PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

. . .  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (. . .  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (. . .  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

 Nghệ thuật sống thiền :


Tâm Sự với người Xuất gia trẻ

 

  • Tháng IV 2007 - Chân Giác Quang & Chân Tịnh Minh phiên tả và biên tập :
    Pháp thoại
    của Sư ông Làng Mai ngày 27 - III - 2007 tại tổ đình Từ Hiếu - Huế
    Khóa tu dành cho người Xuất gia từ 27 đến 30 tháng III 2007

    Â
    m thanh MP3 : 
    Phần 1 (10MB)  Phần 2 (8.5MB)
     

Kính thưa chư vị Tôn Đức, kính thưa Đại chúng, các Thầy, các Sư cô. Hôm nay là ngày 27. 03. 2007, chúng ta đang ở tại chùa Từ Hiếu, trong khóa tu dành cho người xuất gia.

Một khóa tu luôn luôn đem lại sự ích lợi, chắc chắn cuối khóa tu, chúng ta sẽ thấy nhẹ nhàng hơn, an lạc hơn, hạnh phúc hơn và nhất là Tâm Bồ Đề vững mạnh hơn. Một khóa tu cũng giống như đi Bác sĩ châm cứu, mỗi ngày có thời châm cứu và làm theo lời dặn bác sĩ, trong khi ăn uống, vận động, nghỉ ngơi, chắc chắn sau một tuần lễ sẽ có kết quả, nhưng nếu mình rơi vào trong hoàn cảnh cũ thì tình trạng sức khỏe mình đạt được sau thời gian châm cứu chỉ tồn tại được 3, 4 tuần lễ, sau đó nó bắt đầu mất đi hiệu quả, rồi mình phải nghĩ đến chuyện đi tới một thời gian châm cứu khác thì khóa tu cũng như vậy. Trong thời gian khóa tu, chúng ta nghe pháp thoại, thực tập ngồi, thực tập đi, đứng, thực tập quán chiếu, chúng ta sẽ nhẹ đi, khỏe lên. Nhưng mà nếu chúng ta không có một môi trường tốt để tiếp tục, chúng ta sẽ đánh mất sư an lạc đó, năng lượng bồ đề tâm đó, sự thong dong đó mà chúng ta đã đạt được trong khóa tu.  Rồi chúng ta đợi một vài năm nữa có một khóa tu kế tiếp, đó là tình trạng của rất nhiều người trong chúng ta. 

Chúng ta không nắm vững được sự thực tập, chúng ta không có duy trì được hạnh phúc, năng lượng mà chúng ta đạt được trong khóa tu là tại vì môi trường của chúng ta xấu, không thích hợp cho sự tu học,  không khuyến khích được sự tu học, chúng ta bị kéo theo.  Điều này đúng cho người xuất gia mà cũng đúng cho người tại gia. Có thiền sinh tại gia tới tu học trong vòng 1 tuần lễ, có khi 4 tuần lễ, có khi 21 ngày, họ cãm thấy hạnh phúc quá chừng, họ muốn đem pháp môn đó, đem sự thực tập đó về để tiếp tục, nhưng mà về tới nơi, hoàn cảnh địa phương lôi kéo họ đi, rồi họ không có tiếp nối được sự thực tập, chỉ trong vòng vài ba tháng, hết còn thấy hạnh phúc.

 

Xây dựng tăng thân

Bởi vậy, cho nên khi nào nghe có khóa tu, họ muốn ghi danh trở lại và rũ bạn bè cùng tham dự khóa tu, đó là tình trạng của thiền sinh cư sĩ.  Cho nên bên Làng Mai xong một khóa tu, chúng tôi luôn luôn có một buổi gọi là Dựng Tăng.  Dựng Tăng có nghĩa là xây dựng Tăng thân ở địa phương. Trong buổi dựng tăng đó, mình cho mọi người biết là ai có gốc gác ở thành phố nào, quốc gia nào thì giơ tay lên, rồi cùng nhau lập thành một nhóm, một tăng thân chừng 10 người hay 20 người hoặc 15 người để mỗi tuần có thể tới với nhau duy trì hạnh phúc đó, sự thực tập đó.

Phương thức này gọi là xây dựng Tăng thân (Sangha building).  Hiện giờ đã có 1000 Tăng thân như vậy ở các đô thị Âu Châu và Mỹ châu. Tăng thân như vậy, họ không có người xuất gia hướng dẫn, có thể là họ có một giáo thọ cư sĩ hướng dẫn, vì trong quá trình đào tạo, giảng dạy, chúng tôi đã cố gắng đào tạo những vị cư sĩ giáo thọ. Những vị giáo thọ xuất gia không đủ cung ứng cho nhu yếu rất lớn của thiền sinh Tây phương. Có nhiều vị giáo thọ cư sĩ rất giỏi, không những về phương diện diễn giảng hướng dẫn tu tập mà giỏi luôn về vấn đề hành trì và giới luật rất là hay, nhiều khi tu hay hơn những  người xuất gia.

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam có những vị cư sĩ nổi tiếng.  Thí dụ như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Lê Đình Thám đều là những người giỏi, tiếng tăm rất vững, sự thực tập rất đàng hoàng.  Các vị đó đã từng giúp cho các vị xuất gia, cho nên các vị giáo thọ cư sĩ làm việc tay trong tay với các vị giáo thọ xuất gia, họ giúp cho các vị xuất gia rất là nhiều. Có thể tại quê hương, chúng ta cần có những vị giáo thọ tại gia, họ có thể giúp rất là nhiều cho các Thầy, các Ni sư trong việc quảng bá, nhất là hướng dẫn tu tập.

Những trường Phật học của chúng ta đào tạo những Giảng sư giảng giải về Phật pháp nhiều lắm nhưng chúng ta không có đào tạo những người có khả năng hướng dẫn, tổ chức những khóa tu giúp cho người cư sĩ chuyển hóa, trị liệu. Chánh thức trong trường Phật học chúng ta không có giảng dạy môn Dựng Tăng, cung cấp những pháp môn tu tập để tháo gỡ những khó khăn, bức xúc trong đời sống hàng ngày. 

Đặc điểm của của giáo thọ Làng Mai, xuất gia hay là cư sĩ là ở chỗ họ có thể hướng dẫn tu tập được : hướng dẫn thiền đi, thiền thở, thiền ăn cơm, thiền lái xe …. nhất là họ giúp cho mình phương pháp làm lắng dịu căng thẳng, nhức nhối trong thân và trong tâm để từ từ chuyển hóa.  Giúp cho những người cha có thể truyền thông được với con, người chồng truyền thông được với vợ và đem lại hòa khí, hạnh phúc trong gia đình.

Đó là những chủ đề, những phương pháp mình phải nắm cho được nếu mình muốn là một vị giáo thọ giỏi.  Một vị giáo thọ giỏi không thể chỉ cho những bài pháp thoại hay và làm cho người ta có niềm tin nơi  Phật pháp.  Cho những bài pháp thoại hay làm cho người ta có niềm tin nơi Phật pháp thì rất là hay, rât là tốt, có rất nhiều công đức nhưng mà không có đủ, mình phải có những pháp môn cụ thể. Tại Làng Mai, khi mình đi mở khóa tu như vậy, không bao giờ đi một vị giáo thọ, nhưng một vị giáo thọ cư sĩ có thể đi một mình, vì ngoài đời họ đa đoan lắm, không thể đi một đoàn giáo thọ như mình.

Còn ở Làng Mai, mỗi khi mở khóa tu mình phải đi một phái đoàn, một Tăng đoàn, trong đó có những vị giáo thọ nhưng cũng có những vị tập sự giáo thọ và cũng có những Thầy, những Sư cô, Sư chú chưa có trong vị trí tập sự giáo thọ cũng được đi theo để phụ tá. 

Khi các vị này đi theo nhìn các Thầy, các Sư cô, chị lớn, anh lớn của mình tổ chức, hướng dẫn, tháo gỡ thì mình cũng học cái cách đó.  Sư huynh làm việc, hướng dẫn cho Sư đệ.  Vì vậy cho nên đi phụ tá khóa tu không hẳn là đi làm việc mà cũng là một loại đi học, đi thực tế, đi để học xem các Sư anh, Sư chị mình làm việc như thế nào để từ từ mình bắt chước.

Thí dụ như buổi vấn đáp, thiền sinh cư sĩ đưa ra một số các câu hỏi, tuy rằng mình không có bổn phận trả lời nhưng mình ngồi đó, mình thấy Sư anh, Sư chị trả lời như thế nào, như vậy mình học rất nhiều trong cái cách mà Sư anh, Sư chị của mình tháo gỡ cho những người đó: những cái khó khăn, những cái lề lối, những cái phương pháp giúp cho người ta tháo gỡ.  Đó không phải là mình bịa đặt ra hay là do mình hứng khẩu nói đại mà do mình học được trong đời sống của người xuất gia khi sống chung với Thầy, với huynh đệ.  Tại vì sống chung với Thầy cũng có những khó khăn, có khi mình giận Thầy, có khi Thầy giận mình, có khi huynh đệ giận nhau. 

Nếu mình không có pháp môn thì mình chịu chết.  Có pháp môn mình tháo gỡ được.  Vì vậy cho nên mình có kinh nghiệm và ra đời để giảng dạy, mình sử dụng kinh nghiệm đó để tháo gỡ cho những người kia. Thành ra cái hành trang của mình là cái kho tàng kinh nghiệm mà mình đạt đuợc khi mình sống với Thầy, với huynh đệ.  Cho nên vấn đề học hỏi Kinh, Luận chỉ là một khía cạnh của đời sống người xuất gia mà thôi.

Người cư sĩ, người giáo thọ cư sĩ cũng tham dự các khóa tu, có khi tham dự khóa tu 3 tháng, mùa Kiết Đông An Cư. Bây giờ có những phương tiện truyền thông mới mẻ, họ có thể theo dõi khóa tu, họ tổ chức tu học ngay địa phương của họ.  Mỗi ngày họ được nghe pháp thoại trực tiếp từ Làng Mai và thực tập theo. 

Thí dụ như ở California, họ cố gắng nghe những bài pháp thoại ở Làng Mai trễ độ chừng nửa ngày nhưng mà tu viện Rừng Phong ở Vermont, nghe trễ hơn chừng 6 giờ đồng hồ và họ nghe pháp thoại như hệt, cũng ngồi như vậy trong buổi pháp thoại, nghe pháp thoại xong rồi họ pháp đàm, thiền hành giống hệt như ở tại Làng Mai. Thành thử với phương tiện truyền thông mới, khóa tu tổ chức ở tại Làng Mai hay bất cứ ở nơi đâu có thể được các Thầy, các Sư cô phát cách đến địa phương các nơi, theo dõi cùng theo khóa tu đó đồng thời rất là hay.  (Chuông : Thở đi bạn đang sống!)

Chúng tôi có các Thầy, các Sư cô giáo thọ người da màu, các vị đó hướng dẫn những người da màu rất là dễ dàng. Chúng ta có những Thầy, những Sư cô phát xuất từ miền Trung Đông như Isarel, Palestin, những vị đó hướng dẫn những người Trung Đông rất là dễ dàng hơn. Sự thành lập của những Tăng thân địa phương, Sanga building, Dựng Tăng rất là quan trọng để mà duy trì sự thực tập.

Nếu mình tổ chức khéo, mình duy trì được sự thực tập cả năm, rồi lâu lâu có một khóa tu lớn, mới mình đến tham dự để học hỏi thêm và xây dựng thêm sự thực tập của mình, như vậy mình không có đánh mất sự thực tập của mình trong môi trường quá rộn ràng.

Chúng ta có câu : Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại, chúng ta không khác người tại gia bao nhiêu, nghĩa là khi đặt vào môi trường xấu, chúng ta cũng đánh mất sự thực tập của chúng ta, chúng ta không có hành trì giới Luật uy nghi đàng hoàng, chúng ta không để thì giờ tu tập mà làm những chuyện không phải là tu tập.  Cho nên dầu chúng ta có tham dự khóa An Cư Kiết Hạ hay là một khóa tu nào khác, mình có cảm thấy cảm hứng muốn tu, muốn buông bỏ những cái nhiêu khê trong đời sống hàng ngày.

Chúng ta sau khi đã tu 6 hay 7 ngày, chúng ta thấy Bồ Đề Tâm của chúng ta sống dậy, chúng ta đã thấy chúng ta đã gây ra những lầm lỡ, chúng ta thấy chúng ta không xứng đáng với sự trông cậy của Cha  Mẹ, của Thầy tổ. Và với khóa tu chúng ta rất muốn tiếp tục đi như vậy, chúng ta muốn về tới nơi lập tức phải làm cái này, phải làm cái kia để đừng rơi vào tình trạng xấu đó nữa nhưng mà đến khi về giữ được Tâm đó chừng vài ba tuần rồi bị lôi kéo đi, đâu cũng vào đó tại vì môi trường xấu.

 

Hiện tượng hư hỏng

Ở tại chùa Phổ Quang Sàigòn có một vị giáo thọ của học viện hỏi một câu : «Người ta thường lên án chúng tôi là dạy Tăng sinh như thế nào mà để Tăng sinh hư hỏng quá chừng? Nhưng có phải là lỗi nằm hết chúng tôi không? ».

Tôi  trả lời như thế này, cái lỗi ở tại môi trường.  Cũng như các giáo thọ, người nào cũng muốn cho Tăng sinh thành đạt trong sự tu học của mình, nhưng các vị giáo thọ đó không có môi trường tốt để cung cấp cho Tăng sinh.  Cho nên dạy bao nhiêu thì dạy nhưng Tăng sinh vẫn hư như thường. Hiện tượng Tăng Ni hư hỏng bắt đầu tràn lan, có nhiều vị làm Tăng sư chịu thua luôn, từ chức luôn.  Rất là khó!  Chúng ta đổ lỗi cho ai? Nói rằng đổ lỗi cho các vị trong học viện, các trường Trung cấp hay trường Cao đẳng cũng không đúng? Chúng ta phải nói rằng tại vì môi trường của Thanh niên Tăng ni bây giờ nó xấu.  Cho nên dầu có làm sống dậy được cái Tâm Bồ Đề, dầu trong một khóa tu có ý chỉ muốn sám hối, muốn làm mới nhưng mà về tới nơi, giữ cái Tâm đó không được lâu, chúng ta lại rơi vào cái vòng cũ.

Đây là đề tài quán chiếu cho các vị Tôn Đức cũng như tất cả các Thầy, các Sư cô và các Sư chú.  Vấn đề là môi trường! Cứu Tăng như cứu hỏa, không thể chần chừ được.  Tại vì sự hư hỏng có thể xảy ra trong vòng một ngày, hai ngày hay một tuần lễ.

Trong những khóa tu mà chúng tôi mở ra cho người cư sĩ Tây phương, các em thường hay hỏi những câu rất là dễ thương.  Câu mà con nít thường hay hỏi nhất là tại sao các Thầy cạo đầu trọc lóc như vậy? Tại vì sau khi chơi 5, 7 ngày với các Thầy, các Sư cô thương nó quá đi, nó muốn cho các  Thầy, các Sư cô đẹp, muốn các Thầy, các Sư cô có tóc, nó tưởng là có tóc thì đẹp hơn? Chắc cái đó cũng một phần đúng? Khi mình cạo đầu đi tu, thì mình đọc bài kệ là: « Huỷ hình phi pháp phục. »

Hủy hình có nghĩa là làm cho xấu đi, cái ch tâm của mình làm cho xấu đi.  Mái tóc mượt mà như vậy, bây giờ mình cạo quách, để trọc lóc, thành nó xấu đi.  Thành người ta hay có câu trả lời đùa cho bọn con nít cười chơi: « Mấy Thầy Cô cạo đầu như vậy là để khỏi tốn tiền mua Sampoo, xà bông gội đầu.  Tại thuốc gội đầu bây giờ mắc quá đi!».

Có câu trả lời khác là Đức Thế Tôn dạy, khi thức dậy mình lấy tay sờ lên đầu của mình, để mình biết mình là Thầy tu, biết mình là Thầy tu, mình không nên hành xử như những người không tu.  Thành ra rờ cái đầu trọc là Tiếng Chuông Chánh Niệm, mình là người tu.  Mình không thể ăn mặc, xài tiền như là người không tu.

Đầu trọc giúp cho mình cũng như áo nâu giúp cho mình nhớ là mình tu.  Mà người tu thì «Tâm hình dị tục», có nghĩa hình thức cũng khác, một nếp sống đơn giản, gọn gàng, sạch sẽ, khiêm cung mà tâm cũng khác, tâm không đeo đuổi theo cái hướng mà người đời đeo đuổi.  Tâm hình dị tục là nó như vậy! Và tôi nói thêm là nói cho người lớn, khi mình cạo đầu là mình muốn có thông điệp gởi đến các người cư sĩ, nói chúng tôi là người tu rồi, đừng có chạy theo chúng tôi, chuyển hướng chúng tôi, đừng bắt chúng tôi trở thành chồng hay là vợ của quí vị.

Tại vì đối với  cư sĩ, hình ảnh người tu rất là hấp dẫn, là trái cấm.  Hình ảnh người tu là bất khả xâm phạm, càng cấm chừng nào, họ càng thèm chừng đó.  Cho nên dù mình cạo đầu xấu đi, mình vẫn nói là tôi đã đi tu rồi, đừng có chạy theo tôi, đừng có chiếm hữu làm của riêng của quí vị, đừng muốn chúng tôi trở thành chồng hay vợ của quí vị. Đã nói nhiều lần như vậy rồi mà vẫn tiếp tục chạy theo và chiếm hữu như thường tại vì người tu là quả cấm rất là đặc biệt, của ngon vật lạ của người thế gian.

Trong buổi sinh hoạt tại chùa Pháp Quang, có nhiều vị Tôn Đức tôi có nói rằng là xin Giáo hội có một văn thư cho rõ ràng là khi có một người xuất gia trẻ muốn ra lập am, lập cốc hay ở nhà riêng ở ngoài để đi học thì quí vị đừng có nên yễm trợ, vì trên nguyên tắc «Tăng ly chúng tăng tàn». Quí vị yễm trợ cho người đó một cái am lá hay một căn phòng hay là hai buổi cơm trong một ngày hay là áo quần hay một chiếc xe cho người đó có phương tiện.  Quí vị cũng cảm thấy hạnh phúc vì được yễm trợ cho một người như vậy.  Đó là hình thức chiếm hữu vị xuất gia cho riêng mình.

Quí vị nghĩ rằng quí vị đang giúp cho người xuất gia đó.  Vì người xuất gia nói rằng là vị ấy muốn ăn học cho tới nơi, cho tới chốn.  Cần sự yễm trợ của quí vị. Nhưng quí vị nên biết rằng là quí vị đang làm hại người ta chớ không phải đang thương người đó.  «Thương nhau bằng mười phụ nhau».  Nếu cung cấp và yễm trợ cho một vị Tăng hay một vị Ni đi ra ngoài ở cốc riêng, ở nhà riêng, đi học có xe riêng, đó là làm hại họ, đó là giết họ. Điều này có nhiều vị cư sĩ không biết, tưởng là mình làm cái gì công đức lớn lắm.  Cho nên Giáo hội cần phải có văn thư rõ ràng về chuyện này, mình phải giáo dục quần chúng của mình, đừng có nối giáo cho giặc.

 

Học ngoài đời.

Có một vị tân Tỳ kheo hỏi, chúng con là người xuất gia có nên đi học ở ngoài không? Đi học ở trường Đại học?

Tôi có trả lời như thế này, ở các trường Đại học Tây phương, có trường dạy về Phật pháp, dạy về Phật học.  Dạy một cách rất là khoa học và họ được ban phát văn bằng Tiến sĩ, Tiến sĩ Triết học, Tiến sĩ Phật học.  Dạy rất là nghiêm chỉnh và khi mình làm Luận án Tiến sĩ, mình cũng phải làm rất là nghiêm chỉnh mới đậu được văn bằng đó.  Nhưng văn bằng đó, học vị đó chỉ cho phép mình dạy lại cái mình đã học thôi hay là dạy lại cái mình có nghiên cứu thêm thôi. Tại vì cái học đó không phải là những pháp môn có thể giúp mình tháo gỡ những cái khó khăn, những bức xúc, những tuyệt vọng, những cái đam mê của mình. Cho nên có học vị Tiến sĩ Phật học chưa chắc là đã tu được.  Đi dạy thì được nhưng mà dạy Lý thuyết Phật giáo, dạy Lý thuyết Phật học chớ không phải dạy phàp môn tu tập.

Trí thức tới các khóa tu ở Làng Mai rất đông, không phải mình cung cấp Phật học, vì mình cung cấp các pháp môn cụ thể, giúp cho họ có thể tháo gỡ được những khó khăn trong đời sống cá nhân, trong đời sống gia đình, trong đời sống cộng đồng. Cho nên trường học Phật của mình không phải để đào tạo một Lý thuyết gia Phật học, ban phát những văn bằng Tiến sĩ Phật học hay Cử nhân Phật học.  Những trường Sơ cấp cơ bản, Trung cấp học viện của mình phải cung cấp những pháp môn tu học để mình có thể áp dụng được trong đời sống hàng ngày của mình, áp dụng được trong Tăng thân của mình, Tăng thân xuất gia và Tăng thân tại gia.

Cái học vị Tiến sĩ Phật học mà đã như vậy thì những học vị khác.  Mình học những môn khác như môn Dược, môn Luật, môn Y  chẳng hạn thì nó cũng vậy. Cái nghề của mình là tu chớ không phải để hành nghề như là Luật sư, là nhà Khoa học, là vị Bác sĩ.

Hôm trước, một phóng viên của báo Thanh niên hay Vietnamnet hỏi tôi: «Tại sao Thầy không muốn cho các Thầy làm Đại biểu Quốc hội?».

Tôi trả lời là muốn cho các Thầy tu được tu, vì chuyên môn của mình là học giáo lý và tu tập, giảng dạy, hướng dẫn theo giáo lý đó.  Còn bây giờ mình ngồi bàn luận bất cứ đạo luật nào trong quốc gia, mình mất thì giờ làm công việc chuyên môn của mình.

Cũng giống như vị xuất gia có bằng Y khoa Bác sĩ, tuy là kiến thức của vị đó có thể giúp ích rất nhiều cho bản thân và cho Tăng chúng.  Nhưng mà người đó đi ra ngoài làm Bác sĩ, mở phòng mạch làm việc 8 giờ trong một ngày thì người đó không có thì giờ để tu tập nữa, không có thì giờ để hướng dẫn đồ chúng nữa. 

Vì vậy tôi không đồng ý cho các vị xuất gia làm Dân biểu Quốc hội, phải để cho các người tu, thay vì ngồi đó để đàm luận về đạo Luật này, đạo Luật khác. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là người tu không biết gì về vấn đề Luật pháp, trong số những người xuất gia có các vị Luật sư, có các vị Tiến sĩ Luật học.  Họ xuất gia tại vì họ thấy rằng đi xuất gia lám lợi cho cuộc đời nhiều hơn là đi làm Luật sư.  Cũng như những vị Bác sĩ đã đi xuất gia, họ thấy làm người tu giúp đời nhiều hơn là một vị Bác sĩ Y khoa. 

Cho nên trong Quốc hội có thể có các Thầy làm cố vấn cho Quốc hội, gặp những vấn đề gì có liên hệ đến nền đạo đức, nếp sống tinh thần của đất nước nên hỏi ý kiến các Thầy và các Thầy có đủ khả năng, đủ kiến thức để trả lời những câu hỏi đó.  Thí dụ trong Quốc hội muốn làm đạo luật về vấn đề giúp cho người bệnh không có cơ hội lành được chết một cách nhẹ nhàng thì mình phải hỏi các vị tinh thâm về giáo lý, về đạo đức trước khi mình làm bộ luật đó, đạo luật đó.

Nếu mình có văn bằng Tiến sĩ Phật học, cái đó có thể có ích lợi cho đời hành đạo của mình nhưng mà không có văn bằng Tiến sĩ Phật học cũng không sao.  Có nhiều người trong chúng ta không có văn bằng đó nhưng chúng ta đã giúp được rất nhiều người.  Các Tổ ngày xưa không ai có văn bằng đó hết, như Tổ Lâm Tế, Tổ Nguyên Thiều, Tổ Đức Quảng, chớ đừng nói là những văn bằng khác, cái nghành học khác.  Cố nhiên mình có kiến thức về các nền văn minh trên thế giới, lịch sử thế giới, kiến thức về khoa học, về tâm lý học, những điều này cũng giúp cho mình đào sâu được trong kho tàng Phật giáo. Tôi có học về những môn đó nên tôi thấy sâu hơn về kinh điển, về giáo lý, về sự thực tập.  Nhưng tôi không cần đi học ở ngoài, để có văn bằng khoa học, về luật học hay là về văn chương.

Ở trong Tăng viện, mình có thể có một số sách vở đúc kết về những khám phá gần nhất của các nghành khoa học đó, mình chỉ cần đọc một hay hai tập là mình đủ để nắm tinh hoa, đại cương và điều đó giúp cho mình thấu hiểu thông thạo được ngôn ngữ của thế gian, ngôn ngữ của khoa học, ngôn ngữ của tâm lý học, ngôn ngữ của văn học và mình có thể trao truyền Phật pháp, trao truyền pháp môn của mình dễ dàng hơn, thoải mái hơn.

Có lần tôi mở khóa tu cho các nhà Doanh thương, tôi nghĩ rằng trước khi mở khòa tu cho các nhà Doanh thương, tôi phải biết những khó khăn, những khổ đau của giới doanh thương, tôi phải biết cái ngôn ngữ của họ. Và có người đệ tử, họ gởi cho mình những bài báo, những tài liệu để cho mình học hỏi trước khi mình mở khóa tu cho các nhà Doanh thương.  Mình chỉ cần học hỏi trong khoảng một tuần lễ là mình có thể mở khóa tu được. Cái quan trọng, cái thiết yếu là kiến thức về Phật pháp và những kinh nghiệm tu tập của mình.  Đó là cái quan trọng nhất, còn những cái kia mình có thể học hỏi một cách là dễ dàng.

Thành ra học những môn «Thế học» không nhất thiết là cần thiết.  Có thì tốt, không có cũng không sao.  Mình luôn luôn tìm hiểu thêm để cho sự hoằng pháp của mình càng ngày càng rộng, càng dễ, nhưng mà cái nội minh nhất là sự thực tập là căn bản.

 

Trong bao nhiêu năm tôi đã suy tư nhiều, quán chiếu nhiều về tình trạng hư hỏng của Tăng Ni.  Tôi cũng có tham khảo, đàm luận với các vị Tôn túc trong Giáo hội. Ngày  tôi đi sang Nam Hàn và thăm Tăng gia Đại học tại Hán thành.  Thấy Hiệu trưởng của viện Đại học Tăng gia Trung ương hỏi bây giờ Tăng Ni hư quá thì phải làm sao?. Họ sử dụng những tiện nghi của đời sống hiện đại rất là nhiều, trong đó có mạng lưới Internet, có điện thư, có phim ảnh, có truyền hình, có đủ thứ…

Đây không phải là vấn đề riêng của Việt Nam, đây là vấn đề chung của Phật giáo.  Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Triều Tiên. 

Chúng ta có biện pháp không?
Chúng tôi mới hoàn thành ấn bản mới của sách Bước Tới Thảnh Thơi. 
Là cuốn sách Giáo khoa cho Sa di và Sa di ni.  Hiện giờ có tới 41 thế uy nghi.  Trong uy nghi đó có những dặn dò rất là cụ thể. Làm thế nào để đừng rơi vào tệ nạn xã hội mà Thanh niên ở ngoài đời đã rơi vào rất là nhiều.  Những tệ nạn xã hội mà Thanh niên ở ngoài đời rơi vào đó, nó đang xâm nhập từ từ vào trong chùa, và Thanh niên Tăng Ni cũng từ từ rơi vào như những người ở bên ngoài.

Ở ngoài có chuyện nạo thai, có chuyện tự tử.  Ở trong chùa nó cũng có chuyện tuơng tự như vậy.  Cứu Tăng như cứu hỏa, chúng ta không thể để hai năm trôi qua mà không làm gì hết được, chúng ta không thể để một năm trôi qua mà không làm gì hết được, chúng ta không thể để một tuần trôi qua mà không làm gì hết được.

Môi trường của Thanh niên Tăng Ni thật là xấu, chúng ta phải lập tức cung cấp cho họ môi trường tốt, vì trong chiều sâu tâm thức của họ vẩn có ý định muốn tu, muốn thành đạt, muốn độ đời nhưng ước muốn đó, Bồ Đề Tâm đó, nó biến đi, nó bị vùi lấp bởi không biết bao nhiêu lớp lo toan.

Có nhiều vị Hòa thượng, Sư bà viết thơ nói có nhiều Tăng Ni sau khi đọc cuốn  “Nói với người xuất gia trẻ”, họ khôi phục được bồ đề tâm của họ. Vì vậy các vị ấy tìm cách in ấn ra nhiều cuốn để làm quà cho tân Tăng Ni  trẻ. Theo kinh nghiệm cá nhân thì khóa tu cho Tăng Ni, giới trẻ thường thường được tưới tẩm những hạt giống bồ đề tâm.

Tâm ban đầu của người đi xuất gia rất là đẹp. Nếu mình biết cách để nuôi dưỡng Tâm  ban đầu đó, trái tim nóng hổi đó của người mới xuất gia, có đủ năng lượng để thoát ly khỏi các khó khăn. Vấn đề là làm sao cho sợi dây tâm bồ đề không bị soi mòn. Tất cả những câu hỏi nằm ở chỗ đó. Sợi dây bị soi mòn, bị đặt vào hoàn cảnh xấu, môi trường xấu. Có một vị Tỳ kheo trẻ phạm giới, vị đó có đủ lương tâm, lương tri để biết rằng mình phản bội lại cái  sơ tâm của mình, mình đã sụp vào hầm hố của tội lỗi, mình phản bội lại chính mình, mình phản bội lại cha mẹ (tại vì mình xin cha mẹ đi xuất gia), mình phản bội lại Thầy tổ. Người đó muốn sám hối, đã tụng bao nhiêu lần bộ Lương Hoàng Sám và sự ray rức, ăn năn quá lớn. Người đó, vị đó, Thầy đó đã đốt những nhang, châm những ngọn lửa nhang vào da thịt, đầy cả châu thân, rốt cuộc không thành công, cũng ra đời, thấy rất là tội!

Thủ phạm là ai? Thủ phạm là môi trường xấu. Cái môi trường rất quan trọng, nếu chúng ta có môi trường tốt thì chúng ta được bảo hộ, thực tập uy nghi rất dễ. Còn môi trường xấu, ta gắng hết sức mình cũng không làm được. Cố nhiên thỉnh thoảng có đại anh hùng, vẫn có thể sống sót được dù môi trường xấu. Nhưng mà đa số không phải là như vậy, đa số chúng ta đều là con người, hiếm là các bậc Thánh, do đó nếu để người xuất gia trẻ đi vào môi trường xấu, đó là không cho họ cơ hội thành công.

Tôi có một vài kinh nghiệm. Kinh nghiệm ở Làng Mai, ở Lộc Uyển, ở Rừng Phong cũng như ở Bát Nhã Bảo Lộc và chùa Từ Hiếu. Khi những người trẻ đi xuất gia có tâm ban đầu đẹp như vậy, nếu mình đưa ngay những người đó vào nếp sống Thanh quy thì rất tốt. Họ sẽ quen với nếp sống Thanh quy và họ sẽ có hạnh phúc suốt đời.

Mắt họ sáng, nụ cười họ tươi, bước chân họ rất là vững chãi, có niềm tin, họ rất là được bảo hộ, ngay cả những hấp dẫn ngoài đời như là những bản nhạc tình sầu đứt ruột, những điện thoại di động, những băng nhạc, đĩa hình, mạng lưới Internet.. Họ được bảo hộ, một mặt là vì họ có rất nhiều niềm vui và hạnh phúc trong khi tu nên họ không cần những thứ đó. Thứ hai là được hoàn cảnh rất là tốt, các Sư anh, Sư chị của họ, Thầy Giáo thọ hướng dẫn cho họ đều  thực tập nghiêm chỉnh. Họ ở trong trạng thái hoàn cảnh rất là an ninh như chưa bao giờ từng có. Tại vì thanh niên thiếu nữ đó đã từng ở vào trong những  hoàn cảnh rất là hiểm nguy, có người đã bị lạm dụng tình dục từ hồi 14,15 tuổi, sống ngay trong gia đình mình cũng không thấy được an lành, ông chú, ông bác, ông anh. Vì vậy cho nên môi trường rất là quan trọng.

Và tôi nhận thấy ở Làng Mai cũng như ở Bát Nhã, các cô, các chú sau sáu  tháng đã thấy thay đổi rất nhiều, lớn lên rất là mau với sự thực tập nghiêm mật. Sự thực tập được các anh, các chị của mình và các vị Giáo thọ hướng dẫn, mỗi khi đi công phu là đi hết chớ không phải chỉ có một số đi, ngồi thiền là ngồi hết, mỗi khi nghe pháp thoại là nghe hết chớ không có chia ra phe.

Mình sắp đặt như thế nào, để khi nấu cơm, làm sao làm sẵn để mọi người đều có thể nghe pháp thoại hết và điều này có thể làm được, một khi thiền hành cả chúng đi thiền hành. Cái năng lượng thật là lớn. Khi từ trên xuống dưới đều thực tập chung hết và mọi người đều nuôi dưỡng bởi năng lượng tập thể đó. Năng lượng của Niệm, của Định, của Tuệ.

Tại Bát Nhã có một số Thầy và các Sư cô đã từng được đào luyện ở các chùa và các tu viện. Họ không có hạnh phúc, không có đủ niềm tin. Họ lên Bát Nhã để thử các pháp môn trên này, sự tu học trên này nó như thế nào?.Có một  số sau khi ở được chừng 7 ngày  hay 15 ngày thì về, nhưng có một số, số này tuy không  nhiều, xin tình nguyện ở lại thường trú và tu tập như bất cứ một người nào khác, tuy là Hạ lạp cao hơn rất là nhiều. Các vị này buông bỏ được tiện nghi vật chất  dễ dàng, tự nhiên bỏ điện thoại di động, bỏ xe gắn máy riêng, bỏ ti vi, bỏ máy hát và theo Chúng rất là dễ dàng vì những người đó, họ nắm bắt được pháp môn, cái mà lâu nay họ tìm kiếm, họ không có.

Chúng ta có những người như vậy trong hàng ngũ xuất gia của chúng ta nhưng chúng ta cũng có những người đã quá quen với những tiện nghi vật chất, có tiền riêng, có điện thoại di động, có địa chỉ email, có xe riêng, có bổn đạo riêng và cảm thấy không thoải mái khi buông bỏ những cái đó.

Khi mình được tiếp xúc với Chánh pháp, với Pháp môn, với Tăng đoàn thì nhận ra được đây là con đường mình cần phải đi. Mình muốn đi nên mình buông bỏ rất là dễ dàng. Còn tâm của mình hướng về những nẻo khác, thì mình không chấp nhận, mình không có khả năng chấp nhận, mình vướng vào những tiện nghi vật chất và nhất là những tiện nghi tình cảm, lâu nay nó nuôi mình nhưng nó cũng làm hư mình. Đó là vấn đề của một số đông của người xuất gia, kể cả những người xuất gia trên 10 tuổi Hạ. Theo tôi  thấy là cứ đeo đuổi những vị đó, tìm cách giúp cho họ buông bỏ các lề thói cũ.

Có một vị xuất gia trẻ, một vị giáo thọ trẻ nói với tôi như thế này: “Sở dĩ người thanh niên Tăng Ni hư hỏng là tại vì họ không có chí hướng, không thấy đường đi của họ”. Tôi thấy điều này rất đúng. Nếu ngày hôm nay mình thấy được con đường mình đi, mình thấy mình có ích lợi cho con người, cho xã hội, mình có thể làm gì cho ngày hôm nay để cho đời sống có ý nghĩa hơn. Mình thấy mình có con đường đi đẹp và mình làm thỏa mãn được cái ước mong giúp đời, giúp người thì người thanh niên đó có thể buông bỏ dễ dàng những tiện nghi vật chất và tình cảm lâu ngày nó ràng buộc người đó. Tôi thấy rất đúng và bài pháp thoại ngày mai, tôi sẽ nói về chuyện đó nhưng mà môi trường vẫn là vấn đề chính. Cái lý tưởng kia, cái con đường kia, mình chỉ duy trì, nắm vững được khi mình có môi trường tốt, khi mình có người đồng chí, đồng tâm, đồng đạo cùng đi với mình và cùng nâng đỡ mình.

 

Bốn hơi thở.

Trong kinh An Ban Thủ Ý, Đức Thế Tôn có dạy làm thế nào để làm lắng dịu những căng thẳng và những đau nhức trong thân và trong tâm. Trong thân chúng ta có những đau nhức trong thân và cái đó làm cho sanh ra những tật bệnh khác và trong tâm ta có những đau nhức, những căng thẳng, những buồn chán, những lo âu, những sợ sệt. Và Đức Thế Tôn cũng có dạy phương pháp thở để chúng ta lắng dịu những tâm hành như là buồn, giận, tuyệt vọng hay là sợ hãi.

- Hơi thở đầu của Kinh An Ban Thủ Ý là trở về với hơi thở và để ý tới hơi thở. Khi mình đang thở vô là mình biết là mình đang thở vô. Khi mình thở ra là mình biết mình đang thở ra. Thay vì để ý chuyện khác thì chỉ để ý hơi thở thôi, trở về với hơi thở. An ban là hơi thở. Thủ ý là để ý, nắm lấy.

Ngay bài tập đơn sơ như vậy cũng đủ giúp cho mình chấm dứt những suy tư, những tán loạn nó kéo mình đi. Trở về với hơi thở để mình có thể trở về với thân và với tâm. Đây là một cuộc trở về. Thở vào là tôi biết đang thở vào, đem cái Tâm trở về với hơi thở. Thở ra là tôi biết tôi đang thở ra và mình chỉ cần để ý hơi thở, đây là hơi thở vào, đây là hơi thở ra, nhận diện hơi thở vào, nhận diện hơi thở ra.

Thở cũng như mình chơi, cũng như mình đánh pingpong, mình thấy trái banh đi qua phía mình, nó nhảy lên mình đánh một cái cho nó đi sang bên kia.

- Hơi thở thứ hai là theo dõi từ đầu đến cuối. Thở vào tôi theo dõi hơi thở vào từ đầu đến cuối, bám sát lấy hơi thở, đừng để cho cái Tâm mình buông hơi thở ra bất cứ một cái phần ngàn của giây nào. Đó là Tùy tức, tùy tức là theo dõi, bám sát.

Ban đầu mình chỉ để ý tới hơi thở vào và hơi thở ra. Sau đó mình khá hơn, mình theo dõi hơi thở vào từ đầu đến cuối, theo dõi hơi thở ra từ đầu đến cuối thì cái Tâm của mình hoàn toàn không nghĩ tới chuyện quá khứ, tương lai, hoàn toàn  nó trở thành hơi thở. Chủ thể và đối tượng của Tâm là An Ban Thủ Ý, để ý tới hơi thở.

- Hơi thở thứ ba là nhận diện toàn thân, đem Thân về để xác nhận cái Thân mình đang có đó như là một thực tại, nhận diện hình hài của mình, nhận diện cái Thân của mình.

Trong Kinh gọi là nhất thiết thân giác, nhất thiết thân tức là toàn thân, ý thức về toàn thân, trở về và nhận diện, đây là thân thể mình, đây là toàn thân. Vì hơi thở chỉ là một phần của Thân thôi. Hơi thở bắt đầu trở về với Thân. Khi trở về  với hơi thở rồi thì trở về toàn thân rất dễ. Thở vào tôi nhận tôi nhận diện toàn thân. Thở ra tôi nhận diện toàn thân. Công nhận sự có mặt của thân thể mình.

- Hơi thở thứ tư là lắng dịu toàn thân, thở vào tôi làm lắng dịu toàn thân, thở ra tôi làm lắng dịu toàn thân. Theo chữ Nho là Thân hành tức, tức làm cho nghỉ ngơi, dừng lại vì trong đó có những căng thẳng, có những đau nhức, mình thúc đẩy cái thân thể của mình, mình làm tình, làm tội cái thân thể của mình quá nhiều. Thành ra bây giờ mình phải từ bi với nó, mình trở về ôm ấp nó, cho phép nó thư giãn, cho phép nó buông thư. Và với hơi thở  sâu, lắng mình giúp cho toàn thân của mình nó lắng dịu lại.

Bốn hơi thở này là Đức Thế Tôn chỉ cho mình để mình trở về với Thân, quán Thân. Một phần của quán Thân, nó có tác dụng chấm dứt loạn tưởng, nó có tác dụng toàn thân và cuối cùng nó có tác dụng làm lắng dịu những căng thẳng ở trong Thân.

Những căng thẳng ở trong Thân là nguồn gốc của những bao nhiêu căng thẳng ở trong Tâm và những bệnh tật khác. Hiện giờ các bệnh viện lớn ở Tây phưong, có nhiều bệnh viện, có những nhân viên, có những ngành, họ dạy cho mình lắng dịu cái thân của mình.

Có những nhà Y học như là Bác sĩ Benson, như là John Carbazine, họ nói rằng theo kinh nghiệm của họ, khi mà cái Thân của mình mà lắng dịu lại được thì cái Thân của mình có khả năng tự chữa trị những chứng bệnh tật. Cuốn sách của Bác sĩ Benson viết “Relaxation restored” đã nói rõ chuyện này.

Mình dùng hơi thở  hay mình dùng một linh chú để làm lắng dịu thân của mình xuống thì thân của mình tự chữa trị những cái bệnh tật, thành ra cái chuyện làm lắng dịu cái Thân rất là quan trọng cho sự chữa trị. Bác sĩ John Carbazine  nói có những trường hợp khác bác sĩ đã chạy rồi, người ta gởi cho ông. Ông và nhà cộng tác, các cô y tá, dạy bịnh nhân chấn chỉnh mình lại, buông thư, làm lắng dịu thân thì bắt đầu chữa trị lại được .

 Kinh An Ban Thủ Ý rất là mầu nhiệm, tôi đã nghiên cứu ba mươi năm và đem áp dụng, phát huy mà vẫn chưa làm hết được. Thành ra muốn các Thầy, các Sư cô bắt đầu sử dụng  khai thác văn bản.

Trước hết là buộc hơi thở vào thân. Hơi thở đầu nhận diện hơi thở vào hơi thở ra, để ý hơi thở vào hơi thở ra, nó đơn sơ như vậy  nhưng rất mầu nhiệm. Hơi thở thứ hai là theo dõi hơi thở, từ đầu cho đến cuối hơi thở  vào, hơi thở ra cũng vậy. Hơi thở thứ ba là đem tâm nhận diện sự có mặt của thân, làm quen lại với thân, ôm lấy thân vào mình. Và hơi thở thứ tư là làm cho thân hành, làm cho toàn thân lắng dịu xuống, theo dõi điều tức gọi là trường đoản.

Hơi thở thứ nhất gọi là xuất tức nhập tức. Hơi thở thứ hai là trường tức đoản tức, có nghĩa là theo dõi hơi thở. Vấn đề là không cần nó dài, nhưng mình theo dõi nó từ đầu tới cùng, đừng buông nó, đừng có nắm bắt đối tượng nào khác, ngoài hơi thở vào, ngoài hơi thở ra, ngoài nó ra, mình gọi nó là tùy tức, tức là theo dõi hơi thở. Hơi thở thứ ba là nhận diện toàn thân, thân hành giác. Hơi thở thứ tư là làm lắng dịu toàn thân. Mỗi khi trong tư thế nằm, tư thế ngồi mình đều thực tập như vậy. Nó rất là quan trọng, ngày mai tôi sẽ nói tiếp.

 

Trong khi ăn cơm, mình cũng có thể làm cho toàn thân lắng dịu. Mình ăn cơm, mình chỉ để ý đến cơm và tăng thân ngồi chung quanh mình, đừng để ý đến chuyện quá khứ, tương lai, chuyện công việc, chuyện chùa. Khi gắp một cọng rau lang hay một miếng tàu hủ để ra mỗi giây, để nhận diện nó, cọng rau lang hay miếng tàu hủ. Nhận diện thôi, thấy được nó, ý thức đây là một cọng  rau lang hay miếng tàu hủ. Và khi mình bỏ vào trong miệng, mình chỉ chú ý nó thôi, mình nhai nó, mình biết rằng mình đang nhai miếng tàu hủ hay là cọng rau lang. Nó rất là mầu nhiệm.

Một cọng rau lang là một viên Đại sứ của Trời Đất gởi tới, mình tiếp xúc để nuôi dưỡng mình.  Miếng tàu hủ cũng vậy trong đó có mặt trời, mặt trăng, có đám mây, có cơn mưa, có đại địa. Ở trong miếng tàu hủ hay miếng ăn, trong đậu trong rau lang có đầy đủ vũ trụ trong đó. Và khi mình nhai mình chỉ nhai cái đó thôi, mình đừng có nhai những dự án, những lo toan, những đau khổ, những bực tức, những ganh tỵ hiềm của mình, không có lành mạnh và mỗi giây phút của buổi ăn, nó có hạnh phúc, nó có tự do. Tự do đây là không bị quá khứ níu kéo, tương lai lôi kéo, những dự án lôi kéo đi, những giận hờn.

Ngồi ăn là con người tự do, ngồi ăn là được nuôi dưỡng bởi sự thảnh thơi, ăn cho sự thảnh thơi. Được ngồi với Chúng, được ngồi với quí vị Tôn túc, ngồi với huynh đệ, khỏi làm gì hết, chỉ ăn cơm thôi và nuôi dưỡng tình huynh đệ thì mình được nuôi dưỡng bằng thức ăn bởi tình huynh đệ, bằng sự vững chãi, sự thảnh thơi của mình.

Thành ra ăn cơm là sự thực tập rất là quan trọng. Cái đó nó  quan trọng hơn là mình đắp hậu, đắp y vào,  quá nóng và những hạt mồ hôi từ từ nó chảy xuống ở trong lưng của mình. Quan trọng nhất không phải là Y, Hậu hay là những vi thếcủa những bữa ăn Quả đường. Quan trọng nhất là ngồi như thế nào trở thành một con người Tự do, một người thảnh thơi không bị quá khứ lôi kéo, không bị tương lai lôi kéo và trong thức ăn được nuôi dưỡng được bằng tình huynh đệ, bởi các tình huynh đệ. Mình sẽ ăn cơm theo từng gia đình, có khi mình ăn cơm với  Chúng và năng lượng của Chúng cũng là thức ăn cho mình. Ăn cơm như vậy rất là bổ, bổ hết mọi mặt và khi mình đi thì mỗi bước chân của mình bước vào Tịnh độ, đừng có bước ra ngoài Tịnh độ.

Tôi đã đi như vậy và tôi đã đi lâu rồi. Tịnh độ ở ngay trong giây phút hiện tại. Tâm mình mà nhẹ nhàng, không có lo lắng nếu mình an trú được trong giây phút hiện tại, mình tiếp xúc được với bao nhiêu là mầu nhiệm cuộc sống trong sự có mặt trong hiện tại và mỗi bước chân  như vậy, giúp cho mình tiếp xúc với mầu nhiệm đó.

Tịnh độ ở ngay đám mây, ở nơi mỗi tờ lá, ở nơi mỗi viên sỏi, ở nơi những giọt mưa,  không cần tìm Tịnh độ ở đâu, ở ngoài. Đi từng bước như vậy nó nuôi dưỡng mình, nó cho mình vững chãi, nó cho mình thảnh thơi. Vững chãi có nghĩa là không bị kéo đi, kéo đi về quá khứ tương lai, những dự án …, và thảnh thơi tức là vô sự và mình có thể làm được khi mình bước đi, mình có thể thở vào một hơi, mình bước hai bước mình nói tôi đã về tôi đã về, mình thở ra, mình bước hai bước, mình nói tôi đã tới tôi đã tới.

Đã về, đã về, đã tới, đã tới nghĩa là tôi không có chạy, có nghĩa là tôi đã vào Tịnh độ rồi, đã về tới Tịnh độ rồi, là sự sống có mặt ngay trong hiện tại rồi. Đã về đã về đã tới đã tới đi như một con người tự do và chúng ta đều có khả năng đi như vậy. Nếu ta đi được một bưóc thì ta cũng có thể đi nhiều bước và mỗi bước chân đi vào Tịnh độ là chuyện người tu có thể làm được và có người trong chúng ta đã làm được, đang làm được và mỗi khi nghe tiếng chuông, chúng ta nhớ đây là tiếng gọi của Đức Thế Tôn. Đừng có lo lắng, đừng có suy nghĩ nữa, trở về với hiện tại, trở về với hơi thở, thở vào cho nhẹ, thở ra cho khỏe, miệng mĩm cười với tiếng chuông Chánh niệm.

Trong khoá tu chúng ta sẽ có cơ hội pháp đàm với nhau, tức là trao đổi những khó khăn về kinh nghiệm tu tập, nhưng mà  ngoài những giờ đó ta nên giữ im lặng. Im lặng để làm gì? Im lặng để có cơ hội thực tập, thực tập bước chân, thực tập hơi thở. Vì mỗi hơi thở, mỗi bước chân đều có thể chế tác lại chánh niệm giúp cho mình an trú trong hiện tại và tiếp xúc với mầu nhiệm của hiện tại.

Trong khóa tu nào tôi cũng thực tập như vậy và tôi làm những điều tôi làm và ngoài những khóa tu tôi cũng làm như vậy, chứ không phải vào khóa tu tôi mới làm như vậy. Khóa tu này có cả ngày cả đêm được tiếp diễn tháng này qua tháng khác, năm này sang năm khác. Là  tại mình ở trong Tịnh độ rồi, mình đã ở trong thế giới an lạc rồi, tại sao mình phải bước ra ngoài làm cái gì?

Vì vậy bưóc chân và hơi thở là hai sợi tơ sen mà trói được con mãnh hổ, cái tập khí tuôn chạy của mình. Đó là câu nói là của Tuệ Trung Thượng Sĩ :  Phóng trước liên ty vượt hổ nhi, dịch là liệng sợi tơ sen  trói mãnh hổ. Mãnh hổ tức là tập khí chạy hoang của mình. Chính dùng sợi tơ hơi thở, sợi tơ bước chân của mình nắm được con cọp tập khí đó.

 Có những con voi bên Thái Lan, họ bắt về voi hoang, họ dùng những sợi xích sắt, những vồ sắt để điều phục. Nhưng người tu không cần sử dụng những sợi xích sắt đó, những vồ sắt đó mà mình chỉ cần sử dụng hơi thở và bước chân trong nghiêm nhặt là mình trói được con mãnh hổ tập khí, nó muốn luôn luôn vượt chạy, tuôn chạy./.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.