Tâm
Sự với người Xuất gia trẻ
Kính thưa chư vị Tôn Đức, kính thưa Đại chúng, các Thầy, các Sư cô.
Hôm nay là ngày 27. 03. 2007, chúng ta đang ở tại chùa Từ Hiếu,
trong khóa tu dành cho người xuất gia.
Một khóa tu luôn luôn đem lại sự ích lợi, chắc chắn cuối khóa tu,
chúng ta sẽ thấy nhẹ nhàng hơn, an lạc hơn, hạnh phúc hơn và nhất là
Tâm Bồ Đề vững mạnh hơn. Một khóa tu cũng giống như đi Bác sĩ châm
cứu, mỗi ngày có thời châm cứu và làm theo lời dặn bác sĩ, trong khi
ăn uống, vận động, nghỉ ngơi, chắc chắn sau một tuần lễ sẽ có kết
quả, nhưng nếu mình rơi vào trong hoàn cảnh cũ thì tình trạng sức
khỏe mình đạt được sau thời gian châm cứu chỉ tồn tại được 3, 4 tuần
lễ, sau đó nó bắt đầu mất đi hiệu quả, rồi mình phải nghĩ đến chuyện
đi tới một thời gian châm cứu khác thì khóa tu cũng như vậy. Trong
thời gian khóa tu, chúng ta nghe pháp thoại, thực tập ngồi, thực tập
đi, đứng, thực tập quán chiếu, chúng ta sẽ nhẹ đi, khỏe lên. Nhưng
mà nếu chúng ta không có một môi trường tốt để tiếp tục, chúng ta sẽ
đánh mất sư an lạc đó, năng lượng bồ đề tâm đó, sự thong dong đó mà
chúng ta đã đạt được trong khóa tu. Rồi chúng ta đợi một vài
năm nữa có một khóa tu kế tiếp, đó là tình trạng của rất nhiều người
trong chúng ta.
Chúng ta không nắm vững được sự thực tập, chúng ta không có duy trì
được hạnh phúc, năng lượng mà chúng ta đạt được trong khóa tu là tại
vì môi trường của chúng ta xấu, không thích hợp cho sự tu học,
không khuyến khích được sự tu học, chúng ta bị kéo theo. Điều
này đúng cho người xuất gia mà cũng đúng cho người tại gia. Có thiền
sinh tại gia tới tu học trong vòng 1 tuần lễ, có khi 4 tuần lễ, có
khi 21 ngày, họ cãm thấy hạnh phúc quá chừng, họ muốn đem pháp môn
đó, đem sự thực tập đó về để tiếp tục, nhưng mà về tới nơi, hoàn
cảnh địa phương lôi kéo họ đi, rồi họ không có tiếp nối được sự thực
tập, chỉ trong vòng vài ba tháng, hết còn thấy hạnh phúc.
Xây dựng tăng thân
Bởi vậy, cho nên khi nào nghe có khóa tu, họ muốn ghi danh trở lại
và rũ bạn bè cùng tham dự khóa tu, đó là tình trạng của thiền sinh
cư sĩ. Cho nên bên Làng Mai xong một khóa tu, chúng tôi luôn
luôn có một buổi gọi là Dựng Tăng. Dựng Tăng có nghĩa là xây
dựng Tăng thân ở địa phương. Trong buổi dựng tăng đó, mình cho mọi
người biết là ai có gốc gác ở thành phố nào, quốc gia nào thì giơ
tay lên, rồi cùng nhau lập thành một nhóm,
một
tăng thân chừng 10 người hay 20 người hoặc 15 người để mỗi tuần có
thể tới với nhau duy trì hạnh phúc đó, sự thực tập đó.
Phương thức này gọi là xây dựng Tăng thân
(Sangha building). Hiện giờ đã có 1000 Tăng thân như vậy ở các
đô thị Âu Châu và Mỹ châu. Tăng thân như vậy, họ không có người xuất
gia hướng dẫn, có thể là họ có một giáo thọ cư sĩ hướng dẫn, vì
trong quá trình đào tạo, giảng dạy, chúng tôi đã cố gắng đào tạo
những vị cư sĩ giáo thọ. Những vị giáo thọ xuất gia không đủ cung
ứng cho nhu yếu rất lớn của thiền sinh Tây phương. Có nhiều vị giáo
thọ cư sĩ rất giỏi, không những về phương diện diễn giảng hướng dẫn
tu tập mà giỏi luôn về vấn đề hành trì và giới luật rất là hay,
nhiều khi tu hay hơn những người xuất gia.
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam có những vị cư sĩ nổi tiếng.
Thí dụ như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Lê Đình Thám đều là những người
giỏi, tiếng tăm rất vững, sự thực tập rất đàng hoàng. Các vị
đó đã từng giúp cho các vị xuất gia, cho nên các vị giáo thọ cư sĩ
làm việc tay trong tay với các vị giáo thọ xuất gia, họ giúp cho các
vị xuất gia rất là nhiều. Có thể tại quê hương, chúng ta cần có
những vị giáo thọ tại gia, họ có thể giúp rất là nhiều cho các Thầy,
các Ni sư trong việc quảng bá, nhất là hướng dẫn tu tập.
Những trường Phật học của chúng ta đào tạo những Giảng sư giảng giải
về Phật pháp nhiều lắm nhưng chúng ta không có đào tạo những người
có khả năng hướng dẫn, tổ chức những khóa tu giúp cho người cư sĩ
chuyển hóa, trị liệu. Chánh thức trong trường Phật học chúng ta
không có giảng dạy môn Dựng Tăng, cung cấp những pháp môn tu tập để
tháo gỡ những khó khăn, bức xúc trong đời sống hàng ngày.
Đặc
điểm của của giáo thọ Làng Mai, xuất gia hay là cư sĩ là ở chỗ họ có
thể hướng dẫn tu tập được : hướng dẫn thiền đi, thiền thở, thiền ăn
cơm, thiền lái xe …. nhất là họ giúp cho mình phương pháp làm lắng
dịu căng thẳng, nhức nhối trong thân và trong tâm để từ từ chuyển
hóa. Giúp cho những người cha có thể truyền thông được với
con, người chồng truyền thông được với vợ và đem lại hòa khí, hạnh
phúc trong gia đình.
Đó
là những chủ đề, những phương pháp mình phải nắm cho được nếu mình
muốn là một vị giáo thọ giỏi. Một vị giáo thọ giỏi không thể
chỉ cho những bài pháp thoại hay và làm cho người ta có niềm tin
nơi Phật pháp. Cho những bài pháp thoại hay làm cho người ta
có niềm tin nơi Phật pháp thì rất là hay, rât là tốt, có rất nhiều
công đức nhưng mà không có đủ, mình phải có những pháp môn cụ thể.
Tại Làng Mai, khi mình đi mở khóa tu như vậy, không bao giờ đi một
vị giáo thọ, nhưng một vị giáo thọ cư sĩ có thể đi một mình, vì
ngoài đời họ đa đoan lắm,
không thể đi một đoàn giáo thọ như mình.
Còn ở Làng Mai, mỗi khi mở khóa tu mình phải đi một phái đoàn, một
Tăng đoàn, trong đó có những vị giáo thọ nhưng cũng có những vị tập
sự giáo thọ và cũng có những Thầy, những Sư cô, Sư chú chưa có trong
vị trí tập sự giáo thọ cũng được đi theo để phụ tá.
Khi các vị này đi theo nhìn các Thầy, các Sư cô, chị lớn, anh lớn
của mình tổ chức, hướng dẫn, tháo gỡ thì mình cũng học cái cách đó.
Sư huynh làm việc, hướng dẫn cho Sư đệ. Vì vậy cho nên đi phụ
tá khóa tu không hẳn là đi làm việc mà cũng là một loại đi học, đi
thực tế, đi để học xem các Sư anh, Sư chị mình làm việc như thế nào
để từ từ mình bắt chước.
Thí dụ như buổi vấn đáp, thiền sinh cư sĩ đưa ra một số các câu hỏi,
tuy rằng mình không có bổn phận trả lời nhưng mình ngồi đó, mình
thấy Sư anh, Sư chị trả lời như thế nào, như vậy mình học rất nhiều
trong cái cách mà Sư anh, Sư chị của mình tháo gỡ cho những người
đó: những cái khó khăn, những cái lề lối, những cái phương pháp giúp
cho người ta tháo gỡ. Đó không phải là mình bịa đặt ra hay là
do mình hứng khẩu nói đại mà do mình học được trong đời sống của
người xuất gia khi sống chung với Thầy, với huynh đệ. Tại vì
sống chung với Thầy cũng có những khó khăn, có khi mình giận Thầy,
có khi Thầy giận mình, có khi huynh đệ giận nhau.
Nếu mình không có pháp môn thì mình chịu chết. Có pháp môn
mình tháo gỡ được. Vì vậy cho nên mình có kinh nghiệm và ra
đời để giảng dạy, mình sử dụng kinh nghiệm đó để tháo gỡ cho những
người kia. Thành ra cái hành trang của mình là cái kho tàng kinh
nghiệm mà mình đạt đuợc khi mình sống với Thầy, với huynh đệ.
Cho nên vấn đề học hỏi Kinh, Luận chỉ là một khía cạnh của đời sống
người xuất gia mà thôi.
Người cư sĩ, người giáo thọ cư sĩ cũng tham dự các khóa tu, có khi
tham dự khóa tu 3 tháng, mùa Kiết Đông An Cư. Bây giờ có những
phương tiện truyền thông mới mẻ, họ có thể theo dõi khóa tu, họ tổ
chức tu học ngay địa phương của họ. Mỗi ngày họ được nghe pháp
thoại trực tiếp từ Làng Mai và thực tập theo.
Thí dụ như ở California, họ cố gắng nghe những bài pháp thoại ở Làng
Mai trễ độ chừng nửa ngày nhưng mà tu viện Rừng Phong ở Vermont,
nghe trễ hơn chừng 6 giờ đồng hồ và họ nghe pháp thoại như hệt, cũng
ngồi như vậy trong buổi pháp thoại, nghe pháp thoại xong rồi họ pháp
đàm, thiền hành giống hệt như ở tại Làng Mai. Thành thử với phương
tiện truyền thông mới, khóa tu tổ chức ở tại Làng Mai hay bất cứ ở
nơi đâu có thể được các Thầy, các Sư cô phát cách đến địa phương các
nơi, theo dõi cùng theo khóa tu đó đồng thời rất là hay.
(Chuông : Thở
đi bạn đang sống!)
Chúng tôi có các Thầy, các Sư cô giáo thọ người da màu, các vị đó
hướng dẫn những người da màu rất là dễ dàng. Chúng ta có những Thầy,
những Sư cô phát xuất từ miền Trung Đông như Isarel, Palestin, những
vị đó hướng dẫn những người Trung Đông rất là dễ dàng hơn. Sự thành
lập của những Tăng thân địa phương, Sanga building, Dựng Tăng rất là
quan trọng để mà duy trì sự thực tập.
Nếu mình tổ chức khéo, mình duy trì được sự thực tập cả năm, rồi lâu
lâu có một khóa tu lớn, mới mình đến tham dự để học hỏi thêm và xây
dựng thêm sự thực tập của mình, như vậy mình không có đánh mất sự
thực tập của mình trong môi trường quá rộn ràng.
Chúng ta có câu
:
Tăng ly chúng tăng tàn,
hổ ly
sơn hổ bại, chúng ta không khác người tại gia bao nhiêu, nghĩa
là khi đặt vào môi trường xấu, chúng ta cũng đánh mất sự thực tập
của chúng ta, chúng ta không có hành trì giới Luật uy nghi đàng
hoàng, chúng ta không để thì giờ tu tập mà làm những chuyện không
phải là tu tập. Cho nên dầu chúng ta có tham dự khóa An Cư
Kiết Hạ hay là một khóa tu nào khác, mình có cảm thấy cảm hứng muốn
tu, muốn buông bỏ những cái nhiêu khê trong đời sống hàng ngày.
Chúng ta sau khi đã tu 6 hay 7 ngày, chúng ta thấy Bồ Đề Tâm của
chúng ta sống dậy, chúng ta đã thấy chúng ta đã gây ra những lầm lỡ,
chúng ta thấy chúng ta không xứng đáng với sự trông cậy của Cha Mẹ,
của Thầy tổ. Và với khóa tu chúng ta rất muốn tiếp tục đi như vậy,
chúng ta muốn về tới nơi lập tức phải làm cái này, phải làm cái kia
để đừng rơi vào tình trạng xấu đó nữa nhưng mà đến khi về giữ được
Tâm đó chừng vài ba tuần rồi bị lôi kéo đi, đâu cũng vào đó tại vì
môi trường xấu.
Hiện tượng hư hỏng
Ở
tại chùa Phổ Quang Sàigòn có một vị giáo thọ của học viện hỏi một
câu : «Người ta thường lên án chúng tôi là dạy Tăng sinh như thế
nào mà để Tăng sinh hư hỏng quá chừng? Nhưng có phải là lỗi nằm hết
chúng tôi không? ».
Tôi trả lời như thế này, cái lỗi ở tại môi trường. Cũng như
các giáo thọ, người nào cũng muốn cho Tăng sinh thành đạt trong sự
tu học của mình, nhưng các vị giáo thọ đó không có môi trường tốt để
cung cấp cho Tăng sinh. Cho nên dạy bao nhiêu thì dạy nhưng
Tăng sinh vẫn hư như thường. Hiện tượng Tăng Ni hư hỏng bắt đầu tràn
lan, có nhiều vị làm Tăng sư chịu thua luôn, từ chức luôn. Rất
là khó! Chúng ta đổ lỗi cho ai? Nói rằng đổ lỗi cho các vị trong
học viện, các trường Trung cấp hay trường Cao đẳng cũng không đúng?
Chúng ta phải nói rằng tại vì môi trường của Thanh niên Tăng ni bây
giờ nó xấu. Cho nên dầu có làm sống dậy được cái Tâm Bồ Đề,
dầu trong một khóa tu có ý chỉ muốn sám hối, muốn làm mới nhưng mà
về tới nơi, giữ cái Tâm đó không được lâu, chúng ta lại rơi vào cái
vòng cũ.
Đây là đề tài quán chiếu cho các vị Tôn Đức cũng như tất cả các
Thầy, các Sư cô và các Sư chú. Vấn đề là môi trường! Cứu
Tăng như cứu hỏa, không thể chần chừ được. Tại vì sự hư
hỏng có thể xảy ra trong vòng một ngày, hai ngày hay một tuần lễ.
Trong những khóa tu mà chúng tôi mở ra cho người cư sĩ Tây phương,
các em thường hay hỏi những câu rất là dễ thương. Câu mà con
nít thường hay hỏi nhất là tại sao các Thầy cạo đầu trọc lóc như
vậy? Tại vì sau khi chơi 5,
7
ngày với các Thầy, các Sư cô thương nó quá đi, nó muốn cho các
Thầy, các Sư cô đẹp, muốn các Thầy, các Sư cô có tóc, nó tưởng là có
tóc thì đẹp hơn? Chắc cái đó cũng một phần đúng? Khi mình cạo đầu đi
tu, thì mình đọc bài kệ là: « Huỷ hình phi pháp phục. »
Hủy hình có nghĩa là làm cho xấu đi, cái chủ
tâm của mình làm cho xấu đi. Mái tóc mượt mà như vậy, bây giờ
mình cạo quách, để trọc lóc, thành nó xấu đi. Thành người ta
hay có câu trả lời đùa cho bọn con nít cười chơi: « Mấy Thầy Cô
cạo đầu như vậy là để khỏi tốn tiền mua Sampoo, xà bông gội đầu.
Tại thuốc gội đầu bây giờ mắc quá đi!».
Có
câu trả lời khác là Đức Thế Tôn dạy, khi thức dậy mình lấy tay sờ
lên đầu của mình, để mình biết mình là Thầy tu, biết mình là Thầy
tu, mình không nên hành xử như những người không tu. Thành ra
rờ cái đầu trọc là Tiếng Chuông Chánh Niệm, mình là người tu.
Mình không thể ăn mặc, xài tiền như là người không tu.
Đầu trọc giúp cho mình cũng như áo nâu giúp cho mình nhớ là mình tu.
Mà người tu thì «Tâm hình dị tục», có nghĩa hình thức cũng
khác, một nếp sống đơn giản, gọn gàng, sạch sẽ, khiêm cung mà tâm
cũng khác, tâm không đeo đuổi theo cái hướng mà người đời đeo đuổi.
Tâm hình dị tục là nó như vậy!
Và
tôi nói thêm là nói cho người lớn, khi mình cạo đầu là mình muốn có
thông điệp gởi đến các người cư sĩ, nói chúng tôi là người tu rồi,
đừng có chạy theo chúng tôi, chuyển hướng chúng tôi, đừng bắt chúng
tôi trở thành chồng hay là vợ của quí vị.
Tại vì đối với cư sĩ, hình ảnh người tu rất là hấp dẫn, là trái
cấm. Hình ảnh người tu là bất khả xâm phạm, càng cấm chừng
nào, họ càng thèm chừng đó. Cho nên dù mình cạo đầu xấu đi,
mình vẫn nói là tôi đã đi tu rồi, đừng có chạy theo tôi, đừng có
chiếm hữu làm của riêng của quí vị, đừng muốn chúng tôi trở thành
chồng hay vợ của quí vị. Đã nói nhiều lần như vậy rồi mà vẫn tiếp
tục chạy theo và chiếm hữu như thường tại vì người tu là quả cấm rất
là đặc biệt, của ngon vật lạ của người thế gian.
Trong buổi sinh hoạt tại chùa Pháp Quang, có nhiều vị Tôn Đức tôi có
nói rằng là xin Giáo hội có một văn thư cho rõ ràng là khi có một
người xuất gia trẻ muốn ra lập am, lập cốc hay ở nhà riêng ở ngoài
để đi học thì quí vị đừng có nên yễm trợ, vì trên nguyên tắc «Tăng
ly chúng tăng tàn». Quí vị yễm trợ cho người đó một cái am lá
hay một căn phòng hay là hai buổi cơm trong một ngày hay là áo quần
hay một chiếc xe cho người đó có phương tiện. Quí vị cũng cảm
thấy hạnh phúc vì được yễm trợ cho một người như vậy. Đó là
hình thức chiếm hữu vị xuất gia cho riêng mình.
Quí vị nghĩ rằng quí vị đang giúp cho người xuất gia đó. Vì
người xuất gia nói rằng là vị ấy muốn ăn học cho tới nơi, cho tới
chốn. Cần sự yễm trợ của quí vị. Nhưng quí vị nên biết rằng là
quí vị đang làm hại người ta chớ không phải đang thương người đó. «Thương
nhau bằng mười phụ nhau». Nếu cung cấp và yễm trợ cho một
vị Tăng hay một vị Ni đi ra ngoài ở cốc riêng, ở nhà riêng, đi học
có xe riêng, đó là làm hại họ, đó là giết họ. Điều này có nhiều vị
cư sĩ không biết, tưởng là mình làm cái gì công đức lớn lắm.
Cho nên Giáo hội cần phải có văn thư rõ ràng về chuyện này, mình
phải giáo dục quần chúng của mình, đừng có nối giáo cho giặc.
Học ngoài đời.
Có
một vị tân Tỳ kheo hỏi, chúng con là người xuất gia có nên đi học ở
ngoài không? Đi học ở trường Đại học?
Tôi có trả lời như thế này, ở các trường Đại học Tây phương, có
trường dạy về Phật pháp, dạy về Phật học. Dạy một cách
rất
là khoa
học và họ được ban phát văn bằng Tiến sĩ, Tiến sĩ Triết học, Tiến sĩ
Phật học. Dạy rất là nghiêm chỉnh và khi mình làm Luận án Tiến
sĩ, mình cũng phải làm rất là nghiêm chỉnh mới đậu được văn bằng đó.
Nhưng văn bằng đó, học vị đó chỉ cho phép mình dạy lại cái mình đã
học thôi hay là dạy lại cái mình có nghiên cứu thêm thôi. Tại vì cái
học đó không phải là những pháp môn có thể giúp mình tháo gỡ những
cái khó khăn, những bức xúc, những tuyệt vọng, những cái đam mê của
mình. Cho nên có học vị Tiến sĩ Phật học chưa chắc là đã tu được.
Đi dạy thì
được nhưng mà dạy Lý thuyết Phật giáo, dạy Lý thuyết Phật học chớ
không phải dạy phàp môn tu tập.
Trí thức tới các khóa tu ở Làng Mai rất đông, không phải mình cung
cấp Phật học, vì mình cung cấp các pháp môn cụ thể, giúp cho họ có
thể tháo gỡ được những khó khăn trong đời sống cá nhân, trong đời
sống gia đình, trong đời sống cộng đồng. Cho nên trường học Phật của
mình không phải để đào tạo một Lý thuyết gia Phật học, ban phát
những văn bằng Tiến sĩ Phật học hay Cử nhân Phật học. Những
trường Sơ cấp cơ bản, Trung cấp học viện của mình phải cung cấp
những pháp môn tu học để mình có thể áp dụng được trong đời sống
hàng ngày của mình, áp dụng được trong Tăng thân của mình, Tăng thân
xuất gia và Tăng thân tại gia.
Cái học vị Tiến sĩ Phật học mà đã như vậy thì những học vị khác.
Mình học những môn khác như môn Dược, môn Luật, môn Y chẳng hạn thì
nó cũng vậy. Cái nghề của mình là tu chớ không phải để hành nghề như
là Luật sư, là nhà Khoa học, là vị Bác sĩ.
Hôm trước, một phóng viên của báo Thanh niên hay Vietnamnet hỏi tôi:
«Tại
sao Thầy không muốn cho các Thầy làm Đại biểu Quốc hội?».
Tôi trả lời là muốn cho các Thầy tu được tu, vì chuyên môn của mình
là học giáo lý và tu tập, giảng dạy, hướng dẫn theo giáo lý đó.
Còn bây giờ mình ngồi bàn luận bất cứ đạo luật nào trong quốc gia,
mình mất thì giờ làm công việc chuyên môn của mình.
Cũng giống như vị xuất gia có bằng Y khoa Bác sĩ, tuy là kiến thức
của vị đó có thể giúp ích rất nhiều cho bản thân và cho Tăng chúng.
Nhưng mà người đó đi ra ngoài làm Bác sĩ, mở phòng mạch làm việc 8
giờ trong một ngày thì người đó không có thì giờ để tu tập nữa,
không có thì giờ để hướng dẫn đồ chúng nữa.
Vì
vậy tôi không đồng ý cho các vị xuất gia làm Dân biểu Quốc hội, phải
để cho các người tu, thay vì ngồi đó để đàm luận về đạo Luật này,
đạo Luật khác. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là người tu
không biết gì về vấn đề Luật pháp, trong số những người xuất gia có
các vị Luật sư, có các vị Tiến sĩ Luật học. Họ xuất gia tại vì
họ thấy rằng đi xuất gia lám lợi cho cuộc đời nhiều hơn là đi làm
Luật sư. Cũng như những vị Bác sĩ đã đi xuất gia, họ thấy làm
người tu giúp đời nhiều hơn là một vị Bác sĩ Y khoa.
Cho nên trong Quốc hội có thể có các Thầy làm cố vấn cho Quốc hội,
gặp những vấn đề gì có liên hệ đến nền đạo đức, nếp sống tinh thần
của đất nước nên hỏi ý kiến các Thầy và các Thầy có đủ khả năng, đủ
kiến thức để trả lời những câu hỏi đó. Thí dụ trong Quốc hội
muốn làm đạo luật về vấn đề giúp cho người bệnh không có cơ hội lành
được chết một cách nhẹ nhàng thì mình phải hỏi các vị tinh thâm về
giáo lý, về đạo đức trước khi mình làm bộ luật đó, đạo luật đó.
Nếu mình có văn bằng Tiến sĩ
Phật
học, cái đó có thể có ích lợi cho đời hành đạo của mình nhưng mà
không có văn bằng Tiến sĩ Phật học cũng không sao. Có nhiều
người trong chúng ta không có văn bằng đó nhưng chúng ta đã giúp
được rất nhiều người. Các Tổ ngày xưa không ai có văn bằng đó
hết, như Tổ Lâm Tế, Tổ Nguyên Thiều, Tổ Đức Quảng, chớ đừng nói là
những văn bằng khác, cái nghành học khác. Cố nhiên mình có
kiến thức về các nền văn minh trên thế giới, lịch sử thế giới, kiến
thức về khoa học, về tâm lý học, những điều này cũng giúp cho mình
đào sâu được trong kho tàng Phật giáo. Tôi có học về những môn đó
nên tôi thấy sâu hơn về kinh điển, về giáo lý, về sự thực tập.
Nhưng tôi không cần đi học ở ngoài, để có văn bằng khoa học, về luật
học hay là về văn chương.
Ở
trong Tăng viện, mình có thể có một số sách vở đúc kết về những khám
phá gần nhất của các nghành khoa học đó, mình chỉ cần đọc một hay
hai tập là mình đủ để nắm tinh hoa, đại cương và điều đó giúp cho
mình thấu hiểu thông thạo được ngôn ngữ của thế gian, ngôn ngữ của
khoa học, ngôn ngữ của tâm lý học, ngôn ngữ của văn học và mình có
thể trao truyền Phật pháp, trao truyền pháp môn của mình dễ dàng
hơn, thoải mái hơn.
Có
lần tôi mở khóa tu cho các nhà Doanh thương, tôi nghĩ rằng trước khi
mở khòa tu cho các nhà Doanh thương, tôi phải biết những khó khăn,
những khổ đau của giới doanh thương, tôi phải biết cái ngôn ngữ của
họ. Và có người đệ tử, họ gởi cho mình những bài báo, những tài liệu
để cho mình học hỏi trước khi mình mở khóa tu cho các nhà Doanh
thương. Mình chỉ cần học hỏi trong khoảng một tuần lễ là mình
có thể mở khóa tu được. Cái quan trọng, cái thiết yếu là kiến thức
về Phật pháp và những kinh nghiệm tu tập của mình. Đó là cái
quan trọng nhất, còn những cái kia mình có thể học hỏi một cách là
dễ dàng.
Thành ra học những môn «Thế học» không nhất thiết là cần thiết.
Có thì tốt, không có cũng không sao. Mình luôn luôn tìm hiểu
thêm để cho sự hoằng pháp của mình càng ngày càng rộng, càng dễ,
nhưng mà cái nội minh nhất là sự thực tập là căn bản.
Trong bao nhiêu năm tôi đã suy tư nhiều, quán chiếu nhiều về tình
trạng hư hỏng của Tăng Ni. Tôi cũng có tham khảo, đàm luận với
các vị Tôn túc trong Giáo hội. Ngày tôi đi sang Nam Hàn và thăm
Tăng gia Đại học tại Hán thành. Thấy Hiệu trưởng của viện Đại
học Tăng gia Trung ương hỏi bây giờ Tăng Ni hư quá thì phải làm
sao?. Họ sử dụng những tiện nghi của đời sống hiện đại rất là nhiều,
trong đó có mạng lưới Internet, có điện thư, có phim ảnh, có truyền
hình, có đủ thứ…
Đây không phải là vấn đề riêng của Việt Nam, đây là vấn đề chung của
Phật giáo. Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo
Nhật Bản, Phật giáo Triều Tiên.
Chúng ta có biện pháp không?
Chúng tôi mới hoàn thành ấn bản mới của sách Bước Tới Thảnh Thơi.
Là
cuốn sách Giáo khoa cho Sa di và Sa di ni. Hiện giờ có tới 41
thế uy nghi. Trong uy nghi đó có những dặn dò rất là cụ thể.
Làm thế nào để đừng rơi vào tệ nạn xã hội mà Thanh niên ở ngoài đời
đã rơi vào rất là nhiều. Những tệ nạn xã hội mà Thanh niên ở
ngoài đời rơi vào đó, nó đang xâm nhập từ từ vào trong chùa, và
Thanh niên Tăng Ni cũng từ từ rơi vào như những người ở bên ngoài.
Ở
ngoài có chuyện nạo thai, có chuyện tự tử. Ở trong chùa nó
cũng có chuyện tuơng tự như vậy. Cứu Tăng như cứu hỏa, chúng
ta không thể để hai năm trôi qua mà không làm gì hết được, chúng ta
không thể để một năm trôi qua mà không làm gì hết được, chúng ta
không thể để một tuần trôi qua mà không làm gì hết được.
Môi
trường của Thanh niên Tăng Ni thật là xấu, chúng ta phải lập tức
cung cấp cho họ môi trường tốt, vì trong chiều sâu tâm thức của họ
vẩn có ý định muốn tu, muốn thành đạt, muốn độ đời nhưng ước muốn
đó, Bồ Đề Tâm đó, nó biến đi, nó bị vùi lấp bởi không biết bao nhiêu
lớp lo toan.
Có nhiều vị Hòa thượng, Sư bà viết thơ nói có nhiều Tăng Ni sau khi
đọc cuốn “Nói với người xuất gia trẻ”, họ khôi phục được bồ
đề tâm của họ. Vì vậy các vị ấy tìm cách in ấn ra nhiều cuốn để làm
quà cho tân Tăng Ni trẻ. Theo kinh nghiệm cá nhân thì khóa tu cho
Tăng Ni, giới trẻ thường thường được tưới tẩm những hạt giống bồ đề
tâm.
Tâm ban đầu của người đi xuất gia rất là đẹp. Nếu mình biết cách để
nuôi dưỡng Tâm ban đầu đó, trái tim nóng hổi đó của người mới xuất
gia, có đủ năng lượng để thoát ly khỏi các khó khăn. Vấn đề là làm
sao cho sợi dây tâm bồ đề không bị soi mòn. Tất cả những câu hỏi nằm
ở chỗ đó. Sợi dây bị soi mòn, bị đặt vào hoàn cảnh xấu, môi trường
xấu.
Có một vị Tỳ kheo trẻ phạm giới, vị đó có đủ lương tâm, lương tri để
biết rằng mình phản bội lại cái sơ tâm của mình, mình đã sụp vào
hầm hố của tội lỗi, mình phản bội lại chính mình, mình phản bội lại
cha mẹ (tại vì mình xin cha mẹ đi xuất gia), mình phản bội lại Thầy
tổ. Người đó muốn sám hối, đã tụng bao nhiêu lần bộ Lương Hoàng Sám
và sự ray rức, ăn năn quá lớn. Người đó, vị đó, Thầy đó đã đốt những
nhang, châm những ngọn lửa nhang vào da thịt, đầy cả châu thân, rốt
cuộc không thành công, cũng ra đời, thấy rất là tội!
Thủ phạm là ai? Thủ phạm là môi trường xấu. Cái môi trường rất quan
trọng, nếu chúng ta có môi trường tốt thì chúng ta được bảo hộ, thực
tập uy nghi rất dễ. Còn môi trường xấu, ta gắng hết sức mình cũng
không làm được. Cố nhiên thỉnh thoảng có đại anh hùng, vẫn có thể
sống sót được dù môi trường xấu. Nhưng mà đa số không phải là như
vậy, đa số chúng ta đều là con người, hiếm là các bậc Thánh,
do đó nếu để người xuất gia trẻ đi vào môi trường xấu, đó là không
cho họ cơ hội thành công.
Tôi có một vài kinh nghiệm. Kinh nghiệm ở Làng Mai, ở Lộc Uyển, ở
Rừng Phong cũng như ở Bát Nhã Bảo Lộc và chùa Từ Hiếu. Khi những
người trẻ đi xuất gia có tâm ban đầu đẹp như vậy, nếu mình đưa ngay
những người đó vào nếp sống Thanh quy thì rất tốt. Họ sẽ quen với
nếp sống Thanh quy và họ sẽ có hạnh phúc suốt đời.
Mắt họ sáng, nụ cười họ tươi, bước chân họ rất là vững chãi, có niềm
tin, họ rất là được bảo hộ, ngay cả những hấp dẫn ngoài đời như là
những bản nhạc tình sầu đứt ruột, những điện thoại di động, những
băng nhạc, đĩa hình, mạng lưới Internet..
Họ được bảo hộ, một mặt là vì họ có rất nhiều niềm vui và hạnh phúc
trong khi tu nên họ không cần những thứ đó. Thứ hai là được hoàn
cảnh rất là tốt, các Sư anh, Sư chị của họ, Thầy Giáo thọ hướng dẫn
cho họ đều thực tập nghiêm chỉnh. Họ ở trong trạng thái hoàn cảnh
rất là an ninh như chưa bao giờ từng có. Tại vì thanh niên thiếu nữ
đó đã từng ở vào trong những hoàn cảnh rất là hiểm nguy, có người
đã bị lạm dụng tình dục từ hồi 14,15 tuổi, sống ngay trong gia đình
mình cũng không thấy được an lành, ông chú, ông bác, ông anh. Vì vậy
cho nên môi trường rất là quan trọng.
Và tôi nhận thấy ở Làng Mai cũng như ở Bát Nhã, các cô, các chú sau
sáu tháng đã thấy thay đổi rất nhiều, lớn lên rất là mau với sự
thực tập nghiêm mật. Sự thực tập được các anh, các chị của mình và
các vị Giáo thọ hướng dẫn, mỗi khi đi công phu là đi hết chớ không
phải chỉ có một số đi, ngồi thiền là ngồi hết, mỗi khi nghe pháp
thoại là nghe hết chớ không có chia ra phe.
Mình sắp đặt như thế nào, để khi nấu cơm, làm sao làm sẵn để mọi
người đều có thể nghe pháp thoại hết và điều này có thể làm được,
một khi thiền hành cả chúng đi thiền hành. Cái năng lượng thật là
lớn. Khi từ trên xuống dưới đều thực tập chung hết và mọi người đều
nuôi dưỡng bởi năng lượng tập thể đó. Năng lượng của Niệm, của Định,
của Tuệ.
Tại Bát Nhã có một số Thầy và các Sư cô đã từng được đào luyện ở các
chùa và các tu viện. Họ không có hạnh phúc, không có đủ niềm tin. Họ
lên Bát Nhã để thử các pháp môn trên này, sự tu học trên này nó như
thế nào?.Có một số sau khi ở được chừng 7 ngày hay 15 ngày thì về,
nhưng có một số, số này tuy không nhiều, xin tình nguyện ở lại
thường trú và tu tập như bất cứ một người nào khác, tuy là Hạ lạp
cao hơn rất là nhiều. Các vị này buông bỏ được tiện nghi vật chất
dễ dàng, tự nhiên bỏ điện thoại di động, bỏ xe gắn máy riêng, bỏ ti
vi, bỏ máy hát và theo Chúng rất là dễ dàng vì những người đó, họ
nắm bắt được pháp môn, cái mà lâu nay họ tìm kiếm, họ không có.
Chúng ta có những người như vậy trong hàng ngũ xuất gia của chúng ta
nhưng chúng ta cũng có những người đã quá quen với những tiện nghi
vật chất, có tiền riêng, có điện thoại di động, có địa chỉ email, có
xe riêng, có bổn đạo riêng và cảm thấy không thoải mái khi buông bỏ
những cái đó.
Khi mình được tiếp xúc với Chánh pháp, với Pháp môn, với Tăng đoàn
thì nhận ra được đây là con đường mình cần phải đi. Mình muốn đi nên
mình buông bỏ rất là dễ dàng. Còn tâm của mình hướng về những nẻo
khác, thì mình không chấp nhận, mình không có khả năng chấp nhận,
mình vướng vào những tiện nghi vật chất và nhất là những tiện nghi
tình cảm, lâu nay nó nuôi mình nhưng nó cũng làm hư mình. Đó là vấn
đề của một số đông của người xuất gia, kể cả những người xuất gia
trên 10 tuổi Hạ. Theo tôi thấy là cứ đeo đuổi những vị đó, tìm cách
giúp cho họ buông bỏ các lề thói cũ.
Có một vị xuất gia trẻ, một vị giáo thọ trẻ nói với tôi như thế
này: “Sở dĩ người thanh niên Tăng Ni hư hỏng là tại vì họ không
có chí hướng, không thấy đường đi của họ”. Tôi thấy điều này rất
đúng. Nếu ngày hôm nay mình thấy được con đường mình đi, mình thấy
mình có ích lợi cho con người, cho xã hội, mình có thể làm gì cho
ngày hôm nay để cho đời sống có ý nghĩa hơn. Mình thấy mình có con
đường đi đẹp và mình làm thỏa mãn được cái ước mong giúp đời, giúp
người thì người thanh niên đó có thể buông bỏ dễ dàng những tiện
nghi vật chất và tình cảm lâu ngày nó ràng buộc người đó. Tôi thấy
rất đúng và bài pháp thoại ngày mai, tôi sẽ nói về chuyện đó nhưng
mà môi trường vẫn là vấn đề chính. Cái lý tưởng kia, cái con đường
kia, mình chỉ duy trì, nắm vững được khi mình có môi trường tốt, khi
mình có người đồng chí, đồng tâm, đồng đạo cùng đi với mình và cùng
nâng đỡ mình.
Bốn hơi thở.
Trong kinh An Ban Thủ Ý, Đức Thế Tôn có dạy làm thế nào để làm lắng
dịu những căng thẳng và những đau nhức trong thân và trong tâm.
Trong thân chúng ta có những đau nhức trong thân và cái đó làm cho
sanh ra những tật bệnh khác và trong tâm ta có những đau nhức, những
căng thẳng, những buồn chán, những lo âu, những sợ sệt. Và Đức Thế
Tôn cũng có dạy phương pháp thở để chúng ta lắng dịu những tâm hành
như là buồn, giận, tuyệt vọng hay là sợ hãi.
- Hơi thở đầu của Kinh An Ban Thủ Ý là trở về với hơi thở và
để ý tới hơi thở. Khi mình đang thở vô là mình biết là mình đang thở
vô. Khi mình thở ra là mình biết mình đang thở ra. Thay vì để ý
chuyện khác thì chỉ để ý hơi thở thôi, trở về với hơi thở. An ban là
hơi thở. Thủ ý là để ý, nắm lấy.
Ngay bài tập đơn sơ như vậy cũng đủ giúp cho mình chấm dứt những suy
tư, những tán loạn nó kéo mình đi. Trở về với hơi thở để mình có thể
trở về với thân và với tâm.
Đây là một cuộc trở về. Thở vào là tôi biết đang thở vào, đem cái
Tâm trở về với hơi thở. Thở ra là tôi biết tôi đang thở ra và mình
chỉ cần để ý hơi thở, đây là hơi thở vào, đây là hơi thở ra, nhận
diện hơi thở vào, nhận diện hơi thở ra.
Thở cũng như mình chơi, cũng như mình đánh pingpong, mình thấy trái
banh đi qua phía mình, nó nhảy lên mình đánh một cái cho nó đi sang
bên kia.
- Hơi thở thứ hai là theo dõi từ đầu đến cuối. Thở vào tôi
theo dõi hơi thở vào từ đầu đến cuối, bám sát lấy hơi thở, đừng để
cho cái Tâm mình buông hơi thở ra bất cứ một cái phần ngàn của giây
nào. Đó là Tùy tức, tùy tức là theo dõi, bám sát.
Ban đầu mình chỉ để ý tới hơi thở vào và hơi thở ra. Sau đó mình khá
hơn, mình theo dõi hơi thở vào từ đầu đến cuối, theo dõi hơi thở ra
từ đầu đến cuối thì cái Tâm của mình hoàn toàn không nghĩ tới chuyện
quá khứ, tương lai, hoàn toàn nó trở thành hơi thở. Chủ thể và đối
tượng của Tâm là An Ban Thủ Ý, để ý tới hơi thở.
- Hơi thở thứ ba là nhận diện toàn thân, đem Thân về để xác
nhận cái Thân mình đang có đó như là một thực tại, nhận diện hình
hài của mình, nhận diện cái Thân của mình.
Trong Kinh gọi là nhất thiết thân giác, nhất thiết thân tức là toàn
thân, ý thức về toàn thân, trở về và nhận diện, đây là thân thể
mình, đây là toàn thân. Vì hơi thở chỉ là một phần của Thân thôi.
Hơi thở bắt đầu trở về với Thân. Khi trở về với hơi thở rồi thì trở
về toàn thân rất dễ.
Thở vào tôi nhận tôi nhận diện toàn thân. Thở ra tôi nhận diện toàn
thân. Công nhận sự có mặt của thân thể mình.
- Hơi thở thứ tư là lắng dịu toàn thân, thở vào tôi làm lắng
dịu toàn thân, thở ra tôi làm lắng dịu toàn thân. Theo chữ Nho là
Thân hành tức, tức làm cho nghỉ ngơi, dừng lại vì trong đó có những
căng thẳng, có những đau nhức, mình thúc đẩy cái thân thể của mình,
mình làm tình, làm tội cái thân thể của mình quá nhiều. Thành ra bây
giờ mình phải từ bi với nó, mình trở về ôm ấp nó, cho phép nó thư
giãn, cho phép nó buông thư. Và với hơi thở sâu, lắng mình giúp cho
toàn thân của mình nó lắng dịu lại.
Bốn hơi thở này là Đức Thế Tôn chỉ cho mình để mình trở về với Thân,
quán Thân. Một phần của quán Thân, nó có tác dụng chấm dứt loạn
tưởng, nó có tác dụng toàn thân và cuối cùng nó có tác dụng làm lắng
dịu những căng thẳng ở trong Thân.
Những căng thẳng ở trong Thân là nguồn gốc của những bao nhiêu căng
thẳng ở trong Tâm và những bệnh tật khác.
Hiện giờ các bệnh viện lớn ở Tây phưong, có nhiều bệnh viện, có
những nhân viên, có những ngành, họ dạy cho mình lắng dịu cái thân
của mình.
Có những nhà Y học như là Bác sĩ Benson, như là John Carbazine, họ
nói rằng theo kinh nghiệm của họ, khi mà cái Thân của mình mà lắng
dịu lại được thì cái Thân của mình có khả năng tự chữa trị những
chứng bệnh tật.
Cuốn sách của Bác sĩ Benson viết “Relaxation restored” đã nói rõ
chuyện này.
Mình dùng hơi thở hay mình dùng một linh chú để làm lắng dịu thân
của mình xuống thì thân của mình tự chữa trị những cái bệnh tật,
thành ra cái chuyện làm lắng dịu cái Thân rất là quan trọng cho sự
chữa trị. Bác sĩ John Carbazine nói có những trường hợp khác bác sĩ
đã chạy rồi, người ta gởi cho ông. Ông và nhà cộng tác, các cô y tá,
dạy bịnh nhân chấn chỉnh mình lại, buông thư, làm lắng dịu thân thì
bắt đầu chữa trị lại được .
Kinh An Ban Thủ Ý rất là mầu nhiệm, tôi đã nghiên cứu ba mươi năm
và đem áp dụng, phát huy mà vẫn chưa làm hết được. Thành ra muốn các
Thầy, các Sư cô bắt đầu sử dụng khai thác văn bản.
Trước hết là buộc hơi thở vào thân. Hơi thở đầu nhận diện hơi thở
vào hơi thở ra, để ý hơi thở vào hơi thở ra, nó đơn sơ như vậy
nhưng rất mầu nhiệm. Hơi thở thứ hai là theo dõi hơi thở, từ đầu cho
đến cuối hơi thở vào, hơi thở ra cũng vậy. Hơi thở thứ ba là đem
tâm nhận diện sự có mặt của thân, làm quen lại với thân, ôm lấy thân
vào mình. Và hơi thở thứ tư là làm cho thân hành, làm cho toàn thân
lắng dịu xuống, theo dõi điều tức gọi là trường đoản.
Hơi thở thứ nhất gọi là xuất tức nhập tức. Hơi thở thứ hai là trường
tức đoản tức, có nghĩa là theo dõi hơi thở. Vấn đề là không cần nó
dài, nhưng mình theo dõi nó từ đầu tới cùng, đừng buông nó, đừng có
nắm bắt đối tượng nào khác, ngoài hơi thở vào, ngoài hơi thở ra,
ngoài nó ra, mình gọi nó là tùy tức, tức là theo dõi hơi thở. Hơi
thở thứ ba là nhận diện toàn thân, thân hành giác. Hơi thở thứ tư là
làm lắng dịu toàn thân. Mỗi khi trong tư thế nằm, tư thế ngồi mình
đều thực tập như vậy. Nó rất là quan trọng, ngày mai tôi sẽ nói
tiếp.
Trong khi ăn cơm, mình cũng có thể làm cho toàn thân lắng dịu. Mình
ăn cơm, mình chỉ để ý đến cơm và tăng thân ngồi chung quanh mình,
đừng để ý đến chuyện quá khứ, tương lai, chuyện công việc, chuyện
chùa. Khi gắp một cọng rau lang hay một miếng tàu hủ để ra mỗi giây,
để nhận diện nó, cọng rau lang hay miếng tàu hủ. Nhận diện thôi,
thấy được nó, ý thức đây là một cọng rau lang hay miếng tàu hủ. Và
khi mình bỏ vào trong miệng, mình chỉ chú ý nó thôi, mình nhai nó,
mình biết rằng mình đang nhai miếng tàu hủ hay là cọng rau lang. Nó
rất là mầu nhiệm.
Một cọng rau lang là một viên Đại sứ của Trời Đất gởi tới, mình tiếp
xúc để nuôi dưỡng mình. Miếng tàu hủ cũng vậy trong đó có mặt trời,
mặt trăng, có đám mây, có cơn mưa, có đại địa. Ở trong miếng tàu hủ
hay miếng ăn, trong đậu trong rau lang có đầy đủ vũ trụ trong đó. Và
khi mình nhai mình chỉ nhai cái đó thôi, mình đừng có nhai những dự
án, những lo toan, những đau khổ, những bực tức, những ganh tỵ hiềm
của mình, không có lành mạnh và mỗi giây phút của buổi ăn, nó có
hạnh phúc, nó có tự do. Tự do đây là không bị quá khứ níu kéo, tương
lai lôi kéo, những dự án lôi kéo đi, những giận hờn.
Ngồi ăn là con người tự do, ngồi ăn là được nuôi dưỡng bởi sự thảnh
thơi, ăn cho sự thảnh thơi. Được ngồi với Chúng, được ngồi với quí
vị Tôn túc, ngồi với huynh đệ, khỏi làm gì hết, chỉ ăn cơm thôi và
nuôi dưỡng tình huynh đệ thì mình được nuôi dưỡng bằng thức ăn bởi
tình huynh đệ, bằng sự vững chãi, sự thảnh thơi của mình.
Thành ra ăn cơm là sự thực tập rất là quan trọng. Cái đó nó quan
trọng hơn là mình đắp hậu, đắp y vào, quá nóng và những hạt mồ hôi
từ từ nó chảy xuống ở trong lưng của mình. Quan trọng nhất không
phải là Y, Hậu hay là những vi thếcủa
những bữa ăn Quả đường. Quan trọng nhất là ngồi như thế nào trở
thành một con người Tự do, một người thảnh thơi không bị quá khứ lôi
kéo, không bị tương lai lôi kéo và trong thức ăn được nuôi dưỡng
được bằng tình huynh đệ, bởi các tình huynh đệ. Mình sẽ ăn cơm theo
từng gia đình, có khi mình ăn cơm với Chúng và năng lượng của Chúng
cũng là thức ăn cho mình. Ăn cơm như vậy rất là bổ, bổ hết mọi mặt
và khi mình đi thì mỗi bước chân của mình bước vào Tịnh độ, đừng có
bước ra ngoài Tịnh độ.
Tôi đã đi như vậy và tôi đã đi lâu rồi. Tịnh độ ở ngay trong giây
phút hiện tại. Tâm mình mà nhẹ nhàng, không có lo lắng nếu mình an
trú được trong giây phút hiện tại, mình tiếp xúc được với bao nhiêu
là mầu nhiệm cuộc sống trong sự có mặt trong hiện tại và mỗi bước
chân như vậy, giúp cho mình tiếp xúc với mầu nhiệm đó.
Tịnh độ ở ngay đám mây, ở nơi mỗi tờ lá, ở nơi mỗi viên sỏi, ở nơi
những giọt mưa, không cần tìm Tịnh độ ở đâu, ở ngoài. Đi từng bước
như vậy nó nuôi dưỡng mình, nó cho mình vững chãi, nó cho mình thảnh
thơi. Vững chãi có nghĩa là không bị kéo đi, kéo đi về quá khứ tương
lai, những dự án …,
và thảnh thơi tức là vô sự và mình có thể làm được khi mình bước đi,
mình có thể thở vào một hơi, mình bước hai bước mình nói tôi đã về
tôi đã về, mình thở ra, mình bước hai bước, mình nói tôi đã tới tôi
đã tới.
Đã về, đã về, đã tới, đã tới nghĩa là tôi không có chạy, có nghĩa là
tôi đã vào Tịnh độ rồi, đã về tới Tịnh độ rồi, là sự sống có mặt
ngay trong hiện tại rồi. Đã về đã về đã tới đã tới đi như một con
người tự do và chúng ta đều có khả năng đi như vậy. Nếu ta đi được
một bưóc thì ta cũng có thể đi nhiều bước và mỗi bước chân đi vào
Tịnh độ là chuyện người tu có thể làm được và có người trong chúng
ta đã làm được, đang làm được và mỗi khi nghe tiếng chuông, chúng ta
nhớ đây là tiếng gọi của Đức Thế Tôn. Đừng có lo lắng, đừng có suy
nghĩ nữa, trở về với hiện tại, trở về với hơi thở, thở vào cho nhẹ,
thở ra cho khỏe, miệng mĩm cười với tiếng chuông Chánh niệm.
Trong khoá tu chúng ta sẽ có cơ hội pháp đàm với nhau, tức là trao
đổi những khó khăn về kinh nghiệm tu tập, nhưng mà ngoài những giờ
đó ta nên giữ im lặng. Im lặng để làm gì? Im lặng để có cơ hội thực
tập, thực tập bước chân, thực tập hơi thở. Vì mỗi hơi thở, mỗi bước
chân đều có thể chế tác lại chánh niệm giúp cho mình an trú trong
hiện tại và tiếp xúc với mầu nhiệm của hiện tại.
Trong khóa tu nào tôi cũng thực tập như vậy và tôi làm những điều
tôi làm và ngoài những khóa tu tôi cũng làm như vậy, chứ không phải
vào khóa tu tôi mới làm như vậy.
Khóa tu này có cả ngày cả đêm được tiếp diễn tháng này qua tháng
khác, năm này sang năm khác. Là tại mình ở trong Tịnh độ rồi, mình
đã ở trong thế giới an lạc rồi, tại sao mình phải bước ra ngoài làm
cái gì?
Vì vậy bưóc chân và hơi thở là hai sợi tơ sen mà trói được con mãnh
hổ, cái tập khí tuôn chạy của mình. Đó là câu nói là của Tuệ Trung
Thượng Sĩ : Phóng trước liên ty vượt hổ nhi, dịch là
liệng sợi tơ sen trói mãnh hổ.
Mãnh
hổ tức là tập khí chạy hoang của mình. Chính dùng sợi tơ hơi thở,
sợi tơ bước chân của mình nắm được con cọp tập khí đó.
Có những con voi bên Thái Lan, họ bắt về voi hoang, họ dùng những
sợi xích sắt, những vồ sắt để điều phục.
Nhưng người tu không cần sử dụng những sợi xích sắt đó, những vồ sắt
đó mà mình chỉ cần sử dụng hơi thở và bước chân trong nghiêm nhặt là
mình trói được con mãnh hổ tập khí, nó muốn luôn luôn vượt chạy,
tuôn chạy./.
|