.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

... Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (... ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (... )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh.

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

Nghệ thuật sống thiền :


Hạnh phúc gia đình, tương lai con cái

 

  • Tháng IV 2007 - Phúc Quảng  biên tập :
    Pháp thoại
    của Sư ông Làng Mai ngày 4 - III - 2007 tại tu viện Bát Nhã - Lâm Đồng
    trong Khóa Tu cho người Cư Sĩ từ : 28 - II đến 4 - III - 2007
    .
    Â
    m thanh MP3 : 
    Phần 1 (13MB)   Phần 2 (10MB)
     

Kính thưa đại chúng hôm nay là ngày mùng 4 tháng 3 năm 2007, chúng ta đang ở tại tu viện Bát Nhã trong khóa tu dành cho những người cư sĩ. Và hôm nay là ngày thứ năm của khóa tu.

 

Căn bản của Yêu Thương: Sự có mặt tươi mát

Khi mình thương ai thì mình phải hiến tặng cho người thương đó sự có mặt của mình, sự có mặt tươi mát, dễ chịu của mình. Sự có mặt tươi mát là  món quà quý nhất mà mình có thể hiến tặng cho người mình thương. Người mình thương có thể là ba hay mẹ mình, là con trai, con gái của mình, là người yêu của mình, là cháu của mình. Không có tình thương thì sự sống khô cằn, không có sức sống. Vì vậy cho nên sống thì phải thương. Nhưng có nhiều người càng thương thì càng khổ, lại có những người càng thương thì càng hạnh phúc.

Đức Thế Tôn là một người có lòng thương rất lớn và tình thương của ngài bao trùm được rất nhiều người, bao trùm được cả những loài khác. Như vậy đức Thế Tôn càng thương thì ngài càng có hạnh phúc. Còn chúng ta, nếu không học cách thương, không biết thương thì càng thương mình làm cho người thương khổ đau. Nếu không biết thương thì làm cho người thương bị thương.

Nhiều người cha thương con lắm, muốn cho con nên người thành đạt, nhưng không biết thương. Cho nên càng thương thì đứa con trai, đứa con gái càng khổ. Vì không hiểu được con mình, không hiểu được những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc của con mình. Khi nào cũng nóng nảy, khó chịu, không có sự tươi mát, dễ chịu để hiến tặng cho con trai hay con gái của mình. Tôi tuy không có con huyết thống nhưng tôi có rất nhiều con tinh thần, con tâm linh, có nhiều đệ tử xuất gia và tại gia. Tôi nghĩ là tôi phải làm thế nào để mỗi ngày có sự tươi mát, có sự dễ chịu, có sự thong dong để hiến tặng cho những người đệ tử của mình. Tôi tập đi thong dong, tập thở nhẹ nhàng, tập mỉm cười, tôi tập tươi mát. Tôi nghĩ đó là món quà đẹp nhất, quý nhất mà tôi có thể tặng cho những người đệ tử.

 Ông cũng vậy, ông là người cha, ông muốn thương con, ông muốn thương bà thì ông phải làm sao có sự tươi mát, có sự dễ chịu, có sự thảnh thơi. Nếu ông nóng nảy quá, cau có quá, thì tuy ông muốn cho vợ con có hạnh phúc nhưng ông làm cho vợ ông và con ông đau khổ. Cho nên ông phải tu tập như thế nào để đừng cau có, đừng gắt gỏng, đừng giận hờn, đừng nói những lời quá nặng. Lúc đó ông có thể hiến tặng sự có mặt tươi mát dễ chịu thong dong, nhẹ nhàng cho những người ông thương. Bà cũng vậy, bà cũng phải tu như thế nào để giữ được sự tươi mát, sự dễ chịu của bà. Chính cái đó là món quà quí nhất mà bà có thể tặng ông và tặng cho các con. Bà phải có khả năng mỉm cười, phải có khả năng nhìn ông bằng con mắt thương yêu, không trách móc, không hờn oán. Cái đó không phải không tu mà làm được. Nhìn bằng con mắt thương yêu, không oán trách. Đó là một câu kinh trong kinh Pháp Hoa: Từ Nhãn Thị Chúng Sanh, dùng con mắt từ bi để nhìn mọi người. Trước hết mình nhìn người chồng, người vợ của mình, nhìn những đứa con của mình bằng con mắt thương. Và khi nói, mình nói những lời thương, những lời dịu dàng, từ ái gọi là ái ngữ, mình phải tập. Mình là đứa con, muốn tỏ lộ tình thương của mình đối với cha đối với mẹ, cũng vậy, phải có sự tươi mát, có sự dịu dàng, phải biết nhìn cha bằng cặp mắt thương yêu, phải biết nói với cha những lời nhẹ nhàng đầy ân tình, phải nhìn mẹ bằng con mắt biết ơn, bằng cái nhìn biết ơn và phải biết nói với mẹ những lời dịu dàng ái ngữ.

 

Bài tập bông hồng cài áo

Sáng hôm nay chúng ta làm lễ bông hồng cài áo. Đoản văn bông hồng cài áo là một bài thực tập. Mình biết mẹ còn sống, mình muốn nói với mẹ một câu để cho mẹ hạnh phúc mà mình cũng hạnh phúc. Mình bận rộn quá, mình có bao nhiêu công việc ở trong trường hay trong sở làm, đến khi về thì mình mệt quá rồi, không có thì giờ để ngồi với mẹ, mình không trân quí sự có mặt của mẹ. Cứ sống ngày này qua ngày khác như vậy, một ngày nào đó mẹ sẽ mất và mình sẽ có cảm tưởng là chưa bao giờ thật sự có mẹ. Cho nên mỗi ngày phải trân quí sự có mặt của mẹ. Muốn thương mẹ thì mình phải hiến tặng cho mẹ sự có mặt tươi mát của mình và phải công nhận sự có mặt quí giá của mẹ. Đó là bài tập bông hồng cài áo.

Chiều nay đi làm về hay đi học về, mình đi những bước rất thảnh thơi nhẹ nhàng, đi vào chỗ của mẹ, bắt đầu thở, bắt đầu nhìn mẹ bằng ánh mắt của sự quí mến. Mình đứng bên mẹ, tới gần bên mẹ, ngồi xuống, để tay lên vai mẹ hay là lên cánh tay của mẹ. Mình hỏi  ' mẹ ơi, má ơi, má có biết gì không?'  Mẹ mình hơi ngạc nhiên một chút. Không biết có chuyện gì, nhưng chắc là tin mừng, vì cái mặt nó rất tươi. Lúc đó mình tươi mát, dịu dàng. Thành ra mình nói ' má ơi má có biết gì không? '. Má sẽ không hoảng, má mới hỏi 'chuyện gì đó con'. Rồi mình nói 'má ơi, má có biết là con thương má không.' Câu đó có nghĩa là 'con trân quí sự có mặt của má, con biết ngày nào đó má sẽ ra đi và con sẽ không hưởng được sự có mặt của má. Cho nên hôm nay con đang có mặt đây để hưởng thụ, mừng sự có mặt của má. Mẹ đang còn sống, đó là một niềm vui.

Thương trước hết là có mặt cho người mình thương. Mà sự có mặt này phải là sự có mặt tươi mát chứ không phải sự có mặt cau có. Xin quí Phật tử nhớ như vậy. Dù mình đem về nhiều tiền nhưng mặt mình cau có, gắt gỏng thì cái đó không đủ để làm hạnh phúc cho người mình thương. Thương trước hết là hiến tặng sự có mặt tươi mát của mình. Thứ hai, thương tức là công nhận sự có mặt quí giá của người kia, của người mình thương.

Mẹ ơi, con biết mẹ còn sống, con rất trân quí sự có mặt của mẹ. Ba ơi con biết ba còn sống, con rất trân quí sự có mặt của ba. Tưởng tượng một ngày nào đó mẹ không còn nữa, ba sẽ không có mặt nữa. Tự nhiên lúc đó hai cha con, hai mẹ con được sống trong giây phút hiện tại tuyệt vời. Người con có mặt cho cha và sự có mặt của người cha được công nhận là quí giá. Được thương tức là được công nhận rằng đang có mặt. Nếu nói mình thương mà mình không thèm để ý, không có thì giờ để ý người thương, cái đó chưa phải là thương. Ví dụ bà ngồi đó, ông ngồi đây, ông cứ nghĩ chuyện này chuyện khác, ông làm ngơ, ông làm như bà không có mặt. Hay là ông đang lái xe, bà ngồi bên cạnh ông, ông cứ nghĩ tới chuyện làm ăn, chuyện buôn bán, chuyện danh lợi. Ông loại bà ra khỏi vùng chú ý của ông, thì bà không có cảm tưởng là bà đang được thương. Ông phải nói rằng 'em, anh biết là em đang ngồi bên anh và chúng mình đang trên đường từ Sài Gòn lên Bảo Lộc'. Nói như vậy tức là bà đang nằm trong vùng chú ý của ông. Tôi xin nhắc lại, thương trước hết là có mặt tươi mát cho người mình thương và thứ hai là công nhận sự có mặt quí giá của người mình thương. Hai cái đều là sự có mặt hết, mà phần lớn những người sống trong xã hội này họ không có mặt cho nhau, họ lo làm giàu, họ để hết thì giờ vào thị trường chứng khoán, họ đọc báo, họ nghe radio, họ chỉ để ý đồng đôla lên hay là xuống. Cho nên không còn thì giờ để tự chăm sóc cho chính mình và không còn thì giờ để chăm sóc cho những người thương của mình. Dầu có nhiều tiền đi nữa cũng không có hạnh phúc,

 Tôi đã gặp nhiều ông tỉ phú, nhiều bà tỉ phú nhưng họ rất nhiều khổ đau, họ không có hạnh phúc vì họ không biết tu tập để có mặt cho người họ thương, họ bỏ bê vợ, họ bỏ bê con, họ chạy theo sự nghiệp của họ.

Như quý vị có một cái điện thoại di động đem lên Bảo Lộc. Ông không đi khóa tu được. Bà có thể thở một vài hơi cho khỏe, rồi bấm số và ông trả lời. Bà nói như thế này 'anh ơi, ở trên này đẹp lắm, vui lắm, em được sống bốn năm ngày hạnh phúc và em rất tiếc là anh không có mặt. Nếu có anh ở đây thì cuộc đời em hoàn toàn đầy đủ. Ở trên này gần như tuyệt hảo, nếu có anh chắc chắn là tuyệt hảo', nói như vậy đó. Thì ông biết rằng sự có mặt của ông rất quan trọng cho bà. Mà đâu phải nói nhiều. Ít hơn một phút có thể nói câu đó được rồi. Đó là lời nói yêu thương, nó chứng tỏ rằng mình trân quí sự có mặt của người kia.

Bông hồng cài áo là như vậy đó. Mẹ ơi, mẹ có biết là con thương mẹ không. Mẹ có biết là con trân quí sự có mặt của mẹ bên con không. Con có phước lắm mới có được mẹ đang sống với con. Đó là công nhận sự có mặt quí giá của người mình thương.

Con trai mình, mình la mắng nó, mình rầy rà nó nhưng mình biết rằng một ngày nào đó nó sẽ ra ở riêng, nó lập gia đình hoặc nó đi du học, hoặc nó đi làm xa. Mình đâu có thấy nó mỗi ngày nữa. Thành ra mình nói ' này con trai của ba, bây giờ con đang còn nhỏ ba được sống với con, chứ mai mốt con hai bốn hai lăm tuổi con đi chỗ khác, con lập gia đình rồi con đâu có thì giờ để ngồi chơi với ba nữa, cho  nên ba rất là quí sự có mặt của con '. Cái đó là thương. Ông phải tập nói những câu như vậy. Bà phải tập nói những câu như vậy. Trước hết ông bà nói với nhau. Sau ông bà nói với các con và tập cho các con cũng nói được như vậy.

 

Hạnh Phúc gia đình - Tương lai con cái

Có nhiều gia đình trong đó bố mẹ không nói chuyện được với nhau, không thấy sự có mặt của người kia là tươi mát là quí hóa, thậm chí còn muốn ly dị, ly thân. Trong một gia đình như vậy, đứa con lớn lên làm gì có hạnh phúc, nó không tin vào hạnh phúc gia đình, nó thấy gia đình là địa ngục, vì ông làm khổ bà, bà đay nghiến ông. Nhiều đứa con chịu không nổi những cơn bão táp gia đình xảy ra hoài và nó khổ lắm. Nó mới năm, sáu tuổi, nó chịu đựng không nổi ba với má cãi nhau, ba làm khổ má, má làm khổ ba. Sống trong chung cư nó không trốn được.

Ngày xưa, mình ở nhà quê, có ao cá, có vườn trái cây; mỗi khi có chuyện không vui trong gia đình mình chạy ra ngoài ao chơi, leo cây. Còn ở chung cư thì chạy đi đâu. Có những đứa bé năm tuổi trốn vào cầu tiêu, khóa cầu tiêu lại, nó khóc. Ông đâu có biết, bà đâu có biết là đứa con nhỏ của mình rất đau khổ vì ông bà đang làm khổ nhau.

Tôi có viết những bức thư pháp nho nhỏ ' ba ơi nhìn lại để thương mẹ nhiều hơn', 'mẹ ơi nhìn lại để thương ba nhiều hơn', 'hạnh phúc của ba mẹ là gia tài của chúng con', 'hạnh phúc của ba mẹ là vốn liếng của chúng con'. 'Nếu ba mẹ không có hạnh phúc thì chúng con không có vốn liếng gì hết trong đời sống của chúng con'. Đó là những tiếng chuông chánh niệm cho những bậc làm cha làm mẹ. Nếu mình không có hạnh phúc với nhau thì các con lớn lên sẽ đau khổ, tại mình không có gì để trao truyền cho các con. Cái trao truyền quí nhất cho các con là hạnh phúc của mình với nhau. Đó là tiếng nói của người trẻ. Chúng con không cần ba má để lại cho con tiền bạc, ruộng đất. Chúng con chỉ cần ba mẹ sống với nhau cho có hạnh phúc là chúng con sung sướng nhất rồi. Đó là món quà quí nhất mà ba mẹ có thể để lại cho chúng con. Đó là gia tài của chúng con thừa hưởng từ ba mẹ. Đó là vốn liếng của chúng con sau này khi ra đời. Khi nó thấy ba cưng chiều mẹ, nói những lời ngọt ngào với mẹ, chăm sóc mẹ. Mẹ nói những lời ngọt ngào với ba và chăm sóc ba thì tự nhiên sau này nó sẽ biết làm như vậy đối với người yêu của nó. Nó học từ ba, từ mẹ cái bài học thương yêu. Không phải học từ lời nói, học từ những bài giảng mà học từ cách cư xử của ba đối với mẹ hay mẹ đối với ba.

Gia đình là một trường học của yêu thương. Ba mẹ là giáo sư dạy về yêu thương. Nếu ba mẹ thất bại thì các đứa con sau này lớn lên sẽ không biết yêu thương và chăm sóc người thương của nó. Chuyện này là chuyện mình phải học.

Khi quý vị tới khóa tu, học đi, học thở, học mỉm cười, học nhìn sâu, học tha thứ, học xót thương là để thực hiện chuyện đó. Thấy được người kia có những khó khăn, những khổ đau, bức xúc thì hiểu được người kia và không trách móc nữa. Dù người kia có nói một câu nặng nề hay làm một cái gì đó hơi phũ phàng, mình cũng tha thứ được và có thể nói được những lời yêu thương. Mình có những hành động tỏ lộ sự yêu thương thì tự nhiên người kia sẽ từ từ thay đổi và sự truyền thông giữa hai người sẽ được thiết lập. Còn nếu không tu tập, thì gia đình sẽ trở nên địa ngục. Những đứa con sẽ khổ đau, chúng nó sẽ đi tìm sự khuây khỏa ở bên ngoài và chúng sẽ sa vào hầm hố của ma túy, của băng đảng, của đĩ điếm.

Những tệ nạn xã hội xảy ra rất nhiều trong thời đại của chúng ta. Nhà nước có chương trình thành lập những khu phố văn hóa, những thôn văn hóa, những ấp văn hóa. Nghĩa là nhà nước muốn trong những khu phố, những thôn ấp đó không xảy ra những tệ nạn xã hội như ma túy, băng đảng, thanh niên tự tử, đĩ điếm. Nhưng những phương tiện của nhà nước chỉ là kiểm soát và trừng phạt thôi. Chính sự tu học mới chuyển hóa gia đình trở thành ra một nơi dễ chịu. Nếu ba má tu tập, hòa giải được với nhau, nói với nhau được những lời thương yêu thì đứa con nó bắt đầu có niềm tin nơi hạnh phúc gia đình và nó sẽ không tìm ra ngoài để bị lọt vào cái ổ của ma túy, của băng đảng. Cho nên tu học, thọ trì năm giới, thực tập năm giới xây dựng lại gia đình là công tác căn bản cho sự thành công của những khu phố văn hóa.

Trong các thiền viện, tu viện các thầy các sư cô được học hỏi để có thể mở những khóa tu cho người cư sĩ, để có thể giúp cho những cặp cha mẹ, cha con, mẹ con hòa giải được với nhau, đem lại hòa điệu và hạnh phúc trong gia đình. Đó là công tác căn bản để xây dựng những khu phố văn hóa, những thôn ấp văn hóa. Trước hết chúng ta học nói những câu dịu dàng, những câu nói ái ngữ để chúng ta hiến tặng sự có mặt dễ chịu của chúng ta cho người thương

Mấy ngày nay ở tu viện Bát Nhã tôi nghe tiếng sáo vọng qua từ bên cư xá của các thầy. Các thầy, các sư cô, các Phật tử ở tu viện Bát Nhã làm việc rất nhiều để chuẩn bị cho khóa tu của chúng ta, tôi biết điều đó. Thế mà trong suốt năm ngày nay, ngày nào tôi cũng nghe tiếng sáo. Tôi nghe tiếng sáo nói với tôi như thế này ' thầy ơi chúng con không tới nỗi quá bận bịu, chúng con vẫn còn giữ được sự thảnh thơi, tôi nghe tiếng sáo nói như vậy đó. Nếu không thảnh thơi thì làm sao có thì giờ để thổi sáo.

Thành ra ông cũng vậy, ông đang cố làm giàu, bà cũng vậy, bà có biết bao nhiêu công việc nhưng nếu bà bận rộn quá, ông bận rộn quá thì ông làm gì có thời gian săn sóc cho bà, cho các con. Cho nên đừng có quá bận rộn, đừng quá ham làm tiền, phải để thì giờ có mặt cho người mình thương. Có mặt cho người mình thương đó là nguyên tắc đầu. Có mặt tươi mát, có mặt bằng thân và tâm của mình chứ không phải chỉ bằng cái thân không. Có khi ngồi đó nhưng thật sự mình không ngồi đó, vì tâm mình ở tận đâu xa kìa, con mình ngồi đó cũng không được hưởng, thân ở một nơi mà tâm ở một nẻo. Em bé biết là ba ngồi đó nhưng mà ba không có mặt. Cái thân xác của ba có đó nhưng ba không có mặt, ba đang nghĩ tới chuyện làm ăn, đua đòi hoặc ba đang lo lắng, buồn khổ. Ba không có mặt cho mình, có cha mà như không có cha. Em bé bơ vơ, tuy cha còn sống đó nhưng mà cha không có mặt. Cha có mặt như một thân xác thôi, ba không có mặt với cả tâm hồn.

 Ở Tây Phương tôi có dạy các em bé tới vỗ nhẹ vào vai ba hỏi ' có ai ở nhà không, có ai ở nhà không ' tức là nói ba chỉ có cái xác ở đây thôi, cái tâm của ba ở chỗ nào đó. Ba sẽ trả lời có, ba đang có mặt đây mà, con muốn gì. Mình nói ba có biết là con đang ngồi bên ba không, tức là mình đem ba về. Thương là phải có mặt cho người mình thương và phải có mặt với nụ cười với sự tươi mát, đó là sự thực tập. Bài học này đâu có khó gì mấy. Mình chỉ ngồi thở độ chừng một hai phút, chỉ cần đi thiền vài ba phút rồi buông bỏ hết. Mình biết rằng mình có những điều kiện hạnh phúc, trở về giây phút hiện tại là mình có thể có mặt cho người mình thương rồi. Bước thứ hai mình công nhận sự có mặt của người đó, ba ơi con biết là ba đang có mặt cho con và con rất là hạnh phúc. Con ơi ngày hôm nay con được nghỉ hả, sướng quá, ba với con có thể chơi với nhau được. Ba có thể nói chuyện với con như vậy. Hai cha con có thể trở thành hai người bạn, hai mẹ con có thể trở thành hai người bạn, sống như vậy gia đình mới có hạnh phúc.

 

Bữa cơm gia đình

Có những gia đình mà người trong nhà không ăn cơm chung. Gia đình không có cơ hội ngồi xuống để ăn một bữa cơm chung, tại vì ai cũng bận việc. Những đứa con đi học về những giờ khác nhau thì lục tủ nó ăn riêng. Mẹ đi làm về thì mẹ ăn riêng. Ba đi làm về ba ăn riêng hoặc ba ghé chỗ nào đó ba ăn. Không có những bữa cơm gia đình nữa, đó là sự thua lỗ của văn hóa. Thành ra ông bà phải biết thiết lập lại bữa cơm gia đình. Làm thế nào để mỗi ngày tất cả mọi người trong gia đình được ăn cơm chung, phải đợi để ăn cơm chung. Trước khi ăn mình ngồi, thở với nhau một phút, nhìn nhau, 'à mẹ đang có mặt đó, à ba đang có mặt đó, à anh hai đang có mặt đó, mời mẹ ăn cơm, mời ba ăn cơm, mời anh hai ăn cơm '. Nhìn nhau, nhìn như vậy tức là công nhận sự có mặt của nhau.

Mấy hôm nay tôi ăn cơm với các thầy thị giả. Mỗi người có cái bát, khi mở bát ra mọi người đều chắp tay và thở ba hơi. Rồi tôi nhìn lên tôi nói ' mời các con ăn cơm ' tôi nhìn từng người một, tôi nhận diện sự có mặt của từng người. Các thầy thị giả cũng vậy, họ nhìn tôi họ nói ' mời thầy ăn cơm, mời sư anh ăn cơm, mời sư em ăn cơm '. Mình chỉ tốn có một vài giây thôi, để nhìn người kia và công nhận sự có mặt của người kia. Trân quí sự có mặt của người kia, đâu có tốn thì giờ nhiều đâu, một phút thôi, đôi khi ít hơn một phút mà mình nhận diện được sự có mặt quí giá của nhau. Cho nên tôi rất muốn quí vị làm sao sắp đặt để mỗi ngày trong gia đình có một bữa cơm chung mà tất cả mọi người đều có mặt, phải tranh đấu để giữ được cái đó. Trong bữa cơm mình phải trân quí sự có mặt của nhau, đừng đem những chuyện buồn ra nói, những chuyện không đâu và nhất là không có trách móc. Nếu có những chuyện vui có thể làm tăng thêm hạnh phúc gia đình thì mình nói. Bây giờ, nghe tiếng chuông mình thở cho khỏe rồi tôi sẽ nói tiếp.

 

Giới thứ tư

Cấu trúc gia đình bị lung lay, cho nên gia đình không có hạnh phúc nữa. Ở bên Pháp có khoảng ba mươi lăm thanh niên thiếu nữ tự tử mỗi ngày tại vì cha làm khổ mẹ, mẹ làm khổ cha, không có hạnh phúc trong gia đình, nó tuyệt vọng. Tự tử không phải vì nghèo đói mà vì tuyệt vọng. Ở Việt Nam nghe báo chí đăng cũng có rất nhiều người trẻ tự tử tại vì trong gia đình cha mẹ không biết nói lời yêu thương với nhau. Cha mẹ luôn luôn la mắng, nói những lời chua chát với con. Cho nên giới thứ tư mà mình tiếp nhận sáng hôm nay rất là quan trọng. Thực tập lắng nghe các con để thấy được những khó khăn, những bức xúc của con mình. Thực tập lắng nghe những khó khăn của ba mẹ, những bức xức của ba mẹ và tập nói những lời ái ngữ.

Ba ơi, con biết là ba có nhiều khó khăn, có nhiều bức xúc, có nhiều đau khổ lắm, ba cho con biết là con có thể làm gì giúp ba được. Ba cho con biết là con không nên làm cái gì không? Tại vì nếu không thì con sẽ dại dột, con sẽ nói những điều làm cho ba buồn. Đó là ái ngữ.

Một gia đình gọi là gia đình theo đạo Phật phải giữ giới thứ tư là học hạnh lắng nghe và tập nói lời ái ngữ. Mình thọ giới là để thực tập. Chỉ một giới thứ tư đó mà thực tập cho đàng hoàng cũng đủ đem lại hạnh phúc cho gia đình rồi. Chứ đừng nói là thực tập bốn giới kia nữa.

Cách đây chừng mười năm, ông Gorbachev tổ chức một Diễn Đàn Quốc Tế về tương lai của nhân loại. Ông mời các vị nguyên thủ quốc gia, các nhà khoa học, chính trị, kinh tế tới để bàn về tương lai của trái đất. Ông có mời tôi. Tôi đã diễn thuyết, nói về đề tài năm giới như con đường thoát của nhân loại.

Nếu cá nhân, gia đình và cộng đồng thực tập năm giới thì chúng ta sẽ có một tương lai chứ không phải là vấn đề phát triển kinh tế, phát triển kỹ thuật. Kinh tế phát triển, kỹ thuật phát triển thì sẽ đi đôi với những tệ nạn xã hội. Cho nên phải có một nếp sống đạo đức, nếp sống tâm linh. Trong đạo Phật thì năm giới là nền tảng sự thực tập của người Phật tử. Các vị cư sĩ thực tập năm giới, các thầy, các sư cô cũng có thực tập năm giới. Hôm nay mình chỉ nói tới giới thứ tư thôi. Cái giới biết lắng nghe những người thương của mình để có thể hiểu được những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc của nhau. Phải biết lắng nghe ba, phải biết lắng nghe má, phải biết lắng nghe những đứa con của mình, phải biết lắng nghe người bạn hôn phối của mình. Mình đã dại dột, mình đã vụng về mình đã làm cho người bạn hôn phối của mình khổ đau. Bây giờ mình phải xin lỗi người đó bằng lời ái ngữ. Mình hứa từ nay về sau sẽ không làm như vậy nữa, mình sẽ không nói như vậy nữa. Sự thực tập giới thứ tư có thể đem lại hạnh phúc cho gia đình, có thể tái lập lại được truyền thông giữa cha và mẹ, giữa cha và con, giữa mẹ và con.

Chúng tôi đã tổ chức bao nhiêu khóa tu ở tại Âu Châu và Mỹ Châu, chúng tôi đã cứu được không biết bao nhiêu gia đình, bao nhiêu cặp vợ chồng và cha con. Chúng tôi cũng đã tổ chức những khóa tu ở Triều Tiên, ở Nhật Bổn, ở Trung Quốc, những khóa tu ở Hồng Kông, ở Ma Cao. Có nhiều cặp vợ chồng báo cáo là họ đã hòa giải được với nhau nhờ thực tập phương pháp ái ngữ và lắng nghe. Có những cặp cha con họ báo cáo là họ đã hòa giải được với nhau nhờ phương pháp thực tập ái ngữ và lắng nghe. Quý vị nên biết năm giới rất quí báu. Mình tưởng là mình hiểu được năm giới, nhưng kỳ thực mình phải học hỏi, mình phải pháp đàm mỗi tuần thì mới có thể hiểu được sâu hơn năm giới. Và phải áp dụng trong đời sống hàng ngày.

Với năm giới mình có con đường. Nếu đi đúng con đường năm giới thì bảo đảm hạnh phúc của mình, hạnh phúc gia đình mình, hạnh phúc của xã hội mình. Cho nên trong Diễn Đàn Quốc Tế của ông Gorbachev tổ chức đó, tôi chỉ nói về năm giới như con đường thoát của nhân loại. Quý vị sáng nay đã được tiếp nhận năm giới, phải bắt đầu học hỏi về năm giới. Có một cuốn sách tôi viết về năm giới mới được xuất bản là cuốn Để có một tương lai. Để có một tương lai cho trái đất, tương lai cho nhân loại, tương lai cho gia đình, tương lai cho cá nhân, phải thực tập năm giới. Cuốn sách đó tôi viết bằng tiếng Anh và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Một Phật tử người Việt dịch thành tiếng Việt. Hình như cuốn sách đó vừa mới được in xong. Quý vị muốn học hỏi thêm về năm giới để thực tập cho đàng hoàng, có thể thỉnh một cuốn để bắt đầu học hỏi. Cuốn sách đó tên là Để có một tương lai.

 

Thực tập chữa cơn giận   

Có ba câu mà tôi rất muốn quý vị học thuộc, ba câu ngắn thôi và ba câu này rất lợi ích mỗi khi cơn giận của mình trào lên mà mình không muốn nói những câu làm đổ vỡ thì mình phải thực tập theo ba câu đó. Quý vị lấy một miếng giấy nhỏ, viết ba câu đó nắn nót trên miếng giấy này và bỏ vào trong bóp của mình, để gần cái chứng minh nhân dân. Mỗi khi bắt đầu giận thì phải nhớ rút nó ra, đọc ba câu đó, rồi sẽ biết mình phải làm gì để đừng nói và đừng làm những chuyện có thể làm tan vỡ tất cả.

Mình có thể giận chồng, mình có thể giận vợ, mình có thể giận người yêu, mình có thể giận con, mình có thể giận cha.

Đây là phương pháp thực tập để bảo hộ mình, đừng để cho cái giận đốt cháy mình và xô đẩy mình gây nên sự đổ vỡ. Ví dụ như bà đang giận ông, ông vừa nói cái gì đó, ông vừa làm cái gì đó làm cho bà giận quá đi. Nguyên tắc là bà không nói gì hết, không làm gì hết, đó là phương pháp của Bụt dạy. Bà phải trở về với hơi thở, phải đi thiền, phải buông thư, phải quán chiếu. Bà hỏi tại sao ông nói một câu như vậy, ông có chuyện gì bức xúc, hay là hôm nay bị ông chủ la rầy, chắc có nguyên do gì đó khiến cho ông nói một cái câu như vậy với mình, có nguyên do chứ không phải không.

Hôm trước tôi đã nói về phương pháp hộ trì thân tâm khi cái giận phát hiện. Cái giận là năng lượng số một và chánh niệm là năng lượng số hai. Năng lượng thứ hai nhận diện ôm ấp làm vơi bớt cái cường độ của cái giận. Chuyện phải làm đầu tiên là mình không nói gì hết, không làm gì hết. Mình trở về với hơi thở, buông thư, quán chiếu. Thì nội trong vài giờ đồng hồ là mình bớt khổ. Đôi khi mình tìm ra là tại mình hiểu lầm, chứ ông không có mục đích, không có ý làm khổ mình. Nếu gần tới hai mươi bốn giờ đồng hồ rồi mà mình vẫn chưa hết giận, mình đã tu, đã đi thiền hành, đã quán chiếu mà chưa thành công bấy giờ mới cần tới ba câu đó.

Câu đầu là ' anh ơi em đang giận anh và em muốn anh biết điều đó '. Đó là lời người vợ nói với chồng, lời người yêu nói với người yêu. Khi mình đang giận người thương của mình, mình phải công nhận sự thật là mình đang giận và mình đang đau khổ. Thông thường, khi người thương nói ' sao cái mặt em vậy, giận anh hả? ' Mình nói ' đâu có giận, tại sao tôi phải giận, tại sao phải giận cho khổ cái thân tôi '. Tức là mình giận, mình khổ đau, nhưng mình không công nhận là mình đang khổ đau, đang giận. Còn ở đây làm ngược lại. Anh ơi em đang đau khổ, em đang giận anh và em muốn anh biết điều này. Câu này mình có thể nói trực tiếp với ổng nhưng mà phải nói bằng ái ngữ. Tại vì mình thương nhau, mình cam kết với nhau là mình phải chia sẻ với nhau những ngọt bùi, cay đắng. Thì nói câu đó là trung thành với lời cam kết ngày xưa. Nếu ông giận bà thì ông cũng không nên có tự ái, ông nói ' em ơi, anh đang khổ lắm, anh đang giận em, anh muốn em phải biết điều này. Có nghĩa là em hãy cắt nghĩa cho anh tại sao em đã nói một câu như vậy, em đã làm điều đó.

Quý vị nếu không ghi chép thì sẽ có cuốn băng này về mình nghe lại.

Câu thứ hai là ' em đang cố gắng với tất cả sức của em đây '. Có nghĩa là em đang thực tập theo lời thầy dạy. Em đã không nói những lời lên án, chỉ trích, buộc tội, em không làm gì hết. Em chỉ trở về với hơi thở, thực tập và ôm ấp cái nỗi khổ niềm đau của em để làm cho nó vơi bớt, em là người có tu. Câu đó có nghĩa là mỗi khi em giận em không làm như người khác, em không nói năng, không chửi mắng, không trách móc, em biết trở về với hơi thở, biết đi thiền hành, biết ngồi quán chiếu tìm ra gốc rễ của nỗi khổ niềm đau của em. Câu thứ hai còn có nghĩa là anh có biết là em đang thực tập hay không.

Khi nghe, đọc câu thứ nhất thì người kia sẽ phản ứng như thế nào. Trường hợp mình chưa đủ bình tĩnh, không thể tới nói trực tiếp với người đó được hoặc sợ mình nói lời ái ngữ chưa được thì có thể viết xuống mảnh giấy câu đó và để trên bàn giấy của anh ta hay là mình gởi e-mail. Nhớ câu thứ nhất 'em đang giận anh, em đang khổ và em muốn anh biết điều đó '. Thì phản ứng của người kia: chà mình làm cái gì, mình nói cái gì để cho bả giận như vậy. Tự nhiên có sự quán chiếu, sự trở về để đặt câu hỏi. Và chàng cũng bắt đầu thực tập.

Câu thứ hai rất hay, em đang cố gắng với tất cả sức em đây, nghĩa là em đang tu đó, em là người có tu chứ không phải là người thường, em đã được học với thầy. Em đang đi thiền hành, em đang thở, em đang ôm ấp nỗi khổ niềm đau của em, em nhìn coi thử gốc rễ của nó như thế nào. Thì người kia sẽ tự hào về mình, à mình có một bà vợ biết tu, khi nổi cơn giận lên biết trở về với hơi thở, biết đi thiền hành, biết quán chiếu. Người chồng đó sẽ hãnh diện về mình. Câu đó cũng có nghĩa là mời người chồng cùng quán chiếu. Tại sao mình làm cho vợ mình, người yêu của mình đau khổ. Mình nói cái gì, vụng về chỗ nào, đã làm cái gì khiến cho người đó đau khổ tới như vậy. Người đó sau khi đọc câu thứ hai cũng suy nghĩ, cũng quán chiếu. Đó là một lời mời mọc cho người kia cũng thực tập như mình. Nó gián tiếp nhưng đích thực đó là một lời mời mọc, em đang cố gắng hết sức em đây.

Và câu thứ ba 'anh giúp em đi '. Đơn sơ như vậy đó. Có thể em thực tập chưa thành công hay không thành công. Có thể em thành công và em sẽ hết giận anh nhưng lần này nó khó lắm, thành anh phải giúp em đi. Tức là mình bắt người kia phải sử dụng lương tâm, quán chiếu lại coi, đã nói cái gì, đã làm gì gây ra cái khổ đau đó. Thường thường một người làm cho mình khổ đau mà là người dưng nước lã, thì mình không khổ nhiều. Nhưng ở đây người mình thương nhất trên đời mà nói câu đó, làm cái đó thì mình quá đau khổ và mình chịu đựng không nổi. Thông thường mình muốn tỏ rằng mình không cần người đó. Anh làm tôi khổ, tôi không cần anh. Mình muốn chứng tỏ cho người đó biết một cách gián tiếp rằng không có anh tôi cũng sống được, bởi vì tự ái quá lớn. Mà phần lớn chúng ta đều có cái thái độ như vậy với tự ái rất lớn. Cho nên câu thứ ba này mình làm ngược lại, mình nói anh giúp em đi. Khi viết xuống được câu đó hay nói ra được câu đó thì nó đỡ giận rất nhiều rồi.

Tôi cam đoan là có hiệu quả, nếu không hiệu quả thì các ông các bà bắt đền tôi. Phải nói ra được câu thứ nhất là đỡ khổ rồi, anh ơi em đang giận anh, em đang khổ và anh phải biết điều đó. Em đang thực tập hết với tất cả cái sức của em. Anh giúp em đi. Nếu bà viết xuống được ba câu đó thì tự nhiên cái đau khổ, buồn khổ của bà đã bớt tới sáu mươi phần trăm rồi. Nó rất hay và không biết bao nhiêu thiền sinh theo học ở làng Mai đang thực tập như vậy. Nếu trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ mà mình giải quyết được, mình hết giận thì tốt. Nếu gần hết hai mươi bốn giờ mà chưa hết giận thì mình phải đưa cái tối hậu thơ đó, đưa cho anh chàng mảnh giấy có ba câu đó. Khi biết rằng người kia đọc được cái đó thì mình đỡ khổ rồi và mình tiếp tục thực tập. Nếu trong khi thực tập, mình tìm ra đó là tri giác sai lầm của mình thì phải vội vàng điện thoại cho anh chàng, anh ơi, em hết giận rồi, tại vì em hiểu lầm. Chứ đừng để cho anh chàng tiếp tục đau khổ mà tội.

 Còn nếu mình là anh chàng, khi nhận được thông điệp với ba câu đó mình phải tự hỏi ' chà, mình làm cái gì, mình nói cái gì khiến cho người kia đau khổ như vậy. Mình mới hồi tưởng lại, trời ơi mình hơi vụng về khi nói câu đó. Khi mình thấy được điều đó thì mình phải gửi e-mail hay phải gọi điện thoại về xin lỗi liền lập tức, đừng để cho người kia khổ thêm một phút nào nữa.

Bà thực tập như vậy, ông cũng thực tập như vậy và cháu cũng có quyền thực tập như vậy. Nếu anh là con trai, chị là con gái, mà nếu anh hoặc chị giận ba thì anh hay chị cũng có thể viết ba câu đó: ' ba ơi con đang khổ con đang giận ba đây và con đang thực tập theo lời thầy dạy nhưng có thể con thực tập không thành công, vì vậy ba giúp con đi '. Nếu người con trai viết được cho ba mấy câu đó thì con trai sẽ bớt khổ rất nhiều. Người con gái cũng vậy, nếu viết được cho ba hay cho mẹ ba câu đó thì người con gái sẽ bớt khổ rất nhiều. Tại vì có sự truyền thông, có sự tin tưởng lẫn nhau. Cứ về làm đi, tôi bảo đảm sự thành công. Vì mình tin nhau mình mới nói được với nhau những lời như vậy.

Nếu mình là người cha, mình giận con trai của mình thì mình cũng có thể nói như vậy 'con ơi ba đang khổ, ba đang giận con và con phải biết điều đó cho ba ', mình không tự ái, đó là con của mình. Mình đừng nói nó là con mình chứ đâu phải ông nội của mình mà phải nói như vậy. Không nên nói như vậy. Nó là con trai của mình, nó là người thương của mình. Thành ra ông viết cho con trai, ông nói 'con ơi ba đang giận con, ba đang khổ lắm, ba không biết tại sao con đã làm như vậy, đã nói như vậy, ba đang thực tập đây, ba đang cố gắng hết sức để thực tập đây. Ba đã học được cái phương pháp này ở khóa tu chùa Bát Nhã, con giúp ba đi '. Khì đứa con trai nhận được cái thông điệp đó mà không có đáp ứng, không có cảm động thì không phải là đứa con trai nữa. Khi ba mình nói với mình những lời tâm huyết như vậy thì mình sẽ tự tỉnh. Mình sẽ hỏi ' trời đất ơi, mình làm gì cho ba mình đau khổ như vậy, mình đã nói gì, đã làm gì. Nếu mình không biết thì mình hỏi ba, ba ơi con đã nói gì khiến cho ba buồn như vậy, con đã làm gì khiến cho ba khổ như vậy, ba cho con biết đi. Tình trạng lúc đó rất là dễ.

Tôi xin quý vị hãy học thuộc ba câu này. Nếu quý vị sợ quên, quý vị viết ba câu đó trên một mảnh giấy lớn bằng cái carte-de-visite thôi. Mỗi khi buồn khổ lấy ra. Đây là phương pháp của Bụt dạy. Tôi có những người đệ tử thực tập điều này rất là giỏi và tôi rất biết ơn người đệ tử đó, họ thực tập thành công, họ đem lại hạnh phúc, hòa khí trong gia đình họ. Có những người đệ tử rất trẻ, về làm hòa được với cha, với mẹ và giúp cho cha mẹ làm hòa được với nhau, tôi rất hãnh diện về những người đệ tử trẻ đó.

Tôi xin lập lại: Câu thứ nhất "anh đang giận em, anh đang khổ và cái muốn em biết điều đó ". Câu thứ hai " anh đang thực tập với tất cả con người của anh" . Câu thứ ba " em giúp anh đi ".

Các câu nói đó có thể được sử dụng bởi người chồng, người vợ, người cha, người con hay người mẹ. Nếu mình đem hết tất cả tâm tư vào sự thực tập thì chắc chắn sẽ có kết quả. Thành công được một lần mình sẽ có niềm tin: mình sẽ thành công trong những lần kế tiếp. Đó là sự chiến thắng của đạo pháp, của tình thương.

Năm giới đã vạch cho mình một con đường đi. Đức Thế Tôn có dạy rằng người không biết đường đi, là người đau khổ, sợ hãi, không biết mình đi về đâu. Nhưng mình đã có đức Thế Tôn làm thầy, ngài đã chỉ cho mình một con đường, con đường đó là con đường thực tập năm giới, sáng như gương. Mình chỉ cần bám sát con đường đó là mình không còn lo lắng sợ hãi. Cho nên có câu:  "Đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ." Lo sợ khi mình không có con đường, bây giờ mình đã có con đường rồi thì mình đâu cần phải lo sợ. Quý vị tiếp nhận năm giới là quý vị có con đường, phải tin vào con đường đó, đó là con đường thoát của thế giới, của nhân loại, của trái đất, của loài người, của gia đình và của cá nhân mình.

            Nếu có thể quý vị đi tìm đọc cuốn Để có một tương lai. Tôi tin chắc rằng người trẻ sẽ đến tu viện Bát Nhã tu học đông trong những năm tháng sắp tới. Các thầy các sư cô ở đây dự tính mùa hè sẽ tổ chức những khóa tu bảy ngày, mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày, một tháng cho giới trẻ. Giới trẻ rất cần được nghe, được tiếp thu những giáo pháp như vậy để đừng trở thành nạn nhân của tuyệt vọng. Để có khả năng đóng góp vào sự tái lập truyền thông, hòa khí và đem lại hạnh phúc cho  gia đình. Tôi đã nói tôi có những đệ tử rất trẻ và những người đó đã giúp bố mẹ, đã đem lại được hòa khí và hạnh phúc trong gia đình. Nếu quý vị có con em chưa được tiếp xúc với đạo pháp thì quý vị có thể tìm cách cho con trai con gái của quý vị có cơ hội tới tu viện Bát Nhã để tu với các thầy các sư cô trẻ một khóa. Nếm được mùi chánh pháp, tìm thấy được con đường. Tuổi trẻ không có con đường là tội lắm, tuổi trẻ không có đường đi thì sẽ tự tử. Cho nên hiến tặng cho tuổi trẻ một con đường là món quà lớn nhất. Có bao nhiêu tiền cũng thiêu vào những chuyện ăn chơi thôi. Quý vị có con đường rồi, quý vị thật sự đang đi trên con đường đó thì quý vị có thể chỉ cho những người trẻ con đường, để cho đất nước chúng ta có một tương lai.

            Thưa đại chúng, trong những ngày vừa qua chúng ta đã có cơ hội ngồi với nhau trong tình thầy trò, tình huynh đệ. Chúng ta ngồi giữa gió xuân, để cho mưa pháp tưới tẩm những hạt giống của ân tình, của hạnh phúc, của tha thứ, của thương yêu. Chúng ta thấy khỏe ra, xin quý vị sau khóa tu này đem tinh thần đó về nhà thực tập. Ở đâu mình cũng có thể lập ra một tăng thân nhỏ để tiếp tục ngồi giữa gió xuân. Để có thể thực tập đi những bước thong dong, để có thể ngồi ăn chung với nhau, nhìn nhau mỉm cười trước khi ăn, những chuyện đó ở đâu mình cũng có thể làm được.

Hôm nay ngồi với chúng ta có cả trăm thiền sinh ngoại quốc. Trong tương lai tu viện Bát Nhã sẽ trở thành một trung tâm tu tập quốc tế. Chúng ta sẽ có dịp tu chung với những thiền sinh Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu và Á Châu. Chúng ta rất may mắn có Thượng tọa viện chủ ở đây, Thượng tọa Đức Nghi có một trái tim nóng hổi, rất thiết tha đem pháp môn tu tập của làng Mai để truyền bá trong nước. Chúng ta có các thượng tọa như thượng tọa Giác Viên, các vị giáo thọ khác dầu còn trẻ nhưng hết lòng muốn hiến tặng cho quê hương, cho tuổi trẻ một con đường đi, một con đường tâm linh sáng. Chúng ta sẽ có nhiều tiền, chúng ta sẽ có nhiều cơ sở lớn, nhưng cái chúng ta thiếu là một con đường. Một con đường sáng tâm linh mà chúng ta có thể cống hiến được bằng sự tu tập của chúng ta tại tu viện, tại địa phương của mình, tại các khóa tu. Khi chúng ta tu tập có hạnh phúc có sự tươi mát thì chúng ta có khả năng chia sẻ sự tu tập đó với những người khác.

 Chiều nay quý vị đã phải rời tu viện Bát Nhã rồi, nhưng mà thầy trò có cơ hội ngồi với nhau trong một khóa tu là chư Tổ thương lắm đó, chúng ta còn được thương, chúng ta phải ý thức được điều đó. Thầy trò mình sẽ có cơ hội tu chung trong những khóa tu khác. Bây giờ các thầy các sư cô sẽ trì niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm để dâng lên lời cảm tạ chư vị Bồ Tát và Tổ sư đã yểm trợ cho khóa tu chúng ta xảy ra một cách êm thắm và hạnh phúc. Mời các thầy, các sư cô lên đứng đông để mình niệm Bụt, Nam Mô Bồ Tát Quan Thế Âm.

Trong khi các thầy các sư cô chuẩn bị, tôi xin đọc hai bài thơ quý vị gởi cho tôi về chuyện ngồi giữa gió xuân. Bài này của Phật tử Diệu Xuân: Mừng Đón Thầy

 Nước mắt hoan hỷ rơi ướt áo
 Lòng mong mỏi khôn nguôi
 Bao năm trông đợi qua rồi
 Phút giây hy hữu được ngồi giữa gió xuân
 Bên thầy cùng với tăng thân
 Mấy ngàn con nhỏ quây quần bên cha
 Tình thương ấm cả sơn hà
 Suối nguồn hạnh phúc chính là nơi đây.

            Bài này của Phật tử Phước Tịnh: Tọa Xuân Phong

Thiền đường bỗng lắng yên
Gió đầu xuân khẻ nhẹ
Hoa đào nghiêng cánh hé
Thỏ thẻ lời yêu thương
Bây giờ và ở đây
Bên thầy bên đại chúng
Con tập ngồi an trú
Lắng nghe hơi thở mềm
Hiện tại, ôi tuyệt vời
Bao tháng ngày mơ ước
Rừng Bát Nhã mênh mông
Suối reo hòa chim hót
Lần đầu tiên tu tập
Tọa xuân phong cùng thầy
Con nguyện mùa xuân ấy
Không có mùa đổi thay

 Rất là hay, ở trong này có nhiều thi sĩ lắm.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.