là tuệ giác mà nó tiếp
nhận từ nhiều thế hệ cha ông của nó. Nó biết rằng trong khi nó bị
thương như vậy thì nó không nên nghĩ tới chuyện ăn uống, đi tìm thức
ăn thức uống, nó không nghĩ tới cái chuyện chạy theo một con thú
khác, một con đực hay một con cái khác. Nó cứ nằm như vậy nhiều ngày
và nhờ nó nằm yên không làm gì hết cho nên cơ thể nó buông thư và có
khả năng trị thương được cho nó.
Cơ thể của
mình có khả năng tự trị lấy những vết thương. Ví dụ như khi mình xắc
gọt mà bị đứt tay thì mình chỉ cần rửa cái vết thương cho nó sạch
thôi và băng lại thì da của mình, máu của mình nó có khả năng hàn
lại cái vết đứt đó, không cần thuốc, mình cõ thể phun thuốc trừ
nhiểm độc để đừng có vi trùng thôi. Chuyện hàn lại cho nó lành thì
máu cũng như là da có khả năng tự hàn gắn tự chữa trị được. Ví dụ
như trong phổi mình có ho, mình có những con vi khuẩn hay là con vi
rút, nếu mà mình có khả năng nghỉ ngơi thì phổi mình nó cũng có cái
khả năng chống cự lại và mình khạc ra đàm, phổi mình có khả năng
khạc ra đàm và khạc ra hết những đàm dơ thì cái phổi nó sạch trở
lại. Nói tóm lại là cơ thể mình có khả năng tự trị liệu những vết
thương ở trong cơ thể với điều kiện là mình cho phép nó nghỉ ngơi.
Còn nếu mình tiếp tục đày đọa nó, bắt nó phải lao tác, phải căng
thẳng thì cái khả năng chữa trị đó nó không có xãy ra được. Kết luận
của bác sĩ Bernie Siegle là khi mình làm cho cơ thể thư giản được
thì cơ thể bắt đầu có khả năng tự trị liệu. Quý vị nên nhớ cái đó.
Trong cuộc sống này mình đày đọa cái thân mình không có cho thân thể
mình có cơ hội nào để nghỉ ngơi, mình ép cái thân thể mình quá, mình
hành cái thân thể mình quá nhiều và mình không có biết cách nghỉ
ngơi. Khi đi những chỗ giải trí thì cũng không phải là để nghỉ ngơi.
Cho nên bây giờ phải học lại cái cách nghĩ ngơi. Những con thú còn
giữ được cái truyền thống, còn biết nghỉ ngơi, nhưng con người bây
giờ đánh mất cái khả năng nghỉ ngơi. Vậy phải học được cách nghỉ
ngơi, cách đức Thế Tôn dạy là hay nhất, sử dụng hơi thở có ý thức
để làm lắng dịu cái thân trở lại. Khi thân được lắng dịu, bước một
bước nữa, làm lắng dịu những cái tâm hành của mình (những cái buồn
cái lo cái sợ cái giận cái tuyệt vọng). Nếu không mình chịu đựng
không nổi, mình phải đi uống thuốc ngủ, mình phải đi uống thuốc an
thần, mình phải đi uống thuốc chống trầm cảm. Đến khi thuốc không có
hiệu nghiệm nữa thì mình nghĩ rằng chỉ có một cách để bớt khổ là đi
tự tử thôi. Thanh niên đi tự tử rất nhiều tại vì họ rất căng thẳng.
Ở bên Pháp
mỗi ngày là ba mươi lăm thanh niên tự tử. Thanh niên và thiếu nữ tự
tử vì họ căng thẳng quá, tuyệt vọng quá. Tình trạng gia đình rất
căng thẳng, không có nẻo thoát, sử dụng rượu, sử dụng ma túy cũng có
hiệu quả trong chốc lát thôi, cuối cùng không có hiệu nghiệm nữa.
Trong tình trạng đó nghĩ rằng chết là cái cách duy nhất để bớt khổ,
để hết khổ.
Bên Anh
con số người thanh niên tự tử mỗi ngày còn đông hơn, rất là dể sợ
mười bốn mười lăm tuổi đã tự tử rồi. Ở Việt Nam mình nghe tin rằng
bọn trẻ tự tử cũng khá nhiều và mình đang phát triển kinh tế, mình
đang phát triển kỹ thuật, mình vào WTO mình hãnh diện lắm. Nhưng nếu
mình không tu thì mình sẽ đau khổ rất nhiều. Cho nên các thầy các sư
cô có một sứ mạng rất lớn, mình mới xuất gia hay mình xuất gia đã
nhiều năm rồi, mình phải thấy cái sứ mạng của mình là cứu đời mà
trước khi cứu đời mình phải tự cứu mình trước. Mình phải nắm cho
vững những cái phép tu này.
Đức Thế
Tôn là một y vương, một ông vua thầy thuốc. Có thể ngày hôm nay một
thầy hay một sư cô giáo thọ sẽ hướng dẫn cho quý vị một cái buổi
thực tập thiền buông thư trong cái thế nằm. Trong khóa tu này quý vị
cũng nên học để mình có tổ chức những cái buổi thiền buông thư cho
đồ chúng ở trong chùa và cho những người cư sĩ họ tới họ học với
mình, họ tu với mình. Người cư sĩ họ tới thường thường là để cúng
dường và bái sám. Cúng dường bái sám cũng đở khổ cho họ lắm, nhưng
mình có thể cho họ nhiều hơn. Trong gia đình của họ có rất nhiều sự
căng thẳng và có rất nhiều sự mâu thuẫn, cha không nói chuyện được
với con, vợ không nói chuyện được với chồng. Quý vị chính là người
đem pháp môn tới để giúp họ giải tỏa, trước hết là dạy cho họ buông
thư rồi sau đó dạy cho họ thiết lập lại cái truyền thông giữa cha và
con, giữa vợ và chồng. Mình là cán bộ của đức Như Lai, mình phải có
thì giờ, thì giờ của người tu trước hết là để đầu tư vào cái chuyện
đó, mình phải học và phải làm cho được trong phạm vi huynh đệ của
mình thì mình mới giúp được cuộc đời. Mục đích của mình đi tu là để
giúp đời, mình đi tu không phải là để trốn đời.
Tôi đi xa
nước lâu quá thành ra tiếng Việt của tôi nó hơi xưa không biết dịch
chữ “stress” ra tiếng Việt là gì, dồn nén căng thẳng, “strained” là
sự căng thẳng. Ta thấy rất rõ là hơi thở của ta hổn hển, căng thẳng
thì thân của ta cũng có sự căng thẳng. Phải nắm lấy phương pháp quán
niệm hơi thở, đem tâm trở về với thân và làm cho thân mình thư giản
ra. Khi quý vị thực tập thiền buông thư đó là thực tập trong tư thế
nằm. Nhưng khi đi mình cũng có thể đi rất là thảnh thơi, rất là
buông thư và khi ngồi cũng vậy và khi đứng cũng vậy. Sự căng thẳng
đã trở thành ra một thói quen và có thể là mình bị căng thẳng suốt
cả ngày.
Có một hôm
tôi đang ngồi trên xe buýt nhìn ra cửa sổ và ngắm phong cảnh Ấn Độ
rất là đẹp, có những cây thốt nốt, có những mái đền. Tôi đang đi
quanh xứ Ấn Độ để tổ chức những khóa tu cho người Ấn Độ. Anh bạn
trưởng ban tổ chức chuyến đi ngồi bên cạnh tôi rất là căng thẳng.
Anh ta thuộc về giai cấp thấp nhất trong xã hội, nhưng anh ta đã
bương chãi, vượt ra khỏi và anh ta đã có nhà ở trong chung cư, có vợ
con có việc làm, có lương tiền cũng khá. Nhưng vì tổ tiên đã từng
trãi qua nhiều kiếp nghèo khổ, áp bức nên luôn luôn tranh đấu. Năng
lượng của sự lo lắng của sự tranh đấu truyền về anh, dù anh đã có
một cuộc sống vật chất thoải mái nhưng anh vẫn không thoát ra sự
căng thẳng được. Khi nhìn phong cảnh thích thú như vậy rồi, tôi mới
nhìn sang thì thấy anh đang ngồi rất là căng thẳng, co rúm lại. Thấy
thương quá tôi nói
“Này anh,
có phải là anh lo làm sao để cho chuyến đi của tôi được thoải mái
hạnh phúc phải không?” Anh nói “dạ phải”.
“Tôi đang
thoải mái tôi đang hạnh phúc rồi tại sao anh phải lo nhiều như vậy,
tại sao anh căng thẳng như vậy, anh buông thư đi, anh ngồi ngã người
vô ghế mỉm cười đi”.
Thì anh
nói “ok”, rồi anh ngả ra mỉm cười buông thư. Nhưng anh chưa học được
cách thành ra mấy phút sau tôi thấy anh trở lại căng thẳng như
trước. Sự căng thẳng đó có thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Mình có
thể làm việc, mình có thể thiết kế nhưng mà mình tại sao phải căng
thẳng ? Thiết kế thì thiết kế, làm việc thì làm việc. Nhưng mình có
thể thiết kế và làm việc trong sự buông thư . Người ta dùng máy
tính, mình cũng dùng máy tính, người ta căng thẳng nhưng mình dùng
máy tính mình thảnh thơi. Người ta lái xe, mình cũng lái xe, người
ta lái xe căng thẳng, mình lái xe thảnh thơi. Đó là nhờ mình có tu.
Nếu mình tổ chức khóa tu mà mình căng thẳng thì khóa tu đâu còn
nghĩa lý gì nữa.
Vậy các
thầy các sư cô có bổn phận tổ chức khóa tu thì phải tổ chức khóa tu
một cách thảnh thơi. Và trong khóa tu này mình phải quyết tâm học
cho được, nắm cho được kỹ thuật buông thư, khi ngồi khi thở mình
ngồi cho thảnh thơi, thở cho thảnh thơi buông hết tất cả mọi căng
thẳng, khi đi bước từng bước cho thảnh thơi, khi ăn ngồi ăn cho
thảnh thơi, chỉ có hai chữ đó thôi thảnh thơi. Đức Thế Tôn là như
vậy, vững chãi và thảnh thơi. Vững chãi là không bị kéo đi, thảnh
thơi là có tự do. Mà thảnh thơi tức là giải thoát, giải thoát khỏi
cái gì ? Giải thoát trước hết là giải thoát ra khỏi sự căng thẳng
tiếng Anh gọi là “strained free” hay là “stress free” nghĩa là không
có căng thẳng, không bị đè nén. Bây giờ mình ngồi cho thảnh thơi đi,
có chuyện gì cần phải làm đâu, nghe pháp cũng thảnh thơi mà nói pháp
cũng thảnh thơi. Tôi đâu có lo lắng gì đâu, thì quý vị ngồi nghe
pháp cũng phải thảnh thơi. Tôi khuyên ông trưởng ban tổ chức đó
buông thư, nên mỉm cười đi, ông nói ok nhưng mà ông làm không được.
Ông phải theo một khóa tu, phải tập ít nhất là năm sáu ngày mới có
thể biết và đem về nhà để mà làm. Bắt đầu buổi ngồi thiền nào mình
cũng nên thực tập bốn cái bài này trước, rồi sau đó mình muốn quán
chiếu cái gì thì mình quán chiếu. Nhưng trước hết là phải đem lại sự
buông thư sự thảnh thơi cho thân và tâm.
Những
nguồn nuôi dưỡng
Mình là
một đoàn thể của những người xuất gia, một cái chùa, một cái chúng
có thầy có huynh có đệ. Chúng đó có thể một trăm người, ba trăm
người hay là mười lăm người hoặc là năm người sáu người cũng là một
cái chúng. Thì chúng đó phải được nuôi dưỡng, trước hết là nuôi
dưỡng bởi chánh pháp tức là mình phải có cơ hội được học hỏi chánh
pháp, đệ tử được cơ hội học hỏi chánh pháp rồi và thầy cũng vậy. Học
hỏi chánh pháp là việc suốt đời, mình tốt nghiệp học viện rồi nhưng
mà mình cũng chưa giỏi, mình phải tiếp tục học thêm. Mình tám mươi
tuổi rồi cũng có thể học thêm, không có ngày nào tôi không có học
thêm. Mình được cái học nuôi dưỡng, thầy cũng như trò phải có cơ hội
học hỏi thêm.
Học hỏi
không phải chỉ học từ kinh điển từ sách vở mà phải học hỏi bằng cái
kinh nghiệm của đời sống hàng ngày của mình. Nếu có chánh niệm thì
mình quan sát và mình học hỏi được từ những cái gì xãy ra trong đời
sống hàng ngày của mình, học hỏi ngay từ cái người đệ tử của mình.
Học hỏi từ những lỗi lầm, từ những vụng về của mình và của những
người xung quanh mình. Mình là phụ tá đi theo thầy tổ chức khóa tu ,
nhưng kỳ thức đó là một cơ hội để học hỏi. Thấy cách thầy đi đứng,
thầy nói cười, thầy giảng bài, thầy tiếp xúc, thầy đối xử, thầy tiếp
xử, thầy tháo gỡ cho người ta, mình học được rất là nhiều, chứ không
phải là ngồi trong lớp mới là học. Ở trường y khoa có ngồi trong
lớp, có học từ sách vỡ nhưng mà phải đi nhà thương để tiếp xúc với
các con bệnh, thấy giáo sư của mình mổ hoặc thí nghiệm, hoặc chẩn
bệnh hoặc ra toa, thì mình học từ thầy mình. Ở chùa cũng vậy, trong
trường sơ cấp hay trung cấp, nếu thầy chỉ dạy lý thuyết thì rất
thiếu, thầy phải dạy mình bằng cái sự thực tập của chính thầy. Mỗi
bước chân của thầy phải có sự thảnh thơi an lạc, mỗi lời nói của
thầy nó có tình thương, có ái ngữ. Mình học được từ những cách thầy
tiếp xử, tháo gỡ, khuyên bảo, tức là mình học được từ cái thân giáo
của thầy. Và mình cũng học được từ sư anh, sư chị và sư em của mình.
Có nhiều sư em tuy tuổi tu ít hơn nhưng giỏi hơn sư chị. Có những
vị thầy phải học từ đệ tử của mình và chính tôi cũng học được rất
nhiều từ các vị đệ tử rất trẻ. Vậy thì cái học này không phải là học
lý thuyết.
Nguồn nuôi
dưỡng thứ hai là pháp môn, phải có pháp môn rõ ràng. Pháp môn đó áp
dụng vào phải có kết quả. Nếu mình chỉ học lý thuyết thôi thì không
đủ, phải học pháp môn và phải có cơ hội tiếp xúc với những người đã
thành công trong pháp môn đó, những người đã từng có khó khăn, đã
từng có lên xuống, đã từng có lúc muốn bỏ chùa đi, bỏ thầy đi mà bây
giờ gượng lại được sống hài hòa với huynh đệ, nói được lời ái ngữ,
giúp thầy đào tạo các sư em. Trong chúng có những người như vậy,
chứng tỏ rằng pháp môn này có hiệu lực, không tu thì thôi, tu thì
thành, tu thì có kết quả. Trong chúng phải có một số người như vậy.
Nếu mình là một vị sư trưởng giỏi, khi gặp một người như vậy, một
người có thể dạy bằng thân giáo, một người đã thành công trong cái
sự áp dụng các pháp môn thì mình tìm đủ cách để người đó trở thành
thường trú. đó là một nguồn cảm hứng, một nguồn tin tưởng cho những
người khác ở trong chúng. Họ thấy có một mẫu người thành công trong
sự tu tập. Họ tin rằng nếu họ thực tập pháp môn đó thì họ cũng thành
công được như người này. Đó là những châu báu của cái chúng tu học
của mình.
Trong
chúng có được một số các sư anh sư chị thành công trong sự chuyển
hóa những buồn giận, những lo lắng, những mâu thuẫn ở trong nội tâm
mình, hòa giải được với những người mà lâu nay mình không truyền
thông được thì những người khác trong chúng có rất là nhiều cơ hội
để học hỏi từ người đó. Mình là vị sư trưởng thì mình cũng phải chỉ
cho những người trong chúng những cái nào mình đã học và đã thành
công được. Mình chỉ dạy họ cũng làm được như mình và đó là nguồn
nuôi dưỡng thứ hai của chúng, có những pháp môn hữu hiệu.
Nguồn nuôi
dưỡng thứ ba là tình thầy trò và tình huynh đệ. Chúng ta có chữ đệ
tử, đệ tử mình vừa là con của mình mà vừa là em của mình. Mình là vị
sư trưởng, mình là vị giáo thọ, bổn phận của mình không phải là chỉ
cung cấp cho những người kia cái kiến thức về Phật Pháp và những
pháp môn tu, mình phải cung cấp cho những người kia tình thương của
mình, tình thầy trò, tình huynh đệ, không có cái đó mình không thành
công được, không có cái đó mình không đi xa được. Cho nên cái tu
hàng ngày là phải có cái công dụng chế tác tình huynh đệ, xây dựng
tình huynh đệ, có niềm vui trong chúng.
Sự tu tập
của mình, sự hài hòa của mình nuôi thầy mình, khi mình tu tập có
chuyển hóa, mình có hạnh phúc mình có hòa điệu với anh chị em trong
chúng thì sức khỏe của thầy mình tăng tiến và đó là chính đệ tử nuôi
thầy. Khi mà sư em mà thực tập mà tươi mát mà hạnh phúc đó, sư em
nuôi sư anh, sư em nuôi sư chị. Khi sư chị sư anh thực tập có hạnh
phúc đó thì sư anh sư chị nuôi các sư em, mình nuôi nhau. Trong đời
sống hàng ngày từ vấn đề tổ chức, ngồi thiền, đi thiền hay lễ lượt,
mình phải thấy rằng tất cả những cái đó nó chỉ có một mục đích duy
nhất là xây dựng tình huynh đệ. Nếu không có tình huynh đệ thì mình
sẽ đói và mình sẽ không có đi xa được. Giá trị của một đoàn thể tu
học là tình huynh đệ.
Ngày xưa
đức Thế Tôn đã từng nói nhiều lần về chuyện này. Có một lần ngài đi
thăm một tu viện nhỏ thì các thầy đi khất thực hết, ở nhà chỉ có một
thầy đang bị bệnh kiết, không có ai chăm sóc hết mà thầy lết ra
ngoài để đi cầu không được nên thầy đi cầu trong thất của thầy rất
là hôi và dơ.
Đức Thế
Tôn hỏi “Không có ai chăm sóc cho thầy hết sao”.
Thầy đó
nói “Bạch đức Thế Tôn ban đầu thì cũng có vài huynh đệ chăm sóc cho
con, nhưng sau con thấy phiền quá thành ra con nói thôi, mấy huynh
để tôi tự lo cũng được, cho nên bây giờ con không có ai chăm sóc
hết”.
Ngài nói
“Đâu được như vậy, phải để cho người ta chăm sóc chứ”, rồi ngài mới
bảo thị giả của ngài là thầy Anan đi múc nước, rồi hai thầy trò tắm
cho cái thầy đó, cởi áo dơ dính phân mặc cho áo sạch rồi đi chùi
những vết phân ở trong thất. Làm xong thì mấy thầy đi khất thực lục
tục đi về và thấy đức Thế Tôn họ mừng quá họ xúm quanh lại.
Đức Thế
Tôn nói “Này các thầy, khi mình đi xuất gia rồi thì mình đâu còn có
cha có mẹ có anh có chị lo cho mình nữa. Nếu mình không có lo cho
nhau thì ai lo cho mình. Vì vậy cho nên các thầy phải biết lo cho
nhau, các thầy phải sống như là một cái gia đình tâm linh”.
Vậy tình
huynh đệ rất là quan trọng, chúng ta lo cho nhau, chúng ta đùm bọc
cho nhau, ở trong tăng thân chúng ta có cảm tưởng là chúng ta có an
ninh không cần lo gì hết. Đừng nói là thân ai nấy lo, nói như vậy
là không đúng với tinh thần của đức Thế Tôn dạy rồi.
Các thầy
các sư cô các phật tử tới Bát Nhã phải công nhận rằng ở đây có tình
huynh đệ. Đó là lời khen ngợi lớn nhất mà mình có thể tiếp nhận. Các
vị khách tăng tới làng Mai khen rằng ở tại làng Mai các thầy các sư
cô sống với nhau có tình huynh đệ, đó là lời khen ngợi rất là lớn.
Mỗi sinh hoạt trong đời sống hàng ngày đều phải có khả năng, chức
năng xây dựng tình huynh đệ và chúng ta cần được nuôi dưỡng bằng
tình thầy trò, tình huynh đệ để chúng ta có thể đi xa hơn. Vậy các
vị sư trưởng, các vị trù trì, cái quan trọng nhất là không phải làm
chùa cho lớn hay là tiếp cho nhiều bổn đạo hay khách tăng mà làm sao
cho cái chúng của mình có hạnh phúc, cái đoàn thể xuất gia trong
chùa có hạnh phúc. do đó cho nên mình phải làm bà mẹ, làm ông cha,
làm người anh, làm người chị, làm người em và mỗi người đều đóng góp
vào sự xây dựng tình huynh đệ. Nếu không có điều đó, thì dầu học
giỏi cách mấy, tiếp nhận bao nhiêu là pháp môn đi nữa cũng vô ích và
pháp môn đó trước hết là pháp môn xây dựng tình huynh đệ. Đại từ đại
bi, cái từ và cái bi làm sao có được, cái từ và cái bi phải qua
tình huynh đệ. Không có tình huynh đệ thì đừng nói tới từ, tới bi.
Vì bản chất của tình huynh đệ là có từ có bi ở trong đó, không
thương nhau được ở trong chúng mà đòi thương tất cả chúng sanh thì
đâu có được, đó là đại ngôn. Trong chúng mà không thương nhau được
mà cứ nói mỗi ngày là mình thương tất cả chúng sanh, đó không đúng.
Vậy sự tu học hàng ngày là phải nhắm đến sự xây dựng tình huynh đệ.
Và khi một cái chúng như vậy, gồm có những con người sống được như
vậy rồi thì có thể hiến tặng, có cái nhập kiện (input), có cái xuất
kiện (output).
Trước hết
là mình nuôi dưỡng hậu lai, được nuôi dưỡng bằng ba cái này thì mình
mới có khả năng nuôi dưỡng những thế hệ tương lai, những thế hệ em
và những thế hệ con. Vì mình là một người có hiếu với đức Thế Tôn,
mình được sự tiếp nhận dạy dỗ và nuôi dưỡng của các anh chị lớn
trong giáo đoàn thì mình phải có bổn phận tiếp dẫn hậu lai nuôi
dưỡng những thế hệ tương lai. Điều kiện căn bản để mình có thể nuôi
dưỡng được tương lai là mình phải có đủ hạnh phúc, tình thương, pháp
môn, có đủ về chánh pháp, có vào mới có ra, không vào thì làm sao ra
được ?
Tùng lâm
cho người xuất gia
Lập thêm
một vài trung tâm tu học cho người xuất gia, tại vì trong nước hiện
bây giờ có rất ít những trung tâm, nội viện cho người xuất gia tu
học. Người xuất gia suốt ngày phải phục vụ cho người cư sĩ, phải
cúng kiến, phải cầu an, phải cầu siêu, phải nấu cơm, phải tiếp khách
cho đến nỗi không có thì giờ để học, để tập và để thương. Trong chùa
chỉ có mấy thầy trò bận rộn suốt ngày mà tình trạng đó rất phổ biến
từ trong Nam ra ngoài Bắc. Cho nên những người có chí hướng là phải
nhắm đến cái chuyện thiết lập những tùng lâm trong đó giới xuất gia
được qui tụ hàng trăm người và tu tập như là mình đang tu tập trong
khóa tu này. Thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau học hỏi, được nuôi
dưỡng bởi tình huynh đệ thì lúc đó mình mới có thể độ đời được. Chứ
còn mình mà ốm o về phương diện tình thương, thiếu kém về phương
diện pháp môn thì làm sao mình nuôi ai được.
Cho nên ở
ngoài Bắc phải có một số những đạo tràng dành riêng cho người xuất
gia tu học, những thiền viện, những tu viện như ngày xưa chùa Bách
Lâm, chùa Lâm Tế, chùa Vân Môn, hàng trăm, hàng năm bảy trăm thầy
sống với nhau và thực tập miên mật suốt ngày. Cố nhiên mỗi tuần mình
có thể mở cửa một ngày, để đón nhận những người tại gia tới tu học
chung với mình trong một ngày quán niệm, trao truyền cho họ. Nhưng
mà mình phải để thì giờ để nuôi nhau để huấn luyện cho nhau để
thương yêu lẫn nhau. Ở ngoài Bắc cần phải có một số trung tâm như
vậy riêng cho người xuất gia, ở Trung cũng vậy, phải có một số trung
tâm như vậy cho người xuất gia. Chùa Từ Hiếu là đang ráng làm như
vậy, mỗi tuần chỉ mở cửa một ngày để đón nhận các Phật tử tại gia
tới làm một ngày quán niệm, nhưng những ngày kia thì có chương trình
học tu và xây dựng tình huynh đệ. Ở miền Trung chúng ta phải có một
chục cái tu viện, ở miền Nam cũng vậy, chúng ta có tu viện Trúc Lâm,
chúng ta có tu viện Bát Nhã, nhưng chúng ta phải có thêm nhiều nữa.
Tại vì phần lớn những người xuất gia chúng ta không có cơ hội để
tiếp nhận ba cái nguồn dinh dưỡng này. Mình có bổn phận phải nuôi
dưỡng hậu lai, mà muốn nuôi dưỡng hậu lai là phải thiết lập thêm
những cái trung tâm những cái đạo tràng, những cái tùng lâm cho
người xuất gia. Nuôi dưỡng bằng cách giáo huấn bằng cách trao truyền
những pháp môn giáo dưỡng, hướng dẫn cho thế hệ tương lai, nuôi
dưỡng và hướng dẫn, nuôi dưỡng bằng tình thương, nuôi dưỡng bằng
pháp môn và mình tập cho họ làm được như mình, mình phải trao truyền
những gì mà mình đã thành đạt được, mình đi thiền có an lạc thảnh
thơi thì mình trao lại cho đệ tử, cho các em của mình cho các đệ tử
của mình. Mình ngồi thiền có hạnh phúc thì mình trao cái phương pháp
đó cho các em của mình.
Hướng dẫn
cho cư sĩ
Một trong
những trách vụ của mình là hướng dẫn cho những người cư sĩ, cho giới
tại gia tức là công việc độ đời. Cái này là công việc tiếp nối của
dòng xuất gia, còn cái này là hướng dẫn cho người cư sĩ. Người cư sĩ
đang sống một cuộc sống rất căng thẳng, trong gia đình họ không có
sự truyền thông, con cái họ đang tuyệt vọng và sắp sa vào cái vòng
ma túy, băng đảng, đĩ điếm, trộm cắp, tham nhũng. Thì mình phải có
những pháp môn, mình phải tổ chức những ngày quán niệm dạy cho họ
mỗi tuần, mình phải mở cho họ những khóa tu năm ngày bảy ngày, mình
phải đi tới những địa phương để tổ chức cho họ những khóa tu năm
ngày bảy ngày. Và mình phải có đủ giáo thọ, phải có đủ những người
có khả năng giảng dạy và giúp người cư sĩ chuyển hóa, thiết lập
được, tái lập được truyền thông giữa cha và con, giữa vợ và chồng.
Mình làm được trong chúng thì mình mới có thể hướng dẫn người ta làm
được trong cái phạm vi gia đình và cộng đồng của họ. Và cố nhiên cái
giới cư sĩ cũng vậy, giới cư sĩ cũng là con của Bụt, cũng là sự tiếp
nối của Bụt. Cái chúng của chúng ta là tứ chúng : nam xuất gia, nữ
xuất gia, nam cư sĩ, nữ cư sĩ. Giới cư sĩ cũng phải được tiếp thu và
nuôi dưỡng bởi những nguồn thực phẩm tinh thần. Người cư sĩ cũng
phải được học hỏi chánh pháp, người cư sĩ phải được tiếp nhận pháp
môn từ mình, người cư sĩ phải có nơi nương tựa đó là cái tu viện của
mình, cái chúng xuất gia của mình. Người cư sĩ phải có tình thương
của mình. Hướng dẫn cho người cư sĩ, thì mình phải cung cấp cho họ
bốn cái này, người cư sĩ có cơ hội học hỏi, tiếp nhận pháp môn, có
một đoàn thể xuất gia vững chãi để nương tựa và tiếp nhận được tình
thương, sự che chở của người xuất gia.
Đến luợt
người cư sĩ phục vụ, thì họ thực tập được, đem lại sự an vui trong
gia đình của họ. Gia đình là đơn vị để xây dựng nên cái xã hội mà
cấu trúc gia đình bây giờ nó lung lai, nó sắp tan vỡ. Mình phải dạy
cho người cư sĩ những cái pháp môn để họ cũng cố lại cái cấu trúc
gia đình và đó là cái nghề của mình, mình phải biết cố vấn, mình
phải nắm tay họ, mình chỉ cho họ làm. Người cư sĩ sau khi đã tiếp
nhận đã tu học đã thành công có thể yểm trợ chánh pháp. Người cư sĩ
đứng bên cạnh người xuất gia như là một liên minh, người cư sĩ gọi
là cận sự, tức là làm việc rất gần gũi với người xuất gia cho nên
gọi là cận sự, cận sự nam cận sự nữ. Yểm trợ cho chánh pháp, giúp
cho mình tổ chức thêm các tu viện, giúp cho mình trong công cuộc
giảng dạy những cái bộ môn về Phật pháp hay là về thế học mà các
thầy trẻ, các sư cô trẻ phải học.
Các thầy
trẻ phải học thêm về khoa học, về xã hội học, về tâm lý học để biết
rõ cuộc đời hơn mà áp dụng đạo Phật vào cuộc đời. Người cư sĩ có
nhiều vị có thể giúp đỡ, yểm trợ cho tăng đoàn rất nhiều. Ngày xưa
có những cư sĩ lớn như là Lê Đình Thám, Lê Văn Định, Mai Thọ Truyền
giúp cho các thầy rất nhiều, mình phải đào tạo ra những người cư sĩ
như vậy. Người cư sĩ dựa vào tăng đoàn, phải đóng góp vào cái sự xây
dựng xã hội, liên minh với các thầy để chống lại những cái tệ nạn xã
hội nó đang xãy ra với cái đà toàn cầu hóa với cái đà phát triển của
kỹ thuật và kinh tế. Phải đối phó được với những tệ nạn như thanh
niên chán đời tự tử, lâm vào vòng ma túy, vào nạn băng đảng, trộm
cướp.
Người cư
sĩ đứng bên người xuất sĩ, mình là người xuất sĩ, còn người kia là
người cư sĩ, người kia ở lại đời. Và chúng ta cùng góp sức xây dựng
cái xã hội. Nhà nước có ý muốn lập những cái thôn văn hóa, những khu
phố văn hóa, những ấp văn hóa, trong đó không có những cái tệ nạn xã
hội như ma túy, đĩ điếm, băng đảng, tham nhũng. Nhưng phương tiện
của nhà nước là gì ? Phương tiện của nhà nước là kiểm soát và trừng
phạt. Mà hai cái đó không đủ, phải có một nền đạo đức, phải có những
phương pháp thực tập mới giúp xây dựng lại được nền tảng gia đình.
Và gia đình có hòa khí có hạnh phúc thì người trẻ mới an vui, người
trẻ mới không có đi tìm cái sự khuây khỏa bên ngoài để rơi vào cái
bẫy của ma túy của đĩ điếm, của băng đảng.
Đây là cái
sứ mạng của những người xuất gia. Người xuất gia phải đào tạo những
người xuất gia khác và phải đào tạo những người cư sĩ. Phận sự của
chúng ta, vai trò của chúng ta để xây dựng xã hội là rất là quan
trọng, cái đạo Phật này là đạo Phật dấn thân đi vào cuộc đời chứ
không phải cái đạo Phật trốn đời ở trong chùa.
|