Thơ Mới
ngày xưa
Xin đọc bài
thơ kính tặng các vị Tôn Túc, quí vị quan khách và các bạn bài
Bưóm Bay Vườn Cải Hoa Vàng:
Mười năm vườn
xưa xanh tốt
Hai mươi năm nắng rọi lều tranh
Mẹ tôi gọi tôi về
Bên bến nước rửa chân
Hơ tay trên ánh lửa hồng
Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống
Tôi không bao giờ khôn lớn
Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm
Mới hôm qua đây, tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã
Trong khu vườn cải hoa vàng
Mẹ và em còn đó
Gió chiều như hơi thở
Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi ?
Gió mang
tiếng ca; ngày ra đi em dặn:
"nếu ngày về thấy khung trời đổ nát, thì tìm tôi trong tận đáy hồn
anh".
Tôi đã về, (có tiếng hát ca) bàn tay trên liếp cửa,
Hỏi rằng: "có tôi hôm nay đây, tôi giúp được gì ?"
Gió thì thầm: em nên hát ca
Bởi vì hiện hữu nhiệm mầu
Hãy là đóa hoa, hãy là nụ cười,
Hạnh phúc có bao giờ được dựng xây bằng vôi với gạch ?
Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau
Tôi tìm em (như đêm giông tố loạn cuồng
rừng sâu đen tối
những cành cây sờ soạng
đợi ánh chớp lòe ngắn ngủi
thấy cần được hiện hữu bên nhau, tìm nhau)
Em hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng dậu,
Hãy là nụ cười, là một phần của hiện hữu nhiệm mầu.
Tôi đứng đây, chúng ta không cần khởi hành
Quê hương chúng tôi đẹp như quê hương của tuổi thơ,
Xin đừng ai xâm phạm - Tôi vẫn còn hát ca.
Đầu còn gối trên thánh kinh,
sáng nay tôi nghe xôn xao trong nắng mai vũ trụ đang được những con
ong vàng siêng năng bắt đầu khởi công tạo dựng công trình xây dựng
ngàn đời
Nhưng công trình, em xem, đã được ngàn đời hoàn tất
Bánh xe mầu nhiệm chuyển hoài đưa chúng ta đi tới
Nắm lấy tay tôi, em sẽ thấy chúng ta đã cùng có mặt tự ngàn xưa
trong hiện hữu nhiệm mầu.
Tóc mẹ tôi còn xanh, và dài chấm gót
Áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước dậu
Nắng sớm mùa thu
Tôi ở đây, chính thực vườn xưa
Những cây ổi trái chín thơm
Những lá bàng khô thắm
Đẹp
Rụng
Còn chạy chơi la cà trên sân gạch
Tiếng hát vẳng bên sông
Những gánh rơm thơm vàng óng ả
Trăng lên, quây quần trước ngõ
Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua.
Tôi không ngủ
mơ đâu,
Ngày hôm nay đẹp lắm, thực mà
Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ
Chúng mình còn đây, hôm nay, và ngày mai nữa,
Đến đây,
Khi khát ta cùng uống ở một giếng nước thơm,
Trong ai nói cho em nghe rằng Thượng Đế đã bằng lòng cho con người
khổ đau đứng dậy hợp tác cùng Người ?
Chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp, khổ đau vì không tự
biết là lá là hoa.
Em hát ca đi, bông cúc cười theo em bên hàng dậu,
Đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát
Những ngôi sao trới không bao giờ xây ngục thất cho chính mình.
Để cho chúng tôi hát ca, để cho chúng tôi là những đóa hoa.
Chúng tôi đang ở trong cuộc đời
Mắt chúng tôi chứng minh cho điều ấy
Bàn tay cũng là hoa, đừng biến bàn tay em tôi thành giây chằng.
Thanh khớp răng cua
Thành móc sắt
Hiện hữu không kêu gọi tình thương
Hiện hữu không cần ai phải thương ai
Nhưng em phải là em, là đóa hoa, là bình minh hát ca, không đắn đo
suy tính
Xin ghi vào đây một tân ước nữa của tất cả chúng ta
Và xin vẫn nghe lời tôi như nghe suối reo, như nhìn trăng sáng
Em về, đưa Mẹ về cho tôi thăm
Cho tôi hát em nghe, để tóc em sẽ dài xanh như tóc Mẹ
Tôi làm bài
thơ “Bướm bay vườn cải hoa vàng” năm 1964 (sau khi chế độ
Ngô Đình Diệm sụp đổ, thầy Trí Quang viết thơ đề nghị tôi về giúp
một tay), đó là bài thơ thuộc thể thơ mới, thơ tự do, thơ vui, không
mang tính sầu đau. Hồi đó nhóm văn nghệ sĩ như Nguyên Sa, Thanh Tâm
Tuyền, Trần Thanh Hiệp đưa ra thể thơ mới gọi là thơ tự do, không
cần vần điệu. Trước khi họ đưa ra lý thuyết và một số bài thơ theo
thể thơ mới thì tôi đã bắt đầu làm loại thơ này rồi, đó là bài “Bướm
bay vườn cải hoa vàng” tôi vừa đọc.
Năm 1964, thi
sĩ Vũ Hoàng Chương được thầy Châu Toàn mời về làm trong toà soạn
tuần san Hải Triều Âm. Vũ Hoàng Chương không những cộng tác bằng
những bài thơ mà còn đóng góp rất nhiều ý kiến. Hải Triều Âm được
xuất bản mỗi tuần, có lúc chúng tôi cho in đến 50 ngàn số và được
chở bằng máy bay ra Huế để bán. Có một lần, với tư cách chủ bút,
tôi viết bài “Lời khấn nguyện đau thương của dân tộc” đăng
trên Hải Triều Âm, kêu gọi hai miền Nam Bắc ngồi lại với nhau để đi
tới một giải pháp hòa bình, thống nhất mà khỏi cần đánh nhau. Lúc đó
trên Hải Triều Âm có đăng rất nhiều bài thơ kêu gọi anh em ngồi lại
với nhau để chấm dứt cuộc chiến tranh đẫm máu. Sau này nhiều người
gọi những bài thơ của chúng tôi là những bài thơ phản chiến, thật ra
nó không phải là thơ phản chiến mà là những bài thơ kêu gọi tình
thương, hòa giải mà thôi. Nhưng có một điều đặc biệt là những bài
thơ đó làm rất là tự do, nó đích thực là thơ tự do.
Tôi còn nhớ,
Vũ Hoàng Chương có lần trong toà soạn Hải Triều Âm đã nói: “Những
nhà chủ trương thơ tự do, họ đã trình bày ra nhiều bài tiêu biểu cho
thơ tự do, thầy Nhất Hạnh thì không chủ trương lý thuyết gì về thơ
hết nhưng những bài thơ của Thầy có vẻ là thơ tự do thiệt và chính
thầy là người thành công nhất trong những nguời làm thơ tự do”.
Hồi đó hòa
bình và hòa giải là những chữ quốc cấm! Kêu gọi hai bên
ngưng chiến, ngồi lại với nhau thương thuyết để có thống nhất, có
hòa bình thì không được chấp nhận. Vì vậy cho nên chúng tôi bị áp
lực để “không được đăng tải những bài thơ như vậy nữa”. Nhưng
con đường của chúng tôi, của Phật tử là con đường của bất bạo
động, của hòa bình, của tình huynh đệ. Nếu bịt
miệng mình, không cho mình nói những điều vốn là cốt tủy của đạo
Phật, không cho mình viết được những bài từ trái tim của mình thì
làm báo để làm gì? Rốt cuộc chúng tôi đóng cửa tờ báo đó.
Cùng với nhà
văn Võ Đình Cường, chúng tôi ra một tờ báo khác, đó là tờ Thiện Mỹ,
đứng ngoài giáo hội để có thể tiếp tục được tiếng nói từ trái tim.
Thầy Trí Quảng cũng đã có mặt trong thời gian đó, ngày hôm nay thầy
làm báo Giác Ngộ thì cũng là tiếp tục công việc của chúng tôi ngày
xưa.
Kể gì mười
năm, hai mươi năm, ba mươi năm…
Sau 40 năm ở
Hải ngoại, tôi nhận thấy rằng trong thời gian chúng tôi vắng mặt, có
trên 40 triệu người đã sinh ra trên đất nước Việt Nam. Khi tôi về,
tôi chỉ gặp thế hệ hệ trẻ đó thôi, còn những vị đã quen biết ngày
xưa còn rất hiếm, đếm lại chỉ trên lòng bàn tay, như bác Tống Hồ
Cầm, anh Võ Đình Cường, thầy Trí Quang, thầy Trí Tịnh... thầy Thiện
Siêu thì đã đi rồi. Nhưng khi nhìn xuống thế hệ trẻ đã sinh ra trong
thời chúng tôi vắng mặt, tôi nhận ra được họ là con cháu của thế hệ
chúng tôi ngày xưa nên tôi không có cảm giác bị lạc lõng, bơ vơ và
tôi thấy rất rõ, “họ là sự tiếp nối của đàn anh đi trước”.
Trường Đại
học Cornell mời tôi qua để thuyết giảng về tình hình Đông Nam Á và
tôi đã nhận lời. Trong bụng nghĩ rằng, qua đó mình có cơ hội nói lên
tiếng nói của dân Việt Nam, muốn có hòa bình, muốn chấm dứt cuộc
chiến tranh này. Khi lên xin hộ chiếu, ông giám đốc công an nói: “Thầy
qua bên đó làm gì cũng được, miễn là đừng kêu gọi hòa bình thì thôi!
” Mục đích của mình đi qua để làm chuyện đó, thành ra tôi nín
khe, không nói gì hết.
Sau khi diễn
thuyết xong ở trường đại học Cornell, tôi được tổ chức thân hữu gọi
là thân hữu hòa giải (Fellowship of conciliation), một tổ
chức cho hòa bình bảo trợ để tôi có thể đi một vòng Hoa Kỳ và Âu
châu kêu gọi những nỗ lực chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Trong thời
gian đó, tôi gặp những người như Mục sư Martin Luther King, tôi đã
thuyết phục Mục sư đứng ra hô hào chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Sau ba tháng hoạt động, chánh quyền miền Nam cấm không cho tôi về
nước nữa, vì vậy cho nên tôi phải lưu trú ở tây phương. Ở lại bên Mỹ
thì không được, vì Mỹ và Việt Nam đang bị vướng mắc vào trong cuộc
chiến với nhau. Tôi xin ở lại bên Pháp và lập ra một tổ chức gọi là
phái đoàn Hòa Bình của Phật Giáo Việt Nam để cung cấp những tài liệu
về thực chất của cuộc chiến ở Việt Nam. Chúng tôi đã tiếp xúc các
giới trí thức, sinh viên, nhân bản, tôn giáo ở tây phương đã dựng
thành mạng lưới thân hữu để làm việc cho hòa bình Việt Nam. Chúng
tôi làm việc như một tòa đại sứ Việt Nam (mà không có lương), truyền
bá văn hóa Việt Nam, cung cấp những tin tức về Việt Nam nhưng đứng
về phía người dân chớ không phải đứng về phía đảng phái hay chánh
quyền nào cả.
Cố nhiên
trong thời gian làm việc, chúng tôi có cơ hội chia sẻ với giới trẻ,
giới trí thức, giới tôn giáo ở bên đó về đạo Phật và cách hành trì
đạo Phật Việt Nam. Chúng tôi tổ chức những buổi thuyết trình, những
buổi ngồi thiền, những buổi đi thiền hành cho các bạn, nhất là các
bạn hoạt động (activist) có cơ hội thực tập làm lắng dịu thân tâm để
có thể hoạt động được lâu dài. Nếu mình không giữ được sự lắng dịu,
an bình trong thân và trong tâm thì khi mình làm việc một hồi, mình
đánh mất sự an bình trong con người của mình và mình không thể tiếp
tục được. Hiện tượng đó, tây phương gọi là burn out (hết xí quách),
không thể đi tới nữa được.
Chúng tôi tổ
chức những buổi ngồi thiền tại Paris, New York, Frankfurt, Bonn,
Thụy sĩ, do đó giăng mắc được một mạng lưới cho các thân hữu, chúng
tôi bắt đầu truyền bá tư tưởng gọi là “Đạo Phật nhập thế”
(tiếng Anh gọi là Engaged Buddhism, tiếng Pháp là Bouddhisme engagé),
là thứ Đạo Phật không phải chỉ là thực tập trong tu viện, trong
chùa mà là thứ đạo Phật được thực tập ngay trong cuộc sống hàng
ngày, trong gia đình, trong cộng đồng, nơi sở làm, trong Quốc hội…
và từ đó về sau tư trào gọi là Engaged Buddhism Đạo Phật Nhập Thế
được lan truyền ra khắp Âu châu và nước Mỹ. Ai cũng biết rằng nó có
cội nguồn từ Việt Nam.
Cuốn sách đầu
tiên tôi hiến tặng cho tây phương là cuốn Hoa Sen Trong Biển Lửa
(Lotus in the
Sea of Fire),
nói về Phật giáo Việt Nam, tình thế Việt Nam. Cho mọi người biết
rằng: “Đạo Phật Việt
Nam đang
tranh đấu bất bạo động cho hòa bình như là một đóa sen nở trong biển
lửa mà không bị cháy”.
Mơ gì một
mảnh tương lai xa xôi ?
Vì không về
nước đuợc nên tôi mới lập các đạo tràng ở bên đó để tu tập và qui tụ
được những người trẻ, những người trí thức đến tu tập. Từ từ chúng
tôi quảng bá pháp môn tu tập của Việt Nam. Trong thời gian ở tại Tây
phương, chúng tôi tiếp xúc được rất nhiều với văn hóa của Tây
phương, các nền tư tưởng thần học, triết học . Chúng tôi đã chế
luyện ra thứ ngôn ngữ để giúp cho tuổi trẻ và người Tây phương hiểu
được đạo Phật và họ có thể áp dụng đạo Phật được trong đời sống hàng
ngày của họ.
Đạo Phật mà
chúng tôi giới thiệu cho họ không phải là nền tôn giáo, vì chúng tôi
biết rằng Tây phương họ đã có tôn giáo của họ. Phật giáo không chỉ
là một tôn giáo, phần tín ngưỡng, tín mộ, cúng dường, bái sám, lễ
nghi chỉ là vỏ ngoài của đạo Phật. Nếu chọc thủng được cái vỏ tôn
giáo, tín ngưỡng là đi vào kho tàng tuệ giác của đạo Phật
(tiếng Anh dịch là Insight, tiếng Pháp dịch là Vision profonde hay
sagesse). Tuệ gíác là cả một kho tàng vĩ đại của Phật giáo, nếu biết
quán chiếu, học hỏi được theo tinh thần đó, mình có khả năng tháo gỡ
được tất cả những sợ hãi, bức xúc, căm thù, tuyệt vọng trong tâm của
mình …
Ở trong đạo
Phật có một nền tâm lý học rất là thâm sâu, thuộc về pháp tướng tông
của duy thức học Visvanavada, so với tâm lý học Tây phương thì nền
tâm lý học đạo Phật thâm sâu hơn nhiều. Chúng tôi đã khai thác, áp
dụng và mở những khóa tu cho các nhà tâm lý trị liệu Tây phương, mỗi
khóa có hàng ngàn người tới học. Họ học hỏi được rất nhiều từ tâm lý
học Phật giáo. Chúng tôi đi vào Tây phương không phải bằng cửa ngõ
của tín ngưỡng mà qua cánh cửa của tâm lý học, xã hội học và triết
học.
Trong đạo
Phật, phần tâm lý học đi đôi, không thể tách rời khỏi phần siêu hình
học. Từ cửa ngõ tâm lý học đi vào, thế nào cũng chạm tới bản thể
học ở trong Phật giáo. Hiện bây giờ khoa học Tây phương, nhất là
khoa cơ giới lượng tử Quantum mechanic lấy cảm hứng từ trong bản thể
học của Phật giáo rất là nhiều. Những giáo lý, những tuệ giác như là
không, duy thức, vô tướng, vô tác trở thành các nguồn cảm hứng lớn
cho các nhà khoa học, họ có hướng để đi tới sự tìm tòi! Tôi tin chắc
rằng: “thế kỷ thứ 21, trong đó là đạo Phật với khoa học, tay nắm tay
cùng đi với nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Nhà Bác học Einstein có nói là:
“Nếu có một tôn giáo đi đôi được với khoa học thì tôn giáo đó chính
là Phật giáo”.
Hãy là đóa
hoa, hãy là nụ cười…
Trong những
năm ở quê người, chúng tôi cũng tiếp tục viết sách, chúng tôi gởi về
nhà những bản thảo đó và có những cuốn sách chỉ được in chui vì tác
giả là Thích Nhất Hạnh không được chấp nhận. Nhưng ở ngoại quốc,
sách của tôi được phổ biến rất là rộng, có những cuốn nhắm vào hướng
đối thoại giữa Cơ Đốc giáo và Phật giáo như là cuốn, “Living
Buddha-Living Christ - Phật ngàn đời, Chúa ngàn đời” bán rất
chạy (best seller). Cuốn sách đó đi vào trong các tu viện kín, nó mở
ra cuộc đối thoại. Có nhiều nhà tu trong tu viện kín viết thư nói
rằng: “Cuốn sách đó tháo gỡ cho họ rất nhiều các điều nghi của Cơ
Đốc giáo, khiến cho họ hiểu Cơ Đốc giáo một cách sâu sắc hơn”.
Cuốn thứ hai là "Going Home, Buddha and Jesus are Brothers -
Chúng ta hãy về nhà đi thôi, Bụt và Chúa là hai anh em” chớ
không phải là hai kẻ thù đâu! Cuốn sách đó cũng bán rất là chạy.
Mùa giáng
sinh nào thiền sinh Tây phương cũng kéo nhau về Làng Mai rất là đông
như con cháu về nhà cha mẹ. Ở Làng Mai họ được tiếp xúc với giáo lý
đạo Phật mà không phải từ khước gốc rễ Cơ Đốc giáo của họ. Trái lại,
khi học hỏi, thực tập theo giáo lý đạo Phật, họ hiểu sâu sắc hơn
trong truyền thống Cơ Đốc giáo của họ. Mỗi mùa Giáng Sinh, tôi đều
nói một bài pháp thoại về đề tài Phật và Chúa, sau 10 năm, tôi cho
ghép hết mười bài đó lại thành một cuốn sách, đó là cuốn “Bụt và
Chúa là hai anh em”, cuốn sách đó đã giúp cho rất nhiều người
tháo gỡ được những khó khăn đối với nền tín ngưỡng của họ và chấp
nhận đạo Phật như một nền văn hóa, bỏ đi thái độ kỳ thị, khinh
miệt, coi thường mà họ đã có trong quá khứ.
Thiền sinh
tới Làng Mai ở bên Pháp hay tới những khóa tu mà chúng tôi tổ chức ở
các thành phố lớn ở Âu Châu và Mỹ châu. Họ không mang theo nhang
đèn, hoa quả hay phẩm vật cúng dường như Phật tử Việt Nam, họ đi với
hai tay không và họ tới với mục đích học hỏi, hành trì. Những bàì
pháp thoại nói về đạo Phật, tuệ giác đạo Phật không phải để chất
chứa kiến thức về Phật học mà là những pháp môn tu tập. Tại vì ở các
trường đại học, kiến thức Phật học được cung cấp khá đầy đủ và rất
khoa học.
Cái hay của
mình mà các trường đại học không có là những pháp môn tu tập.
Mình học được cái gì, mình đem áp dụng liền vào trong đời sống hàng
ngày của mình để có thể chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau,
những bức xúc, những xung đột nội tâm, làm lắng dịu thân tâm, thiết
lập được sự truyền thông, đem lại hạnh phúc với những người trong
gia đình.
Chúng tôi đã
giúp cho hàng biết bao nhiêu cặp vợ chồng, cha con, mẹ con hòa giải
được với nhau, thiết lập lại được hạnh phúc. Vì vậy họ đồn đãi với
nhau cho nên các khóa tu tổ chức ở Làng Mai càng ngày càng đông.
Chúng mình
còn đây, hôm nay và ngày mai nữa…
Trên thế
giới, chúng tôi đã thiết lập ra hàng ngàn cộng đồng gọi là Community
of mindfulness living, tức là cộng đồng sống theo nghệ thuật chánh
niệm. Chánh niệm là một trong những yếu tố tu tập của đạo Phật:
Niệm, Định, Tuệ. Có chánh niệm thì sẽ đưa tới định (Concentration),
sự tập trung tâm ý. Hễ có niệm, có định, thế nào cũng có tuệ giác.
Có tuệ giác thì tháo gỡ được những khó khăn, những bức xúc, những sợ
hãi, những lo lắng của mình.
Những cộng
đồng tu tập chánh niệm là do những thiền sinh đã tới tham dự những
khóa tu, họ đã thấy những lợi lạc: “Có an lạc, có hòa bình, có
hạnh phúc, có niềm tin ở sự sống”. Cho nên khi về tới địa
phương, thành phố của họ, họ đi kiếm các bạn khác đã từng thực tập,
thành lập ra một nhóm, một cộng đồng để mỗi tuần cùng tới với nhau
mà
tu tập, giống như họ đã được tu tập ở đạo tràng Mai Thôn hay ở tại
các khóa tu mà chúng tôi tổ chức như ở New York, Paris hay Londre. Ở
thành phố Luân Đôn, có trên mười cộng đồng như vậy, tại New York
cũng có trên mười cộng đồng tu tập, họ toàn là thiền sinh cư sĩ.
Hiện giờ
chúng tôi có khoảng một trăm giáo thọ xuất gia và vài ba trăm giáo
thọ cư sĩ. Đối với nhu cầu của thế giới, số lượng đó rất là nhỏ,
chúng tôi mong có thể đào tạo ra hàng ngàn vị giáo thọ như vậy để đi
tổ chức những khóa tu, vì mỗi khóa tu như vậy, mình có thể chứng
kiến được sự chuyển hóa của rất nhiều người.
Các bạn sẽ
thấy rằng nếu hiện đại hóa được cách dạy và thực tập đạo Phật, mình
sẽ giúp cho người thanh niên, người trí thức có được phương tiện tự
bảo vệ khi đi trong cuộc đời và không sa vào hầm hố của những tuyệt
vọng, những bức xúc. Đất nước đang có một cơ hội mới, một vận hội
mới, đạo Phật Việt Nam như là một di sản quí báu của nền văn hóa.
Nếu chúng ta làm mới được, đổi mới được cách học hỏi, giảng dạy và
thực tập sẽ là một đóng góp rất lớn lao cho quê hương đất nước. Đó
là niềm tin của chúng tôi!
Trong chuyến
về kỳ hai này, chúng tôi cũng chỉ tiếp tục làm công việc trong
chuyến về đầu là chia sẻ kinh nghiệm mà chúng tôi đã thu thập được
trong lúc thực tập. Những buổi họp mặt như họp mặt sáng nay cũng có
mục đích như vậy, chúng ta có cơ hội ngồi với nhau, chia sẻ những
kinh nghiệm, những khó khăn để chúng ta có thể làm mới được sự học
hỏi, giảng dạy và áp dụng tuệ giác quí giá vô song của Phật giáo vào
trong đời sống hàng ngày.
Xin cám ơn
quí vị.
Tiến sĩ
Bhupendra Kuman Modi
nói về
phim Đường Xưa Mây Trắng
(thầy
Pháp Ấn thoát dịch).
Trước tiên là
tôi xin gởi lời chào nồng ấm đến tất cả các bạn Việt Nam! Ngày hôm
nay, tôi được tiếp xúc với quí vị, thấy quí vị có khuôn mặt rất là
trong sáng, tôi biết rằng đạo Phật đã cắm rễ rất sâu trong nền văn
hóa Việt Nam. Tôi được may mắn sinh ra trên mảnh đất mà đức Bụt đã
sinh ra, đã sống và lớn lên trên mảnh đất đó. Tôi rất hạnh phúc được
tiếp nhận tuệ giác và đời sống của Bụt. Ngài không phải là một vị
thần linh, Ngài là người sáng lập ra một truyền thống tâm linh đầy
nhân bản mà trước đó ở Ấn Độ thì mang tính thần thánh nhiều hơn.
Đức Bụt Thích
Ca với sự thực tập chánh niệm của mình, đã chuyển hóa được bản thân
và có khả năng chuyển hóa được cả xã hội. Cuộc đời của Ngài không
những tạo nên cho mọi người sự phấn khởi, mà nó cũng là một bản
thiên hùng ca. Cái quan trọng là chúng ta phải kể lại cuộc đời của
Ngài như thế nào đó với thế giới để thế giới thấy được điều này.
Trong vòng hai mươi năm qua, bản thân tôi cũng cố gắng thực hiện
cuốn phim về cuộc đời của Bụt theo chiều hướng đó. Cách đây hai năm
rưỡi, tôi được bầu làm chủ tịch hội Maha Bodhi Society (Đại
Bồ Đề). Trong hội Maha Bodhi Society, chúng tôi đã thảo luận, bàn
cãi về cách thức để thực hiện cuốn phim này. Vị Tổng Giám đốc hội
Maha Bodhi Society đã đưa cho tôi quyển sách Đường Xưa Mây Trắng mà
tác giả là thiền sư Thích Nhất Hạnh. Lần đầu tiên tôi bị thuyết phục
ngay khi đọc quyển sách này: “Đây là quyển sách mình có thể dùng
làm nền tảng cho cuốn phim cuộc đời của Bụt”. Cái đặc biệt của
Đường Xưa Mây Trắng là kể về cuộc đời Bụt như một con người, ngài
cũng đi qua những lo sợ, hồi hộp, khổ đau giống như tất cả mọi người
chúng ta.
Chúng tôi tìm
cách liên lạc với tác giả quyển Đường Xưa Mây Trắng, nhưng không dễ
dàng lắm. Chúng tôi tìm đến Mỹ thì được cho biết rằng: “Để gặp
tác giả, chúng tôi phải đi qua Pháp”.
Tôi và vị
giám đốc cùng một số vị dân biểu quốc hội Ấn-Độ khăn gói lên đường
tìm đến Làng Mai để gặp cho được tác giả Thích Nhất Hạnh. Khi gặp
được tác giả thì công việc cũng rất là đơn giản, vấn đề được giải
quyết rất là nhẹ nhàng, tác giả đã hiến tặng cho chúng tôi tác phẩm
Đường xưa mây trắng mà không đòi hỏi một đồng tác quyền nào
cả. Ngài nói: “Đây là sự cúng dường cho tam bảo, cho Bụt, một sự
cúng dường trong sáng, để cuộc đời của Bụt được kể lại, được truyền
bá!” Tôi cảm thấy rất là xúc động và biết đây thật sự là người
mà mình có thể làm việc chung được, mình đã tìm đúng người rồi!”
Vấn đề khó
khăn là quyển sách này rất là dầy mà mình chỉ làm cuốn phim trong
vòng hai tiếng đồng hồ thôi. Chúng tôi thấy mình cũng có quan niệm
cùng với tác giả là mình kể lại toàn thể cuộc đời của Bụt chớ không
phải là một mảnh nào đó trong cuộc đời của Ngài. Đó có thể là một
điều khó khăn cho cuốn phim chỉ dài có hai tiếng đồng hồ.
Tôi và ông
Giám đốc phim là Michel Shane (một nhà Giám đốc phim rất là nổi
tiếng, đã thực hiện những phim như: Catch me if you can, I robot) sẽ
đi tìm người nào đó có khả năng viết phim bản, biến quyển sách rất
dầy này thành hai tiếng đồng hồ cho cuốn phim cuộc đời Bụt Thích Ca.
Rất nhiều nhà viết phim bản, họ cũng rất là lo và e ngại khi phải
chuyển toàn bộ quyển sách dầy cộm đó thành một cuốn phim chỉ dài hai
tiếng đồng hồ.
Chúng tôi rất
may mắn, đã tìm được ông David Ward (ông đã nhận được giải Oscar về
phim ảnh ở bên Mỹ), ông ta đã đồng ý chuyển quyển sách Đường Xưa Mây
Trắng thành phim bản.
Sau khi anh
David Ward viết xong, anh cũng cần sự chấp thuận của tác giả, xem
tác giả có đồng ý hay không? Đó là một sự khó khăn khác nữa! Cũng
không dễ dàng mời anh viết phim bản này tới Làng Mai - Pháp quốc
được, nhưng mà cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được thời gian và
khung cảnh thích hợp cho buổi tổ chức. Chúng tôi mời đức Đạt Lai Lạt
Ma đến, cũng có mời Thiền Sư Nhất Hạnh đến nói chuyện về ngày kỷ
niệm 11.09 tai nạn khủng bố tại Trung tâm Thương mãi ở New York. Sau
đó chúng tôi mời anh David Ward tới để gặp tác giả quyển Đường xưa
mây trắng. Đức Đạt Lai Lạt Ma rất lấy làm đắc ý về tác phẩm Đường
Xưa Mây Trắng và rất là mong mõi cuộc đời Bụt Thích Ca được dựng
thành phim theo bộ truyện này. Thiền sư Nhất Hạnh cũng gặp David
Ward và hai người rất là tâm đắc với nhau, do đó chương trình rất là
thành công.
Quyển sách
viết rất là hay, nó là một thiên anh hùng ca về cuộc đời đức Bụt
Thích Ca, chúng tôi rất mong cuốn phim cũng thể hiện được nét hào
hùng đó. Hiện nay, chúng tôi dự kiến là cuốn phim sẽ tốn chừng 120
triệu Mỹ kim. Tại Hollywood, nếu mình làm cuốn phim, vấn đề về pháp
lý rất là quan trọng, có nhiều chuyện mình phải thực hiện, một trong
những chuyện đó là mình phải có đủ số tiền 120 triệu Mỹ kim thực
hiện cuốn phim đó. Hiện nay chúng tôi được nhiều người hổ trợ để
thực hiện chuyện phim đó, chúng tôi được Michel Shane và anh David
Ward cộng tác chung, thêm vào đó chuyện Đường Xưa Mây Trắng cũng rất
nổi tiếng, cho nên chúng tôi có rất nhiều hy vọng.
Như quí vị
biết, cộng đồng làm phim ở Hollywood, phần lớn là những người Do
Thái, do đó cũng rất là khó để thuyết phục họ thực hiện phim về cuộc
đời của Bụt. Ở tại Hollywood cũng có điều rất lạ hiện nay là có
nhiều người Do Thái rất thích đạo Phật. Họ trở thành những nhà Phật
giáo-Do Thái giáo, họ tự gọi là JUBU (Juish-Buddh) vừa có gốc rễ của
Do Thái giáo, vừa có gốc rễ của Phật giáo. Cộng đồng của những người
đó, hiện nay họ cũng họp lại để thảo luận, thực hiện cuốn phim này.
Họ cũng đồng ý với nhau là đã tới lúc mình cần phải thực hiện cuốn
phim về cuộc đời đức Bụt Thích Ca.
Chúng tôi
cũng nhận được sự nâng đỡ rất nhiều từ chánh quyền Ấn Độ, cơ quan
văn hóa, giáo dục tại Ấn Độ hỗ trợ để thực hiện cuốn phim này. Chúng
tôi rất mong cuốn phim như là một thông điệp về đời sống của Bụt.
Đặc biệt là có thể trao truyền lại cho các giới trẻ! Tôi là một nhà
doanh nhân, tôi thấy cách hay nhất để sử dụng số tiền của tôi cho có
ý nghĩa là thực hiện cuốn phim này. Thế giới hiện nay cũng rất sẵn
sàng chấp nhận tạo dựng nên một cộng đồng mà trong đó có sự bình
đẳng và bất bạo động. Cuốn phim này đóng góp rất nhiều cho việc tạo
dựng một nền tảng, cấu trúc xã hội mới mà nền văn hóa bất bạo động
có thể thực hiện được.
Chúng tôi dự
định thực hiện cuốn phim này trên 100 ngôn ngữ khác nhau và người
Việt có thể xem cuốn phim này qua ngôn ngữ của mình. Chúng tôi rất
mong nhận được sự nâng đỡ của quần chúng Việt Nam trong vấn đề thực
hiện cuốn phim này. Chúng tôi cũng nghĩ rằng với cuốn phim này thì
người Việt Nam và những người Ấn Độ sẽ đến gần với nhau hơn, cũng
như đến gần với tất cả người dân trên thế giới.
Chúng tôi xin
cảm ơn và nếu đại chúng có ai có câu hỏi gì xin hỏi và chúng tôi sẽ
trả lời.
Thiền sư
Nhất Hạnh :
Mình đã tìm ra được người đóng vai Bụt chưa?
Tiến sĩ
Kuman Modi:
Có danh sách
chừng 20 người xin được đóng vai
Bụt,
trong đó có diễn viên Ấn Độ, có diễn viên Mỹ và cũng có rất nhiều
thơ hỏi về chuyện này. Có rất nhiều sách nói về khuôn mặt, hình dáng
của Bụt. Công việc đang tiến hành để tìm ra cái nét mà mình có thể
tạm gọi là nét của Bụt, họ đang thiết kế khuôn mặt Bụt bắng máy vi
tính nhưng hiện nay chưa đúc kết được là khuôn mặt Bụt sẽ như thế
nào.
Hỏi :
Đã đủ kinh phí 120 triệu chưa? Và có cần kêu gọi thêm những nhà hảo
tâm để thực hiện cuốn phim này không?
Tiến sĩ
Kuman Modi:
Chúng tôi có tiền, 120 triệu Mỹ kim đối với tôi không thành vấn đề.
Nhưng cũng có rất nhiều người muốn đóng góp vào trong cuốn phim này,
tuy nhiên chúng tôi không muốn sử dụng số tiền muốn đóng góp này
trước khi cuốn phim được thực hiện. Điều quan trọng là chúng tôi
muốn những nhà tài trợ này có cùng chung một mục đích, một hướng đi
chung với chúng tôi. Bản thân tôi đã dọn nhà đến Beverly Hills ở bên
Mỹ, để sống bên đó và để thực hiện cuốn phim này. (Beverly Hills là
thành phố có rất nhiều nhà làm phim ảnh, đạo diễn, tài tử sống ở
đó).
Hỏi :
Có
thể có vóc dáng của người Việt Nam đóng vai Bụt trong phim Đường Xưa
Mây Trắng không ạ?
Tiến sĩ
Kuman Modi Modi:
Đức Bụt sinh ra trước đây hơn 2500 năm tại Ấn Độ và trong thời gian
qua đã có rất nhiều di dân từ Ấn Độ đi tới những miền khác trên thế
giới, do đó những nét đặc biệt của Bụt mình có thể tìm thấy ở khuôn
mặt của bất kỳ người nào trên thế giới đến từ vùng mà Bụt đã sinh ra
và lớn lên. Rất có thể mình sẽ tìm được một người mà khuôn mặt giống
như vậy. Tuy nhiên điều quan trọng nhất là khả năng diễn xuất của
người tài tử đó. Có những tài tử Mỹ rất là xuất sắc, nhưng muốn diễn
xuất vai Bụt cho trung thực thì không phải là chuyện dễ dàng và thể
hiện được cách sống của Bụt là vấn đề cũng rất khó. Hiện nay mình có
thể tìm những nhân vật đó ở khắp nơi trên thế giới. Người viết tác
phẩm cuộc đời của Bụt lại là người Việt Nam, do đó người Việt Nam
nào có khả năng và có được khuôn mặt như vậy thì cũng có thể đóng
được vai Bụt. Chúng tôi rất là cởi mở!
Đạo diễn
Lê Cung Bắc:
Chúng tôi sắp quay một cuốn phim nói về Phật giáo có bối cảnh Việt
Nam và Ấn Độ. Bộ phim của chúng tôi cũng dài 120 phút nhưng mà kinh
phí chỉ bằng một phần nghìn kinh phí của ông nhưng đến giờ cũng
chưa có đủ. Xin ông một vài ý kiến, với số tiền 120 ngàn Mỹ kim, làm
sao có thể làm một bộ phim dài 120 phút?
Tiến sĩ
Kuman Modi:
Cũng có những cuốn phim ở Ấn Độ đã thực hiện với một mức độ tài
chánh ít hơn. Tuy nhiên cuốn phim Đường Xưa Mây Trắng mà tôi muốn
thực hiện mang tính chất toàn cầu và trình bày nhiều nền văn hóa
trên cả thế giới. Mà cuốn phim này mình muốn thực hiện như một bản
hùng ca về cuộc đời Bụt Thích Ca, do đó mình muốn những khán thính
giả khi họ vào giống như là họ được sống lại trong thời gian đó, từ
vấn đề quần áo của thời đó, từ những cung điện ngày thời đó và những
cuộc chiến tranh đã được xảy ra như thế nào, thì mình cũng phải làm
giống như vậy, mình không thể cắt gốc được, mình không thể làm đơn
giản vấn đề mà mình phải đi vào chi tiết, chi tiết hóa rất là nhiều
chuyện và tiền 120 triệu Mỹ kim đó, chỉ là số tiền sản xuất cuốn
phim thôi, ngoài ra mình còn phải chi tiêu về phát hành, phân phối
và quảng cáo về phim. Để quảng cáo người ta chú ý về phim, mình còn
phải bỏ ra ít nhất là 150 triệu Mỹ kim nữa. Nếu mình làm cuốn phim
riêng của đất nước mình, cho con người riêng của mình, cho ngôn ngữ
riêng của mình thôi, có thể số tiền ít hơn, gọn hơn. Và trong qua
khứ có những cuốn phim làm với mức tài chánh khác nhau.
Sư cô Định
Nghiêm :
Ông đã có dự tính ngày nào cho những tài tử, đạo diễn về Làng Mai tu
tập với chúng tôi?
Tiến sĩ
Kuman Modi:
Gợi ý để cho các diễn viên, cũng giống như là nhà đạo diễn, giám đốc
phim đến sống ở Làng và tu tập một thời gian. Cái gợi ý đó rất là
tốt, tuy nhiên ở bên Pháp hơi xa, Làng cũng có tu viện Lộc Uyển ở
Mỹ, miền Nam Cali, gần Hollywood, do đó có thể mời đoàn làm phim đến
sống ở đó. Tôi cũng nghĩ rằng các diễn viên cũng như các vị đó, họ
qua, họ sống qua hai, ba ngày của cuối tuần, họ cũng có thể thực tập
được. Ông viết phim bản David cũng có cơ hội đến Lộc Uyển sống một
vài ngày, ông ta nói ngày 15 tháng 8 năm nay qua Mỹ, ông ta hy vọng
lúc đó biết được trong đoàn làm phim là người nào sẽ thực hiện vai
trò như thế nào, như vậy có thể tổ chức được khóa tu hai, ba ngày gì
đó cuối tuần để cho những người này, họ đến tham dự.
Thiền sư
Nhất Hạnh (bổ túc thêm):
Các diễn viên cũng như là đạo diễn phải tới tu ít nhất là vài ba
tuần, chớ vài ba ngày không đủ, tại vì khi mà mình đóng vai trò của
Bụt, của các đại đệ tử thì khi đi đứng, nằm ngồi, nói năng phải biểu
hiện ra chất liệu của thảnh thơi, của hòa bình, của từ bi. Nếu diễn
viên giả bộ từ bi, giả bộ thảnh thơi thì hơi khó. Phải có từ bi
thật, phải có thảnh thơi thật, phải có ái ngữ thật và cái đó phải
thực tập thật chớ mình giả bộ là không có được. Đó là điều kiện duy
nhất mà tôi đưa ra khi tôi ký hợp đồng với tổ chức này là “chúng
tôi không lấy đồng nào với điều kiện là các vị phải tới tu ba tuần.”
Hỏi:
Câu hỏi thứ nhất là mục đích làm phim của ông, ông có tham vọng thu
lại đủ số tiền mình bỏ ra hay không? Câu hỏi thứ hai là : lúc đó tâm
lý của ông khi bỏ số tiền đầu tư vào làm phim là như thế nào? Điều
gì đã làm ông quyết định bỏ số tiền lớn vào trong cuốn phim đó ?
Tiến sĩ
Kuman Modi:
Tôi là một nhà doanh nhân, khi thực hiện sự nghiệp của tôi bằng cách
giới thiệu vào Ấn Độ những điều rất là mới, giống như là máy
photocopy đầu tiên tại Ấn Độ do chúng tôi sản xuất, những máy fax,
những máy computer, những điện thoại di động, khi mà chúng ta giới
thiệu những kỷ thuật mới thì chúng ta lấy tiền lại liền vì họ có
tham dự vào. Vấn đề làm phim này, tôi nghĩ xã hội ở Ấn Độ hiện nay
đã cũng sẵn sàng cho một điều gì đó mới, có một sự thay đổi mới.
Trước đây mình cũng có những cuốn phim bạo động, về chiến tranh hoặc
là về những chuyện tình cảm, tình yêu rất bình thường. Bao nhiêu năm
nay, nó đã đi theo cái vòng đó. Bây giờ cuốn phim về cuộc đời của
Bụt tôi hy vọng đưa một cái gì mới cho xã hội Ấn Độ. Tôi nghĩ xã hội
Ấn Độ hiện nay có thể mở lòng ra chấp nhận chuyện đó. Điều quan
trọng là nếu như cuốn phim này mà tất cả các giới thanh niên trẻ
tuổi của thế giới, họ cảm thấy có sự phấn khởi về một đời sống mới.
Đời sống, trong đó có hòa bình chớ không phải chỉ có chiến tranh,
bạo động. Nếu lớp trẻ, thanh thiếu niên thích thì lấy lại số tiền đó
không khó khăn gì.
Hỏi:
Ông chuẩn bị làm cuốn phim về Bụt Thích Ca, cái quan trọng nhất là
chọn người thể hiện được từ bi, hỉ xả như Bụt Thích Ca. Trong lúc
sàn lọc chọn diễn viên, ngoài
khả năng diễn xuất, ông có thêm tiêu chuẩn về phẩm chất, đạo đức của
người diễn viên đó hay không? Ông có nghĩ đến khó khăn khi làm đoạn
phim đức Bụt tu khổ hạnh 6 năm mới đạt được sự giác ngộ hay không?
Tiến sĩ
Kuman Modi :
Về câu hỏi thứ nhất tôi cũng đồng ý với anh bạn, hiện nay dự kiến
tìm một tài tử giỏi, một nhà diễn xuất giỏi có tài năng tuy nhiên
người đó có thể không nổi tiếng trước đây, chưa từng được biết đến.
Những diễn viên đã nổi tiếng rồi, họ đã được quần chúng có khái niệm
về tốt, xấu. Họ đánh giá nhiều khi không có lợi lắm. Còn tài tử có
khả năng diễn xuất hay nhưng mà chưa biết đến, nó sẽ tạo ra hình ảnh
mới hơn.
Về điểm thứ
hai, cấu trúc cuốn phim có thể chia ra làm 3 phần về cuộc đời của
Bụt. Phần thứ nhất là Bụt được sinh ra, lớn lên và sau đó Ngài đi
cầu đạo. Thời gian Ngài cầu đạo là giai đoạn thứ hai và giai đoạn
thứ ba là Ngài kinh qua khả năng chuyển hóa tự thân của Ngài, Ngài
đã giúp thay đổi xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Trong cuộc đời của Bụt,
theo người ta nhận thấy trong khoảng 200 năm, kể từ khi Bụt bắt đầu
hành đạo, trong vòng 200 năm đó, xã hội lúc đó có sự hòa bình, rất
nhiều nhà vua trở thành đệ tử của Bụt, do đó Bụt là Vua của những vì
vua, đó là sự thành đạt rất lớn. Vấn đề trong cuốn phim không những
trình bày những phần khác, nhưng phần thứ ba này cũng rất là quan
trọng, làm sao chuyển hóa tự thân của mình để giúp chuyển hóa xã hội
chung quanh mình. Điều đó cũng rất là quan trọng.
Buổi tiếp
chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, và phần họp báo của Tiến sĩ
Kuman Modi
được
chấm dứt với lời chia tay của Ban Tổ Chức.
|