Này thôi
hết kiếp đoạn trường là đây
!
Sư Ông
hướng dẫn thực tập theo dõi hơi thở
Tôi đang
thở vào và biết rằng tôi đang thở vào
Tôi
đang thở ra và biết rằng tôi đang thở ra.
Tôi đang thở
vào
Tôi đang thở ra
Tôi đang thở
vào và theo dõi hơi thở vào từ đầu tới cuối.
Tôi đang thở ra và theo dõi hơi thở ra từ đầu tới cuối.
Theo dõi hơi
thở vào
Theo dõi hơi thở ra
Tôi đang thở
vào và ý thức tiếng chim hót trên tầng chánh điện
Tôi đang thở ra và mỉm cười với tiếng chim hót trên tầng chánh điện
Ý thức về
tiếng chim
Mỉm cười với tiếng chim
Tôi đang thở
vào và thấy rằng hơi thở vào của tôi đã sâu hơn
Tôi đang thở ra và thấy rằng hơi thở ra của tôi đã chậm hơn
Hơi thở vào
sâu hơn
Hơi thở ra chậm hơn
Thở vào tôi
cản thấy khỏe trong thân tâm của tôi.
Thở ra tôi cảm thấy nhẹ trong thân tâm của tôi
Thở vào thấy
khỏe
Thở ra thấy nhẹ.
Thở vào tôi
cảm thấy pháp lạc khi thở vào
Thở ra tôi cảm thấy được pháp lạc khi thở ra.
Pháp lạc khi
thở vào
Pháp lạc khi thở ra.
Thở vào tôi ý
thức toàn thân tôi
Thở ra tôi làm lắng dịu toàn thân tôi
Thở vào ý
thức toàn thân
Thở ra làm lắng dịu toàn thân.
Thở vào
tôi ý thức rằng tôi đang được ngồi với gia đinh tâm linh tôi gồm các
thầy, các sư cô, các đạo hữu
Thở
ra tôi mỉm cười sung sướng được ngồi với gia đình tâm linh của tôi
trong giây phút hiện tại.
Thở vào ý
thức được ngồi với tăng thân
Thở ra cảm thấy hạnh phúc được ngồi với tăng thân
Thở vào
tôi cảm thấy thích thú khi thở vào
Thở ra tôi cảm thấy thích thú khi thở ra
Pháp
Thoại của Sư Ông
Kính thưa
chư vị Tôn đức, quý thầy, quý sư cô, quý Phật tử.
Chúng ta
vừa thực tập 8 phút theo Kinh An Ban Thủ Ý. Khi rời bỏ quê hương
ngày 11.05.1966 và không về lại bãi Vũng tàu trong gần 50 năm, hôm
qua trở về đây tôi có cảm giác rất rõ ràng là được trở về quê hương.
Hòa thương Minh Thành đã viết thư mời, về chùa Ấn Quang, về Đại Tùng
Lâm. Họ thường sang tận bên Pháp để thăm chúng tôi.
Tọa
xuân phong
Tôi nhớ
hồi còn ở Phật học đường Nam Việt, Chùa Ấn Quang, hòa thương Minh
Thành còn là một vị sa di rất trẻ, rất dễ thương. Khi tôi trở về tôi
thấy rằng trong lứa đó phần lớn đều không còn nữa. Trong thời gian
khoảng 40 năm tôi vắng mặt có vào khoảng 40 triệu người trẻ đã được
sinh ra. Khi tôi trở về để chia sẻ kinh nghiệm tu tập, nhìn những
người trẻ đó tôi thấy được phụ huynh của họ. Tôi thấy được rõ là các
thầy, các sư cô trẻ là sự nối tiếp của các thương tọa, hòa thương
ngày xưa mà bây giờ không thấy được nữa. Tôi thấy các thanh niên
thiếu nữ, các Phật tử cư sĩ tới. Tôi nhìn và thấy họ là con cháu của
những đạo hữu mà ngày xưa tôi
đã gặp nên tôi không có cảm giác lạc lõng xa lạ. Tôi có cảm tưởng
rất rõ là mình vẫn còn ngồi với các vị hòa thượng, thương tọa và các
vị đạo hữu ngày xưa.
Hôm qua
bước vào Đại Tùng Lâm tôi nghĩ nghĩ ngay đến hòa thượng Minh Thành.
Tôi cảm tưởng rất rõ là hòa thuợng đang còn ở đây, đang tiếp đón tôi
đi vào cùng với các vị hòa thuợng khác. Được ngồi với nhau sau bao
nhiêu năm xa cách là một hạnh phúc rất lớn. Huynh đệ được ngồi với
nhau. Thầy trò được ngồi với nhau. Đó là một hạnh phúc rất lớn.
Trong kho tàng văn học Phật giáo ngày xưa có câu “tọa xuân phong”.
Tọa là ngồi, Xuân là mùa Xuân, Phong là gió. Gió mùa Xuân. Khi huynh
đệ ngồi với nhau trong tình đạo lữ, trong tinh thần chánh pháp, thầy
trò được ngồi với nhau trong chánh pháp, thì chúng ta có rất nhiều
hạnh phúc giống như ta đang ngồi trong gió mùa xuân. Tôi đã dịch 3
chữ tọa xuân phong là ngồi giữa gió xuân. Chúng ta đang ngồi đây là
chúng ta đang thực sự ngồi giữa gió xuân. Chúng ta tiếp nhận được sự
ngọt ngào của tình huynh đệ, tình thầy trò. Chúng ta không cần nói
gì nhiều, chúng ta chỉ cấn ngồi và cảm nhận được sự có mặt của nhau.
Mình hiến tặng sự có mặt tươi mát của mình cho huynh đệ. Đó là hạnh
phúc khi ta được ngồi với nhau. Trong bài hát “ Kính mến thầy” của
gia đình Phật tử có một câu rất tức cười:
Nam Mô A
Di Đà Phật
Hôm nay thầy về đây
Chúng con xin kính chào thầy
Trong giờ phút vui này
Chúng con không biết làm gì đây
Câu đó rất
buồn cười. Mình gặp thầy mình hạnh phúc quá, minh cuống lên không
biết phải làm gì. Câu trở lời là “Đâu cần phải làm gì đâu !",
chỉ cần ngồi xuống với thầy là một hạnh phúc rất lớn, ngồi giữa gió
xuân với thầy. Hai thầy trò, ba thầy trò, hàng trăm thầy trò ngồi
với nhau trong tình thầy trò, tình huynh đệ, tình đạo pháp, đó là
chuyện mình cần phải làm. Mình đâu cần phải lăng xăng nhiều. Mình
không cần phải quay một vòng, hát và chờ, nên tôi đề nghị gia đình
Phật tử sửa lại câu này:
Trong giờ
phút vui này
Chúng con quyết lòng ngồi đây,
ngồi giữa gió xuân !.
Có một lần
sau mùa an cư kiết hạ có khoảng 500 thầy về thăm Đức Thế Tôn tại
tu viện Kỳ viên tại thành Xá vệ. Đức Thế Tôn tiếp các thầy trong một
giảng đường rất lớn. Thầy trò ngồi với nhau từ 7 giờ chiều đến 11
giờ tối. Thầy không nói một câu mà trò cũng không nói một câu gì
hết. Thầy A Nan tới gần và nói nhỏ vào tai Đức Thế Tôn : “ Bạch Đức
Thế Tôn chư huynh đệ đã ngồi với Ngài từ 7 giờ tới 11 giờ cũng khá
lâu. Đức Thế Tôn có gì dạy bảo thì Đức Thế Tôn nói đi.” Đức Thế Tôn
ngồi yên không trả lời. Ngài tiếp tục ngồi yên với chư tăng tới 1
giờ rưỡi khuya. Thầy A Nan nóng ruột, tới quỳ bên cạnh Đức Thế Tôn
và nói nhỏ vào tai Ngài : “ Bây giờ quá khuya rồi. Ngày có dạy gì
thì Ngài dạy đi.” Đức Thế Tôn ngồi yên, thầy trò ngồi tới 5 giờ
sáng. Lúc đó thầy A Nan mới tới một lần nữa, quỳ bên cạnh Đức Thế
Tôn mà nói : “Bạch Đức Thế Tôn, bây giờ là 5 giờ sang rồi !, Ngài
muốn nói gì với chư huynh đệ thì Ngài nói đi.” Lúc bấy giờ Đức Thế
Tôn mới quay lại nhìn thầy An Nan mà nói :
”Thầy A Nan !, thầy muốn tôi nói cái gì nữa?. Thầy trò được ngồi
chung với nhau là một hạnh phúc rất lớn rồi.Thầy muốn tôi nói gì
nữa?”
Câu chuyện
này được ghi vào trong Kinh. Khi tôi đọc trong Kinh tôi rất là tâm
đắc. Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta thật có tình huynh đệ, tình thây
trò thì khi gặp nhau ngồi yên với nhau cũng đã có hạnh phúc lắm rồi,
không cần lăng xăng, không cần nói những câu xã giao. Trong những
ngày vừa qua tôi hay ngồi viết thư pháp để tặng bạn bè. Tôi viết 4
chữ “ ngồi gìữ gió xuân “. Tôi đã tặng cho nhiều thầy, nhiều sư cô,
nhiều đệ tử 4 chữ “ ngồi giữa gió xuân ( tọa xuân phong) “
Người
đâu hiếu nghĩa đủ đường
Năm nay vì
có chuyến đi về Việt Nam của tăng đoàn Làng Mai nên tại Làng Mai
chúng tôi tổ chức ăn tết một tuần trước ngày mồng một tết. Cũng như
ngày xưa trước khi đi đánh quân Thanh vua Quang Trung đã cho quân sĩ
ăn tết trước một tuần rồi mới đi đánh giặc. Chúng tôi không đi đánh
giặc nhưng chúng tôi cũng ăn tết trước một tuần, làm bánh chưng
trước đó 7 ngày, cúng bánh chưng trên bàn thờ 7 ngày. Ngày mồng một
có vị bói một quẻ Kiều để coi chuyến đi này của Thầy và của Làng Mai
sẽ ra sao. Cụ Nguyễn Du cho hai câu như vầy:
Người
thôi hiếu nghĩa đủ đường
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây.
Chúng tôi
đã suy nghĩ, đã quán chiếu rất nhiều về 2 câu thơ của thi hào Nguyễn
Du. Ngài muốn dạy gì trong đó ? Sau vài ngày chiêm nghiệm thì tôi
thấy như thế này : Chữ người không phải chỉ riêng cho một
mình tôi hay các thầy các sư cô Làng Mai mà chỉ cho tất cả người
Việt Nam, tại vì người Việt Nam có tinh thần hiếu nghĩa. Mình có ngũ
hiếu và ngũ nghĩa. Chính cái hiếu và cái nghĩa đó đã cứu được mình
qua những cơn khó khăn.
Người
đâu hiếu nghĩa đủ đường
Người
đây tức là
người Việt. Chúng ta có hạt giống của hiếu để, của tình nghĩa. Nếu
chúng ta nuôi dưỡng những hạt giống đó trong lòng chúng ta thì
chính những hạt giống đó sẽ sinh hoa kết trái và nó sẽ cứu chúng ta
ra khỏi những hoàn cảnh khó khăn bi đát.
Này
thôi hết kiếp đoạn trường là đây
kiếp
đoạn trường
là kiếp
đứt ruột. Dân tộc chúng ta đã trải qua một cuộc chiến tranh rất dai
dẳng. Trên sáu triệu đồng bào đã chết trong cuộc chiến tranh này.
Có những chiến sĩ đã chiến đấu rất anh dũng và đã chết rất oai hùng,
tranh đấu cho tự do, cho độc lập. Nhưng cũng có biết bao đồng bào
chết trong tăm tối, trong tuyệt vọng oan ức. Có hàng trăm ngàn người
đã chết như vậy mà hài cốt vẫn chưa tìm ra được. Chúng ta ai mà
không đã gánh chịu một phần những khổ đau, những oan ức của cuộc
chiến một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Chúng ta chưa cứ cơ hội nói
lên những oan khổ, uất ức, tuyệt vọng của ta, của người thương chúng
ta và của đồng bào. Kỳ này về chúng tôi được thủ tướng chính phủ cho
phép tổ chức 3 Trai Đàn Chẩn tế để chính thức cầu nguyện cho tất
cả đồng bào đã chết trong cuộc chiến. Trong Trai đàn Chẩn tế ở chùa
Vĩnh Nghiêm chúng tôi đã làm lễ chiêu u thỉnh linh ở cầu Rạch Chiếc.
Ở đó có một cuộc chiến rất là khốc liệt. Chúng ta đã làm lễ chiêu
linh, thỉnh cầu hương linh của tất cả đồng bào đã qua đời trong
cuộc chiến trong đó có cả những người đã chết trong tù ngục, trong
rừng sâu, ngoài biển cả. Những thuyền nhân bất hạnh đã chết ngoài
biển cả làm mồi cho cá, rồng và cho hải tặc
Hôm nay
một đoàn đại biểu của ban tổ chức đã ra bãi biển Vũng Tàu để làm lễ
chiêu u thí thực để rước các huơng linh về Đại Tùng lâm. Trong những
ngày Đại trai Đàn tại chùa Vĩnh Nghiêm chúng tôi đã ngồi thiền đi
thiền đã thở, đã thưc tập chánh niệm cho tất cả hương linh. Khi đi
thiền hành tôi đã quán chiếu là mỗi bước chân đưa tôi trở về, đã về,
đã tới, thoát ra khỏi khổ đau, buồn tủi của quá khứ, đưa tôi trở về
trong hiện tại. Một bước chân đi theo một hơi thở. Bước một bước tôi
cảm thấy mình đã về, bước một nữa tôi cảm thấy mình đã tới. Đã về đã
tới với chùa, với đồng bào, đã về đã tới với hiện tại nhiệm mầu. Một
bước tôi giúp trở về cũng giúp cho 6 triệu hương linh đồng bào chết
trong chiến tranh được trở về chùa.. Một bước chân đi cẩn trọng như
vậy, mỗi hơi thở thở cẩn trọng như vậy để hồi hướng giúp cho hằng
triệu đồng bào được chuyển hóa.
Ngày cuối
đi thiền hành tại chùa Vĩnh Nghiêm, tôi nhớ tôi đã đi như thế này:
Đã về cho 6 triệu người, đã tới cho 6 triệu người nạn nhân chiến
cuộc. Sau đó một vài phút tôi nói : Đã về cho 80 triêu người, đã tới
cho 80 triệu người tại vì những người còn sống cũng còn những nỗi
khổ niềm đau trong lòng. Khi nỗi khổ niềm đau đó bị dồn nén xuống
thì nó không thể nào mất mất đi được. Cúng ta không thể nào quên
được. Nếu chúng ta la mắng con cái, đối xử nặng nề bạo động với
người thương là tại vì trong đáy lòng ta có những nỗi khổ niềm đau
chưa chuyển hóa được. Chúng ta chỉ đè nén nó xuống chiều sâu của tâm
thức mà thôi. Trai Đàn Chẩn tế là một phương pháp thực tập tâm lý
trị liệu rất quan trọng. Nó cho phép chúng ta đưa những mổi khổ niềm
đau lên trên mặt phẳng của ý thức. Nó giúo ta có cơ hội công nhận
đã có những niềm đau, những nỗi oan như vậy. Khi điều đó được công
nhận rồi thì nó mới cơ hội để chuyển hóa. Nếu mình từ chối không
công nhận nó thì nó sẽ còn hoài, và mình sẽ trao truyền nó lại cho
con cháu. Con cháu chúng ta sau này sẽ đau khổ mà không hiểu tại sao
mình phải như vậy ? Tại sao mình đối xử với con cháu với người
thương bạo động như vậy ? Tại vì trong lòng mình có những nỗi khổ
niềm đau chưa hóa giải được.
Trai đàn
Chẩn tế không phải chỉ để cầu nguyện cho những người đã qua đời giúp
cho họ được chuyển nghiệp siêu thăng về Tịnh độ mà còn giúp cho
những người còn sống chuyển hóa được nổi khổ niềm đau ấy, lâu đè nén
che dấu trong tâm hồn. Đây là phương pháp trị liệu rất khoa học: Tâm
lý trị liệu.
Trong Đại
Trai đàn Chẩn tế chúng ta tới với nhau như những người ruột thịt,
không phân biệt người Nam người Bắc. Người Bắc cũng từng đau khổ như
người Nam, cũng có những người chết oan ức, tối tăm như người Nam.
Chúng ta không phân biệt già trẻ, trai gái hay chủng tộc. Chúng ta
không phân biệt đảng phái chính trị. Khi cầu nguyện cho những đồng
bào được siêu thoát chúng ta không phân biệt nguời đó là cộng sản
hay chống cộng sản. Chúng ta mở hết tấm lòng và cầu nguyện cho tất
cả dồng bào của chúng ta dù người đó thuộc đảng phái chính trị này
hay đảng phái chính trị khác, thuộc về chế độ này này chế độ khác.
Chúng ta cầu cho tất cả với tình huynh đệ, tình đồng bào ruột thịt.
Trai đàn có tên là Thủy Lục Giải Oan Bình Đẳng Cứu Bạt. Bình đẳng là
không kỳ thị phân biệt. Chúng ta đều đối với nhau như những người
đồng bào, chúng ta không kỳ thị nhau. Chúng ta chắp tay lại cầu
nguyện cho tất cả đồng bào bị tử nạn trong chiến tranh không kỳ thị
Bắc Nam, chủng tộc, tôn giáo và chánh kiến.
Trai đàn
Chẩn tế Giải Oan Bình Đẳng đã được đồng bào tham dự rất đông đảo. Có
lúc chùcVĩnh Nghiêm đầy đặc người trên 10.000 người đã tới. Tất cả
đều tham gia vào sự thực tập rất thành khẩn. Ngưòi ta không đến để
tham quan. Tất cả đến để cúng dường, cầu nguyện, và tham gia vào
những buổi thiền tọa, thiền hành, những buổi ăn cơm im lặng, nhnữg
buổi pháp thoại và những buổi sám hối.
Tôi rất
cảm động thấy đồng bào hết tâm cầu nguyện cho các nạn nhân của cuộc
chiến. Có những vị hòa thương ni trưởng nói với tôi là trong suốt
đời quý vị ấy chưa một Trai đàn nào qui mô như vậy, có tinh thần rất
sâu sắc, rộng mở tuyệt vời như vậy. Trước đó 2 tháng tôi có viết thư
mời ngài chủ tịch nuớc Nguyễn Minh Triết, ngài thủ tướng cũng như
chủ tịch quốc hội đến tham dự Trai đàn Chẩn tế. Trai đàn Chẩn tế là
một ước mong của người dân, chính do dân sắp đặt và tổ chức. Sự có
mặt của các nhà lãnh đạo quốc gia trong các ngày này chứng tỏ là các
nhà lãnh đạo luôn luôn có mặt với dân. Tôi thấy rõ là các vua đời
Lý Trần luôn luôn có mặt trong những sinh hoạt quan trọng nhất của
dân. Tôi tin rằng các vị lãnh đạo nhà nước thấy được tầm quan trọng
của Trai đàn Chẩn tế Giải Oan, có mục đích chữa lành những thương
tích trong lòng ngưòi, người chết cũng như người sống. Nếu chúng ta
thật sự muốn có đoàn kết dân tộc, nếu muốn xóa bỏ những hiềm hận
ngày xưa thì chúng ta phải thực tập hết lòng.
Tôi có cảm
tưởng rõ ràng rằng sau mỗi ngày của Trai đàn thì trong lòng mọi
người nhẹ đi nhiều.. Chúng ta xích lại gần nhau nhiều hơn, hiểu nhau
và chấp nhận nhau nhiều hơn. Chúng ta đem người Nam tới gần người
Bắc, đem người Bắc tới gần ngưòi Nam. Chúng ta đem người nước ngoài
trở về gần hơn với người trong nước. Chúng ta đem người trong nước
đến gần hơn với người sống ở hải ngoại. Nhũng người đã chết trong
cuộc chiến, họ là ai ? Họ là ông nội của mình, là cha, là chồng, là
anh, là con trai, là em trai, là cháu của mình. Họ là bà nội bà
ngoại, là mẹ là vợ là con con gái của mình. Tất cả đều là đồng bào
của chúng ta. Trong Đại Trai đàn Chẩn tế chúng tôi đã đọc lên một
lời khấn nguyện. Lời khấn nguyện này đã được thượng tọa sám chủ của
Trai đàn là thượng tọa Lệ Trang đọc. Bây giờ tôi xin đọc để quý vị
thấy được tinh thần của Trai đàn. Vì tại Đại Tùng Lâm tự chúng ta
cũng sẽ thực tập như vậy. Đây là lời của những người đang còn sống
nói với người đã chết.
Kính
thưa liệt vị hương linh
Quý vị
là cha chúng tôi, là chồng chúng tôi, là anh trai chúng tôi, là em
trai chúng tôi, là con trai chúng tôi. Quý vị cũng là mẹ chúng tôi,
là vợ chúng tôi, là chị gái chúng tôi, là em gái chúng tôi, là con
gái chúng tôi.
Trong
cơn binh lửa, trong cảnh tao loạn, quý vị đã bỏ lại hình hài quý giá
của quý vị mà đi. Chúng tôi đã đánh mất quý vị. Quý vị hoặc đã chiến
đấu một cách dũng cảm cho đất nước và đã chết hào hùng không hề
thương tiếc thân mạng. Chúng tôi rất hãnh diện về quý vị. Nhưng quý
vị cũng có thể đã bỏ mình trong những hoàn cảnh cực kỳ bi thương.
Nỗi oan khổ không thể nào nói lên được. Trong rừng sâu, trên biển
cả, nơi chốn tù đày, chết vì bom đạn hoặc vì bị kiệt sức, hoặc vì bị
bức bách, hãm hiếp rồi bị sát hại mà không có phương tiện chống cự
lại.
Có biết
bao nhiêu quý vị đã ngã quỵ mà nắm xương tàn không biết đã được chôn
vùi ở đâu. Nhnữg tai ương mà đất nước và dân tộc của chúng ta đã
phải gánh chịu trong bao nhiêu năm tranh đấu cho độc lập, cho tự do
thì chính quý vị là người đã phải gánh chịu nhiều nhất.
Chúng
tôi, những người thân thuộc và đồng bào của quý vị, hôm nay tới đây
thắp hương tưởng niệm quý vị hoặc thiết lập bàn thờ cho quý vị trước
hiên nhà. Trong chúng tôi cũng có những người cũng còn tiếp tục gánh
chịu oan khổ. Nhưng may thay cơn ác mộng đã qua rồi, đất nước đã
được hòa bình. Dân tộc đang có cơ hội kiến thiết trở lại. Nhờ phúc
đức tổ tiên chúng tôi hôm nay mới có cơ hội đến với nhau chính thức.
Chắp tay nguyện cầu Tam Bảo nhờ pháp lực gia trì thỉnh cầu tất cả
liệt vị trở về đoàn tụ cùng nhau, cầu nguyện để giải trừ nghiệp cũ,
mở ra một hội mới, nhìn nhận nhau, ôm lấy nhau, thương lấy nhau như
đồng bào ruột thịt, không còn phân biệt Bắc Nam, trai gái, già trẻ,
chủng tộc, tôn giáo, đảng phái chính trị và ý thức hệ.
Tất cả
chúng ta đều là đồng bào của nhau, gặp vận nước rủi ro trên đường
tranh đấu cho độc lập tự do, bị dồn vào thế phải đối lập nhau. Vì tự
vệ mà phải chống đối nhau. Nhưng phúc đức tổ tiên để lại vẫn còn cho
nên hôm nay chúng ta mới được trở về lại với nhau, nhìn nhận nhau
như đứa con một nhà. Mình hứa với nhau là phải học cho thuộc cái bài
học đau thương trong quá khứ. Nguyện từ nay về sau không để cho đất
nước bị chia cắt một lần nào nữa. Nguyện từ nay về sau khi có khó
khăn về nội bộ sẽ không nhờ một thứ thế lực ngoại bang nào can
thiệp. Nguyện từ nay về sau sẽ không khởi sự một cuộc chiến tranh ý
thức hệ nào nữa. Từ nay về sau sẽ không sử dụng vũ khí bên ngoài để
tranh đấu với nhau nữa. Nguyện từ nay về sau sẽ nổ lực xây dựng một
xã hội thực sự dân chủ để có thể giải quyết mọi bất đồng bằng những
phương thức hòa bình dân chủ mà không phải xử dụng đến những phương
tiện bạo động đến đồng bào.
Lạy chư
vị tổ tiên huyết thống và chư vị tổ tiên tâm linh chứng minh. Trước
mặt quý ngài chúng con xin kính cẩn phát nguyện như thế và chúng con
biết rằng một phen đã phát nguyện như thế thì mọi oan ức, mọi khổ
đau sẽ được hoàn toàn giải tỏa và những vết thương đã hằn sâu trong
lòng chúng con sẽ được bắt đầu chữa lành.
Hôm nay
Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan được thành lập. Mọi nhà đều
có thiết lạp bàn thờ cầu nguyện. Chúng con ngưỡng nguyện ơn trên Tam
Bảo độ thoát cho tất cả mọi hương linh để tất cả được nương vào pháp
lực vô song mà chuyển hóa siêu thăng. Chúng tôi và các con cháu
nguyện sẽ lên đường để tiếp tục chí hướng của liệt vị hương linh.
Chúng tôi nguyện mang quý vị trong trái tim để đi về hướng tình
huynh đệ và nghĩa đồng bào và luôn luôn nhớ rằng bầu và bí đều có
thể leo chung một giàn, gà một mẹ đừng bôi mặt đá nhau, và tuệ giác
ấy của tổ tiên sẽ soi đường chỉ lối cho chúng ta bây giờ và mãi mãi.
Trong Đại
trai Đàn Chẩn tế vừa qua ở chùa Vĩnh Nghiêm lời khấn nguyện này đã
được đọc 3 lần cho tất cả những người chết nghe và những người sống
cũng được nghe.
Đó là lời
phát nguyện lớn vá nếu chúng ta làm được chuyện đó thì chúng ta sẽ
có một tương lai rất đẹp, rất lớn cho đất nước, cho dân tộc.
Gieo
trồng những hạt giống hiểu biết và thương yêu
Trong 40 năm
ở hải ngoại chúng tôi không bao giờ ngưng thực tập và cống hiến kết
quả sự thực tập của chúng tôi cho quê hương, cho đất nước. Cứ mỗi
một hay hai năm tôi gửi về một bản thảo của một cuốn sách. Hồi đó
còn chế độ cũ và sách của tôi không được chính thức xuất bản. Thế
nên những sách tôi gửi từ pháp về đã được in „ chui „. Những cuốn
sách như là Văn Lang Dị Sử như là Đạo Phật Ngày
Mai đều có tên một tác gìả khác và không có
được dùng chữ Nhất Hạnh .
Trong thời
gian 40 năm chúng tôi dã tổ chức cho người Tây phương tu học. Trong
quá trình vận động cho hòa bình ở Việt Nam chúng tôi đã làm quen với
biết bao nhìêu nhà lãnh đạo nhân bản, trí thức, tôn giáo và tuổi
trẻ. Trong khi làm việc chung với họ để chấm dứt chiến tranh ở Việt
Nam chúng tôi có cơ hội chia sẻ với họ giáo lý của đạo Phật và sự
thực tập Phật pháp của người Việt. Chúng tôi đã học hỏi, đã tinh
luyện ra một thứ ngôn ngữ có thể giảng giải được Phật pháp cho những
người Tây phương. Một thứ ngôn ngữ họ có thể hiểu và chấp nhận
được. Một thứ giáo pháp mà họ có thể đem áp dụng trong đời sống
hằng ngày để tháo gỡ những khó khăn trong đời sống cá nhân, trong
đời sống gia đình và trong đời sống cộng đồng của họ.Chúng tôi đã
xuất bản gần cả trăm cuốn sách bằng nhiều thứ tiếng ở Tây phương.
Có nhiều cuốn
sách tôi đã viết trực tiếp bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh, cũng còn
một số trong đó chưa được dịch lại bẳng tiếng Việt. Có một cuốn sách
tên là „ Giận“ về phương pháp điều phục cơn giận. Cuốn
sách đó viết bằng tiếng Anh. Khi được dịch ra tiếng Đại hàn trở
thành cuốn sách bán chạy nhất ở Đại hàn, trong vòng một năm đã được
phát hành trên một triệu cuốn. Các đài truyền hình, các đài phát
thanh nói tới cuốn sách đó rất nhiều. Có những cuốn sách chúng tôi
viết về sự đối thoại giữa đạo Phật và đạo Cơ đốc. Có những cuốn sách
chúng tôi viết để giúp cho những nhà tâm lý trị liệu Tây phương có
được kiến thức về tâm lý học Phật giáo. Những cuốn sách đó giảng
giải về Duy Thức học ( Duy Biểu học) . Tôi đã tổ chức những khóa tu,
những khóa thực tập cho các nhà tâm lý trị liệu Tây phương, dạy cho
họ biết cách thở, cách đi thiền hành, biết cách nhận diện, ôm ấp và
chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau của họ để họ có thể giúp được
những người bệnh tâm thần dễ dàng hơn.
Sự giáo dục
của chúng tôi tuôn luôn đi theo với sự thực tập chứ không phải chỉ
lý thuyết suông mà thôi. Tôi nhận thấy cách thức học Phật ở trong
nước vẫn còn có tính cách lý thuyết nhiều quá.Chúng ta đào tạo những
lý thuyết gia Phật giáo nhiều hơn là chúng ta đào tạo những hành
giả. Chú ng ta có thể học DuyThức rất giỏi nhưng chúng ta không biết
áp dụng Duy Thức vào đời sống hằng ngày để tháo gỡ những khó khăn,
những mâu thuẩn, những khổ đau, những hận thù của chúng ta. Chúng ta
học kinh Hoa Nghiêm, Luận Khởi Tín, chúng ta học Kinh Kim Cương và
thuyết giảng rất giỏi nhưng chúng ta ít áp dụng được vào trong đời
sống hằng ngày. Trái lại, ở Tây phương trong 40 năm chúng tôi tìm
cách áp dụng tất cả những giáo lý đó vào trong đời sống hằng ngày và
giúp được cho nguời thiền sinh tới với chúng tôi tháo gỡ được những
khó khăn trong đời sống của họ.
Chúng tôi đã
mang đạo Phật Việt Nam đi vào Tây phương không phải qua cánh cửa của
tín ngưỡng mà qua cánh cửa Tâm lý học và Xã hội học.
Người Tây
phương đã có tôn giáo của họ rồi. Cái họ thiếu là một phương pháp
thực tập. Đạo Phật, như tất cả chư tôn đức thấy, không phải chỉ là
một tôn giáo tín ngưỡng. Phần bái sám, cúng dường, tín ngưỡng chỉ là
một phần nhỏ của đạo Phật thôi. Cố nhiên khi chúng ta thực tập bái
sám, cúng dường thì chúng ta có thể làm vơi bớt một ít những niềm
đau nỗi khổ. Nhưng nếu muốn đi tới sự tháo gỡ được những lo lắng,
những sợ hãi, những hận thù thì chúng ta phải tiếp xúc được được với
kho tàng Tuệ giác ở trong đạo Phật. Nếu chúng ta chọc thủng được cái
vỏ tôn giáo tín ngưỡng thì chúng ta có thể đi vào cái kho tàng Tuệ
giác của đạo Phật. Rất là vĩ đại!. Tiếp xúc được với kho tàng Tuệ
giác đó rồi chúng ta có thể giải quyết được những vấn đề tâm lý của
chúng ta rất là sâu sắc, và chúng ta có thể giúp được người đời giải
quyết được những khó khăn, những khổ đau và những bế tắc của họ.
Chúng tôi đã
trình bày Tâm lý học Phật giáo và sự thực tập Thiền cho người Tây
phương. Càng ngày số người thực tập càng đông. Hiện bây giờ có cả
ngàn cộng đồng người Tây phương được dựng ra để thực tập theo pháp
môn chúng tôi chia sẻ, giới thiệu và hướng dẫn. Những cộng đồng đó
gọi là những Tăng thân. Nó giống như những khuôn hội hay là những
cái quận, quận hội. Như thành phố Luân đôn của Anh quốc có tới 10
hay 11 tăng thân như vậy. Thành phố lớn quá thành thử một chổ không
đủ và mỗi tuần mọi người tới một lần để cùng nhau ngồi thiền, đi
thiền hành, tập thở, tập buông thư, nghe pháp thoại, dự pháp đàm, ăn
cơm trong chánh niệm. Số người dự các khóa tu ngày càng đông.
Mỗi mùa hè
tại Mai Thôn Đạo Tràng bên Pháp chúng tôi đếm có từ 45 đến 50 quốc
tịch tham dự, và người trẻ rất đông, người trí thức rất là đông. Họ
tới không mang theo nhang đèn cùng phẩm vật cúng dường. Họ tới không
phải với mục đích đi tìm một nền tín ngưỡng. Họ tới với mục đích đi
tìm cái Tuệ giác của đạo Phật để mà tháo gỡ được những khó khăn
trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng của họ. Với sự thực
tập chúng tôi đã được cống hiến họ, hàng ngàn người, hàng trăm ngàn
người những cặp vợ chồng, cha con, mẹ con đã tháo gỡ được những khó
khăn, đã thiết lập lại được sự truyền thông, đã đem lại tình thương
và hạnh phúc cho gia đình.
Chúng tôi
cũng đã đi các thành phố lớn ở Âu châu và Mỹ châu để tổ chức những
khóa tu như vậy. Mỗi khi tổ chức những khóa tu như vậy thì chúng tôi
đi thành Tăng đoàn., tại vì khóa tu có thể có tới cả ngàn thiền sinh
thành thử một người Giáo thọ một mình không thể nào làm được công
việc đó. Khi mình tổ chức một khóa tu đi với một tăng đoàn hùng hậu
bốn chục, năm chục các thầy, các sư cô thì cái năng lượng chánh
niệm, năng lượng Niệm, Định, Tuệ sẽ rất lớn và nó đủ sức chuyển hóa
được số đông kia.. Nhìn phía trước cũng có một thầy hay một sư cô.
Nhìn phía bên trái cũng thấy một thầy hay một sư cô đi đứng rất là
vững chãi, rất là chánh niệm, nụ cười rất là tươi, hai con mắt rất
sáng, và sự thong dong, thảnh thơi của các vị xuất gia. Nước nào ở
Âu châu, nước nào ở Mỹ châu, ở Úc châu cũng muốn chúng tôi tới tổ
chức những khóa tu mỗi năm ít nhất một lần và nhu cầu đòi hỏi rất là
lớn. Trong 40 năm chúng tôi đã đào tạo được mấy trăm vị giáo thọ
xuất gia có khả năng tổ chức những khóa tu như vậy cho người Tây
phương, giảng giải và hướng dẫn bằng tiếng Tây phương. Chúng tôi
cũng đào tạo được hằng trăm vị giáo thọ tại gia. Giáo thọ xuất gia
không đủ, phải phương tiện đào tạo các vị giáo thọ tại gia. Nhưng
cái số năm trăm, sáu trăm vị giáo thọ chúng tôi đã đào tạo đó không
có thấm tháp gì hết đối với nhu cầu tu học của Âu châu, Mỹ châu và
Úc châu. Chúng tôi còn được các nước ở Phi châu mời tới nữa. Có
những khóa tu mà chồng tới với vợ, cha tới với con và sau năm hoặc
sáu ngày thực tập họ tái lập được truyền thông giữa chồng với vợ,
giữa cha với con. Họ đem lại hòa khí, tìm lại được hạnh phúc ngày
xưa. Mình không cần phải đăng báo, không cần phải quảng cáo, họ
truyền tai nhau và số thiền sinh tới Mai Thôn Đạo Tràng và các khóa
tu càng ngày càng đông. Họ đến đông quá nhưng mà mình không thể nào
từ chối họ. Họ tới với niềm đau nỗi khổ mà bổn phận mình phải mở cửa
để cho họ tu tập. Cho dẫu điều kiện ăn ở rất khiêm nhường các thiền
sinh vẫn tới rất đông.Chúng tôi mong mõi chư vị tôn đức ở đây cũng
như các thầy, các sư cô, các Phật tử cư sĩ giúp chúng tôi một tay.
Chúng tôi đang rất thiếu các giáo thọ giảng dạy và truyền bá Phật
pháp ở Tây phương. Chúng tôi cần cả hàng ngàn người giáo thọ mới. Vì
vậy vị nào phát nguyện trở thành những vị giáo thọ để hoằng pháp ở
Tây phương thì xin liên lạc với chúng tôi.
Ở bên Pháp
tuy là không có người quá nghèo như ở Việt Nam nhưng mà thanh niên
Pháp tự tử rất nhiều. Họ tự tử không phải vì đói nghèo. Mỗi ngày có
khoảng 35 thanh niên Pháp tự tử.
Mỗi ngày đấy
! Họ tự tử vì họ có những bức xúc ở trong lòng mà họ giải quyết
không được. Họ có những cảm xúc như là tuyệt vọng, giận hờn, như là
thù hận. Chúng tôi đã có mở những khóa tu cho người trẻ, giúp cho họ
biết được con đường chuyển hóa những cảm xúc lớn, những cái bức xúc,
những sự tuyệt vọng, bế tắc đó. Có rất nhiều người sau khi đọc sách
của chúng tôi bằng tiếng Anh, tiếng Đức hoặc bằng tiếng Pháp, tiếng
Ý đã tìm tới các khóa tu, đã thực tập và, chuyển hóa được. Trong 40
năm hành đạo tại Tây phương chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều
những kinh nghiệm. Chúng tôi đã mở những khóa tu cho các doanh nhân.
Hôm kia chúng
tôi cũng có một ngày tu tập cho các nhà doanh thương tại thành phố
Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận. Họ rất là hạnh phúc. Tại Tây phương
chúng tôi đã tổ chức cho các bác sĩ tâm lý trị liệu, đã tổ chức
những khóa tu cho các nhà hoạt động về môi trường, cho cựu chiến
binh, cho cảnh sát và công an, cho các nhà dân biểu quốc hội. Chúng
tôi đã đi vào trong tù ngục để mở những khóa tu. Đạo Phật chúng tôi
giảng dạy ở Tây phương là đạo Phật nhập thế, ai cũng có thể tu được.
Khi về lại
quê hương chúng tôi tin chắc rằng những kinh nghiệm mà chúng tôi đã
học được tại Tây phương trong những năm hành đạo nếu đem áp dụng vào
giới tuổi trẻ ở Việt Nam, người xuất gia cũng như người tại gia,
cũng sẽ có kết quả tương tợ.
Học
cái gì thì phải áp dụng cho được cái đó
Trong một xã
hội đang phát triển mau chóng về kinh tế, về kỷ thuật thì có những
tệ nạn được phát sinh ra. Người ta quá bận rộn. Trong gia đình họ
không có cơ hội, không có thì giờ để ngồi lại với nhau. Cha không có
thì giờ để nhìn mặt con. Chồng không có thì giờ để nhìn mặt vợ. Có
những gia đình một ngày không đuợc ăn cơm chung một lần nào hết, mỗi
người ăn vào một giờ khác nhau. Rồi bị căng thẳng, bị sức ép, người
nào cũng dồn chứa trong thân và trong tâm họ nhiều cái đau nhức,
căng thẳng, dễ giận, dễ bực và nói với nhau những lời không dễ
thương. Rồi vợ đay nghiến chồng, chồng làm khổ vợ. Hai vợ chồng
không nói chuyện với nhau được. Hai cha con cũng nói chuyện với nhau
được. Vì vậy người trẻ không có tin được vào hạnh phúc gia đình.
Người trẻ đau khổ, đi tìm những thú vui, những sự khuây khỏa bên
ngoài và rơi vào cạm bẩy của những tệ nạn xã hội như là ma túy, băng
đảng, như là đĩ điếm. Có lẽ quý vị tôn túc, cũng như các thầy các sư
cô, các vị Phật tử cư sĩ biết rằng ở Việt Nam cũng bắt đầu có những
người trẻ tự tử, càng ngày càng đông.
Nếu chúng ta
học Phật cho đàng hoàng. Nếu chúng ta áp dụng được những gì học được
vào tăng thân của mình, vào trong chúng của mình thì chúng ta sẽ có
đủ kinh nghiệm để giúp đời, giúp cho những gia đình thiết lập lại
được truyền thông, giúp cho cha có thể nói chuyện lại được với con,
chồng nói chuyện lại được với vợ, đem hòa khí vào trong gia đình và
xây dựng lại nền tảng gia đình cho vững chắc thì xã hội mới có thể
có hạnh phúc và điều đó ở Tây phương chúng tôi giáo huấn các thầy,
các sư cô, các vị giáo thọ cư sĩ rất là kỹ. Mục đích chính của các
khóa tu là giúp con người có khả năng thiết lập được truyền thông
với những người khác trong gia đình, trong xã hội. Mục đích các khóa
tu trước hết là để cho mình có khả năng trở về và chăm sóc cho bản
thân mình, làm lắng dịu những khổ đau trong thân và trong tâm,
chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau của mình. Lúc đó mình mới
thiết lập được truyền thông với cha, với mẹ, với con, với anh ,chị.
Và khi thiết lập lại được truyền thông rồi, sử dụng phương pháp lắng
nghe với tâm từ bi và sử dụng ái ngữ thì tự nhiên những hiểu lầm sẽ
được từ từ lấy đi và tình thương được phục hồi trở lại. Khi tình
thương được phục hồi thì gia đình bắt đầu có hạnh phúc trở lại.
Tôi nghĩ rằng
trong các trường Phật học của chúng ta, trường sơ cấp, trường trung
đẳng hay học viện, chúng ta phải thay đổi cách giảng dạy. Chúng ta
giảng dạy Kinh, Luận như thế nào mà có thể áp dụng ngay vào đời sống
hằng ngày giữa huynh đệ, giữa thầy trò. Tại vì chúng ta có những vị
đệ tử không nói chuyện được với thầy, có những vị thầy không nói
chuyện được với dệ tử. Chúng ta có những huynh đệ không nói chuyện
được với nhau. Những cái chúng ta học có áp dụng được để tháo gỡ
những khó khăn đó hay không ? Tại lối học của chúng ta có khá nhiều
tính cách lý thuyết. Ở Mai Thôn Đạo Tràng chúng tôi cũng học Kinh,
học Luận, học Luật nhưng chúng tôi cương quyết: học cái gì thì phải
áp dụng cho được cái đó. Những người thiền sinh cư sĩ tới với chúng
tôi cũng được học như vậy và cũng áp dụng những cái gì mình học vào
trong đời sống hằng ngày. Ví dụ như là Kinh An Ban Thủ Ý, tức là
Kinh Quán Niệm Hơi Thở, khi học Kinh đó mình phải biết áp dụng vào
đời sống liền lập tức. Nếu áp dụng được Kinh An Ban Thủ - Kinh Quán
Niệm Hơi Thở- mình có thể nhận diện được những đau nhức, những căng
thẳng trong thân và trong tâm. Mình có khả năng làm lắng dịu những
thân hành và tâm hành đó. Mình bắt đầu trị liệu được cho thân và tâm
của mình, tại vì Phật pháp có khả năng trị liệu, chuyển hóa và nuôi
dưỡng. Mình nuôi dưỡng thân và tâm của mình bằng chánh pháp. Mình
trị liệu thân và tâm của mình bằng chánh pháp. Mình chuyển hóa được
thân và tâm của mình bằng chánh pháp. Mình phải có khả năng dạy có
khả năng học những điều đó để có thể áp dụng được vào đời sống của
mình. Chúng ta cần có một cuộc cách mạng trong lối giảng dạy, học
hỏi và thực tập hằng ngày của chúng ta. Nếu không chúng ta sẽ không
đủ khả năng đối phó với những khó khăn của thời đại mới, thời đại
toàn cầu hóa đang làm đổ nát, lung lay cấu trúc gia đình và xã hội
của chúng ta.
Về nước kỳ
này ngoài những Trai đàn Chẩn tế tổ chức ở Chùa Vĩnh Nghiêm, Chùa
Diệu Đế và Chùa Non ở miền Bắc chúng tôi còn tiếp tục hiến tặng
những khóa tu cho người cư sĩ, người xuất gia, người trí thức, người
văn nghệ sĩ và người thanh niên. Cách đây hai tuần chúng tôi có tổ
chức một khóa tu cho những người xuất gia tại Bảo Lộc. Có khoảng
1100 vị xuất gia phần lớn là trẻ tới tu tập trong 5 ngày. Chúng tôi
đã học và thực tập những điều chúng tôi đã chia sẻ. Trước khóa tu
của người xuất gia chúng tôi đã tổ chức khóa tu cho người cư sĩ..
Chúng tôi nghĩ rằng Chùa Bát Nhã có thể tiếp được 2000 người trong
khóa tu. Nhưng người tham dự lên lên tới gần 7000 ngàn người và
chúng tôi không thể nào từ chối được, phải để các vị vào khuôn viên
chùa tham dự khóa tu trong 5 ngày. Tuy rằng có đến 7000 người nhưng
rất thân tình, rất im lặng. Các vị công an cảnh sát rất lấy làm ngạc
nhiên, tại sao với số người đông như vậy mà lại im lặng thanh tịnh
như vậy. Tại vì mọi người đều được pháp lạc, được thực tập, được học
cách làm lắng dịu thân và tâm, có cơ hội nhìn lại bản thân, nhìn lại
người thương để hiểu người đó hơn, để thương và chấp nhận người đó
một cách dễ dàng hơn.
Chúng ta có
một sự khát khao. Chúng ta rất đói pháp môn tu tập Một khóa tu như
thế chứng tỏ rằng người Việt chúng ta rất đói pháp, nhất là thứ
pháp có khả năng làm lắng dịu thân tâm và chuyển hóa được nỗi khổ
niềm đau. Từ các tỉnh miền Nam, miền Trung và miền Bắc, đồng bào đã
trở về Bảo Lộc để tham dự khóa tu không quản ngại đường xa. Điều đó
chứng tỏ rầng chúng ta đang đói pháp, đói Phật pháp, đói Pháp môn.
Nếu chúng ta là người xuất gia, chúng ta có bổn phận phải cung cấp
cho đồng bào thức ăn tình thần mà họ đang thiếu đang đói. Thức ăn
tinh thần mà đồng bào ta cần không phải chỉ là tín ngưỡng, bái sám,
cúng dường mà là những pháp môn rất cụ thể để giúp họ làm lắng dịu
những căng thẳng trong tâm và trong thân., giúp họ ôm ấp và chuyển
hóa những nỗi khổ niềm đau, sử dụng được ái ngữ, lắng nghe để có thể
tái lập truyền thông với những mà họ đang có khó khăn. Những phương
pháp này rất là căn bản. Chúng ta là những vị giáo thọ, những vị
pháp sư, chúng ta phải thấy được những nhu yếu đó của quần chúng
Phật tử, của đồng bào để chúng ta có thể cung cấp được những giáo lý
và pháp môn thích hợp với thời đại.
Trong chuyến
về nước kỳ này chúng tôi cũng mong ước có cơ hội ngồi lại với chư
tôn đức, để bàn lại phương pháp giảng dạy, phương pháp trao truyền
thực tập. Làm thế nào để chúng ta có thể làm mới được đạo Phật của
chúng ta? Khi chúng ta có thể làm mới được đạo Phật thì chúng ta mới
đối phó được với những khó khăn của đời sống hiện tại.
Quyền
lực tâm linh
Hôm qua tại
tòa soạn báo Giác Ngộ có ông tiến sĩ Modi từ Ấn độ bay qua. Chúng
tôi đã họp báo tại tòa soạn để giải thích về bộ phim Đuờng Xưa Mây
Trắng. Ông tỉ phú này có một mơ ước là thực hiện được đời sống của
Đức Thế Tôn qua một bộ phim như một thiên anh hùng ca vì cuộc đời
của Đức Thế Tôn là một cuộc đời rất đẹp. Thông điệp của Đức Thế Tôn
là thông điệp của từ bi, của tình huynh đệ, rất cần cho thế giới của
chúng ta hôm nay.
Tiến sĩ Modi
là một tỉ phú Ấn độ. Ông ta bây giờ là chủ tịch của hội Mahabodhi
tại New Delhi. Ông là người gốc Bà La môn giáo nhưng ông rất mến Đức
Thế Tôn. Ông rất tự hào được làm công dân của nước Ấn độ, nơi mà Đức
Thế Tôn đã ra đời. Ông thao thức dựng nên một bộ phim nói về cuộc
đời của Đức Thế Tôn tại vì ông nghĩ rằng : „Thế giới ngày nay đầy
bạo động, căm thù, thèm khát. Mình cần phải trao truyền cho thế giới
thông điệp của Đức Thế Tôn, thông điệp của từ bi, của tình huynh đệ,
của an lạc, của hạnh phúc.
Ông đã đi tìm
những cuốn sách, những văn bản để có thể dựa lên mà làm cuốn phim đó
trong gần 20 năm. Rốt cuộc ông đã tìm được cuốn Đường Xưa Mây
Trắng. Cuốn Đường Xưa Mây Trắng đã được dịch ra nhiều thứ
tiếng, trong đó có tiếng Hoa, Đại hàn và tiếng Hindi ( tiếng
Ấn độ).Một người bạn của ông đã đến đưa cho ông một bản Đường Xưa
Mây Trắng bằng tiếng Hindi. Ông đã đọc, đã say mê. Ông biết rằng đây
là văn bản mà ông cần để dựng lên cuốn phim về cuộc đời của Đức Thế
Tôn. Ông đã bỏ ra 120 triệu đô la để thực hiện cuốn phim này.
Ông đi qua Mỹ
để tìm tác giả. Nhà xuất bản nói rằng ông tác giả đang ở bên Pháp.
Vì vậy ông rủ một vài dân biểu quốc hội, vài nhà khảo cứu khảo cổ
học đi theo ông về Làng Mai gặp tác giả Đường Xưa Mây Trắng. Có một
vị thân hữu Ấn độ nói rằng: „Ông này giàu lắm. Khi thầy gặp ông thì
phải đòi 50 triệu đô la tiền bản quyền sách. Nói qua nói lại thế nào
mình cũng được 30 triệu tha hồ mà làm chùa, làm từ thiện.“
Sau đó tôi
ngồi với chư vị xuất gia ở đây thì chư vị và chúng tôi đi đến kết
luận là mình không nên lấy đồng nào hết. Mình chỉ nên hiến tặng tác
quyền của Đường Xưa Mây Trắng mà không lấy đồng nào như là một phẩm
vật để cúng dường Đức Thế Tôn. Mình chỉ đòi một điều kiện thôi: Ống
có quyền sử dụng Đường Xưa Mây Trắng để dựng cuốn phim thiên anh
hùng ca của đức Phật với một điều kiện duy nhất là giám đốc sản
xuất, đạo diễn và các tài tử đóng phim phải đến Làng Mai để tu tập
trong vòng ba tuần để học cách đi, đứng, nằm, ngồi trong thảnh thơi,
trong chánh niệm. Các tài tử có thể giả bộ chánh niệm, giả bộ từ bi,
giả bộ thảnh thơi. Nhưng giả bộ thì rất là khó. Mình phải tu tập ít
nhất là 3 tuần để có thể đi được những bước chân thản thơi, ngồi
được một cách thoải mái như Đức Thế Tôn. Như vậy mình mới có thể
đóng phim lột trần được tinh thần của Phật giáo.
Ông Modi rất
ngạc nhiên. Đi đâu người ta cũng nói tới chuyện tiền bạc. Nhưng tới
Mai Thôn Đạo Tràng thì mấy ông thầy tu này nói: „Tôi không cần tiền!
Tôi chỉ cần một cuốn phim thật hay, chuyển được thông điệp của Đức
Thế Tôn. Chúng tôi tu thôi, chúng tôi không cần các ông phải trả
tiền cho chúng tôi.“
Nói đến hạnh
phúc thì ai cũng nghĩ đến tiền bạc và quyền lực. Người ta nghĩ
rằng phải có tiền bạc và quyền lực mới có hạnh phúc. Đa số những
người trong xã hội đều đi tìm về hướng tiền bạc và quyền lực. Trong
đạo Phật chúng ta cũng nói đến uy quyền, nhưng uy quyền đây là uy
quyền tâm linh gọi là Đức. Có 3 cái Đức (uy quyền ) mà người tu phải
chế tác cho được.
Uy quyền đầu
tiên là đoạn đức, tức là khả năng chặt đứt. Chúng ta phải có
khả năng chặt đứt những thèm khát, hận thù, si mê. Người tu phải có
khả năng cắt đứt thèm khát, hận thù và si mê. Khả năng đó là đoạn
đức. Khi chúng ta có khả năng đó rồi thì chúng ta nhẹ nhàng giải
thoát. Ông tỉ phú có thể có ngàn tỉ đô la nhưng ông có thể không có
đoạn đức. Ông có thể không buông bỏ được những đam mê, thèm khát và
si mê của ông. Nhưng người tu có thể buông bỏ được và đó là một uy
quyền rất lớn. Nếu người ta cung kính một người tu là vì người tu có
đoạn đức,có khả năng buông bỏ những thèm khát, hận thù.
Đức thứ hai
là trí đức. Trí đức là tuệ giác mình có được nhờ thiền quán.
Tuệ giác về vô thuờng, vô ngã, về duyên sinh, tương tức. Khi có tuệ
giác đó mình có thể tháo gỡ những khúc mắc về tâm lý rất dễ dàng.
Những tuyệt vọng, hận thù, những mâu thuẫn, khó khăn của cuộc sống
nếu mình có tuệ giác thì mình tháo gỡ rất mau trong khi đương sự đi
vòng quanh năm này qua năm khác mà không thể thoát ra được. Nếu tìm
tới minh sư thì chỉ trong vài phút với tuệ giác minh sư có thể giúp
mình tháo gỡ được liền. Đó gọi là trí đức.
Đức thứ ba là
ân đức. Ân đức là khả năng tha thứ thương yêu. Các bậc thầy
có khả năng tha thứ và thương yêu là các bậc ân sư. Có khả năng tha
thứ và thươong yêu thì mình có hạnh phúc và tạo ra cho những người
chung quanh không biết bao nhiêu là hạnh phúc. Với tuệ giác mình
tháo gỡ cho chính mình và mình tháo gỡ cho người khác.
Sự giàu sang
của người tu là ba khả năng đó : khả năng cắt đứt thèm khát, hận
thù, khả năng tháo gỡ bằng trí tuệ những dằn co của tâm lý, khả năng
tha thứ và thương yêu được những ngưòi dầu họ có là khó thương. Khi
mình có 3 đức đó thì mình hạnh phúc rất nhiều và mình ban phát hạnh
phúc rất nhiều. Trong khi người doanh thương chạy theo quyền lực và
tiền bạc thì người tu chúng ta phải hạ thủ công phu, chế tác cho
được ba năng lượng đó là đoạn đức, trí đức và ân đức.
Buổi thiền
trà tổ chức tại Mai Thôn Đạo Tràng để tiếp ông tỉ phú là sự đo gươm
giữa hai quyền năng, quyền năng vật chất và quyền năng tâm linh. Có
một sư cô người Mỹ là sư cô Tùng Nghiêm, sư cô đã tốt nghiệp về
ngành luật, là tiến sĩ về luật. Sư cô Tùng Nghiêm có mặt trong buổi
thiền trà, đã chứng kiến được cuộc đo gươm giữa hai quyền lực: quyền
lực của tiền bạc và quyền lực của ba cái đức. Cố nhiên họ tới với
các luật sư, các nhà chuyên môn để điều đình về tác quyền của cuốn
Đường Xưa Mây Trắng Khi uống hết một tuần trà tôi mở lời, nói : „
Chúng tôi không cần lấy của các ông một đồng nào hết. Chúng tôi chỉ
yêu cầu từ giám đốc sản xuất đến đạo diễn, diễn viên phải đến tu học
3 tuần để cho có được thực chất của cuốn phim,vậy thôi!“
Sư cô Tùng
Nghiêm nhìn ông Modi và thấy phản ứng của ông. Ban đầu ông không tin
được. Làm sao có một người mà không cần tiền ? Từ trước đến nay khi
nói tới đô la, nói tới từ triệu này sang triệu kia thì người ta cho
đó rất là quan trọng, cần tranh đấu để có được càng nhiều càng tốt.
Tới đây thấy mấy ông thầy tu rất đơn giản, không cần tiền. Bắt đầu
ông chưa tin nhưng khi tôi lập lại lần thứ hai thì ông bắt đầu tin.
Chuyện này có thật. Có một cuộc đấu gươm rất ngoạn mục giữa uy quyền
của tiền bạc và uy quyền của tâm linh. Cuối cùng ông Modi nép phục.
Ông thấy rằng rõ ràng có một cái rất cao, rất đẹp, rất thanh trong
sự thực tập của Phật giáo.
Đây là điều
tôi muốn chia sẻ với chư vị tôn đức, các thầy, các sư cô, các Phật
tử cư sĩ. Ngày hôm qua tại tòa soạn báo Giác Ngộ, có rất nhiều nhà
báo, nhà đạo diễn làm phim của thành phồ H C M đã tới, chứng kiến
và đặt câu hỏi
cho nhà tĩ phú Modi .Chúng tôi đã chuyển hóa được con người đó.
Người đó bây giờ để hết lòng lo cho cuốn phim này. Cuốn phim giống
như một thông điệp về tinh thần từ bi bất bạo động của đạo Phật mà
chúng ta gửi đến toàn thế giới..
|