Mục đích của người tu
-
Tháng
IV 2007 - Phúc Quảng biên tập
Pháp thoại
của Sư ông Làng Mai
ngày
22 - III - 2007
tại chùa Phổ Quang - Sài Gòn
Chia sẻ với Giáo thọ, Tăng, Ni, Phật tử thành phố HCM
Âm thanh
MP3 : Phần
1 (19MB)
Phần 2 (16MB)
|
Kính thưa các vị tôn đức, các thầy, các sư cô và các Phật tử cư
sĩ.
Ở bên Âu Châu, Mỹ Châu chúng tôi thường mở những khóa tu tập năm
ngày, bảy ngày, hai mươi mốt ngày cho thiền sinh Tây Phương. Có
những khóa tu người ta đem trẻ con tới. Mỗi khóa tu như vậy ít
nhất phải có một buổi vấn đáp để cho thiền sinh đặt câu hỏi về sự
tu tập của họ. Thường thường chúng tôi cho bọn trẻ con đặt câu hỏi
trước, rồi tới người thanh niên trẻ tuổi sau cùng mới tới người
lớn tuổi hơn.
Cái đẹp của người xuất gia
Trong những câu hỏi mà bọn trẻ con ưa hỏi nhất là tại sao các
thầy, các sư cô lại cạo đầu trọc lóc. Sau nhiều ngày sinh hoạt tu
tập với các thầy các sư cô thì bọn trẻ nhỏ rất thương, rất quý. Có
một điều chúng nó tiếc là tại sao các thầy các sư cô không để tóc
cho đẹp mà lại cạo trọc lóc như vậy. Thường thường tôi trả lời, có
khi tôi nói đùa, tôi nói cạo tóc như vậy để cho nó mát, để cho
khỏi tốn shampoo tức là thuốc gội đầu, rồi từ từ mình mới cắt
nghĩa cho nó tại sao người tu phải cạo đầu.
Khi người xuất gia cạo tóc thì có một bài kệ: Hủy hình phi pháp
phục, hủy hình tức là bỏ cái đẹp hình thức, làm cho mình xấu đi,
cạo đầu để cho mình xấu đi. Tôi có nói với các cháu là đức Thế Tôn
có dạy mỗi buổi sáng ông thầy tu nên đưa tay lên sờ đầu mình để
nhớ rằng mình là thầy tu. Là thầy tu thì phải hành xử theo kiểu
thầy tu. Cách đi, đứng, nói, cười, ăn cơm, mặc áo, sống đời sống
hàng ngày phải theo kiểu cách của người tu. Cho nên cái đầu trọc
của chúng tôi có ích lợi rất lớn là mỗi khi chúng tôi xoa đầu,
chúng tôi nhớ chúng tôi là thầy tu. Nó nhắc nhở chúng tôi. Cái đầu
trọc của mình là một tiếng chuông chánh niệm, luôn luôn nhắc cho
mình nhớ mình là thầy tu, mình phải hành xử như người tu chứ không
được hành xử như người đời. Tôi cắt nghĩa như vậy thì họ hiểu.
Tôi cắt nghĩa thêm là cạo sạch mái tóc cũng để nói cho mọi người
biết tôi là thầy tu. Đừng chạy theo để chiếm hữu tôi. Đừng muốn
tôi trở thành chồng hay vợ của quý vị. Cái thông điệp rất rõ ràng:
chúng tôi là thầy tu, để cho chúng tôi tu, đừng tìm cách nắm bắt
chúng tôi mà biến chúng tôi thành chồng hay vợ của quý vị. Và mỗi
khi cạo đầu thì quan niệm rằng tất cả những phiền não, những vướng
bận mình cũng cạo đi luôn để cho mình có tự do. Người Tây Phương
họ hiểu được chuyện đó.
Tôi có nói thêm rằng dù chúng tôi có hủy bỏ cái đẹp hình thức, dù
chúng tôi có cạo đầu, dù chúng tôi có cái thông điệp rất rõ ràng
chúng tôi đã là thầy tu, đừng chạy theo để chiếm hữu chúng tôi,
biến chúng tôi thành vợ hay là chồng của quý vị. Ấy vậy mà có rất
nhiều người vẫn chạy theo và muốn chiếm hữu. Sự thật là như vậy, ở
Việt Nam cũng vậy mà Âu châu, Mỹ châu cũng vậy. Có nhiều người
chạy theo các thầy, các sư cô. Họ vẫn thấy có cái đẹp gì đó. Hủy
bỏ cái đẹp hình thức, tự nhiên mình có cái đẹp tinh thần. Nhờ giới
luật, cái uy nghi làm cho ông thầy tu, vị ni sư đẹp lên từ trong
ra ngoài. Điều đó rất hấp dẫn đối với người cư sĩ. Người cư sĩ khi
thấy một ông thầy tu đẹp, thấy một vị sư cô đẹp thì có ý hướng
muốn chiếm hữu ông thầy tu, vị sư cô đó cho riêng mình. Chuyện đó
chắc là quý vị tôn đức cũng đã có kinh nghiệm rồi. Trong những
bài thi kệ của sách Bước Tới Thảnh Thơi, có bài:
Cạo sạch mái tóc,
Nguyện cho mọi người,
Dứt hết phiền não,
Độ thoát cho đời.
Trong mười giới của sa di và sa di ni, có một giới không
trang điểm, không sử dụng mỹ phẩm. Chuyện này là chuyện của người
xuất gia, nhưng quý vị tại gia cũng phải nghe, cũng phải hiểu. Vì
chúng tôi rất cần sự yểm trợ của quý vị. Giới thứ sáu là không sử
dụng mỹ phẩm. Bên tăng cũng như bên ni không sử dụng mỹ phẩm và đồ
trang sức. Tôi xin đọc:
Ý thức được cái đẹp đích thực của người xuất gia là tính chất vững
chãi và thảnh thơi. Con nguyện mỗi ngày làm đẹp cho con và cho
tăng thân con bằng sự thực tập chánh niệm, cụ thể qua sự hành trì
giới luật và các uy nghi trong đời sống hàng ngày. Con biết các
loại mỹ phẩm và trang sức mà người đời sử dụng chỉ có thể đem lại
sự hào nhoáng giả tạo bên ngoài và chỉ có tác dụng gây ra sự chìm
đắm và vướng mắc. Con nguyện sống giản dị, gọn gàng, sạch sẽ trong
cách ăn mặc của con. Con nguyện không sử dụng các loại nước hoa,
phấn sáp, các loại mỹ phẩm và các thức trang sức khác.
Giới tướng của giới này rất là rõ ràng. Thực tập theo giới này
nghĩa là không sử dụng mỹ phẩm và các đồ trang sức. Người tu đi
tìm cái đẹp tinh thần, cái đẹp tinh thần đó ở chỗ thong dong,
thảnh thơi, an lạc, nhẹ nhàng, tươi mát. Cái đẹp đó được làm bằng
chất liệu của giới luật, của uy nghi. Khi người tu thực tập mười
giới hay hai trăm năm mươi giới hay ba trăm tám mươi giới thì tự
nhiên người tu đẹp ra. Và khi người tu thực tập những uy nghi thì
người tu càng đẹp lên. Cho nên cái làm cho người tu đẹp không phải
là những mỹ phẩm hay đồ trang sức mà là giới luật và uy nghi.
Ngày xưa đức Thế Tôn đẹp lắm. Cho nên ông vua nào cũng muốn chiếm
hữu đức Thế Tôn để làm thầy riêng của mình. Vua Tần Bà Xa La cũng
vậy, vua Ba Tư Nặc cũng thế. Nhưng đức Thế Tôn đâu có chịu làm vật
sở hữu cho một ông vua, cho một quốc gia. Ngài muốn làm một người
tự do. Cho nên ngài muốn ở lại thành Xá Vệ mấy tháng thì ngài ở,
ngài qua thành Vương Xá ở mấy tháng thì ngài ở. Các vị đệ tử của
đức Thế Tôn cũng vậy, cũng học theo cái hạnh tự do của ngài, không
có vị vua nào, không có vị quan nào, không có vị thương gia nào dù
giàu có và uy quyền đến mấy có thể chiếm hữu được người xuất gia.
Người xuất gia là con người của công, không phải là con người tư,
mình không có thể chiếm hữu được.
Khi thấy một người xuất gia đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm,
giới luật tinh nghiêm tỏa ra cái đẹp tinh thần, điều đó rất hấp
dẫn. Hấp dẫn đối với tất cả mọi người và hấp dẫn với người tại
gia. Người tại gia tôn sùng, kính trọng, trân quý một vị xuất gia
là như vậy. Họ thường gần gũi. Từ sự gần gũi, trân quý đó phát
sinh ra ý niệm muốn chiếm hữu vị xuất gia này cho mình. Trong thời
đại chúng ta, nếu không hạnh phúc với thầy, không có truyền thông
tốt với thầy, không có hạnh phúc với huynh đệ, mình đi tìm phương
tiện, lập một cái am sống riêng. Có một vài người bổn đạo yểm trợ
chăm sóc là chuyện không khó gì hết. Luôn luôn có những người muốn
chiếm hữu mình, muốn giữ làm bảo vật riêng cho họ. Tệ nạn này xảy
ra cho người xuất gia một phần cũng do các cư sĩ. Tôi mong rằng
Giáo Hội sẽ có một văn thư rõ rệt về vấn đề này. Khuyên người cư
sĩ không nên khuyến khích các thầy đi ra ở riêng, lập am riêng, ở
nhà riêng để đi học. Chuyện này rất quan trọng.
Những tệ nạn đã xảy ra cho người tăng ni trẻ tuổi bây giờ bắt đầu
tràn lan. Có nhiều vị sư trưởng chịu thua, không cách nào đối phó
được. Cho nên tôi rất mong Giáo Hội có biện pháp cấp tốc để ngăn
chặn chuyện này. Phải có văn thư, phải giáo dục quần chúng. Phật
tử cư sĩ phải biết là đừng nên tìm cách chiếm hữu một vị tăng, một
vị ni. Đừng nên yểm trợ họ để họ có thể ra lập am riêng, lập thất
riêng, ở nhà riêng để đi học. Điều đó đã mang tới rất nhiều tệ hại
cho tăng đoàn Phật giáo. Chúng ta có câu " Tăng ly chúng tăng tàn,
hổ ly sơn hổ bại ". Khi con cọp lìa rừng núi xuống đồng bằng thì
sớm muộn gì nó cũng bị con người bắt và lột da. Người tu cũng vậy.
Một khi ly khai tăng đoàn, không ở chung mà đi ra ở riêng thế nào
cũng đánh mất sự thực tập của mình. Với tư cách của một người xuất
gia, mình sẽ chết như một người xuất gia nếu mình ly khai tăng
đoàn.
Ở làng Mai các vị xuất gia nam hay nữ mỗi khi có công việc đi ra
ngoài không bao giờ đi một mình dù là tỳ kheo, là thượng tọa hay
hòa thượng. Trường hợp phải ra nhà dây thép, ra tiệm thuốc Tây,
luôn luôn đi theo một người thứ hai, người đó gọi là đệ nhị thân,
cái thân thứ hai của mình. Ở làng Mai chúng tôi, mỗi khi cần thiết
phải lên mạng lưới internet cũng không có quyền lên một mình, muốn
lên mạng lưới internet phải có một người đệ nhị thân, một vị xuất
gia khác ngồi bên thì mới được lên mạng internet. Nếu mình lên
mạng internet một mình thì mình phạm giới. Trong giới bản tân tu
của các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni có điều luật là không được lên mạng
lưới internet một mình. Nếu lên thì phạm giới phải buông bỏ và
phát lộ.
Vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào là sở hữu chủ những băng hình hay
những đĩa nhạc tình sầu và những băng hình không phải là băng
kinh, không phải là những bài pháp thoại. Làm sở hữu chủ của những
đĩa hình, những đĩa nhạc nó có tính cách đời, có tính cách tưới
tẩm những hạt giống đam mê, sầu thương. Những vị đó phạm giới theo
giới bản tân tu. Phải làm lễ buông bỏ và phát lộ. Phải trao những
cái đó cho chúng, nếu muốn thanh tịnh trở lại.
Quyển ' Bước Tới Thảnh Thơi '
Năm một nghìn chín trăm chín mươi chín, chín mươi tám, trong một
chuyến đi Trung Quốc để mở những khóa tu cho tăng ni và phật tử,
tôi nhận thấy quyển 'sa di luật nghi yếu lược', 'tỳ ni nhật dụng
thiết yếu' do các thầy Độc Thể và Châu Hoằng sáng tác cách đây bốn
trăm năm vẫn còn sử dụng. Các điệu bên đó vẫn phải học thuộc lòng.
Ở Việt Nam cũng vậy. Cuốn sa di luật nghi yếu lược gồm có hai
phần, phần mười giới và phần uy nghi. Thường thường cuốn đó được
in chung với cuốn 'tỳ ni nhật dụng thiết yếu', gồm những bài thi
kệ để cho mình thực tập chánh niệm và sau đó là bài Quy Sơn cảnh
sách.
Trong thời đại chúng ta, sách giáo khoa được tới tấp in ra hàng
năm, mỗi năm đều có sách giáo khoa mới. Cuốn sa di luật nghi yếu
lược là cuốn sách giáo khoa của sa di và sa di ni là một cuốn sách
giáo khoa quá xưa. Đã bốn trăm năm nay mà mình không sáng tạo ra
những sách giáo khoa mới cho những người sa di và sa di ni. Cho
nên ở làng Mai, có chúng xuất gia, chúng tôi đã tập hợp nhau lại,
đã hội thảo, đã nghiên cứu, đã áp dụng và đã thực tập. Chúng tôi
đã cống hiến một cuốn giáo khoa thư mới cho người xuất gia trẻ đó
là cuốn Bước Tới Thảnh Thơi. Cuốn Bước Tới Thảnh Thơi có mười giới
sa di và sa di ni được trình bày rất tường tận, đầy đủ chi tiết.
Hồi nãy chúng tôi mới vừa đọc để chia sẻ với chư vị tôn túc và các
thầy các sư cô cũng như các Phật tử, một trong mười giới đó là
không sử dụng mỹ phẩm và các đồ trang sức. Giới tướng rất là rõ.
Riêng tôi thấy mười giới của sa di rất là đẹp, nếu thực tập đúng
theo mười giới và các uy nghi đó thì trở thành một con người rất
đẹp, rất hấp dẫn cho tất cả mọi người. Và con người đẹp đó, con
người hấp dẫn đó là của chung, của thế giới, của tăng đoàn chứ
không phải của riêng một người, không thể chiếm hữu được. Bước Tới
Thảnh Thơi là tiếng Việt và nếu mình tìm cụm từ tương đương Hán
Việt thì đó là 'pháp túc siêu phương', bước một bước đi tới phương
trời tự do cao rộng,
Phù xuất gia giả,
Phát túc siêu phương,
Tâm hình dị tục.
Người xuất gia là người bước lên một bước để đi vào cõi thảnh thơi
và cái tâm khác người thế gian, cái hình tướng cũng khác người thế
gian, phát túc siêu phương tâm hình dị tục. Chữ phát túc siêu
phương đó là bước một bước lên cõi thảnh thơi gọi là bước tới
thảnh thơi.
Trong sách Bước Tới Thảnh Thơi, chúng ta có nhiều bài để thực tập
chánh niệm, khi thức dậy thì có một bài kệ để thực tập:
Thức dậy mỉm miệng cười
Hăm bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt thương nhìn cuộc đời.
Ngày xưa trong bản chữ Hán thì chúng ta có bài
Thụy miên trí ngộ,
Đương nguyện chúng sanh,
Nhất thiết trí giác,
Chiêu khổ thập phương.
Hiện giờ chúng ta có bài tiếng Việt, không thua bài chữ Hán, đôi
khi còn hay hơn nữa. Trong bài
Thức dậy miệng mỉm cười,
Hăm bốn giờ tinh khôi,
Xin nguyện sống trọn vẹn,
Mắt thương nhìn cuộc đời.
có rất nhiều chất liệu của giáo pháp. Mắt thương nhìn cuộc đời là
'từ nhãn thị chúng sanh', lấy từ kinh Pháp Hoa phẩm Phổ môn. Buổi
sáng thức dậy, việc tôi làm đầu tiên là tôi mỉm cười. Tại sao mỉm
cười? Vì thấy trước mặt có hai mươi bốn giờ tinh khôi. Đó là tặng
phẩm rất lớn của sự sống. Và tôi nguyện rằng sẽ sống một cách trọn
vẹn, sâu sắc và an lạc hai mươi bốn giờ đó như một tặng phẩm của
sự sống cho tôi mỗi ngày.
Thức dậy miệm mỉm cười.
Hăm bốn giờ tinh khôi.
Xin nguyện sống trọn vẹn.
Mắt thương nhìn cuộc đời.
Nó rất Việt Nam.
Có thể quý vị, chư vị tôn túc chưa
biết hay không biết, tôi là ông thầy tu Việt Nam đầu tiên đi xe
đạp. Hồi đó chưa có ai đi xe đạp hết. Tôi và sáu thầy trẻ khác, có
một bữa đi thuê sáu chiếc xe đầm và quyết định rằng sẽ đạp rất uy
nghi, rất chánh niệm từ chùa Long Sơn xuống bãi biển. Hôm đó dân
chúng thành Nha Trang rất ngạc nhiên, thấy có sáu thầy trẻ đi một
hàng xe đạp. Lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện hình ảnh ông thầy
tu đi xe đạp. Bây giờ chúng ta quen hình ảnh các thầy các sư cô đi
xe mô tô, chúng ta không có sốc gì hết. Ngày xưa một thầy tu đi xe
đạp là chuyện rất tân thời. Ngày xưa có thể các thầy đi ngựa nhưng
chưa bao giờ đi xe đạp cả và xe đạp là con ngựa sắt. Cho nên khi
biên tập tỳ ni nhật dụng thiết yếu mới, Bước Tới Thảnh Thơi, chúng
tôi thêm vào bài kệ ngồi xe đạp: Ngồi thẳng trên xe đạp, giống như
mình ngồi thiền vậy. Vững chãi giữ thăng bằng, khi ngồi thiền mình
toát ra cái năng lượng vững chãi và thảnh thơi. Nếu ngồi thiền mà
co rúm lại, cứng ngắc thì không có hạnh phúc. Cho nên ngồi thiền
mình phải buông thư hết tất cả các cơ bắp, phải ngồi cho thật
thẳng, cột sống rất là thẳng. Tuy là thẳng như vậy nhưng trong tư
thế buông thư, và mỉm cười một cái thì ba trăm cơ bắp trên mặt thư
giãn rất mau. Khi ngồi trên xe đạp mình cũng có thể ngồi như vậy.
Ngồi thẳng trên xe đạp. Vững chãi giữ thăng bằng. Sự thăng bằng
này không phải chỉ là sự thăng bằng của bên trái và bên phải để
cho xe đừng nghiêng. Phước xin tu cùng tuệ, một bên tu phước một
bên tu tuệ, phải có hai cái song song. Phước xin tu cùng tuệ, hành
và giải song song. Thăng bằng là thăng bằng của cái đó chứ không
phải là của chiếc xe mà thôi.
Ngồi thẳng trên xe đạp
Vững chãi giữ thăng bằng
Phước xin tu cùng tuệ
Hành và giải song song
Bài này rất hay để áp dụng cho những người đi xe đạp. Mà tại sao
chỉ áp dụng cho những người đi xe đạp, đi xe mô tô cũng áp dụng
được. Tôi không hiểu ở thành phố Hồ Chí Minh các thầy các sư cô,
các vị sa di, sa di ni có thực tập bài kệ khi leo lên xe môtô hay
không?
Vì theo nguyên tắc, bất cứ hành động nào, cử chỉ nào của người tu
cũng phải đi theo chánh niệm. Trong Kinh Niệm Xứ nói rằng vị khất
sĩ khi cúi xuống biết là mình đang cúi xuống, ngẩng lên biết là
mình đang ngẩng lên. Vị khất sĩ khi khoác áo sanghati biết là mình
đang khoác áo sanghati. Nghĩa là mình ý thức về tất cả những động
tác của cơ thể. Vậy mình leo lên chiếc xe môtô mà mình không có ý
thức là mình leo lên chiếc xe môtô tức là không có chánh niệm. Vấn
đề không phải là có nên đi xe đạp, có nên đi xe môtô hay không. Mà
vấn đề là đi xe đạp, đi xe mô tô có chánh niệm hay không. Và có
tỏa ra cái đẹp của người xuất gia trong khi đi xe đạp, đi xe mô tô
hay không.
Theo Kinh Niệm Xứ thì chánh niệm là năng lượng giúp cho mình có
mặt trong giây phút hiện tại, biết những gì đang xảy ra trong
thân, tâm và xung quanh mình. Và cái đẹp của người tu là do chánh
niệm. Niệm đưa tới định và định đưa tới tuệ, đó là tam vô lậu học.
Người tu mà không chế tác ra niệm định tuệ thì người tu không có
chất liệu của người tu, không có cái đẹp người tu cần có. Giữ,
thực tập mười giới cũng như thực tập các uy nghi tức là sự thực
tập chánh niệm.
Các bà mẹ Việt Nam dạy con gái thường dạy như thế này "con, con
gái đi, đứng, nằm, ngồi phải có ý, có tứ ". Đó là chánh niệm, đi
mình biết là mình đang đi, đứng mình biết là mình đang đứng, nói
mình biết là mình đang nói, cười mình biết là mình đang cười, phải
có ý tứ, phải giữ gìn. Các bà mẹ đang dạy cho con gái chánh niệm
mà không biết. Theo tôi, con trai cũng phải học như vậy. Con trai
đi đứng nằm ngồi cũng phải có ý tứ chứ không phải chỉ con gái
không. Trong chùa mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi động tác, mỗi
lời nói đều phải được đặt trong ánh sáng của chánh niệm, mình biết
mình đang đi, mình đang đứng, mình đang ngồi, mình đang nói, mình
đang cười. Không để bất cứ một động tác nào lọt ra khỏi chánh niệm
của mình. Chính nhờ thực tập giới và uy nghi mà mình chế tác được
năng lượng của chánh niệm. Sự thực tập giới và uy nghi là sự thực
tập căn bản của người tu.
Có khi chúng ta nói là giới định tuệ. Có khi chúng ta nói là niệm
định tuệ. Cho nên tôi đã khám phá ra rằng giới tức là niệm. Thực
tập giới luật, thực tập uy nghi tức là thực tập chánh niệm trong
mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Thực tập như vậy mình chế
tác được năng lượng của niệm, của định, của tuệ. Làm cho người
xuất gia trở thành một người xuất gia đích thực, làm cái gì cũng
có ý, có tứ, làm cái gì cũng đặt những động tác của mình dưới ánh
sáng chánh niệm. Chính cái đó làm ra cái đẹp của người xuất gia,
rất là hấp dẫn.
Trong Bước Tới Thảnh Thơi chúng ta có rất nhiều bài kệ mới. Có một
bài kệ để sử dụng khi mở máy tính, một bài kệ để khi sử dụng điện
thoại. Có một bài kệ để mình sử dụng và thở trước khi mình rồ máy
xe hơi. Những bài thi kệ sử dụng để thực tập chánh niệm trong Bước
Tới thảnh Thơi đầy đủ hơn và cung cấp cho người xuất gia ngày hôm
nay những phương pháp, những phương tiện để thực tập đầy đủ hơn.
Và hay nhất là nó bằng tiếng Việt. Bên Trung Quốc các thầy cũng đã
dịch Bước Tới Thảnh Thơi ra tiếng Trung Quốc rồi. Ngày xưa người
Việt mình thực tập những văn kiện bằng chữ Hán, bây giờ mình có
những văn kiện bằng chữ Việt còn hay hơn và đầy đủ hơn. Mình dịch
ra tiếng Hán để chia sẻ với những người thực tập ở Trung Quốc,
người xuất gia cũng như người tại gia.
Bên làng Mai Pháp quốc, những bài thi kệ thực tập chánh niệm được
chia sẻ cả với người cư sĩ. Người cư sĩ họ thực tập những bài thi
kệ này để nuôi lớn chánh niệm thì họ cũng đẹp hơn ngày xưa. Người
thiền sinh cũng đi trong chánh niệm, ngồi trong chánh niệm, thở
trong chánh niệm, giặt áo, ăn cơm trong chánh niệm. Cho nên người
thiền sinh cư sĩ cũng tỏa ra được cái đẹp tinh thần như người xuất
gia. Mình là người xuất gia, mình phải đẹp ít nhất là bằng người
cư sĩ. Có những người cư sĩ thực tập chánh niệm rất đàng hoàng. Và
mình có hai mươi bốn giờ đồng hồ mỗi ngày để thực tập, theo nguyên
tắc thì mình phải đẹp hơn người cư sĩ. Người cư sĩ còn phải làm
ăn, còn phải lo lắng cho gia đình. Mình xuất gia, có lợi thế là
dồn hai mươi bốn giờ đồng hồ trong một ngày vào việc thực tập. Nếu
mình bận rộn quá, có nhiều dự án quá, lo lắng nhiều quá thì làm
sao mình có thể làm đẹp cho mình và cho tăng thân mình bằng chánh
niệm, bằng uy nghi, bằng giới luật.
Cách đây độ ba tuần chúng tôi có một khóa tu cho các vị xuất gia ở
tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc. Đã có khoảng một ngàn một trăm vị xuất
gia qui tụ ở chùa Bát Nhã, Bảo Lộc để tu với nhau trong năm ngày.
Mỗi vị sa di và sa di ni đã được tặng một cuốn Bước Tới Thảnh
Thơi. Đây là cuốn sách giáo khoa để đào tạo người sa di và sa di
ni, rất là hiện đại, cung cấp đầy đủ những tư liệu cho người sa di
và sa di ni của thời đại mới. Tôi xin trân trọng giới thiệu với
các vị sư trưởng, các vị giáo thọ. Ở trong này Quy Sơn Cảnh Sách
được dịch bằng văn mới. Khi chúng ta đọc văn Quy Sơn Cảnh Sách này
chúng ta cảm thấy rất gần gũi thiền sư Quy Sơn. Giọng văn rất thân
ái, rất gần gũi và rất hiện đại. Trong cuốn này lại có một văn bản
khác để bổ túc cho Quy Sơn cảnh sách đó là 'Nói với người xuất
gia trẻ, tâm sự với người xuất gia trẻ để người xuất gia trẻ thấy
được những khó khăn, nhận diện được những khó khăn, những khổ đau,
những bức xúc của mình mà tìm cách tháo gỡ.
Trong những khóa tu dành cho người xuất gia trẻ, tôi nhận thấy
rằng có nhiều vị sa di, sa di ni và tân tỳ kheo, tân tỳ kheo ni đã
phục hồi được bồ đề tâm của mình, phục hồi được cái sơ tâm của
mình. Cái sơ tâm của người xuất gia là một cái gì hết sức đẹp.
Điều này không phải tôi chỉ muốn nói cho người xuất gia nghe mà
tôi cũng muốn nói cho các vị tại gia nghe. Sơ tâm của người xuất
gia là một cái gì rất là đẹp, rất là hào hùng. Đó là trái tim nóng
hổi của người đã phát nguyện đi xuất gia, đem hết đời của mình để
phụng sự cho Phật Pháp. Mình dịch là tâm ban đầu. Trái tim ban
đầu, cái tâm ban đầu là một cái gì hết sức là đẹp. Khi một người
tu giữ gìn được cái sơ tâm đừng để nó bị soi mòn thì người đó sẽ
có hạnh phúc và sẽ thành đạt trong đời tu. Nếu để cho cái sơ tâm
bị soi mòn, yếu đi, chết đi thì mình sẽ thất bại với tư cách của
người xuất gia, một người tu.
Cho nên vấn đề nuôi dưỡng gìn giữ sơ tâm là vấn đề rất quan trọng.
Sơ tâm chính là bồ đề tâm. Mình có một khối lửa, một nguồn năng
lượng trong trái tim. Mình tha thiết muốn tu muốn học, muốn chuyển
hóa phiền não, muốn độ đời, giúp người. Cho nên gặp những chướng
ngại trên đường tu mình không sợ hãi, mình vượt chướng ngại này
rồi mình vượt chướng ngại khác. Vượt những khó khăn này rồi mình
vượt những khó khăn khác. Nhưng nếu mình để cho tâm bồ đề của mình
bị soi mòn, bị yếu đi thì mình không có khả năng vượt qua những
chướng ngại những khó khăn trong đời sống hàng ngày nữa và mình sẽ
bỏ cuộc.
Biết bao nhiêu thanh niên tăng ni đã bỏ cuộc, đã rơi vào hầm hố
của sự hư hỏng. Tuy hình thức có thể vẫn còn là hình thức của
người xuất gia, nhưng trái tim ban đầu đã chết, bồ đề tâm đã chết.
Xin các vị tôn túc, các vị thượng tọa, các vị ni sư xét lại, nhìn
xung quanh chúng ta thấy những người xuất gia trẻ đã đánh mất bồ
đề tâm, đã đánh mất trái tim ban đầu, đã bắt đầu quen với đời sống
hưởng thụ, những tiện nghi vật chất nho nhỏ, vướng vào những tiện
nghi vật chất nho nhỏ, vướng vào những tiện nghi tình cảm nho nhỏ,
bỏ mất cái chí hướng cao cả buổi ban đầu của mình. Các vị cư sĩ
nên lắng nghe chúng tôi, các vị phải yểm trợ chúng tôi, phải giúp
đỡ chúng tôi. Những khóa tu cho người xuất gia trẻ đó đã tưới tẩm
được những hạt giống bồ đề, đã làm sống dậy được cái tâm ban đầu
của một số những vị xuất gia trẻ, mắt họ sáng lên, nụ cười họ tươi
ra và bước chân họ chững chạc lại.
Nhưng vấn đề không chỉ là làm sống dậy trái tim ban đầu, vấn đề
còn là làm sao nuôi dưỡng được cho trái tim ban đầu đó sống lâu
sống dài. Xin các vị tôn túc nghĩ lại, quán chiếu lại. Môi trường
của người xuất gia trẻ bây giờ rất xấu và người xuất gia trẻ đánh
mất từ từ cái tâm ban đầu của mình một cách rất dễ dàng mà không
hay không biết, cái tâm ban đầu đó bị soi mòn từ từ. Ban đầu thì
chấp nhận một vài tiện nghi vật chất, rồi chấp nhận một vài tiện
nghi tình cảm. Bị kẹt vào những tiện nghi vật chất đó, những tiện
nghi tình cảm đó. Rồi không có năng lượng vượt thoát những khó
khăn, không có khả năng thiết lập lại được truyền thông giữa mình
với bổn sư của mình, không có khả năng thiết lập được truyền thông
giữa mình với huynh đệ. Không có hạnh phúc sống với thầy sống với
huynh đệ. Cho nên bỏ ra ngoài để tìm cuộc sống có một ít tiện nghi
vật chất, có một ít tiện nghi tình cảm, tình trạng đó đang xảy ra
cho rất nhiều người xuất gia trẻ. Tôi nghĩ các vị tôn túc trong
Giáo Hội phải có những buổi họp đặc biệt để xét nghiệm về vấn đề
này, mở một lối đi nẻo thoát cho giới xuất gia trẻ.
Môi trường nuôi dưỡng người xuất gia trẻ
Chúng ta phải có những tu viện thiết lập theo thanh qui để bảo hộ
cho người xuất gia trẻ. Để người xuất gia trẻ có thể thực tập được
giới luật uy nghi, nuôi dưỡng tình huynh đệ, nuôi dưỡng tình thầy
trò. Một khi mình đã được nuôi dưỡng bởi tình huynh đệ, tình thầy
trò rồi thì những cám dỗ bên ngoài không đủ mạnh để lôi kéo mình
đi. Nhưng khi mình đau khổ vì thầy, đau khổ vì huynh đệ thì những
cám dỗ bên ngoài trở thành rất mạnh. Khi một người xuất gia, khi
một người đệ tử được thầy mình tin cậy và thương yêu thì người đệ
tử đó cảm thấy rất hạnh phúc. Khi một người xuất gia được huynh đệ
tin cậy và thương yêu, người xuất gia đó là một người có hạnh
phúc. Chính cái hạnh phúc của tình thầy trò, hạnh phúc của tình
huynh đệ nuôi dưỡng người xuất gia, nó làm cho người xuất gia có
nhiều năng lượng để thành công trong sự tu và học. Những cám dỗ,
những tiện nghi vật chất, những tiện nghi tình cảm nho nhỏ bên
ngoài không đủ sức để kéo người xuất gia đi theo.
Cho nên có được một môi trường tốt trong đó người xuất gia trẻ
tiếp thu được giáo pháp, những pháp môn tháo gỡ những khó khăn
giữa mình với thầy mình, và huynh đệ mình, để giữa thầy trò và
huynh đệ có hạnh phúc đó là sự thực tập rất căn bản. Trong các
trường cơ bản, trường trung cấp, trong các học viện chúng ta phải
cung cấp những giáo lý đó, những pháp môn đó để giúp cho người
thanh niên tăng ni có khả năng tháo gỡ những khó khăn giữa mình
với vị bổn sư, giúp cho mình tháo gỡ những khó khăn của mình với
huynh đệ. Để mỗi ngày đều có thể chế tác được tình huynh đệ tình
thầy trò. Và chính tình huynh đệ tình thầy trò đó là chất liệu
nuôi dưỡng người xuất gia, không có cái đó chúng ta sẽ chết, không
có cái đó chúng ta sẽ không có chất liệu bổ dưỡng, nuôi dưỡng đời
sống của người xuất gia.
Tôi là một người may mắn, ngày xưa thầy bổn sư của tôi chưa bao
giờ mở miệng nói một cách công khai rằng thầy thương con, không
bao giờ nói như vậy. Nhưng mình biết là thầy thương mình và thầy
có niềm tin nơi mình. Ngày xưa người ta ít nói lắm, nói ra sợ mất
thiêng, tình thương dấu kín trong đáy lòng. Tình thương con hay
tình thương đệ tử cũng vậy được dấu kín trong lòng, nhưng mà mình
biết. Khi mình biết thầy thương mình và thầy tin mình thì đó là
cái hạnh phúc rất lớn của người đệ tử. Khi có tình thương giữa
thầy và đệ tử, có nghĩa là giữa thầy và đệ tử có sự truyền thông,
thầy hiểu được đệ tử và đệ tử hiểu được thầy. Cái gì thầy nói
người đệ tử hiểu được và cái gì đệ tử nói thầy hiểu được. Cả hai
phía, thầy cũng như đệ tử giúp nhau tháo gỡ những tri giác sai lầm
để cho sự truyền thông được tốt đẹp.
Sự truyền thông được tốt thì có tình thương, có sự sự tin cậy,
điều này cũng đúng đối với huynh đệ. Nếu mình không biết sử dụng
phép lắng nghe với lòng thương, nếu mình không biết sử dụng lời ái
ngữ để chuyển tải, để chia sẻ những cái thấy, những kinh nghiệm
của mình đối với huynh đệ thì mình, không thiết lập được truyền
thông tốt giữa mình với huynh đệ và sẽ có những hiểu lầm, sẽ có
những giận hờn phát sinh.
Chúng tôi có một ít kinh nghiệm về vấn đề nuôi dạy đệ tử.
Ngày xưa các thầy hay các sư bà nuôi những đồng nam, đồng nữ. Khi
các chú tiểu đó lớn thì cho thọ giới sa di, sa di ni. Thực tập một
thời gian thì được thọ giới tỳ kheo, tỳ kheo ni. Bây giờ chúng ta
cũng tiếp tục nuôi các đồng nam, đồng nữ. Nhưng chúng ta gởi các
cháu đi học ở ngoài, học ở trường tiểu học, trung học rồi ở trường
đại học. Khi các điệu đi ra chung đụng với người ngoài đời, thanh
niên ngoài đời thì tiêm nhiễm cách sống của người ngoài đời. Số
lượng những chú tiểu mình nuôi rơi rụng rất nhiều. Ngày xưa tất cả
đều học ở trong chùa, bây giờ mình gởi đi học ở ngoài, nó vương
vào những rác rến, những tệ nạn bên ngoài. Họ đem về chùa những
cái mà mình không muốn. Họ biết rằng thầy không thích nên phải che
giấu. Thầy thì bận quá, nên thầy đâu biết rằng sau lưng mình, đệ
tử của mình làm những chuyện động trời. Đệ tử có thể dùng máy vi
tính phiêu lưu vào những vùng nguy hiểm của mạng lưới. Đệ tử mình
có thể dùng điện thư liên lạc một cách không lành mạnh với các bạn
gái hay các bạn trai. Đệ tử của mình có thể dùng điện thoại di
động để gửi e-mail. Những điều đó mấy thầy, mấy sư bà đâu biết. Sự
đổ vỡ, sự hư hỏng có ngay trong chùa, không phải như ngày xưa. Nói
tóm lại, người xuất gia trẻ bây giờ đang được đặt vào một môi
trường không lành mạnh, mà các bậc sư trưởng không kiểm soát được,
không hướng dẫn được.
Cho nên việc thành lập những tu viện, trong đó các thành viên của
đại chúng tuân thủ theo những giới luật và những uy nghi chung,
rất là quan trọng. Chúng tôi đã cố gắng làm như vậy ở Đạo Tràng
Mai Thôn Pháp quốc, tu viện Rừng Phong ở Mỹ quốc, tu viện Lộc Uyển
ở tiểu bang Cali. Các thầy các sư cô không ai có quyền có một
trương mục ngân hàng riêng. Các thầy các sư cô, sư chú không ai có
quyền có điện thoại di động riêng. Các thầy các sư cô, sư chú
không ai có quyền có địa chỉ điện thư riêng. Trong chùa chỉ có một
địa chỉ điện thư duy nhất và khi điện thư tới cho một vị nào thì
chính văn phòng in ra đưa cho đương sự. Không ai có xe mô tô
riêng, không ai có xe đạp riêng, không có ai có xe hơi riêng. Tất
cả đều thuộc về thường trú và thường trú giao cho mình sử dụng khi
mình có công tác phải tổ chức một khóa tu hay đi rước thiền sinh ở
ga xe lửa. Không ai làm sở hữu chủ bất cứ một cái gì hết. Mỗi khi
đi ra ngoài thì phải có ít nhất một đệ nhị thân đi theo để bảo hộ
cho mình.
Những người trẻ Tây Phương đi xuất gia, trong đó có những người đã
đậu tiến sĩ luật, đã đậu kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ y khoa, đã
vâng theo những uy nghi những giới luật đó một cách rất dễ dàng.
Họ không cảm thấy đau khổ gì hết khi theo những quy luật như vậy
của tăng đoàn. Mà luôn luôn họ nở nụ cười và họ sẵn sàng đi theo
quy luật đó. Vì họ thấy rằng quy luật đó giữ cho họ, bảo vệ cho
cái tự do của người tu, nó rất là mầu nhiệm. Không phải những
thầy, những sư cô, sư chú gốc Việt Nam làm được chuyện đó mà các
thầy các sư cô sư chú Tây Phương cũng rất là hoan hỷ, rất là hạnh
phúc khi làm được điều đó, tức là buông bỏ hết đi theo quy luật
của tăng đoàn và thực tập theo giới bản tân tu.
Cho nên hai năm về trước khi nói chuyện ở học viện chính trị Hồ
Chí Minh cho các lý thuyết gia Mác-xít, các vị đảng viên cao cấp
tôi có nói chơi, tôi nói rằng chúng tôi ở làng Mai không có ai có
điện thoại riêng, không có ai có xe hơi riêng, không có ai có
trương mục riêng, chúng tôi là cộng sản thứ thiệt, chánh hiệu con
nai. Thì tất cả các vị trong hội chúng đều cười, rất vui.
Tại tu viện Từ Hiếu ở Huế, chúng tôi đã ráng biến tu viện Từ Hiếu
thành một cộng đồng như vậy, một chúng tu học như vậy. Trong đó
không ai làm sở hữu chủ của bất cứ một chiếc xe nào, bất cứ cái
điện thoại nào, bất cứ một địa chỉ điện thư nào, một máy tính nào,
một cái laptop nào. Đối với những người mới xuất gia mà đưa vào
ngay khung cảnh đó thì họ chấp nhận một cách rất dễ dàng và họ có
hạnh phúc rất lớn. Với những thầy, những sư chú đã quen với những
tiện nghi vật chất, tiện nghi tình cảm rồi thì cũng có người chấp
nhận bỏ lề thói cũ để theo lề thói mới dễ dàng, nhưng có những
người cũng vất vả lắm. Còn Bát Nhã thì dễ dàng hơn nhiều. Tại Bát
Nhã thâu vào những thanh niên thiếu nữ mới, ngay từ lúc đầu đã
thực tập phương pháp đó cho nên họ không cảm thấy đau khổ, trái
lại họ rất hạnh phúc, không có vấn đề. Đó là một vài kinh nghiệm
chúng tôi chia sẻ với các vị tôn túc, các sư bà, các ni sư.
Trong xã hội chúng ta, một xã hội đang trên đà toàn cầu
hóa, kỹ nghệ hóa, những tệ nạn mới đang phát sanh và dễ phát sanh.
Người thanh niên Việt Nam đang sa vào hầm hố của những tệ nạn đó,
trong đó có ma túy, mãi dâm, tội phạm, băng đảng, tự tử, phá thai,
nạo thai. Nếu chúng ta không cẩn thận, không đề cao cảnh giác thì
những tệ nạn đó sẽ từ từ đi vào chùa. Chúng ta bắt đầu thấy trong
giới xuất gia trẻ có những người hư hỏng, có những vị hư hỏng, có
người đã vướng vào những cái vòng như vậy. Đây là một tiếng chuông
chánh niệm gióng lên để tất cả chúng ta cùng nghe, cứu tăng như
cứu hỏa, giáo hội không thể chần chừ được, quý vị tôn túc không có
thể chần chừ được.
Chúng ta phải lập tức triệu tập một hội nghị, phải nghiên cứu,
phải pháp đàm, phải đi sâu vào vấn đề, phải tìm được một lối thoát
cho giới xuất gia trẻ. Người cư sĩ cũng phải đóng một vai trò rất
quan trọng trong việc yểm trợ này. Người cư sĩ không nên tìm cách
chiếm hữu một vị xuất gia dù vị xuất gia đó rất là đẹp. Người cư
sĩ phải yểm trợ các vị tôn túc, các thầy thiết lập những đạo tràng
dành cho người xuất gia. Trong đó người xuất gia trẻ được bảo hộ
để đừng bị rơi vào hầm hố của những tệ nạn xã hội đang từ bên
ngoài đi vào chốn thiền môn. Trong khóa tu cho người xuất gia tại
Bảo Lộc, tôi có nhìn thẳng vào các thầy các sư cô sư chú và nói
rằng giả sử quý vị đã dại dột phạm giới và cảm thấy ăn năn hối
hận, đánh mất cái tâm ban đầu của mình. Bây giờ nghe những lời
giảng như thế này, cảm thấy bồ đề tâm sống dậy và muốn tu hành cho
nghiêm chỉnh, đàng hoàng. Nhưng mặc cảm phạm giới còn, thì quý vị
đừng lo lắng. Chúng ta biết cách sám hối thì chỉ trong vòng ba
tháng, có thể làm tiêu nghiệp cũ và chúng ta bắt đầu trở lại như
một người xuất gia mới tinh anh, làm cho cái khối lửa trong trái
tim được thắp sáng lên trở lại.
Địa Xúc Sám Pháp
Trong một khóa tu kiết Đông ở đạo tràng Mai thôn, tôi có sáng tác
một phương pháp sám hối gọi là Địa Sám, trong truyền thống chúng
ta có thủy sám còn đây là địa sám. Nói đúng hơn là địa xúc, Sám
Pháp Địa Xúc. Tôi xin kính giới thiệu sám pháp địa xúc này với các
vị tôn túc và nhất là với các vị xuất gia trẻ, tôi tin chắc rằng
nếu chúng ta hết lòng sám theo sám pháp địa xúc thì chỉ trong vòng
ba tháng thôi là tâm chúng ta nhẹ nhàng ra rất nhiều. Chúng ta trở
thành con người mới. Sám Pháp Địa Xúc rất thực tế, nó động tới
những vấn đề rất thực của người xuất gia trong thế kỷ thứ hai mươi
mốt. Nó không phải là kể tội để cầu xin tha tội mà là những phương
pháp quán chiếu, những phương pháp thực tập để có thể chuyển hóa
nghiệp cũ và mở ra cái năng lượng của nghiệp mới. Nó có khả năng
làm sống dậy cái tâm ban đầu, cái bồ đề tâm của mình.
Tôi nghe nói có một vị xuất gia sau khi phạm giới, đã liên tục
tụng Sám Lương Hoàng trong một năm. Lạy đêm lạy ngày và thắp hương
rồi dí lửa vào người cho cháy, để tỏ sự hối hận của mình. Nhưng
làm như vậy suốt một năm rưỡi trời mà không thành công, rốt cuộc
cũng ra đời. Không phải tự đày đọa thân mình mà có thể tiêu được
nghiệp cũ. Phải sám hối bằng tất cả sự thông minh của mình mới
tiêu được nghiệp cũ và nhất là phải phát nguyện rằng từ nay trở
về sau con nhất quyết không dại dột làm như vậy nữa. Đây là những
điều con tâm nguyện, con phát nguyện sẽ không bao giờ lặp lại. Đây
là những điều con phát nguyện mỗi ngày con sẽ làm. Chỉ khi nào
phát được cái tâm dũng mãnh như vậy thì nghiệp cũ tiêu trừ và cái
tội được tiêu trừ. Chúng ta phải có những khóa thực tập, giúp cho
những người xuất gia trẻ vượt thoát những khó khăn, những ám ảnh,
những mặc cảm của họ để sống trở lại, để sanh trở lại như một
người xuất gia mới với trái tim ban đầu rất đẹp, rất nóng hổi. Tôi
xin để lại mươi mười lăm phút để quý vị hỏi những câu hỏi nó liên
hệ tới đề tài thuyết giảng hôm nay, không những các vị tôn túc mà
các vị cư sĩ cũng có cơ hội để đặt những câu hỏi.
Phần Vấn đáp
Thiền sư cho phép nêu những câu hỏi, xin quý tăng ni
sinh có thể nêu những câu hỏi liên hệ tới đề tài làm mới tâm ban
đầu, sống an vui hạnh phúc với tư cách là một người tu, từng bước
thong dong và thảnh thơi trên cuộc đời. Dành cho quý tăng ni
trước, quý vị tăng ni nào có nêu những thắc mắc thì xin giơ tay.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch Hòa thượng
cùng toàn thể tăng thân và chư tôn đức. Đối với những người xuất
gia trẻ tuổi khi phạm vào những trọng tội thì có thể làm mới lại
bằng cách quán chiếu, sám hối theo phương pháp của Hòa thượng.
Thế nhưng theo trong luật tạng, các vị tôn túc y cứ vào tỳ ni luật
tạng nói rằng những người xuất gia mà phạm vào trọng giới thì như
bị chặt đứt đầu và như cây kala không thể sống dậy được. Như vậy
theo chúng con đó là sự mâu thuẫn và làm rất khó xử cho chúng con.
Chúng con không biết như thế nào. Câu hỏi này là cơ hội để cho
chúng con mở sáng được cái tâm bồ đề ban đầu. A Di Đà Phật.
Câu hỏi này rất là hay. Cảm ơn thầy đã hỏi được câu hỏi
này. Cố nhiên là khi mình phạm một trọng giới là mình chết rồi,
chết thiệt rồi. Nhưng con phượng hoàng có thể được tái sinh từ cái
đống tro của nó. Chúng ta biết rằng đức Quan Thế Âm có khả năng
làm sống dậy một mùa xuân trên cơ bản của những cây khô. Nó là khô
mộc nhưng với pháp môn vi diệu mình làm ra được một mùa xuân mới,
sái khô mộc nhi tác phùng xuân. Và tuệ giác là một đóa hoa nở trên
mảnh đất của phiền não, si mê. Cũng như phân rác tuy nó hôi, tuy
nó không đẹp. Nhưng chính nó có thể nuôi được những bông hoa. Nếu
không có bùn thì làm sao có bông sen. Mình đâu có thể trồng hoa
sen trên đá cẩm thạch. Vậy cho nên nhìn kỹ vào bông sen thì mình
thấy có bùn ở trong đó, nếu không có bùn thì không có sen. Ở đây
cũng vậy, những khổ đau, những tội lỗi là bùn mà nếu biết sử dụng
cho khéo léo thì từ bùn, từ đất mình có thể làm nảy sinh ra bông
sen.
Trong sự phạm giới, trong cái chết của người xuất gia nếu phát
khởi được cái tâm muốn làm mới lại, muốn làm sinh lại đóa sen, thì
chuyện đó có thể làm được. Đạo Phật hay ở chỗ đó. Là cây khô mà
biến thành mùa xuân trở lại được là tại vì từ phiền não mà phát
xuất ra bồ đề. Cho nên chúng ta có giáo lý ''phiền não tức bồ đề".
Những trọng tội đó, những ray rứt đó, những khổ đau đó chính là
chất liệu của bùn đất. Nếu chúng ta biết cách thì chúng ta có thể
sử dụng nó để làm nảy sinh ra một chồi sen mới. Trong đạo Phật
không có danh từ tuyệt vọng. Dù chúng ta ở trạng thái bức xúc nào,
khó khăn nào đi nữa thì giáo lý của đức Thế Tôn vẫn có một con
đường thoát cho chúng ta. Cho nên làm sống dậy con phượng hoàng
trên đống tro của nó là chuyện có thể làm được. Làm cho mùa xuân
biểu hiện trên cơ bản của những cành cây khô là chuyện có thể làm
được. Nếu vị xuất gia trẻ phạm trọng tội đó, tìm tới được một vị
tôn đức mà mình tin, mình thương. Quỳ xuống để phát lộ, nói ra hết
những khổ đau của mình, những ước vọng của mình. Nói ra xong, đôi
khi chỉ cần mười lăm phút hay nửa giờ thì ít nhất năm mươi phần
trăm của tội đó đã tiêu, huống hồ sau đó mình thực tập thêm một
vài tháng. Chắc chắn cái tội đó sẽ tiêu và mình sẽ tái sinh trở
lại như một người xuất gia mới. Nhưng chuyện đi tìm một vị tôn đức
mình tin, mình thương quỳ xuống và phát lộ rất quan trọng, làm
được như vậy thì nó nhẹ đi hơn năm mươi phần trăm rồi và theo đó
tiếp tục mà thực tập thì mình thoát khỏi. Đây là cái thông điệp
tôi gởi cho những người xuất gia trẻ đã gặp trường hợp không may
mắn mà đánh mất giới, thân, tuệ mạng của mình, chúng ta có thể tái
sinh trở lại được.
Vừa rồi là một câu hỏi đã được sư ông giải đáp, từ một tăng sinh
của Học viện Phật giáo Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh. Trong buổi
chia sẻ pháp thoại thiền sư cũng đã đề cập, giới thiệu và chia sẻ
những kinh nghiệm trong tác phẩm Bước Tới ThảnhThơi như một giới
bản mới cho các vị xuất gia trẻ. Bây giờ chúng con xin phép sư ông
cho một câu hỏi dành cho chư tôn đức giáo thọ sư, những vị đã đóng
góp rất nhiều công lao trong việc đào tạo một thế hệ tăng ni tại
Việt Nam trong vòng mấy mươi năm qua. Chúng con xin mời thượng tọa
Thích Thiện Lạc, giáo thọ sư của trường trung cấp Phật học thành
phố Hồ Chí Minh.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngưỡng bạch Hòa
thượng, thiền sư. Con ở trong ban hoằng pháp cũng khá lâu. Từ cuối
thế kỷ thứ hai mươi trở về đây, chúng con thấy giáo hội Phật giáo
Việt Nam đã đào tạo rất nhiều khóa, ra trường rất đông. Các tăng
ni sinh có lẽ cũng theo thời đại tiến hóa của xã hội mà chạy theo
vật chất nhiều. Do đó không nghĩ tới vấn đề truyền đăng tục diệm.
Sau khi ra trường thì có một số được đi Ấn Độ, được đi các nước,
trở về có thể phục vụ. Còn phần đông thì không làm gì hết và đôi
khi những vị đó có ý nghĩ đi cất cốc riêng, có đệ tử riêng. Chúng
con nhận thấy tất cả những tăng ni sinh trẻ chạy theo những vật
chất đó, theo đức Phật dạy là do cái gốc tham ái. Phải diệt cái
gốc tham ái đó, những người tu đã có trình độ như vậy mà làm như
thế thì tương lai Phật giáo chúng ta như thế nào. Rồi đây việc hội
nhập với quốc tế, dân chúng các nước qua đây càng nhiều, tăng ni
trẻ phải có một định hướng, giáo hội chúng ta cần phải có sự tu
tập ở trong các thiền viện, các tu viện lớn chẳng hạn như thiền
viện Trúc Lâm ở ngoài Đà Lạt hay thiền viện Thường Chiếu hay tăng
thân làng Mai của Hòa thượng ở bên Pháp chẳng hạn, thì tăng ni trẻ
mới có thể cải hóa được. Xin Hòa thượng cho chúng con biết cách
nào để cho tăng ni có thể cải hóa mà không nghĩ đến chạy theo vật
chất để rồi đánh mất đi cái phát tâm xuất gia ban đầu của mình.
Nam mô A Di Đà Phật.
Câu hỏi của Thượng tọa rất quan trọng, mình phải đem hết
tất cả niệm lực, định lực của mình quán chiếu để tìm ra câu trả
lời chung. Có một vị giáo thọ trẻ ở tu viện Bát Nhã đã từng lăn
lóc trong cuộc sống của người xuất gia trẻ ở Huế. Đã qua thọ giáo
và tu tập ở tại làng Mai bốn năm năm. Ngày vị đó được truyền đăng
làm giáo thọ, vị đó có nói một câu như thế này tôi thấy rất đúng.
Thầy đó nói rằng " sở dĩ người xuất gia trẻ hư hỏng là tại vì họ
không có một lý tưởng. Họ không thấy con đường trước mặt của họ,
không thấy được sứ mạng của họ. Nếu con không được tiếp xúc với
thầy và có được con đường lý tưởng này thì con cũng sẽ hư hỏng như
họ mà thôi. Sở dĩ con được hạnh phúc như vầy là vì con có một lý
tưởng ". Cho nên muốn cho người xuất gia trẻ không hư hỏng, cái
cách hay nhất là cho họ một lý tưởng.
Khi người xuất gia trẻ thấy được rằng có những cái mình có thể làm
được và làm được ngay từ bây giờ, để giúp dân giúp nước thì người
xuất gia trẻ tự nhiên hết hư hỏng và có thể buông bỏ được những
tiện nghi vật chất và tình cảm. Vấn đề này là một chủ đề mà chúng
ta cần phải tham cứu. Tôi thấy mục đích của người xuất gia là để
chuyển hóa những khổ đau, khó khăn của chính mình rồi đi giúp đời.
Ở ngoài đời họ có những khổ đau khó khăn của họ. Người lớn tuổi,
người trung niên và người trẻ tuổi đều có những cái khó khăn và
những khổ đau. Nhà nước hiện đang theo đuổi một chương trình thành
lập các khu phố văn hóa, các thôn văn hóa, ấp văn hóa. Trong đó
không có những tệ nạn xã hội như là đĩ điếm, tội phạm, mãi dâm, ma
túy. Điều đó, chứng tỏ là nhà nước thấy được cái hiểm nguy đang
chờ đợi trên đất nước mình. Số người trẻ bị lọt vào bẫy sập của
tội phạm, ma túy, tự tử, của băng đảng khá nhiều. Cho nên thành
lập những khu phố văn hóa, những ấp văn hóa là để đối phó, tiêu
diệt, tảo trừ những cái tệ nạn đó.
Suy đi nghĩ lại, tôi thấy rằng những phương pháp kiểm soát hay
trừng phạt mà nhà nước có thể cung cấp không đủ để tạo dựng những
khu phố văn hóa như vậy. Văn hóa ở đây có nghĩa là đạo đức, có
nghĩa là tinh thần. Nhìn cho kỹ thì thấy rằng có nhiều gia đình mà
cơ cấu đã lung lay, sụp đổ. Người trẻ không cảm thấy có hạnh phúc
khi sống trong gia đình. Khi người cha làm khổ mẹ, mẹ đay nghiến
cha. Khi cha mẹ làm khổ nhau và cha trút tất cả những giận dữ lên
đầu con, thì người trẻ cảm thấy không có hạnh phúc, không tin vào
cấu trúc gia đình vốn là đơn vị xây dựng nên một xã hội lành mạnh,
vững chãi. Khi người trẻ không tin vào gia đình, không tin vào
hạnh phúc gia đình thì người trẻ sẽ lạc lõng, người trẻ sẽ có cái
nhu yếu tự nhiên là đi tìm những khuây khỏa, những quên lãng bên
ngoài. Cho nên mới sa vào vòng rượu chè, ma túy, cái vòng tội
phạm, băng đảng hay là đĩ điếm. Thành ra mình có thể làm gì được
để giúp cho người chồng truyền thông lại được với người vợ, người
vợ nói chuyện lại được với người chồng. Phục hồi tình thương lúc
ban đầu. Mình làm cái gì để giúp cho cha nói chuyện lại được với
con, con truyền thông lại được với cha.
Trong giáo lý của chúng ta, trong sự thực tập của chúng ta có
những pháp môn nào có thể giúp xây dựng lại được gia đình thì
người xuất gia phải nắm cho vững những pháp môn đó. Đời sống của
người xuất gia tuy rời bỏ gia đình huyết thống, nhưng lại có một
gia đình mới đó là gia đình xuất gia, gia đình tâm linh. Có thầy
như cha, có sư thúc, sư bá, có sư huynh, sư đệ, có sư tỉ, sư muội.
Ở trong gia đình xuất gia cũng phải có hạnh phúc. Nếu mình nắm
được phương pháp thực tập thì mình có thể truyền thông tốt giữa
thầy và trò, giữa huynh với đệ.
Sự thực tập hàng ngày của mình nằm ở chỗ đó. Nếu mình không chế
tác được tình huynh đệ, tình thầy trò thì làm sao mình chế tác
được đại từ, đại bi. Tình huynh đệ, tình thầy trò có cùng một chất
liệu với đại từ và đại bi. Nếu mình thành công ở chỗ chế tác được
tình huynh đệ, tình thầy trò. Được nuôi dưỡng bởi cái tình đó thì
mình là một con người có hạnh phúc. Mình có kinh nghiệm làm thế
nào để dựng nên một chúng xuất gia có hạnh phúc. Phải biết sử dụng
ái ngữ, lắng nghe, tha thứ, bao dung, giúp đỡ, giúp đỡ đệ tử của
mình, giúp đỡ thầy của mình, giúp đỡ các huynh đệ của mình.
Đệ tử mà giúp thầy là chuyện rất thường chứ không phải chỉ có thầy
mới dạy đệ tử được. Đệ tử nếu học hỏi đàng hoàng, tu tập đàng
hoàng, làm cho thầy mình nghiêm chỉnh trở lại đó là chuyện đã từng
xảy ra. Khi trong chúng có một người, hai người, ba người tu tập
đàng hoàng. Uy nghi, giới luật đàng hoàng có khả năng giúp người
độ đời thì cả chúng được hưởng và học theo những người như vậy.
Trong chúng nếu mình nắm vững được những phương pháp thực tập lắng
nghe, ái ngữ, giúp cho huynh, giúp cho đệ, giúp cho thầy, giúp cho
đệ tử thì mình đã có một kho kinh nghiệm. Với kho tàng kinh nghiệm
đó mình có thể giúp cho một gia đình ở trong xóm thiết lập lại
được truyền thông, cha nói chuyện lại được với con, vợ nói chuyện
được lại với chồng.
Những khóa tu mà chúng tôi tổ chức ở Tây Phương đều có mục đích
như vậy. Chúng tôi không nói chuyện trên trời dưới biển, cực lạc
Tây Phương. Chúng tôi nói làm thế nào để cho anh, để cho chị, để
cho ông có thể tháo gỡ được những khó khăn trong nội tâm, để cho
anh cho chị tái lập được truyền thông với những người trong gia
đình, trong cộng đồng, trong xã hội. Làm sao cho quý vị lấy ra
được sự đau nhức và căng thẳng trong thân và trong tâm, cái đó
phải học ở trong đạo Phật.
Trong kinh An Ban Thủ Ý, kinh Niệm Xứ đều có dạy về những phương
pháp như vậy, tháo gỡ làm lắng dịu những cái căng thẳng, những đau
nhức trong thân rồi trong tâm. Nhận diện ôm ấp những nỗi khổ niềm
đau trong thân, trong tâm, làm lắng dịu và làm cho chuyển hóa nó
trước khi mình giúp cho người kia cũng làm được như vậy. Người kia
có thể là đệ tử của mình, người kia có thể là thầy mình, có thể là
huynh đệ của mình. Khi áp dụng được ái ngữ và lắng nghe thì mình
giúp người kia tháo gỡ những tri giác sai lầm, chuyển hóa được
những phiền giận và có được hạnh phúc trong chúng. Tất cả những
thực tập đó đã được đức Thế Tôn cung cấp.
Khi tôi giảng dạy kinh An Ban Thủ Ý tức là kinh Quán niệm hơi thở
hay là kinh Niệm Xứ tôi đưa ra những phương pháp rất cụ thể của
đức Thế Tôn để giúp lấy đi, làm lắng dịu những căng thẳng, những
đau nhức trong thân và trong tâm. Ngay chính trong kinh An Ban Thủ
Ý đã có những pháp môn thực tập như vậy. Những khóa tu mà chúng
tôi thiết lập cho các thiền sinh Tây Phương là chỉ để giảng dạy và
đem ra thực tập những pháp môn đó thôi. Có khi chỉ sau năm hay sáu
ngày tu tập họ đã có thể tái lập được truyền thông với người thân
trong gia đình và đem lại hạnh phúc. Tại vì trong chúng, chúng tôi
có tu tập giữa những người xuất gia với nhau. Chúng tôi đã thành
công tới một mức nào đó cho nên chúng tôi có kinh nghiệm và đem
chia sẻ cho các thiền sinh Tây Phương trong các khóa tu. Số thiền
sinh tới tham dự những khóa tu đó càng ngày càng đông. Mùa hè ở
làng Mai thường có từ bốn mươi lăm quốc tịch cho đến năm mươi quốc
tịch tới tham dự. Có khi cả ba, bốn ngàn người thực tập chung
trong khuôn viên của tu viện, rất là yên tĩnh, rất hạnh phúc.
Chúng tôi có tổ chức những khóa tu tương tự như vậy ở các thành
phố Âu châu, Mỹ châu và Úc châu. Điều đáng nói là trong những khóa
tu đó mình chỉ giảng dạy và đem ra thực tập những điều rất thiết
thực như vậy. Tháo gỡ những tuyệt vọng, những giận hờn, bi phẫn,
những bế tắc. Làm lắng dịu đi những nỗi khổ niềm đau, những sự đau
nhức và căng thẳng ở trong thân cũng như ở trong tâm, rất là khoa
học.
Những người tới tu họ không mang theo những phẩm vật cúng dường
như nhang, đèn, xôi, chuối. Tại vì họ không tới với mình để đi tìm
một tín ngưỡng. Họ tới với mình để tìm một tuệ giác giúp họ
tháo gỡ những khó khăn trong đời sống hàng ngày. Cho nên những
khóa tu đó là để trao truyền những giáo lý và những pháp môn mà họ
thực tập ngay tại chỗ. Trong khi các anh, các chị lớn trong giới
xuất gia hướng dẫn các thiền sinh tu tập thì được các sư em, các
sư đệ, các sư muội của mình phụ tá. Cho nên những người xuất gia
trẻ được học từ các sư huynh các sư tỉ của mình. Đến lượt mình
cũng có thể hướng dẫn và tháo gỡ cho người ta. Nếu mình chỉ cho
người xuất gia trẻ thấy rằng công việc họ phải làm ngày hôm nay và
ngày mai là công việc gì. Cho họ thấy rõ là ngay chính ngày hôm
nay mình đã có thể làm vơi bớt những khổ đau của nhiều người. Thì
người xuất gia trẻ sẽ thấy rằng cuộc đời của mình có ý nghĩa, có
mục đích, có lý tưởng.
Khi thấy mình đem lại hạnh phúc được cho những người xung quanh
ngay trong giây phút hiện tại và trong những ngày tương lai thì
người xuất gia trẻ sẽ buông bỏ được những tiện nghi vật chất và
tình cảm làm hư nát đời sống của mình. Cho nên vấn đề quan trọng
là trong khi đào tạo những sa di, sa di ni, tân tỳ kheo, tân tỳ
kheo ni, mình phải cho họ tham dự vào chuyện giảng dạy, tham dự
vào chuyện thực tập, giúp người, giúp đời ngay trong khi còn tùng
học, ngay khi còn học trường sơ cấp chứ đừng nói là lên trung cấp
mới làm.
Ngay trong những năm học sơ cấp họ đã có khả năng đi, đứng, nằm,
ngồi gây niềm tin cho người cư sĩ. Ngay trong những năm trung cấp
họ đã học những phương pháp để tháo gỡ những đau nhức, khó khăn,
những dồn nén ở trong thân và tâm. Cái học một giờ lý thuyết phải
đi theo với năm giờ thực tập. Cũng như ở trường y khoa, sinh viên
vào nhà thương để thấy các giáo sư y khoa xử lý những trường hợp
của người bệnh vậy. Cái học của chúng ta đang còn tính cách lý
thuyết rất nhiều, chúng ta có thể nói thông thạo, thao thao bất
tuyệt về Duy Thức, về Pháp Tướng, về Kim Cương, về Bát Nhã. Nhưng
chúng ta chưa áp dụng được vào đời sống hàng ngày để tháo gỡ những
khó khăn của chính chúng ta và những người thương của chúng ta
trong chúng. Chúng ta phải làm thế nào để cái học của chúng ta có
tính cách thực tế. Tất cả những kiến thức của chúng ta từ pháp
tướng, pháp tánh phải được trui luyện trong đời sống thực tế và
khiến cho những người xuất gia trẻ có cảm tưởng, có nhận thức rằng
ngay trong những năm đầu xuất gia họ đã có lợi ích cho đời rồi.
Ngay chuyện họ đi đứng thong dong, thảnh thơi, tươi mát, an lành
là đã có thể giúp đời rồi. Nó tạo ra niềm tin cho người cư sĩ.
Huống hồ là những người xuất gia học được những biện pháp để làm
thư giãn những đau nhức, căng thẳng trong thân và tâm. Huống hồ là
những người xuất gia trẻ học được những phương pháp ái ngữ, lắng
nghe để thiết lập truyền thông với huynh đệ, với thầy. Khi làm
được những việc đó ở trong chùa thì cố nhiên sẽ làm được việc đó
trong những khóa tu và ở ngoài đời. Chúng ta có thể đóng góp được
rất nhiều cho việc xây dựng những khu phố văn hóa, những ấp, những
thôn văn hóa, chúng ta đem đạo Phật đi vào cuộc đời.
Nếu chúng ta để cho nhà nước lo một mình thì những ấp văn hóa đó,
những khu phố văn hóa đó sẽ rất khó thực hiện. Nếu không có bàn
tay của người xuất gia, nếu không có sự cộng tác của người cư sĩ,
đem sự thực tập đó vào trong thôn làng, trong khu phố để giúp cho
những gia đình có được truyền thông tốt, để cho cha có thể nói
chuyện lại được với con, vợ có thể nói chuyện được với chồng. Và
để cho các gia đình biết thực tập năm giới. Thì tôi nghĩ rằng rất
khó mà đạt tới sự thành công của những khu phố văn hóa. Cho nên
người xuất gia phải thấy vai trò của mình trong xã hội. Khi người
xuất gia biết rằng mình có thể làm được cái gì để xây dựng xã hội
trên tinh thần nhập thế đó, thì người xuất gia nuôi được cái lý
tưởng của mình, chí hướng của mình. Khi có được chí hướng, lý
tưởng thì sẽ không còn vướng víu vào những tiện nghi tình cảm hay
những tiện nghi vật chất làm cho mình hư hỏng, xin quý vị tôn túc
chiêm nghiệm trở lại. Đây là vấn đề sống chết của chúng ta, vấn đề
lý tưởng.
Kính bạch thiền sư, hôm nay là một buổi chia sẻ cho tăng ni rất
đặc biệt. Đặc biệt là cách đây một vài hôm, ban giám hiệu của học
viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Cũng như ban
giám hiệu của trường Cao Trung Phật học thành phố Hồ Chí Minh và
các trường sơ cấp Phật học đã cho nghỉ ngày hôm nay và khuyến đón
tất cả tăng ni sinh đến đây để nghe thiền sư hướng dẫn những con
đường chuyển hóa trên nền tảng của đời sống giới đức. Do đó xin
thiền sư cho phép thêm một vài câu hỏi nữa, chúng con vừa nhận
được những tín hiệu đặt câu hỏi rất nhiều. Nếu thiền sư cho phép
thì chúng con xin được tiếp tục hai câu nữa. Hai câu hỏi, chúng
con xin dành một câu để chư tôn đức lãnh đạo cao cấp nhất của giáo
hội tại thành phố Hồ Chí Minh và ban giám hiệu cũng như các vị
giáo thọ của các trường Phật học và một câu hỏi dành cho chư ni,
nãy giờ chư ni chưa nêu một câu hỏi nào. Bây giờ chúng con xin
kính mời hòa thượng Thích Giác Thuận chứng minh ban đại diện Phật
giáo quận Gò Vấp nêu câu hỏi đến thiền sư.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Hòa thượng
thiền sư. Chúng con vô cùng hoan hỷ được chia sẻ tấm lòng cao
thượng của Hòa thượng đối với tăng ni chúng con ngày hôm nay. Gần
năm mươi năm về trước Hòa thượng xuất ngoại, chúng con vắng đi một
người thầy khả kính. Cách đây hai năm Hòa thượng quay Việt Nam,
chúng con gặp lại người thầy khả kính. Hôm nay được trực diện với
người thầy khả kính đó. Tuy tuổi tác Hòa thượng đã lớn, hôm nay đã
80, nhưng với một trí tuệ, một nghị lực và ngôn ngữ Phật Pháp,
chúng con thấy không khác hơn của gần năm mươi năm về trước. Giờ
đây được đứng trước Hòa thượng để nghe những kim ngôn ngọc ngữ vừa
qua, chúng con vô cùng xúc động và tự thấy mình như trẻ lại. Bây
giờ chúng con xin đặt với Hòa thượng một vài chia sẻ. Thứ nhất năm
mươi năm về trước đất nước chúng ta không thanh bình và giàu đẹp
như ngày hôm nay mà từ Bắc, Trung, Nam bom đạn tơi bời, khói lửa
chết chóc. Thầy trò chúng ta vừa tu, học vừa trốn đạn, trốn bom.
Hôm nay đất nước vô cùng giàu đẹp, thanh bình, ra tới nơi là thấy
xe hơi nhà lầu, phương tiện. Nghe những chia sẻ của Hòa thượng ở
làng Mai rằng không một tăng ni nào có điện thoại di động, không
có e-mail, không có xe hơi và honda riêng. Liệu Hòa thượng có giải
pháp nào cho chúng con ở Việt Nam làm điều đó không? Bởi vì đất
nước Việt Nam chúng ta hôm nay đang cất cánh, đang hội nhập với
thế giới. Đồng thời đang cần những phương tiện để hội nhập với thế
giới mà tốt đạo đẹp đời.
Riêng con nghĩ, bản thân con thường gặp và thường tâm sự với tăng
ni trẻ, thường trăn trở cùng với tăng ni trẻ về những ý niệm mà
Hòa thượng vừa chia sẻ, nhưng chúng con vẫn chưa tìm được lối
thoát. Chúng con nghĩ rằng chúng con ngày xưa thì tu trước học
sau, còn giới đệ tử con bây giờ thì lại học trước tu sau. Nếu bây
giờ mà bắt tu không cho học thì nó nói nó tu mù. Bắt học mà không
cho tu thì nó gọi là đãy sách. Thành ra xin thưa Hòa thượng, chúng
con cũng có dạy giới tăng trẻ, ni trẻ, nhưng mà dạy theo kiểu
'nghiệp lực nhân duyên' thôi, đứa nào khôn thì nhờ, đứa nào dại
thì chịu. Chúng con thường nghĩ rằng một cây xoài ra hoa rất
nhiều, nhưng mà đứa nào đậu thì đậu, mà rớt thì rớt chứ làm sao mà
đậu hết cả cây xoài được.
Cho nên con nghĩ rằng nó học cao cấp, học trung cấp cứ dạy cho nó
học, đứa nào có lý tưởng tuyệt vời như Hòa thượng vừa nói thì nó
sẽ thăng tiến trên con đường tu học và trọn đời sẽ thành thánh
đạo. Đứa nào mê trần luyến tục thì cho nó về có vợ có con để
thành một người của xã hội, có trí thức, có kiến thức, nó thành
một công dân tốt sau khi rời cái lò đào tạo của Phật giáo Việt
Nam. Đó là ý niệm của con, hôm nay con được chia sẻ một phần với
Hòa thượng, nếu con có mạo phạm nào, con xin lạy và sám hối Hòa
thượng. Xin Hòa thượng hoan hỷ, hoan hỷ đại hoan hỷ. Nam mô A Di
Đà Phật.
Cảm ơn Hòa thượng đã cho đại chúng rất nhiều nụ cười, rất
nhiều hoan hỷ. Những điều Hòa thượng nói rất là chí lý. Mình chịu
trách nhiệm về cuộc đời của mình, về sự thành bại của cuộc đời
mình. Nhưng có một điểm tôi thắc mắc là người xuất gia có liên hệ
tới người cư sĩ. Gia đình của đức Thế Tôn có bốn chúng, xuất gia
nam, xuất gia nữ, tại gia nam và tại gia nữ. Người cư sĩ đóng vai
trò rất quan trọng trong việc yểm trợ người xuất gia. Người cư sĩ
có bổn phận phải yểm trợ về nhiều mặt, trong đó có thực phẩm, y
phục, thuốc men. Khi yểm trợ cho người xuất gia thì người cư sĩ có
một mong chờ, một ước nguyện là người xuất gia đó phải thành
công. Cố nhiên, khi thấy người xuất gia rụng như là bông xoài,
trứng cá thì những cư sĩ không hạnh phúc lắm, có phải như vậy
không? Cho nên trong tinh thần tứ ân, chúng ta phải biết rằng
chúng ta không có quyền thất bại. Chúng ta thất bại thì chúng ta
phụ cái ơn của sư trưởng, của thiện trí thức và của những cư sĩ
đang trông chờ sự thành công của chúng ta. Chúng ta không có quyền
thất bại, chúng ta không có quyền rơi rụng như bông xoài hay trứng
cá. Đó là cái thấy của tôi. Bây giờ xin mời một sư cô hỏi câu hỏi
chót.
Kính bạch thiền sư, chúng con xin thêm một câu nữa đi là được hai
câu hỏi. Vì hôm nay các vị giáo thọ sư của các Phật học viện đều
đến đây để nghe sư ông chia sẻ. Chúng con xin được trước nhất là
kính mời một vị giáo thọ rồi sau đó đến một vị sư cô.
Dạ xin quý vị cho một tràng pháo tay vì thiền sư đã cho phép.
Chúng con xin kính giới thiệu thượng tọa Thích Đạt Đạo, tổng thư
ký Học viện Phật Giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, người đã
gắn bó với nền Phật học mấy mươi năm qua, đào tạo rất nhiều tăng
ni và thượng tọa cũng là trưởng ban hướng dẫn nam nữ cư sĩ Phật tử
tại thành phố Hồ Chí Minh và là phó ban hướng dẫn nam nữ cư sĩ
Phật tử toàn quốc. Mối liên hệ của thượng tọa đối với tăng ni và
phật tử rất nhiều. Câu hỏi thượng tọa sẽ đặt đến cho sư ông, chúng
con tin chắc rằng nó rất thú vị. Dạ kính mời thượng tọa.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngưỡng bái bạch Hòa
thượng, thiền sư thượng Nhất hạ Hạnh. Trong bầu không khí vô cùng
trang nghiêm của buổi nói chuyện của Hòa thượng với tất cả tăng ni
trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Chúng con xin phát biểu đôi lời. Chúng
con xin tự giới thiệu chúng con xuất thân từ Phật học viện Nha
Trang và Báo Quốc Huế. Trong mấy mươi năm từ khi xuất gia đến khi
lớn, chúng con có duyên lành được gần gũi và hầu hạ Hòa thượng bổn
sư thượng Trí hạ Thủ của chúng con. Trong suốt thời gian tu học
tại Phật học viện Nha Trang cũng như Báo Quốc Huế, chúng con không
biết chư tôn đức đã chỉ dạy đào tạo chúng con như thế nào. Bất cứ
làm một việc gì chúng con đều nghĩ đến phải gìn giữ, tiết kiệm của
tam bảo. Phải làm những điều gì mà luôn luôn mình biết rằng mình
là người xuất gia tu học. Ngồi trên xe honda chúng con nghĩ mình
đang là đầu tròn áo vuông, không được chạy một cách cẩu thả. Trong
lúc con học ở trường đại học, nhiều khi khát nước không dám ghé
lại quán nước để mua nước uống mặc dù rất khát nước. Chúng con
thấy rằng mình phải đi sau những người Phật tử, người ngoài đời
một chút. Thí dụ dùng một chiếc xe honda thì xe đời mới chúng con
không dám đi, chúng con đi xe đời cũ. Không hiểu lối giáo dục
giảng dạy như thế nào mà chúng con luôn luôn khiêm cung với tất cả
những việc làm, những suy nghĩ. Từ đó chúng con được hòa thượng
chúng con chọn làm thị giả và theo hầu hạ ngài đến khi ngài viên
tịch. Sau khi hòa thượng chúng con viên tịch, Giáo Hội mới chọn
chúng con vào làm ở trường trung cấp Phật học thành phố. Được sáu
tuần lễ thì giáo hội cử chúng con lên trường cao cấp Phật học Việt
Nam suốt hơn hai mươi năm qua.
Khi nhận nhiệm vụ chúng con nghĩ ngay đến điều đầu tiên là phải
đem hết sức mình để phụng sự cho Phật pháp, điều thứ hai là đối
với các vị trưởng thượng phải kính trọng và điều tiếp nữa là đối
với những vị ngang mình thì luôn luôn phải thương yêu và những
người dưới mình thì phải hết sức nhỏ nhẹ để hướng dẫn những gì họ
cần đến mình. Trong suốt hơn hai mươi năm qua chúng con luôn luôn
nhỏ nhẹ và giúp đỡ tận tình các tăng ni sinh trẻ từ khóa một cho
đến khóa sáu hiện nay
Ngược lại chúng con nhận những lời phê phán của rất nhiều chư tôn
đức, cả phía tăng cũng như bên ni. Bởi vì chư tôn đức tăng ni biết
rằng chúng con là người gần gũi nhất trong giới tăng ni sinh trẻ.
Chư tôn đức nói rằng hiện nay đạo đức của tăng ni trẻ xuống cấp
trầm trọng. Tư cách cũng như oai nghi tế hạnh xuống cấp trầm
trọng. Sống đời sống hoàn toàn chạy theo vật chất từ chiếc xe
honda cao cấp mắc tiền nhất, đến những bộ đồ và nhiều khi còn xức
nước hoa nữa. Các vị tôn đức đã đánh giá và phê phán tại sao học
viện Phật giáo Việt Nam là cơ sở đào tạo giáo dục tăng ni trẻ mà
không hướng dẫn họ, không nâng cấp đạo đức cho họ, không hạn chế
bớt những việc này. Chúng con nghĩ Học viện Phật giáo Việt Nam là
ngôi trường truyền đạt lại kiến thức về Phật học cũng như thế học
cho các tăng ni sinh để mở rộng con đường vào việc nghiên cứu giáo
lý nhà Phật, để hoằng truyền chánh pháp.
Việc giáo dục về đạo đức, hướng dẫn oai nghi tế hạnh, chúng con
nghĩ không phải thuộc về lãnh vực của các trường học. Các trường
học chỉ nhắc nhở nhưng mà rèn luyện thì phải là một người khác.
Như ngày xưa chúng con được như thế này là nhờ quý thầy đã giảng
dạy trong các Phật học viện cho nên chúng con đã thâm nhập được
những cái điều ngày hôm nay chúng con có được. Thì chúng con xin
đặt một câu hỏi kính bạch Hòa thượng thiền sư như vậy đạo đức của
các tăng ni sinh trẻ trong cả nước hiện nay có phải quy kết vào
cho các trường Phật học, từ đại học xuống trung cấp sơ cấp chịu
trách nhiệm hay không? Hay là ai là người chịu trách nhiệm về mặt
đạo đức xuống cấp này. Chúng con xin hỏi một câu hỏi đó, kính bạch
sư ông liễu tri. A Di Đà Phật.
Sở dĩ Hòa thượng thành công như là một người xuất gia là
tại vì Hòa thượng có một môi trường tốt. Sở dĩ người xuất gia trẻ
bây giờ không thành công như Hòa thượng là tại vì họ có cái môi
trường xấu. Đó không phải là trách nhiệm của các trường Phật học,
mà tại môi trường, mình phải gọi đúng cái tên của thủ phạm. Sống
trong môi trường xấu cho nên mình bị những cám dỗ, những tiện nghi
vật chất và tình cảm nó kéo theo.
Thành ra câu trả lời là phải làm thế nào để thay đổi cái môi
trường. Tức là chỗ mình sống cuộc sống hàng ngày. Mình phải sống
trong một khung cảnh mà mình được bảo hộ, bảo hộ bởi tăng thân,
bởi sự thực tập giới luật và uy nghi. Nhiều khi mình muốn thực tập
giới luật và uy nghi nhưng không có tăng thân bảo hộ. Không có môi
trường tốt, thành thực tập không được. Cho nên có thể nói rất rõ
ràng rành mạch rằng trách nhiệm không phải là các trường Phật học
mà tại cái môi trường trong đó người thanh niên tăng ni đang sống.
Môi trường chính là cái chịu trách nhiệm. Chúng tôi nghĩ rằng công
việc cấp thiết mà chúng ta phải làm là tạo dựng môi trường tốt cho
người thanh niên tăng ni và đừng đổ lỗi cho bất cứ một ai. Xin cảm
ơn liệt vị tôn túc.
Dạ bây giờ là câu hỏi cuối cùng thiền sư dành cho chư ni.
Trước khi một vị ni đại diện cho toàn thể quý ni có mặt tại đây
nêu câu hỏi, chúng tôi xin lưu ý quý Phật tử mở một dấu ngoặc đơn
nhỏ về khái niệm mà chư tôn đức thảo luận nãy giờ là xuống cấp đạo
đức của chư tăng chư ni đó không có nghĩa là trở thành một người
đi vào hướng thế tục hóa mà là không có cái cơ hội trở thành những
bậc thánh như ngày xưa. Quý vị nên lưu ý như vậy chứ đừng nghĩ
rằng việc xuống cấp đạo đức như những hưởng thụ ngoài thế gian,
quý vị nên lưu ý vấn đề này.
Bây giờ mời một vị ni nêu câu hỏi.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngưỡng bái bạch
hòa thượng, ngưỡng bái bạch chư vị trưởng lão trong giáo hội. Kính
thưa toàn thể chúng hội trong đạo tràng hôm nay.
Kính thưa Hòa thượng con xin được giới thiệu là ni sinh của trường
trung cấp Phật học thành phố Hồ Chí Minh. Từ khi con biết đến pháp
môn của làng Mai thì hầu như mỗi ngày con đều nghe một bài giảng,
một bài pháp thoại của tăng thân làng Mai. Con nghĩ rằng tất cả
những tăng ni sinh trẻ đều có lý tưởng và đều có những hoài bão
rất muốn được vào sống chung trong tăng thân tại các tu viện của
tăng thân làng Mai. Nhưng con cũng có đọc qua giới bản tân tu,
rằng các vị nữ khất sĩ chỉ tìm đến một tăng thân khác khi mà tại
cơ sở của mình không có điều kiện cho sự tiến tu. Qua buổi pháp
thoại hôm nay của Hòa thượng, con có ý muốn hỏi rằng nếu các tăng
ni sinh trẻ, hiện tại con thấy vẫn đi học một đại học ngoài, những
môn học đó vẫn phù hợp với lý tưởng của người xuất gia. Con không
biết rằng nếu đi học như vậy thì theo Hòa thượng có nên cho phép
hay không? Hồi nãy con nghe, theo Hòa thượng chỉ nên học ở tu
viện. Hiện tại con biết rằng học viện Vạn Hạnh cũng đang xin được
là đại học Van Hạnh và sẽ ngang tầm cỡ với các đại học thế giới.
Con xin hỏi các ngành khoa học khác thì các tăng ni sinh trẻ có
nên đi học ở ngoài hay không. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Câu hỏi này cũng hay lắm. Đó là cái thắc mắc, cái bâng
khuâng của nhiều người xuất gia trẻ. Bên Tây Phương có nhiều
trường học nổi tiếng như trường Oxfort, trường Colombia, họ cung
cấp cả môn Phật học và họ dạy Phật pháp rất khoa học. Phật pháp
của họ được soi sáng bởi khảo cổ học, văn bản học, sử học. Họ cấp
phát những bằng tiến sĩ Phật học.
Trong các trường của chúng ta cũng cấp phát bằng cử nhân hay tiến
sĩ Phật học. Những người có bằng tiến sĩ Phật học có thể không
biết cách thực tập, họ có thể làu thông về các hệ thống tư tưởng,
giáo lý, lịch sử, ngôn ngữ, Phật pháp. Nhưng khi gặp những khổ
đau, nhức nhối, những bức xúc, tuyệt vọng thì họ không làm gì để
có thể giải tỏa được. Cho nên bằng cấp đó chỉ giúp cho họ làm giáo
sư Phật học, để làm ăn thôi.
Chúng ta là người tu, chúng ta cần một cái gì hơn cái bằng cấp đó.
Đã đành rằng khi mình có học vị cao, thì người ta nghe mình nhiều
hơn. Nhưng nếu mình không có một nếp sống đạo đức tâm linh cao thì
họ cũng không nghe mình nhiều. Thiền sinh Tây Phương tới làng Mai
không phải vì làng Mai cấp phát bằng tiến sĩ Phật học. Họ có thể
tới những trường đại học kia để lấy những bằng đó. Sở dĩ họ tới
làng Mai là vì tại làng Mai có phương pháp tu tập giúp cho họ tháo
gỡ được những khó khăn, những bức xúc, những cái kẹt của họ. Tại
làng Mai cũng có dạy Phật pháp, nhưng Phật Pháp làng Mai là Phật
Pháp có thể áp dụng được. Cho nên tôi nghĩ rằng sau này mình phải
có một Viện Phật Học gọi là Viện Phật Học Áp Dụng, không phải Viện
Phật Học lý thuyết. Là thứ Phật Học có thể áp dụng được chứ không
phải là Phật học thuần túy lý thuyết.
Tôi rất mong tại Học Viện Phật Giáo, các trường trung cấp, các
trường cơ bản hiện tại hãy bắt đầu cung cấp loại Phật Học đó, tức
là Phật Học Áp Dụng, học cái gì thực tập được ngay cái đó. Đó là
nói về Phật học. Còn về các môn học khác như môn học các nền văn
minh trên thế giới, tâm lý học hoặc khoa học nó cũng có ích lợi
cho mình. Tôi có cơ duyên được nghiên cứu về khoa học, tâm lý học,
xã hội học, cái đó giúp cho tôi hiểu về Phật Pháp sâu hơn và giúp
cho tôi diễn bày được giáo lý đạo Phật cho những nhà khoa học. Họ
tiếp nhận được là nhờ mình biết nói ngôn ngữ của họ. Những môn học
không phải là Phật học cũng có thể giúp đỡ mình rất nhiều. Tuy
nhiên nếu mình không cho môn Phật học nội minh ưu tiên mà mình đi
học những môn như khoa học hay là luật hay là các môn khác thì
mình không có cơ hội đi sâu vào giáo lý của mình. Và nhất là không
đi sâu vào nền giáo lý có thể đem ra để thực tập.
Cũng như hôm kia nói chuyện với nhà báo. Họ hỏi tại sao một người
xuất gia không thể làm dân biểu quốc hội được? Tại sao thầy không
muốn những người xuất gia làm dân biểu quốc hội ?
Tôi nói là người tu phải để cho họ tu. Thì giờ của họ phải dành để
học và tu trước. Nếu bị làm dân biểu quốc hội thì suốt ngày cứ bàn
luận về những đạo luật này, đạo luật kia. Thì giờ đâu để đi sâu
vào giáo lý và sự thực tập nữa. Vấn đề là phải để cho người tu tu.
Tu ở đây tức là học và áp dụng cái mình học vào đời sống hàng ngày
để chuyển hóa bản thân rồi để độ đời, giúp cho người ta chuyển
hóa.
Cho nên có hai ý chính mà tôi muốn đưa ra trong câu trả lời này.
Ý thứ nhất là Phật Học của mình không thể là Phật Học lý thuyết
được. Với Phật Học lý thuyết mình có thể là học giả, là lý thuyết
gia Phật giáo. Đó không phải là mục đích của người xuất gia. Người
cư sĩ cũng có thể làm được. Họ có thể làm một nhà Phật học rất
uyên thâm như giáo sư Demiéville đọc tam tạng kinh điển làu làu
như mình đọc tiếng Việt và chú thích Lâm tế lục một cách rất sâu
sắc. Nhưng họ chỉ là những nhà trí thức thôi, họ không phải là
những hành giả. Còn mình là nhà tu, phải là hành giả chứ không
chỉ là học giả. Trong số các vị học giả Phật học ở quê nhà,
tôi thấy có nhiều vị nghĩ rằng phải học Phật cho thâm uyên, để trở
thành thông bác trong phạm vi Phật học, đó là sự thành công. Tôi
chưa cho đó là sự thành công. Vì mục đích của chúng ta không phải
đào tạo ra những nhà bác học Phật giáo, những lý thuyết gia Phật
học. Mà phải cung cấp cho đời những hành giả, những người có thể
chế tác cho đời trí tuệ và từ bi, giúp đời chuyển hóa. Cái học vị
tiến sĩ Phật học không phải là mục đích chính của chúng ta. Có
càng tốt, không có cũng không sao. Xin quý vị nhớ chuyện đó, không
có cái đó cũng không sao. Nhưng mình phải là một hành giả, mình
phải là một yogi, mình phải nắm vững phương pháp thực tập hơi thở,
thực tập bước chân, điều phục những tâm hành, biết rõ cội nguồn
của các tâm hành của mình để chuyển hóa. Khi thành công trong sự
chuyển hóa những tâm hành của mình. Mình đạt tới sự thảnh thơi, tự
do và an lạc, lúc đó mình mới có khả năng giúp cho người, giúp cho
các bạn đồng tu cũng làm được như vậy. Cho nên vấn đề thứ nhất
không phải là vấn đề học vị.
Vấn đề thứ hai là chúng ta phải có khả năng độ đời. Muốn có khả
năng độ đời phải tu tập, phải có kinh nghiệm tu tập bản thân về
phương diện chuyển hóa. Nếu chúng ta đi học những môn không trực
tiếp là Phật Học, thì chúng ta đi sâu vào một tầng nữa trong sự
sai lầm. Có học vị tiến sĩ Phật Học mà không có sự hành trì đã sai
lầm rồi. Còn đi học những cái không phải là Phật Học để không có
thì giờ thực tập lại càng sai lầm thêm nữa. Tuy nhiên, không có
nghĩa là mình không có quyền học những môn như khoa học, xã hội
học hay các nền văn minh. Tôi nhờ học những cái đó mà có khả năng
trao truyền một cách dễ dàng hơn cái tinh hoa Phật giáo cho những
nhà khoa học, các nhà trí thức. Nhưng cái đó không cần phải bằng
cấp. Mình chỉ cần có thì giờ đọc và nghiên cứu một số những tài
liệu căn bản, dăm ba cuốn sách đúc kết những khoa học đó là mình
đủ có kiến thức để có thể làm được việc này. Không cần phải có học
vị và xin nhắc lại không cần phải có bằng cấp. Xin cảm ơn các vị
tôn túc, xin cảm ơn đại chúng.
Kính bạch thiền sư, ngày hôm nay buổi pháp thoại rất đặc biệt.
Thiền sư đã dành cho hàng ngàn tăng ni sinh của các trường Phật
học tại thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù không gian và không khí hôm
nay là dành cho người xuất gia. Nhưng hàng trăm thiện tín đã đến
từ mười phương trời và họ đang đầu tư với tư cách là thiện tri
thức để giúp cho các vị tu sĩ trẻ trở thành những vị cao tăng giới
đức để mang an vui cho cuộc đời. Nãy giờ họ lắng nghe thiền sư
chia sẻ về những câu hỏi liên hệ đến giá trị việc đầu tư của họ.
Có một số Phật tử họ nói, chúng con xin được đặt câu hỏi, nếu
không được đặt câu hỏi chúng con cảm thấy uổng cái cơ hội quý báu
như thế này. Cho nên xin thiền sư cho thêm một câu hỏi dành cho cư
sĩ. Dạ bây giờ kính mời một vị cư sĩ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Con kính chúc Giáo
hội Phật giáo Việt Nam và kính bạch Thầy cho con nêu một câu hỏi:
nếu một vị xuất gia tu hành về thiền viện Trúc Lâm đầy đủ vật chất
và một vị xuất gia tu khổ hạnh, ở trong núi hay ở trong cốc Hai
phương cách tu của các vị, vị nào đúng, vị nào sai, vật chất và
khổ hạnh. A Di Đà Phật.
Điều này trong kinh luật nói rất rõ là đời sống của một người xuất
gia phải là một đời sống đơn giản. Người xuất gia không nên sống
một đời sống vật chất sang trọng và xa hoa, đó là giới thứ tám của
sa di.
Tôi xin đọc: Ý thức được rằng sống trong những điều kiện vật chất
sang trọng và xa hoa người xuất gia sẽ khởi tâm ái dục và tự hào.
Con nguyện suốt đời chỉ sống một nếp sống giản dị, thiểu dục và
tri túc. Con nguyện không ngồi và không nằm trên những chiếc ghế
và chiếc giường lộng lẫy, không sử dụng lụa là gấm vóc, xe cộ bóng
loáng và nhà cửa cao sang. Đó là giới thứ tám.
Khi không có hạnh phúc chúng ta thường nghĩ rằng có những điều
kiện vật chất đầy đủ hơn thì sẽ có hạnh phúc. Nếu nhìn cho kỹ,
chúng ta thấy có những người quá dư dả điều kiện vật chất mà vẫn
đau khổ cực kỳ và nhiều người phải tự tử. Thành ra vấn đề không
phải ở chỗ có những điều kiện vật chất đầy đủ hay không. Nếu chúng
ta không có tình thương, không có khả năng thương, chúng ta không
được thương yêu bởi thầy bởi huynh đệ thì chúng ta cũng đau khổ.
Do đó sự thực tập là làm thế nào để có thể chế tác được tình
thương ban phát cho người xung quanh, cung cấp cho thầy mình, cung
cấp cho huynh đệ của mình, cung cấp cho quần chúng các vị tại gia.
Dầu mình sống một cuộc sống đơn giản thiểu dục tri túc thì cái
hạnh phúc đó vẫn như thường. Sở dĩ mình đi tìm những tiện nghi vật
chất tại vì mình không có hạnh phúc. Có hạnh phúc rồi thì ăn mặc
đơn giản cũng hạnh phúc, ngủ trong phòng không có máy điều hòa
không khí cũng không sao và ăn không no một trăm phần trăm cũng
không sao.
Tôi nhớ lại thời tôi làm sa di, không có bữa nào được ăn no hết,
năm bốn mươi hai bốn mươi ba gì đó. Nhưng mà vui vô cùng, sống
trong chúng với các điệu các sư chú, đó là thời đại hoàng kim của
đời sống xuất gia tôi. Khi mình ăn no một trăm phần trăm thì nó
nặng. Nếu mình tập ăn no chín mươi phần trăm hay chín mươi lăm
phần trăm thì mình có sức khỏe gấp đôi. Cho nên trong kinh có nói
rất rõ là trong ba cái ăn, mặc, ở phải thiếu thiếu một chút xíu,
gọi là tam thường bất túc, không nên tràn đầy một trăm phần trăm
trong ba cái đó. Cái ăn, dầu có dư dả để ăn thì cũng chỉ nên ăn
chín mươi hay chín mươi lăm phần trăm thôi, còn để chút xíu nó
trống trống. Điều đó giúp cho sức khỏe và nuôi dưỡng cái hạnh phúc
rất nhiều. Bữa ăn tới sẽ là một hạnh phúc rất lớn. Còn nếu ăn quá
no, phải nằm để thở thì rất hại cho sức khỏe. Nó làm tiêu bớt cái
hạnh phúc của mình, rất là thực tế.
Ăn đã vậy, thì ở và mặc cũng vậy. Thiếu thiếu một chút mà cái hạnh
phúc sẽ rất là lớn. Khi nó đầy quá thì hạnh phúc bắt đầu mất đi.
Đó là kinh nghiệm của tôi và kinh nghiệm của một số lớn các vị tôn
đức ở đây, tam thường bất túc là nếp sống của người xuất gia,
trong ba cái ăn mặc ở không nên bao giờ quá đầy đủ. Đó là bí quyết
của hạnh phúc. Xin cảm ơn chư vị tôn đức, các thầy các sư cô và
các đạo hữu.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch thiền sư, hôm nay
buổi pháp thoại chia sẻ cho toàn thể chư tôn đức tăng ni và tăng
ni sinh tại các trường Phật học rất viên mãn.
Các phương pháp với đời sống giới đức, thiết lập ra một phương
trời cao rộng và mỗi bước chân đi và sự hành trì của người xuất
gia mang lại an lạc cho bản thân và cho cuộc đời. Nhờ những kinh
nghiệm thực tập chuyển hóa, thiền sư đã mang lại cho tất cả tăng
ni sinh trẻ của chúng con con đường của hành trì, con đường của
thương yêu, con đường của dấn thân phục vụ Phật Pháp.
Chúng con tin chắc rằng nhiều Phật tử có mặt hôm nay rất là hạnh
phúc khi thấy được rằng việc đầu tư của họ cho những hạt giống
xuất gia, cho những hạt giống an vui hạnh phúc với tư cách là
những người tu mang lại hoa trái cho hiện tại và cho tương lai.
Các giá trị đó chúng con sẽ ứng dụng và thực tập và nguyện cho đời
sống này được an vui và hạnh phúc.
Bây giờ kính mời toàn thể quý tăng ni sinh và quý Phật tử hãy đứng
dậy chắp tay trang nghiêm trước ngực, xá ba xá để tri ân thiền sư
dành cho một buổi pháp thoại rất đặc biệt và tri ân chư tôn đức,
ban trị sự thành hội Phật giáo và ban giám hiệu của các trường
Phật học đã dành cho một buổi sinh hoạt rất có ý nghĩa của ngày
hôm nay.