.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

... Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (... ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (... )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh.

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

Nghệ thuật sống thiền :


Mục đích của người tu

 

  • Tháng IV 2007 - Phúc Quảng biên tập
    Pháp thoại
    của Sư ông Làng Mai ngày 22 - III - 2007 tại chùa Phổ Quang - Sài Gòn
    Chia sẻ với Giáo thọ, Tăng, Ni, Phật tử thành phố HCM

    Â
    m thanh MP3 : 
    Phần 1 (19MB)  Phần 2 (16MB)

          Kính thưa các vị tôn đức, các thầy, các sư cô và các Phật tử cư sĩ.

Ở bên Âu Châu, Mỹ Châu chúng tôi thường mở những khóa tu tập năm ngày, bảy ngày, hai mươi mốt ngày cho thiền sinh Tây Phương. Có những khóa tu người ta đem trẻ con tới. Mỗi khóa tu như vậy ít nhất phải có một buổi vấn đáp để cho thiền sinh đặt câu hỏi về sự tu tập của họ. Thường thường chúng tôi cho bọn trẻ con đặt câu hỏi trước, rồi tới người thanh niên trẻ tuổi sau cùng mới tới người lớn tuổi hơn.

 

Cái đẹp của người xuất gia

Trong những câu hỏi mà bọn trẻ con ưa hỏi nhất là tại sao các thầy, các sư cô lại cạo đầu trọc lóc. Sau nhiều ngày sinh hoạt tu tập với các thầy các sư cô thì bọn trẻ nhỏ rất thương, rất quý. Có một điều chúng nó tiếc là tại sao các thầy các sư cô không để tóc cho đẹp mà lại cạo trọc lóc như vậy. Thường thường tôi trả lời, có khi tôi nói đùa, tôi nói cạo tóc như vậy để cho nó mát, để cho khỏi tốn shampoo tức là thuốc gội đầu, rồi từ từ mình mới cắt nghĩa cho nó tại sao người tu phải cạo đầu.

Khi người xuất gia cạo tóc thì có một bài kệ: Hủy hình phi pháp phục, hủy hình tức là bỏ cái đẹp hình thức, làm cho mình xấu đi, cạo đầu để cho mình xấu đi. Tôi có nói với các cháu là đức Thế Tôn có dạy mỗi buổi sáng ông thầy tu nên đưa tay lên sờ đầu mình để nhớ rằng mình là thầy tu. Là thầy tu thì phải hành xử theo kiểu thầy tu. Cách đi, đứng, nói, cười, ăn cơm, mặc áo, sống đời sống hàng ngày phải theo kiểu cách của người tu. Cho nên cái đầu trọc của chúng tôi có ích lợi rất lớn là mỗi khi chúng tôi xoa đầu, chúng tôi nhớ chúng tôi là thầy tu. Nó nhắc nhở chúng tôi. Cái đầu trọc của mình là một tiếng chuông chánh niệm, luôn luôn nhắc cho mình nhớ mình là thầy tu, mình phải hành xử như người tu chứ không được hành xử như người đời. Tôi cắt nghĩa như vậy thì họ hiểu.

Tôi cắt nghĩa thêm là cạo sạch mái tóc cũng để nói cho mọi người biết tôi là thầy tu. Đừng chạy theo để chiếm hữu tôi. Đừng muốn tôi trở thành chồng hay vợ của quý vị. Cái thông điệp rất rõ ràng: chúng tôi là thầy tu, để cho chúng tôi tu, đừng tìm cách nắm bắt chúng tôi mà biến chúng tôi thành chồng hay vợ của quý vị. Và mỗi khi cạo đầu thì quan niệm rằng tất cả những phiền não, những vướng bận mình cũng cạo đi luôn để cho mình có tự do. Người Tây Phương họ hiểu được chuyện đó.

Tôi có nói thêm rằng dù chúng tôi có hủy bỏ cái đẹp hình thức, dù chúng tôi có cạo đầu, dù chúng tôi có cái thông điệp rất rõ ràng chúng tôi đã là thầy tu, đừng chạy theo để chiếm hữu chúng tôi, biến chúng tôi thành vợ hay là chồng của quý vị. Ấy vậy mà có rất nhiều người vẫn chạy theo và muốn chiếm hữu. Sự thật là như vậy, ở Việt Nam cũng vậy mà Âu châu, Mỹ châu cũng vậy. Có nhiều người chạy theo các thầy, các sư cô. Họ vẫn thấy có cái đẹp gì đó. Hủy bỏ cái đẹp hình thức, tự nhiên mình có cái đẹp tinh thần. Nhờ giới luật, cái uy nghi làm cho ông thầy tu, vị ni sư đẹp lên từ trong ra ngoài. Điều đó rất hấp dẫn đối với người cư sĩ. Người cư sĩ khi thấy một ông thầy tu đẹp, thấy một vị sư cô đẹp thì có ý hướng muốn chiếm hữu ông thầy tu, vị sư cô đó cho riêng mình. Chuyện đó chắc là quý vị  tôn đức cũng đã có kinh nghiệm rồi. Trong những bài thi kệ của sách Bước Tới Thảnh Thơi, có bài:

Cạo sạch mái tóc,

Nguyện cho mọi người,

Dứt hết phiền não,

Độ thoát cho đời.

         Trong mười giới của sa di và sa di ni, có một giới không trang điểm, không sử dụng mỹ phẩm. Chuyện này là chuyện của người xuất gia, nhưng quý vị tại gia cũng phải nghe, cũng phải hiểu. Vì chúng tôi rất cần sự yểm trợ của quý vị. Giới thứ sáu là không sử dụng mỹ phẩm. Bên tăng cũng như bên ni không sử dụng mỹ phẩm và đồ trang sức. Tôi xin đọc:

Ý thức được cái đẹp đích thực của người xuất gia là tính chất vững chãi và thảnh thơi. Con nguyện mỗi ngày làm đẹp cho con và cho tăng thân con bằng sự thực tập chánh niệm, cụ thể qua sự hành trì giới luật và các uy nghi trong đời sống hàng ngày. Con biết các loại mỹ phẩm và trang sức mà người đời sử dụng chỉ có thể đem lại sự hào nhoáng giả tạo bên ngoài và chỉ có tác dụng gây ra sự chìm đắm và vướng mắc. Con nguyện sống giản dị, gọn gàng, sạch sẽ trong cách ăn mặc của con. Con nguyện không sử dụng các loại nước hoa, phấn sáp, các loại mỹ phẩm và các thức trang sức khác.

Giới tướng của giới này rất là rõ ràng. Thực tập theo giới này nghĩa là không sử dụng mỹ phẩm và các đồ trang sức. Người tu đi tìm cái đẹp tinh thần, cái đẹp tinh thần đó ở chỗ thong dong, thảnh thơi, an lạc, nhẹ nhàng, tươi mát.  Cái đẹp đó được làm bằng chất liệu của giới luật, của uy nghi. Khi người tu thực tập mười giới hay hai trăm năm mươi giới hay ba trăm tám mươi giới thì tự nhiên người tu đẹp ra. Và khi người tu thực tập những uy nghi thì người tu càng đẹp lên. Cho nên cái làm cho người tu đẹp không phải là những mỹ phẩm hay đồ trang sức mà là giới luật và uy nghi.

Ngày xưa đức Thế Tôn đẹp lắm. Cho nên ông vua nào cũng muốn chiếm hữu đức Thế Tôn để làm thầy riêng của mình. Vua Tần Bà Xa La cũng vậy, vua Ba Tư Nặc cũng thế. Nhưng đức Thế Tôn đâu có chịu làm vật sở hữu cho một ông vua, cho một quốc gia. Ngài muốn làm một người tự do. Cho nên ngài muốn ở lại thành Xá Vệ mấy tháng thì ngài ở, ngài qua thành Vương Xá ở mấy tháng thì ngài ở. Các vị đệ tử của đức Thế Tôn cũng vậy, cũng học theo cái hạnh tự do của ngài, không có vị vua nào, không có vị quan nào, không có vị thương gia nào dù giàu có và uy quyền đến mấy có thể chiếm hữu được người xuất gia. Người xuất gia là con người của công, không phải là con người tư, mình không có thể chiếm hữu được.

Khi thấy một người xuất gia đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm, giới luật tinh nghiêm tỏa ra cái đẹp tinh thần, điều đó rất hấp dẫn. Hấp dẫn đối với tất cả mọi người và hấp dẫn với người tại gia. Người tại gia tôn sùng, kính trọng, trân quý một vị xuất gia là như vậy. Họ thường gần gũi. Từ sự gần gũi, trân quý đó phát sinh ra ý niệm muốn chiếm hữu vị xuất gia này cho mình. Trong thời đại chúng ta, nếu không hạnh phúc với thầy, không có truyền thông tốt với thầy, không có hạnh phúc với huynh đệ, mình đi tìm phương tiện, lập một cái am sống riêng. Có một vài người bổn đạo yểm trợ chăm sóc là chuyện không khó gì hết. Luôn luôn có những người muốn chiếm hữu mình, muốn giữ làm bảo vật riêng cho họ. Tệ nạn này xảy ra cho người xuất gia một phần cũng do các cư sĩ. Tôi mong rằng Giáo Hội sẽ có một văn thư rõ rệt về vấn đề này. Khuyên người cư sĩ không nên khuyến khích các thầy đi ra ở riêng, lập am riêng, ở nhà riêng để đi học. Chuyện này rất quan trọng.

Những tệ nạn đã xảy ra cho người tăng ni trẻ tuổi bây giờ bắt đầu tràn lan. Có nhiều vị sư trưởng chịu thua, không cách nào đối phó được. Cho nên tôi rất mong Giáo Hội có biện pháp cấp tốc để ngăn chặn chuyện này. Phải có văn thư, phải giáo dục quần chúng. Phật tử cư sĩ phải biết là đừng nên tìm cách chiếm hữu một vị tăng, một vị ni. Đừng nên yểm trợ họ để họ có thể ra lập am riêng, lập thất riêng, ở nhà riêng để đi học. Điều đó đã mang tới rất nhiều tệ hại cho tăng đoàn Phật giáo. Chúng ta có câu " Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại ". Khi con cọp lìa rừng núi xuống đồng bằng thì sớm muộn gì nó cũng bị con người bắt và lột da. Người tu cũng vậy. Một khi ly khai tăng đoàn, không ở chung mà đi ra ở riêng thế nào cũng đánh mất sự thực tập của mình. Với tư cách của một người xuất gia, mình sẽ chết như một người xuất gia nếu mình ly khai tăng đoàn.

Ở làng Mai các vị xuất gia nam hay nữ mỗi khi có công việc đi ra ngoài không bao giờ đi một mình dù là tỳ kheo, là thượng tọa hay hòa thượng. Trường hợp phải ra nhà dây thép, ra tiệm thuốc Tây, luôn luôn đi theo một người thứ hai, người đó gọi là đệ nhị thân, cái thân thứ hai của mình. Ở làng Mai chúng tôi, mỗi khi cần thiết phải lên mạng lưới internet cũng không có quyền lên một mình, muốn lên mạng lưới internet phải có một người đệ nhị thân, một vị xuất gia khác ngồi bên thì mới được lên mạng internet. Nếu mình lên mạng internet một mình thì mình phạm giới. Trong giới bản tân tu của các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni có điều luật là không được lên mạng lưới internet một mình. Nếu lên thì phạm giới phải buông bỏ và phát lộ.

Vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào là sở hữu chủ những băng hình hay những đĩa nhạc tình sầu và những băng hình không phải là băng kinh, không phải là những bài pháp thoại. Làm sở hữu chủ của những đĩa hình, những đĩa nhạc nó có tính cách đời, có tính cách tưới tẩm những hạt giống đam mê, sầu thương. Những vị đó phạm giới theo giới bản tân tu. Phải làm lễ buông bỏ và phát lộ. Phải trao những cái đó cho chúng, nếu muốn thanh tịnh trở lại.

 

Quyển  ' Bước Tới Thảnh Thơi '

Năm một nghìn chín trăm chín mươi chín, chín mươi tám, trong một chuyến đi  Trung Quốc để mở những khóa tu cho tăng ni và phật tử, tôi nhận thấy quyển 'sa di luật nghi yếu lược', 'tỳ ni nhật dụng thiết yếu' do các thầy Độc Thể và Châu Hoằng sáng tác cách đây bốn trăm năm vẫn còn sử dụng. Các điệu bên đó vẫn phải học thuộc lòng. Ở Việt Nam cũng vậy. Cuốn sa di luật nghi yếu lược gồm có hai phần, phần mười giới và phần uy nghi. Thường thường cuốn đó được in chung với cuốn 'tỳ ni nhật dụng thiết yếu', gồm những bài thi kệ để cho mình thực tập chánh niệm và sau đó là bài Quy Sơn cảnh sách.

Trong thời đại chúng ta, sách giáo khoa được tới tấp in ra hàng năm, mỗi năm đều có sách giáo khoa mới. Cuốn sa di luật nghi yếu lược là cuốn sách giáo khoa của sa di và sa di ni là một cuốn sách giáo khoa quá xưa. Đã bốn trăm năm nay mà mình không sáng tạo ra những sách giáo khoa mới cho những người sa di và sa di ni. Cho nên ở làng Mai, có chúng xuất gia, chúng tôi đã tập hợp nhau lại, đã hội thảo, đã nghiên cứu, đã áp dụng và đã thực tập. Chúng tôi đã cống hiến một cuốn giáo khoa thư mới cho người xuất gia trẻ đó là cuốn Bước Tới Thảnh Thơi. Cuốn Bước Tới Thảnh Thơi có mười giới sa di và sa di ni được trình bày rất tường tận, đầy đủ chi tiết. Hồi nãy chúng tôi mới vừa đọc để chia sẻ với chư vị tôn túc và các thầy các sư cô cũng như các Phật tử, một trong mười giới đó là không sử dụng mỹ phẩm và các đồ trang sức. Giới tướng rất là rõ.

Riêng tôi thấy mười giới của sa di rất là đẹp, nếu thực tập đúng theo mười giới và các uy nghi đó thì trở thành một con người rất đẹp, rất hấp dẫn cho tất cả mọi người. Và con người đẹp đó, con người hấp dẫn đó là của chung, của thế giới, của tăng đoàn chứ không phải của riêng một người, không thể chiếm hữu được. Bước Tới Thảnh Thơi là tiếng Việt và nếu mình tìm cụm từ tương đương Hán Việt thì đó là 'pháp túc siêu phương', bước một bước đi tới phương trời tự do cao rộng,

 Phù xuất gia giả,

 Phát túc siêu phương,

 Tâm hình dị tục.

Người xuất gia là người bước lên một bước để đi vào cõi thảnh thơi và cái tâm khác người thế gian, cái hình tướng cũng khác người thế gian, phát túc siêu phương tâm hình dị tục. Chữ phát túc siêu phương đó là bước một bước lên cõi thảnh thơi gọi là bước tới thảnh thơi.

Trong sách Bước Tới Thảnh Thơi, chúng ta có nhiều bài để thực tập chánh niệm, khi thức dậy thì có một bài kệ để thực tập:

Thức dậy mỉm miệng cười

Hăm bốn giờ tinh khôi

Xin nguyện sống trọn vẹn

Mắt thương nhìn cuộc đời. 

         Ngày xưa trong bản chữ Hán thì chúng ta có bài

Thụy miên trí ngộ,

Đương nguyện chúng sanh,

Nhất thiết trí giác,

Chiêu khổ thập phương.

Hiện giờ chúng ta có bài tiếng Việt, không thua bài chữ Hán, đôi khi còn hay hơn nữa. Trong bài

Thức dậy miệng mỉm cười,

Hăm bốn giờ tinh khôi,

Xin nguyện sống trọn vẹn,

Mắt thương nhìn cuộc đời.

có rất nhiều chất liệu của giáo pháp. Mắt thương nhìn cuộc đời là 'từ nhãn thị chúng sanh', lấy từ kinh Pháp Hoa phẩm Phổ môn. Buổi sáng thức dậy, việc tôi làm đầu tiên là tôi mỉm cười. Tại sao mỉm cười? Vì thấy trước mặt có hai mươi bốn giờ tinh khôi. Đó là tặng phẩm rất lớn của sự sống. Và tôi nguyện rằng sẽ sống một cách trọn vẹn, sâu sắc và an lạc hai mươi bốn giờ đó như một tặng phẩm của sự sống cho tôi mỗi ngày.

Thức dậy miệm mỉm cười.

Hăm bốn giờ tinh khôi.

Xin nguyện sống trọn vẹn.

 Mắt thương nhìn cuộc đời.

Nó rất Việt Nam.

Có thể quý vị, chư vị tôn túc chưa biết hay không biết, tôi là ông thầy tu Việt Nam đầu tiên đi xe đạp. Hồi đó chưa có ai đi xe đạp hết. Tôi và sáu thầy trẻ khác, có một bữa đi thuê sáu chiếc xe đầm và quyết định rằng sẽ đạp rất uy nghi, rất chánh niệm từ chùa Long Sơn xuống bãi biển. Hôm đó dân chúng thành Nha Trang rất ngạc nhiên, thấy có sáu thầy trẻ đi một hàng xe đạp. Lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện hình ảnh ông thầy tu đi xe đạp. Bây giờ chúng ta quen hình ảnh các thầy các sư cô đi xe mô tô, chúng ta không có sốc gì hết. Ngày xưa một thầy tu đi xe đạp là chuyện rất tân thời. Ngày xưa có thể các thầy đi ngựa nhưng chưa bao giờ đi xe đạp cả và xe đạp là con ngựa sắt. Cho nên khi biên tập tỳ ni nhật dụng thiết yếu mới, Bước Tới Thảnh Thơi, chúng tôi thêm vào bài kệ ngồi xe đạp: Ngồi thẳng trên xe đạp, giống như mình ngồi thiền vậy. Vững chãi giữ thăng bằng, khi ngồi thiền mình toát ra cái năng lượng vững chãi và thảnh thơi. Nếu ngồi thiền mà co rúm lại, cứng ngắc thì không có hạnh phúc. Cho nên ngồi thiền mình phải buông thư hết tất cả các cơ bắp, phải ngồi cho thật thẳng, cột sống rất là thẳng. Tuy là thẳng như vậy nhưng trong tư thế buông thư, và mỉm cười một cái thì ba trăm cơ bắp trên mặt thư giãn rất mau. Khi ngồi trên xe đạp mình cũng có thể ngồi như vậy. Ngồi thẳng trên xe đạp. Vững chãi giữ thăng bằng. Sự thăng bằng này không phải chỉ là sự thăng bằng của bên trái và bên phải để cho xe đừng nghiêng. Phước xin tu cùng tuệ, một bên tu phước một bên tu tuệ, phải có hai cái song song. Phước xin tu cùng tuệ, hành và giải song song. Thăng bằng là thăng bằng của cái đó chứ không phải là của chiếc xe mà thôi.

Ngồi thẳng trên xe đạp

Vững chãi giữ thăng bằng

Phước xin tu cùng tuệ

Hành và giải song song

Bài này rất hay để áp dụng cho những người đi xe đạp. Mà tại sao chỉ áp dụng cho những người đi xe đạp, đi xe mô tô cũng áp dụng được. Tôi không hiểu ở thành phố Hồ Chí Minh các thầy các sư cô, các vị sa di, sa di ni có thực tập bài kệ khi leo lên xe môtô hay không?

Vì theo nguyên tắc, bất cứ hành động nào, cử chỉ nào của người tu cũng phải đi theo chánh niệm. Trong Kinh Niệm Xứ nói rằng vị khất sĩ khi cúi xuống biết là mình đang cúi xuống, ngẩng lên biết là mình đang ngẩng lên. Vị khất sĩ khi khoác áo sanghati biết là mình đang khoác áo sanghati. Nghĩa là mình ý thức về tất cả những động tác của cơ thể. Vậy mình leo lên chiếc xe môtô mà mình không có ý thức là mình leo lên chiếc xe môtô tức là không có chánh niệm. Vấn đề không phải là có nên đi xe đạp, có nên đi xe môtô hay không. Mà vấn đề là đi xe đạp, đi xe mô tô có chánh niệm hay không. Và có tỏa ra cái đẹp của người xuất gia trong khi đi xe đạp, đi xe mô tô hay không.

Theo Kinh Niệm Xứ thì chánh niệm là năng lượng giúp cho mình có mặt trong giây phút hiện tại, biết những gì đang xảy ra trong thân, tâm và xung quanh mình. Và cái đẹp của người tu là do chánh niệm. Niệm đưa tới định và định đưa tới tuệ, đó là tam vô lậu học. Người tu mà không chế tác ra niệm định tuệ thì người tu không có chất liệu của người tu, không có cái đẹp người tu cần có. Giữ, thực tập mười giới cũng như thực tập các uy nghi tức là sự thực tập chánh niệm.

Các bà mẹ Việt Nam dạy con gái thường dạy như thế này "con, con gái đi, đứng, nằm, ngồi phải có ý, có tứ ". Đó là chánh niệm, đi mình biết là mình đang đi, đứng mình biết là mình đang đứng, nói mình biết là mình đang nói, cười mình biết là mình đang cười, phải có ý tứ, phải giữ gìn. Các bà mẹ đang dạy cho con gái chánh niệm mà không biết. Theo tôi, con trai cũng phải học như vậy. Con trai đi đứng nằm ngồi cũng phải có ý tứ chứ không phải chỉ con gái không. Trong chùa mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi động tác, mỗi lời nói đều phải được đặt trong ánh sáng của chánh niệm, mình biết mình đang đi, mình đang đứng, mình đang ngồi, mình đang nói, mình đang cười. Không để bất cứ một động tác nào lọt ra khỏi chánh niệm của mình. Chính nhờ thực tập giới và uy nghi mà mình chế tác được năng lượng của chánh niệm. Sự thực tập giới và uy nghi là sự thực tập căn bản của người tu.

Có khi chúng ta nói là giới định tuệ. Có khi chúng ta nói là niệm định tuệ. Cho nên tôi đã khám phá ra rằng giới tức là niệm. Thực tập giới luật, thực tập uy nghi tức là thực tập chánh niệm trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Thực tập như vậy mình chế tác được năng lượng của niệm, của định, của tuệ. Làm cho người xuất gia trở thành một người xuất gia đích thực, làm cái gì cũng có ý, có tứ, làm cái gì cũng đặt những động tác của mình dưới ánh sáng chánh niệm. Chính cái đó làm ra cái đẹp của người xuất gia, rất là hấp dẫn.

Trong Bước Tới Thảnh Thơi chúng ta có rất nhiều bài kệ mới. Có một bài kệ để sử dụng khi mở máy tính, một bài kệ để khi sử dụng điện thoại. Có một bài kệ để mình sử dụng và thở trước khi mình rồ máy xe hơi. Những bài thi kệ sử dụng để thực tập chánh niệm trong Bước Tới thảnh Thơi đầy đủ hơn và cung cấp cho người xuất gia ngày hôm nay những phương pháp, những phương tiện để thực tập đầy đủ hơn. Và hay nhất là nó bằng tiếng Việt. Bên Trung Quốc các thầy cũng đã dịch Bước Tới Thảnh Thơi ra tiếng Trung Quốc rồi. Ngày xưa người Việt mình thực tập những văn kiện bằng chữ Hán, bây giờ mình có những văn kiện bằng chữ Việt còn hay hơn và đầy đủ hơn. Mình dịch ra tiếng Hán để chia sẻ với những người thực tập ở Trung Quốc, người xuất gia cũng như người tại gia.

 Bên làng Mai Pháp quốc, những bài thi kệ thực tập chánh niệm được chia sẻ cả với người cư sĩ. Người cư sĩ họ thực tập những bài thi kệ này để nuôi lớn chánh niệm thì họ cũng đẹp hơn ngày xưa. Người thiền sinh cũng đi trong chánh niệm, ngồi trong chánh niệm, thở trong chánh niệm, giặt áo, ăn cơm trong chánh niệm. Cho nên người thiền sinh cư sĩ cũng tỏa ra được cái đẹp tinh thần như người xuất gia. Mình là người xuất gia, mình phải đẹp ít nhất là bằng người cư sĩ. Có những người cư sĩ thực tập chánh niệm rất đàng hoàng. Và mình có hai mươi bốn giờ đồng hồ mỗi ngày để thực tập, theo nguyên tắc thì mình phải đẹp hơn người cư sĩ. Người cư sĩ còn phải làm ăn, còn phải lo lắng cho gia đình. Mình xuất gia, có lợi thế là dồn hai mươi bốn giờ đồng hồ trong một ngày vào việc thực tập. Nếu mình bận rộn quá, có nhiều dự án quá, lo lắng nhiều quá thì làm sao mình có thể làm đẹp cho mình và cho tăng thân mình bằng chánh niệm, bằng uy nghi, bằng giới luật.

Cách đây độ ba tuần chúng tôi có một khóa tu cho các vị xuất gia ở tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc. Đã có khoảng một ngàn một trăm vị xuất gia qui tụ ở chùa Bát Nhã, Bảo Lộc để tu với nhau trong năm ngày. Mỗi vị sa di và sa di ni đã được tặng một cuốn Bước Tới Thảnh Thơi. Đây là cuốn sách giáo khoa để đào tạo người sa di và sa di ni, rất là hiện đại, cung cấp đầy đủ những tư liệu cho người sa di và sa di ni của thời đại mới. Tôi xin trân trọng giới thiệu với các vị sư trưởng, các vị giáo thọ. Ở trong này Quy Sơn Cảnh Sách được dịch bằng văn mới. Khi chúng ta đọc văn Quy Sơn Cảnh Sách này chúng ta cảm thấy rất gần gũi thiền sư Quy Sơn. Giọng văn rất thân ái, rất gần gũi và rất hiện đại. Trong cuốn này lại có một văn bản khác để bổ túc cho Quy Sơn cảnh sách đó là  'Nói với người xuất gia trẻ, tâm sự với người xuất gia trẻ để người xuất gia trẻ thấy được những khó khăn, nhận diện được những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc của mình mà tìm cách tháo gỡ.

Trong những khóa tu dành cho người xuất gia trẻ, tôi nhận thấy rằng có nhiều vị sa di, sa di ni và tân tỳ kheo, tân tỳ kheo ni đã phục hồi được bồ đề tâm của mình, phục hồi được cái sơ tâm của mình. Cái sơ tâm của người xuất gia là một cái gì hết sức đẹp. Điều này không phải tôi chỉ muốn nói cho người xuất gia nghe mà tôi cũng muốn nói cho các vị tại gia nghe. Sơ tâm của người xuất gia là một cái gì rất là đẹp, rất là hào hùng. Đó là trái tim nóng hổi của người đã phát nguyện đi xuất gia, đem hết đời của mình để phụng sự cho Phật Pháp. Mình dịch là tâm ban đầu. Trái tim ban đầu, cái tâm ban đầu là một cái gì hết sức là đẹp. Khi một người tu giữ gìn được cái sơ tâm đừng để nó bị soi mòn thì người đó sẽ có hạnh phúc và sẽ thành đạt trong đời tu. Nếu để cho cái sơ tâm bị soi mòn, yếu đi, chết đi thì mình sẽ thất bại với tư cách của người xuất gia, một người tu.

Cho nên vấn đề nuôi dưỡng gìn giữ sơ tâm là vấn đề rất quan trọng. Sơ tâm chính là bồ đề tâm. Mình có một khối lửa, một nguồn năng lượng trong trái tim. Mình tha thiết muốn tu muốn học, muốn chuyển hóa phiền não, muốn độ đời, giúp người. Cho nên gặp những chướng ngại trên đường tu mình không sợ hãi, mình vượt chướng ngại này rồi mình vượt chướng ngại khác. Vượt những khó khăn này rồi mình vượt những khó khăn khác. Nhưng nếu mình để cho tâm bồ đề của mình bị soi mòn, bị yếu đi thì mình không có khả năng vượt qua những chướng ngại những khó khăn trong đời sống hàng ngày nữa và mình sẽ bỏ cuộc.

Biết bao nhiêu thanh niên tăng ni đã bỏ cuộc, đã rơi vào hầm hố của sự hư hỏng. Tuy hình thức có thể vẫn còn là hình thức của người xuất gia, nhưng trái tim ban đầu đã chết, bồ đề tâm đã chết. Xin các vị tôn túc, các vị thượng tọa, các vị ni sư xét lại, nhìn xung quanh chúng ta thấy những người xuất gia trẻ đã đánh mất bồ đề tâm, đã đánh mất trái tim ban đầu, đã bắt đầu quen với đời sống hưởng thụ, những tiện nghi vật chất nho nhỏ, vướng vào những tiện nghi vật chất nho nhỏ, vướng vào những tiện nghi tình cảm nho nhỏ, bỏ mất cái chí hướng cao cả buổi ban đầu của mình. Các vị cư sĩ nên lắng nghe chúng tôi, các vị phải yểm trợ chúng tôi, phải giúp đỡ chúng tôi. Những khóa tu cho người xuất gia trẻ đó đã tưới tẩm được những hạt giống bồ đề, đã làm sống dậy được cái tâm ban đầu của một số những vị xuất gia trẻ, mắt họ sáng lên, nụ cười họ tươi ra và bước chân họ chững chạc lại.

Nhưng vấn đề không chỉ là làm sống dậy trái tim ban đầu, vấn đề còn là làm sao nuôi dưỡng được cho trái tim ban đầu đó sống lâu sống dài. Xin các vị tôn túc nghĩ lại, quán chiếu lại. Môi trường của người xuất gia trẻ bây giờ rất xấu và người xuất gia trẻ đánh mất từ từ cái tâm ban đầu của mình một cách rất dễ dàng mà không hay không biết, cái tâm ban đầu đó bị soi mòn từ từ. Ban đầu thì chấp nhận một vài tiện nghi vật chất, rồi chấp nhận một vài tiện nghi tình cảm. Bị kẹt vào những tiện nghi vật chất đó, những tiện nghi tình cảm đó. Rồi không có năng lượng vượt thoát những khó khăn, không có khả năng thiết lập lại được truyền thông giữa mình với bổn sư của mình, không có khả năng thiết lập được truyền thông giữa mình với huynh đệ. Không có hạnh phúc sống với thầy sống với huynh đệ. Cho nên bỏ ra ngoài để tìm cuộc sống có một ít tiện nghi vật chất, có một ít tiện nghi tình cảm, tình trạng đó đang xảy ra cho rất nhiều người xuất gia trẻ. Tôi nghĩ các vị tôn túc trong Giáo Hội phải có những buổi họp đặc biệt để xét nghiệm về vấn đề này, mở một lối đi nẻo thoát cho giới xuất gia trẻ.

 

Môi trường nuôi dưỡng người xuất gia trẻ

Chúng ta phải có những tu viện thiết lập theo thanh qui để bảo hộ cho người xuất gia trẻ. Để người xuất gia trẻ có thể thực tập được giới luật uy nghi, nuôi dưỡng tình huynh đệ, nuôi dưỡng tình thầy trò. Một khi mình đã được nuôi dưỡng bởi tình huynh đệ, tình thầy trò rồi thì những cám dỗ bên ngoài không đủ mạnh để lôi kéo mình đi. Nhưng khi mình đau khổ vì thầy, đau khổ vì huynh đệ thì những cám dỗ bên ngoài trở thành rất  mạnh. Khi một người xuất gia, khi một người đệ tử được thầy mình tin cậy và thương yêu thì người đệ tử đó cảm thấy rất hạnh phúc. Khi một người xuất gia được huynh đệ tin cậy và thương yêu, người xuất gia đó là một người có hạnh phúc. Chính cái hạnh phúc của tình thầy trò, hạnh phúc của tình huynh đệ nuôi dưỡng người xuất gia, nó làm cho người xuất gia có nhiều năng lượng để thành công trong sự tu và học. Những cám dỗ, những tiện nghi vật chất, những tiện nghi tình cảm nho nhỏ bên ngoài không đủ sức để kéo người xuất gia đi theo.

 Cho nên có được một môi trường tốt trong đó người xuất gia trẻ tiếp thu được giáo pháp, những pháp môn tháo gỡ những khó khăn giữa mình với thầy mình, và huynh đệ mình, để giữa thầy trò và huynh đệ có hạnh phúc đó là sự thực tập rất căn bản. Trong các trường cơ bản, trường trung cấp, trong các học viện chúng ta phải cung cấp những giáo lý đó, những pháp môn đó để giúp cho người thanh niên tăng ni có khả năng tháo gỡ những khó khăn giữa mình với vị bổn sư, giúp cho mình tháo gỡ những khó khăn của mình với huynh đệ. Để mỗi ngày đều có thể chế tác được tình huynh đệ tình thầy trò. Và chính tình huynh đệ tình thầy trò đó là chất liệu nuôi dưỡng người xuất gia, không có cái đó chúng ta sẽ chết, không có cái đó chúng ta sẽ không có chất liệu bổ dưỡng, nuôi dưỡng đời sống của người xuất gia.

Tôi là một người may mắn, ngày xưa thầy bổn sư của tôi chưa bao giờ mở miệng nói một cách công khai rằng thầy thương con, không bao giờ nói như vậy. Nhưng mình biết là thầy thương mình và thầy có niềm tin nơi mình. Ngày xưa người ta ít nói lắm, nói ra sợ mất thiêng, tình thương dấu kín trong đáy lòng. Tình thương con hay tình thương đệ tử cũng vậy được dấu kín trong lòng, nhưng mà mình biết. Khi mình biết thầy thương mình và thầy tin mình thì đó là cái hạnh phúc rất lớn của người đệ tử. Khi có tình thương giữa thầy và đệ tử, có nghĩa là giữa thầy và đệ tử có sự truyền thông, thầy hiểu được đệ tử và đệ tử hiểu được thầy. Cái gì thầy nói người đệ tử hiểu được và cái gì đệ tử nói thầy hiểu được. Cả hai phía, thầy cũng như đệ tử giúp nhau tháo gỡ những tri giác sai lầm để cho sự truyền thông được tốt đẹp.

Sự truyền thông được tốt thì có tình thương, có sự sự tin cậy, điều này cũng đúng đối với huynh đệ. Nếu mình không biết sử dụng phép lắng nghe với lòng thương, nếu mình không biết sử dụng lời ái ngữ để chuyển tải, để chia sẻ những cái thấy, những kinh nghiệm của mình đối với huynh đệ thì mình, không thiết lập được truyền thông tốt giữa mình với huynh đệ và sẽ có những hiểu lầm, sẽ có những giận hờn phát sinh.

         Chúng tôi có một ít kinh nghiệm về vấn đề nuôi dạy đệ tử. Ngày xưa các thầy hay các sư bà nuôi những đồng nam, đồng nữ. Khi các chú tiểu đó lớn thì cho thọ giới sa di, sa di ni. Thực tập một thời gian thì được thọ giới tỳ kheo, tỳ kheo ni. Bây giờ chúng ta cũng tiếp tục nuôi các đồng nam, đồng nữ. Nhưng chúng ta gởi các cháu đi học ở ngoài, học ở trường tiểu học, trung học rồi ở trường đại học. Khi các điệu đi ra chung đụng với người ngoài đời, thanh niên ngoài đời thì tiêm nhiễm cách sống của người ngoài đời. Số lượng những chú tiểu mình nuôi rơi rụng rất nhiều. Ngày xưa tất cả đều học ở trong chùa, bây giờ mình gởi đi học ở ngoài, nó vương vào những rác rến, những tệ nạn bên ngoài. Họ đem về chùa những cái mà mình không muốn. Họ biết rằng thầy không thích nên phải che giấu. Thầy thì bận quá, nên thầy đâu biết rằng sau lưng mình, đệ tử của mình làm những chuyện động trời. Đệ tử có thể dùng máy vi tính phiêu lưu vào những vùng nguy hiểm của mạng lưới. Đệ tử mình có thể dùng điện thư liên lạc một cách không lành mạnh với các bạn gái hay các bạn trai. Đệ tử của mình có thể dùng điện thoại di động để gửi e-mail. Những điều đó mấy thầy, mấy sư bà đâu biết. Sự đổ vỡ, sự hư hỏng có ngay trong chùa, không phải như ngày xưa. Nói tóm lại, người xuất gia trẻ bây giờ đang được đặt vào một môi trường không lành mạnh, mà các bậc sư trưởng không kiểm soát được, không hướng dẫn được.

Cho nên việc thành lập những tu viện, trong đó các thành viên của đại chúng tuân thủ theo những giới luật và những uy nghi chung, rất là quan trọng. Chúng tôi đã cố gắng làm như vậy ở Đạo Tràng Mai Thôn Pháp quốc, tu viện Rừng Phong ở Mỹ quốc, tu viện Lộc Uyển ở tiểu bang Cali. Các thầy các sư cô không ai có quyền có một trương mục ngân hàng riêng. Các thầy các sư cô, sư chú không ai có quyền có điện thoại di động riêng. Các thầy các sư cô, sư chú không ai có quyền có địa chỉ điện thư riêng. Trong chùa chỉ có một địa chỉ điện thư duy nhất và khi điện thư tới cho một vị nào thì chính văn phòng in ra đưa cho đương sự. Không ai có xe mô tô riêng, không ai có xe đạp riêng, không có ai có xe hơi riêng. Tất cả đều thuộc về thường trú và thường trú giao cho mình sử dụng khi mình có công tác phải tổ chức một khóa tu hay đi rước thiền sinh ở ga xe lửa. Không ai làm sở hữu chủ bất cứ một cái gì hết. Mỗi khi đi ra ngoài thì phải có ít nhất một đệ nhị thân đi theo để bảo hộ cho mình.

Những người trẻ Tây Phương đi xuất gia, trong đó có những người đã đậu tiến sĩ luật, đã đậu kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ y khoa, đã vâng theo những uy nghi những giới luật đó một cách rất dễ dàng. Họ không cảm thấy đau khổ gì hết khi theo những quy luật như vậy của tăng đoàn. Mà luôn luôn họ nở nụ cười và họ sẵn sàng đi theo quy luật đó. Vì họ thấy rằng quy luật đó giữ cho họ, bảo vệ cho cái tự do của người tu, nó rất là mầu nhiệm. Không phải những thầy, những sư cô, sư chú gốc Việt Nam làm được chuyện đó mà các thầy các sư cô sư chú Tây Phương cũng rất là hoan hỷ, rất là hạnh phúc khi làm được điều đó, tức là buông bỏ hết đi theo quy luật của tăng đoàn và thực tập theo giới bản tân tu.

Cho nên hai năm về trước khi nói chuyện ở học viện chính trị Hồ Chí Minh cho các lý thuyết gia Mác-xít, các vị đảng viên cao cấp tôi có nói chơi, tôi nói rằng chúng tôi ở làng Mai không có ai có điện thoại riêng, không có ai có xe hơi riêng, không có ai có trương mục riêng, chúng tôi là cộng sản thứ thiệt, chánh hiệu con nai. Thì tất cả các vị trong hội chúng đều cười, rất vui.

Tại tu viện Từ Hiếu ở Huế, chúng tôi đã ráng biến tu viện Từ Hiếu thành một cộng đồng như vậy, một chúng tu học như vậy. Trong đó không ai làm sở hữu chủ của bất cứ một chiếc xe nào, bất cứ cái điện thoại nào, bất cứ một địa chỉ điện thư nào, một máy tính nào, một cái laptop nào. Đối với những người mới xuất gia mà đưa vào ngay khung cảnh đó thì họ chấp nhận một cách rất dễ dàng và họ có hạnh phúc rất lớn. Với những thầy, những sư chú đã quen với những tiện nghi vật chất, tiện nghi tình cảm rồi thì cũng có người chấp nhận bỏ lề thói cũ để theo lề thói mới dễ dàng, nhưng có những người cũng vất vả lắm. Còn Bát Nhã thì dễ dàng hơn nhiều. Tại Bát Nhã thâu vào những thanh niên thiếu nữ mới, ngay từ lúc đầu đã thực tập phương pháp đó cho nên họ không cảm thấy đau khổ, trái lại họ rất hạnh phúc, không có vấn đề. Đó là một vài kinh nghiệm chúng tôi chia sẻ với các vị tôn túc, các sư bà, các ni sư.

         Trong xã hội chúng ta, một xã hội đang trên đà toàn cầu hóa, kỹ nghệ hóa, những tệ nạn mới đang phát sanh và dễ phát sanh. Người thanh niên Việt Nam đang sa vào hầm hố của những tệ nạn đó, trong đó có ma túy, mãi dâm, tội phạm, băng đảng, tự tử, phá thai, nạo thai. Nếu chúng ta không cẩn thận, không đề cao cảnh giác thì những tệ nạn đó sẽ từ từ đi vào chùa. Chúng ta bắt đầu thấy trong giới xuất gia trẻ có những người hư hỏng, có những vị hư hỏng, có người đã vướng vào những cái vòng như vậy. Đây là một tiếng chuông chánh niệm gióng lên để tất cả chúng ta cùng nghe, cứu tăng như cứu hỏa, giáo hội không thể chần chừ được, quý vị tôn túc không có thể chần chừ được.

Chúng ta phải lập tức triệu tập một hội nghị, phải nghiên cứu, phải pháp đàm, phải đi sâu vào vấn đề, phải tìm được một lối thoát cho giới xuất gia trẻ. Người cư sĩ cũng phải đóng một vai trò rất quan trọng trong việc yểm trợ này. Người cư sĩ không nên tìm cách chiếm hữu một vị xuất gia dù vị xuất gia đó rất là đẹp. Người cư sĩ phải yểm trợ các vị tôn túc, các thầy thiết lập những đạo tràng dành cho người xuất gia. Trong đó người xuất gia trẻ được bảo hộ để đừng bị rơi vào hầm hố của những tệ nạn xã hội đang từ bên ngoài đi vào chốn thiền môn. Trong khóa tu cho người xuất gia tại Bảo Lộc, tôi có nhìn thẳng vào các thầy các sư cô sư chú và nói rằng giả sử quý vị đã dại dột phạm giới và cảm thấy ăn năn hối hận, đánh mất cái tâm ban đầu của mình. Bây giờ nghe những lời giảng như thế này, cảm thấy bồ đề tâm sống dậy và muốn tu hành cho nghiêm chỉnh, đàng hoàng. Nhưng mặc cảm phạm giới còn, thì quý vị đừng lo lắng. Chúng ta biết cách sám hối thì chỉ trong vòng ba tháng, có thể làm tiêu nghiệp cũ và chúng ta bắt đầu trở lại như một người xuất gia mới tinh anh, làm cho cái khối lửa trong trái tim được thắp sáng lên trở lại.

 

Địa Xúc Sám Pháp

Trong một khóa tu kiết Đông ở đạo tràng Mai thôn, tôi có sáng tác một phương pháp sám hối gọi là Địa Sám, trong truyền thống chúng ta có thủy sám còn đây là địa sám. Nói đúng hơn là địa xúc, Sám Pháp Địa Xúc. Tôi xin kính giới thiệu sám pháp địa xúc này với các vị tôn túc và nhất là với các vị xuất gia trẻ, tôi tin chắc rằng nếu chúng ta hết lòng sám theo sám pháp địa xúc thì chỉ trong vòng ba tháng thôi là tâm chúng ta nhẹ nhàng ra rất nhiều. Chúng ta trở thành con người mới.  Sám Pháp Địa Xúc rất thực tế, nó động tới những vấn đề rất thực của người xuất gia trong thế kỷ thứ hai mươi mốt. Nó không phải là kể tội để cầu xin tha tội mà là những phương pháp quán chiếu, những phương pháp thực tập để có thể chuyển hóa nghiệp cũ và mở ra cái năng lượng của nghiệp mới. Nó có khả năng làm sống dậy cái tâm ban đầu, cái bồ đề tâm của mình.

Tôi nghe nói có một vị xuất gia sau khi phạm giới, đã liên tục tụng Sám Lương Hoàng trong một năm. Lạy đêm lạy ngày và thắp hương rồi dí lửa vào người cho cháy, để tỏ sự hối hận của mình. Nhưng làm như vậy suốt một năm rưỡi trời mà không thành công, rốt cuộc cũng ra đời. Không phải tự đày đọa thân mình mà có thể tiêu được nghiệp cũ. Phải sám hối bằng tất cả sự thông minh của mình mới tiêu được nghiệp cũ và nhất là  phải phát nguyện rằng từ nay trở về sau con nhất quyết không dại dột làm như vậy nữa. Đây là những điều con tâm nguyện, con phát nguyện sẽ không bao giờ lặp lại. Đây là những điều con phát nguyện mỗi ngày con sẽ làm. Chỉ khi nào phát được cái tâm dũng mãnh như vậy thì nghiệp cũ tiêu trừ và cái tội được tiêu trừ. Chúng ta phải có những khóa thực tập, giúp cho những người xuất gia trẻ vượt thoát những khó khăn, những ám ảnh, những mặc cảm của họ để sống trở lại, để sanh trở lại như một người xuất gia mới với trái tim ban đầu rất đẹp, rất nóng hổi. Tôi xin để lại mươi mười lăm phút để quý vị hỏi những câu hỏi nó liên hệ tới đề tài thuyết giảng hôm nay, không những các vị tôn túc mà các vị cư sĩ cũng có cơ hội để đặt những câu hỏi.

        

        Phần Vấn đáp

           Thiền sư cho phép nêu những câu hỏi, xin quý tăng ni sinh có thể nêu những câu hỏi liên hệ tới đề tài làm mới tâm ban đầu, sống an vui hạnh phúc với tư cách là một người tu, từng bước thong dong và thảnh thơi trên cuộc đời. Dành cho quý tăng ni trước, quý vị tăng ni nào có nêu những thắc mắc thì xin giơ tay.

         Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch Hòa thượng cùng toàn thể tăng thân và chư tôn đức. Đối với những người xuất gia trẻ tuổi khi phạm vào những trọng tội thì có thể làm mới lại bằng cách quán chiếu, sám hối  theo phương pháp của Hòa thượng. Thế nhưng theo trong luật tạng, các vị tôn túc y cứ vào tỳ ni luật tạng nói rằng những người xuất gia mà phạm vào trọng giới thì như  bị chặt đứt đầu và như cây kala không thể sống dậy được. Như vậy theo chúng con đó là sự mâu thuẫn và làm rất khó xử cho chúng con. Chúng con không biết như thế nào. Câu hỏi này là cơ hội để cho chúng con mở sáng được cái tâm bồ đề ban đầu. A Di Đà Phật.

         Câu hỏi này rất là hay. Cảm ơn thầy đã hỏi được câu hỏi này. Cố nhiên là khi mình phạm một trọng giới là mình chết rồi, chết thiệt rồi. Nhưng con phượng hoàng có thể được tái sinh từ cái đống tro của nó. Chúng ta biết rằng đức Quan Thế Âm có khả năng làm sống dậy một mùa xuân trên cơ bản của những cây khô. Nó là khô mộc nhưng với pháp môn vi diệu mình làm ra được một mùa xuân mới, sái khô mộc nhi tác phùng xuân. Và tuệ giác là một đóa hoa nở trên mảnh đất của phiền não, si mê. Cũng như phân rác tuy nó hôi, tuy nó không đẹp. Nhưng chính nó có thể nuôi được những bông hoa. Nếu không có bùn thì làm sao có bông sen. Mình đâu có thể trồng hoa sen trên đá cẩm thạch. Vậy cho nên nhìn kỹ vào bông sen thì mình thấy có bùn ở trong đó, nếu không có bùn thì không có sen. Ở đây cũng vậy, những khổ đau, những tội lỗi là bùn mà nếu biết sử dụng cho khéo léo thì từ bùn, từ đất mình có thể làm nảy sinh ra bông sen.

 Trong sự phạm giới, trong cái chết của người xuất gia nếu phát khởi được cái tâm muốn làm mới lại, muốn làm sinh lại đóa sen, thì chuyện đó có thể làm được. Đạo Phật hay ở chỗ đó. Là cây khô mà biến thành mùa xuân trở lại được là tại vì từ phiền não mà phát xuất ra bồ đề. Cho nên chúng ta có giáo lý ''phiền não tức bồ đề". Những trọng tội đó, những ray rứt đó, những khổ đau đó chính là chất liệu của bùn đất. Nếu chúng ta biết cách thì chúng ta có thể sử dụng nó để làm nảy sinh ra một chồi sen mới. Trong đạo Phật không có danh từ tuyệt vọng. Dù chúng ta ở trạng thái bức xúc nào, khó khăn nào đi nữa thì giáo lý của đức Thế Tôn vẫn có một con đường thoát cho chúng ta. Cho nên làm sống dậy con phượng hoàng trên đống tro của nó là chuyện có thể làm được. Làm cho mùa xuân biểu hiện trên cơ bản của những cành cây khô là chuyện có thể làm được. Nếu vị xuất gia trẻ phạm trọng tội đó, tìm tới được một vị tôn đức mà mình tin, mình thương. Quỳ xuống để phát lộ, nói ra hết những khổ đau của mình, những ước vọng của mình. Nói ra xong, đôi khi chỉ cần mười lăm phút hay nửa giờ thì ít nhất năm mươi phần trăm của tội đó đã tiêu, huống hồ sau đó mình thực tập thêm một vài tháng. Chắc chắn cái tội đó sẽ tiêu và mình sẽ tái sinh trở lại như một người xuất gia mới. Nhưng chuyện đi tìm một vị tôn đức mình tin, mình thương quỳ xuống và phát lộ rất quan trọng, làm được như vậy thì nó nhẹ đi hơn năm mươi phần trăm rồi và theo đó tiếp tục mà thực tập thì mình thoát khỏi. Đây là cái thông điệp tôi gởi cho những người xuất gia trẻ đã gặp trường hợp không may mắn mà đánh mất giới, thân, tuệ mạng của mình, chúng ta có thể tái sinh trở lại được.

         Vừa rồi là một câu hỏi đã được sư ông giải đáp, từ một tăng sinh của Học viện Phật giáo Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh. Trong buổi chia sẻ pháp thoại thiền sư cũng đã đề cập, giới thiệu và chia sẻ những kinh nghiệm trong tác phẩm Bước Tới ThảnhThơi như một giới bản mới cho các vị xuất gia trẻ. Bây giờ chúng con xin phép sư ông cho một câu hỏi dành cho chư tôn đức giáo thọ sư, những vị đã đóng góp rất nhiều công lao trong việc đào tạo một thế hệ tăng ni tại Việt Nam trong vòng mấy mươi năm qua. Chúng con xin mời thượng tọa Thích Thiện Lạc, giáo thọ sư của trường trung cấp Phật học thành phố Hồ Chí Minh.

         Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngưỡng bạch Hòa thượng, thiền sư. Con ở trong ban hoằng pháp cũng khá lâu. Từ cuối thế kỷ thứ hai mươi trở về đây, chúng con thấy giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đào tạo rất nhiều khóa, ra trường rất đông. Các tăng ni sinh có lẽ cũng theo thời đại tiến hóa của xã hội mà chạy theo vật chất nhiều. Do đó không nghĩ tới vấn đề truyền đăng tục diệm. Sau khi ra trường thì có một số được đi Ấn Độ, được đi các nước, trở về có thể phục vụ. Còn phần đông thì không làm gì hết và đôi khi những vị đó có ý nghĩ đi cất cốc riêng, có đệ tử riêng. Chúng con nhận thấy tất cả những tăng ni sinh trẻ chạy theo những vật chất đó, theo đức Phật dạy là do cái gốc tham ái. Phải diệt cái gốc tham ái đó, những người tu đã có trình độ như vậy mà làm như thế thì tương lai Phật giáo chúng ta như thế nào. Rồi đây việc hội nhập với quốc tế, dân chúng các nước  qua đây càng nhiều, tăng ni trẻ phải có một định hướng, giáo hội chúng ta cần phải có sự tu tập ở trong các thiền viện, các tu viện lớn chẳng hạn như thiền viện Trúc Lâm ở ngoài Đà Lạt hay thiền viện Thường Chiếu hay tăng thân làng Mai của Hòa thượng ở bên Pháp chẳng hạn, thì tăng ni trẻ mới có thể cải hóa được. Xin Hòa thượng cho chúng con biết cách nào để cho tăng ni có thể cải hóa mà không nghĩ đến chạy theo vật chất để rồi đánh mất đi cái phát tâm xuất gia ban đầu của mình. Nam mô A Di Đà Phật.

         Câu hỏi của Thượng tọa rất quan trọng, mình phải đem hết tất cả niệm lực, định lực của mình quán chiếu để tìm ra câu trả lời chung. Có một vị giáo thọ trẻ ở tu viện Bát Nhã đã từng lăn lóc trong cuộc sống của người xuất gia trẻ ở Huế. Đã qua thọ giáo và tu tập ở tại làng Mai bốn năm năm. Ngày vị đó được truyền đăng làm giáo thọ, vị đó có nói một câu như thế này tôi thấy rất đúng. Thầy đó nói rằng " sở dĩ người xuất gia trẻ hư hỏng là tại vì họ không có một lý tưởng. Họ không thấy con đường trước mặt của họ, không thấy được sứ mạng của họ. Nếu con không được tiếp xúc với thầy và có được con đường lý tưởng này thì con cũng sẽ hư hỏng như họ mà thôi. Sở dĩ con được hạnh phúc như vầy là vì con có một lý tưởng ". Cho nên muốn cho người xuất gia trẻ không hư hỏng, cái cách hay nhất là cho họ một lý tưởng.

Khi người xuất gia trẻ thấy được rằng có những cái mình có thể làm được và làm được ngay từ bây giờ, để giúp dân giúp nước thì người xuất gia trẻ tự nhiên hết hư hỏng và có thể buông bỏ được những tiện nghi vật chất và tình cảm. Vấn đề này là một chủ đề mà chúng ta cần phải tham cứu. Tôi thấy mục đích của người xuất gia là để chuyển hóa những khổ đau, khó khăn của chính mình rồi đi giúp đời. Ở ngoài đời họ có những khổ đau khó khăn của họ. Người lớn tuổi, người trung niên và người trẻ tuổi đều có những cái khó khăn và những khổ đau. Nhà nước hiện đang theo đuổi một chương trình thành lập các khu phố văn hóa, các thôn văn hóa, ấp văn hóa. Trong đó không có những tệ nạn xã hội như là đĩ điếm, tội phạm, mãi dâm, ma túy. Điều đó, chứng tỏ là nhà nước thấy được cái hiểm nguy đang chờ đợi trên đất nước mình. Số người trẻ bị lọt vào bẫy sập của tội phạm, ma túy, tự tử, của băng đảng khá nhiều. Cho nên thành lập những khu phố văn hóa, những ấp văn hóa là để đối phó, tiêu diệt, tảo trừ những cái tệ nạn đó.

Suy đi nghĩ lại, tôi thấy rằng những phương pháp kiểm soát hay trừng phạt mà nhà nước có thể cung cấp không đủ để tạo dựng những khu phố văn hóa như vậy. Văn hóa ở đây có nghĩa là đạo đức, có nghĩa là tinh thần. Nhìn cho kỹ thì thấy rằng có nhiều gia đình mà cơ cấu đã lung lay, sụp đổ. Người trẻ không cảm thấy có hạnh phúc khi sống trong gia đình. Khi người cha làm khổ mẹ, mẹ đay nghiến cha. Khi cha mẹ làm khổ nhau và cha trút tất cả những giận dữ lên đầu con, thì người trẻ cảm thấy không có hạnh phúc, không tin vào cấu trúc gia đình vốn là đơn vị xây dựng nên một xã hội lành mạnh, vững chãi. Khi người trẻ không tin vào gia đình, không tin vào hạnh phúc gia đình thì người trẻ sẽ lạc lõng, người trẻ sẽ có cái nhu yếu tự nhiên là đi tìm những khuây khỏa, những quên lãng bên ngoài. Cho nên mới sa vào vòng rượu chè, ma túy, cái vòng tội phạm, băng đảng hay là đĩ điếm. Thành ra mình có thể làm gì được để giúp cho người chồng truyền thông lại được với người vợ, người vợ nói chuyện lại được với người chồng. Phục hồi tình thương lúc ban đầu. Mình làm cái gì để giúp cho cha nói chuyện lại được với con, con truyền thông lại được với cha.

 Trong giáo lý của chúng ta, trong sự thực tập của chúng ta có những pháp môn nào có thể giúp xây dựng lại được gia đình thì người xuất gia phải nắm cho vững những pháp môn đó. Đời sống của người xuất gia tuy rời bỏ gia đình huyết thống, nhưng lại có một gia đình mới đó là gia đình xuất gia, gia đình tâm linh. Có thầy như cha, có sư thúc, sư bá, có sư huynh, sư đệ, có sư tỉ, sư muội. Ở trong gia đình xuất gia cũng phải có hạnh phúc. Nếu mình nắm được phương pháp thực tập thì mình có thể truyền thông tốt giữa thầy và trò, giữa huynh với đệ.

Sự thực tập hàng ngày của mình nằm ở chỗ đó. Nếu mình không chế tác được tình huynh đệ, tình thầy trò thì làm sao mình chế tác được đại từ, đại bi. Tình huynh đệ, tình thầy trò có cùng một chất liệu với đại từ và đại bi. Nếu mình thành công ở chỗ chế tác được tình huynh đệ, tình thầy trò. Được nuôi dưỡng bởi cái tình đó thì mình là một con người có hạnh phúc. Mình có kinh nghiệm làm thế nào để dựng nên một chúng xuất gia có hạnh phúc. Phải biết sử dụng ái ngữ, lắng nghe, tha thứ, bao dung, giúp đỡ, giúp đỡ đệ tử của mình, giúp đỡ thầy của mình, giúp đỡ các huynh đệ của mình.

Đệ tử mà giúp thầy là chuyện rất thường chứ không phải chỉ có thầy mới dạy đệ tử được. Đệ tử nếu học hỏi đàng hoàng, tu tập đàng hoàng, làm cho thầy mình nghiêm chỉnh trở lại đó là chuyện đã từng xảy ra. Khi trong chúng có một người, hai người, ba người tu tập đàng hoàng. Uy nghi, giới luật đàng hoàng có khả năng giúp người độ đời thì cả chúng được hưởng và học theo những người như vậy. Trong chúng nếu mình nắm vững được những phương pháp thực tập lắng nghe, ái ngữ, giúp cho huynh, giúp cho đệ, giúp cho thầy, giúp cho đệ tử thì mình đã có một kho kinh nghiệm. Với kho tàng kinh nghiệm đó mình có thể giúp cho một gia đình ở trong xóm thiết lập lại được truyền thông, cha nói chuyện lại được với con, vợ nói chuyện được lại với chồng. 

Những khóa tu mà chúng tôi tổ chức ở Tây Phương đều có mục đích như vậy. Chúng tôi không nói chuyện trên trời dưới biển, cực lạc Tây Phương. Chúng tôi nói làm thế nào để cho anh, để cho chị, để cho ông có thể tháo gỡ được những khó khăn trong nội tâm, để cho anh cho chị tái lập được truyền thông với những người trong gia đình, trong cộng đồng, trong xã hội. Làm sao cho quý vị lấy ra được sự đau nhức và căng thẳng trong thân và trong tâm, cái đó phải học ở trong đạo Phật.

Trong kinh An Ban Thủ Ý, kinh Niệm Xứ đều có dạy về những phương pháp như vậy, tháo gỡ làm lắng dịu những cái căng thẳng, những đau nhức trong thân rồi trong tâm. Nhận diện ôm ấp những nỗi khổ niềm đau trong thân, trong tâm, làm lắng dịu và làm cho chuyển hóa nó trước khi mình giúp cho người kia cũng làm được như vậy. Người kia có thể là đệ tử của mình, người kia có thể là thầy mình, có thể là huynh đệ của mình. Khi áp dụng được ái ngữ và lắng nghe thì mình giúp người kia tháo gỡ những tri giác sai lầm, chuyển hóa được những phiền giận và có được hạnh phúc trong chúng. Tất cả những thực tập đó đã được đức Thế Tôn cung cấp.

Khi tôi giảng dạy kinh An Ban Thủ Ý tức là kinh Quán niệm hơi thở hay là kinh Niệm Xứ tôi đưa ra những phương pháp rất cụ thể của đức Thế Tôn để giúp lấy đi, làm lắng dịu những căng thẳng, những đau nhức trong thân và trong tâm. Ngay chính trong kinh An Ban Thủ Ý đã có những pháp môn thực tập như vậy. Những khóa tu mà chúng tôi thiết lập cho các thiền sinh Tây Phương là chỉ để giảng dạy và đem ra thực tập những pháp môn đó thôi. Có khi chỉ sau năm hay sáu ngày tu tập họ đã có thể tái lập được truyền thông với người thân trong gia đình và đem lại hạnh phúc. Tại vì trong chúng, chúng tôi có tu tập giữa những người xuất gia với nhau. Chúng tôi đã thành công tới một mức nào đó cho nên chúng tôi có kinh nghiệm và đem chia sẻ cho các thiền sinh Tây Phương trong các khóa tu.  Số thiền sinh tới tham dự những khóa tu đó càng ngày càng đông. Mùa hè ở làng Mai thường có từ bốn mươi lăm quốc tịch cho đến năm mươi quốc tịch tới tham dự. Có khi cả ba, bốn ngàn người thực tập chung trong khuôn viên của tu viện, rất là yên tĩnh, rất hạnh phúc. Chúng tôi có tổ chức những khóa tu tương tự như vậy ở các thành phố Âu châu, Mỹ châu và Úc châu. Điều đáng nói là trong những khóa tu đó mình chỉ giảng dạy và đem ra thực tập những điều rất thiết thực như vậy. Tháo gỡ những tuyệt vọng, những giận hờn, bi phẫn, những bế tắc. Làm lắng dịu đi những nỗi khổ niềm đau, những sự đau nhức và căng thẳng ở trong thân cũng như ở trong tâm, rất là khoa học.

Những người tới tu họ không mang theo những phẩm vật cúng dường như nhang, đèn, xôi, chuối. Tại vì họ không tới với mình để đi tìm một tín ngưỡng. Họ tới với mình để tìm một tuệ giác giúp họ tháo gỡ những khó khăn trong đời sống hàng ngày. Cho nên những khóa tu đó là để trao truyền những giáo lý và những pháp môn mà họ thực tập ngay tại chỗ. Trong khi các anh, các chị lớn trong giới xuất gia hướng dẫn các thiền sinh tu tập thì được các sư em, các sư đệ, các sư muội của mình phụ tá. Cho nên những người xuất gia trẻ được học từ các sư huynh các sư tỉ của mình. Đến lượt mình cũng có thể hướng dẫn và tháo gỡ cho người ta. Nếu mình chỉ cho người xuất gia trẻ thấy rằng công việc họ phải làm ngày hôm nay và ngày mai là công việc gì. Cho họ thấy rõ là ngay chính ngày hôm nay mình đã có thể làm vơi bớt những khổ đau của nhiều người. Thì người xuất gia trẻ sẽ thấy rằng cuộc đời của mình có ý nghĩa, có mục đích, có lý tưởng.

Khi thấy mình đem lại hạnh phúc được cho những người xung quanh ngay trong giây phút hiện tại và trong những ngày tương lai thì người xuất gia trẻ sẽ buông bỏ được những tiện nghi vật chất và tình cảm làm hư nát đời sống của mình. Cho nên vấn đề quan trọng là trong khi đào tạo những sa di, sa di ni, tân tỳ kheo, tân tỳ kheo ni, mình phải cho họ tham dự vào chuyện giảng dạy, tham dự vào chuyện thực tập, giúp người, giúp đời ngay trong khi còn tùng học, ngay khi còn học trường sơ cấp chứ đừng nói là lên trung cấp mới làm.

 Ngay trong những năm học sơ cấp họ đã có khả năng đi, đứng, nằm, ngồi gây niềm tin cho người cư sĩ. Ngay trong những năm trung cấp họ đã học những phương pháp để tháo gỡ những đau nhức, khó khăn, những dồn nén ở trong thân và tâm. Cái học một giờ lý thuyết phải đi theo với năm giờ thực tập. Cũng như ở trường y khoa, sinh viên vào nhà thương để thấy các giáo sư y khoa xử lý những trường hợp của người bệnh vậy. Cái học của chúng ta đang còn tính cách lý thuyết rất nhiều, chúng ta có thể nói thông thạo, thao thao bất tuyệt về Duy Thức, về Pháp Tướng, về Kim Cương, về Bát Nhã. Nhưng chúng ta chưa áp dụng được vào đời sống hàng ngày để tháo gỡ những khó khăn của chính chúng ta và những người thương của chúng ta trong chúng. Chúng ta phải làm thế nào để cái học của chúng ta có tính cách thực tế. Tất cả những kiến thức của chúng ta từ pháp tướng, pháp tánh phải được trui luyện trong đời sống thực tế và khiến cho những người xuất gia trẻ có cảm tưởng, có nhận thức rằng ngay trong những năm đầu xuất gia họ đã có lợi ích cho đời rồi.

Ngay chuyện họ đi đứng thong dong, thảnh thơi, tươi mát, an lành là đã có thể giúp đời rồi. Nó tạo ra niềm tin cho người cư sĩ. Huống hồ là những người xuất gia học được những biện pháp để làm thư giãn những đau nhức, căng thẳng trong thân và tâm. Huống hồ là những người xuất gia trẻ học được những phương pháp ái ngữ, lắng nghe để thiết lập truyền thông với huynh đệ, với thầy. Khi làm được những việc đó ở trong chùa thì cố nhiên sẽ làm được việc đó trong những khóa tu và ở ngoài đời. Chúng ta có thể đóng góp được rất nhiều cho việc xây dựng những khu phố văn hóa, những ấp, những thôn văn hóa, chúng ta đem đạo Phật đi vào cuộc đời.

Nếu chúng ta để cho nhà nước lo một mình thì những ấp văn hóa đó, những khu phố văn hóa đó sẽ rất khó thực hiện. Nếu không có bàn tay của người xuất gia, nếu không có sự cộng tác của người cư sĩ, đem sự thực tập đó vào trong thôn làng, trong khu phố để giúp cho những gia đình có được truyền thông tốt, để cho cha có thể nói chuyện lại được với con, vợ có thể nói chuyện được với chồng. Và để cho các gia đình biết thực tập năm giới. Thì tôi nghĩ rằng rất khó mà đạt tới sự thành công của những khu phố văn hóa. Cho nên người xuất gia phải thấy vai trò của mình trong xã hội. Khi người xuất gia biết rằng mình có thể làm được cái gì để xây dựng xã hội trên tinh thần nhập thế đó, thì người xuất gia nuôi được cái lý tưởng của mình, chí hướng của mình. Khi có được chí hướng, lý tưởng thì sẽ không còn vướng víu vào những tiện nghi tình cảm hay những tiện nghi vật chất làm cho mình hư hỏng, xin quý vị tôn túc chiêm nghiệm trở lại. Đây là vấn đề sống chết của chúng ta, vấn đề lý tưởng.

         Kính bạch thiền sư, hôm nay là một buổi chia sẻ cho tăng ni rất đặc biệt. Đặc biệt là cách đây một vài hôm, ban giám hiệu của học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Cũng như ban giám hiệu của trường Cao Trung Phật học thành phố Hồ Chí Minh và các trường sơ cấp Phật học đã cho nghỉ ngày hôm nay và khuyến đón tất cả tăng ni sinh đến đây để nghe thiền sư hướng dẫn những con đường chuyển hóa trên nền tảng của đời sống giới đức. Do đó xin thiền sư cho phép thêm một vài câu hỏi nữa, chúng con vừa nhận được những tín hiệu đặt câu hỏi rất nhiều. Nếu thiền sư cho phép thì chúng con xin được tiếp tục hai câu nữa. Hai câu hỏi, chúng con xin dành một câu để chư tôn đức lãnh đạo cao cấp nhất của giáo hội tại thành phố Hồ Chí Minh và ban giám hiệu cũng như các vị giáo thọ của các trường Phật học và một câu hỏi dành cho chư ni, nãy giờ chư ni chưa nêu một câu hỏi nào. Bây giờ chúng con xin kính mời hòa thượng Thích Giác Thuận chứng minh ban đại diện Phật giáo quận Gò Vấp nêu câu hỏi đến thiền sư.

         Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Hòa thượng thiền sư. Chúng con vô cùng hoan hỷ được chia sẻ tấm lòng cao thượng của Hòa thượng đối với tăng ni chúng con ngày hôm nay. Gần năm mươi năm về trước Hòa thượng xuất ngoại, chúng con vắng đi một người thầy khả kính. Cách đây hai năm Hòa thượng quay Việt Nam, chúng con gặp lại người thầy khả kính. Hôm nay được trực diện với người thầy khả kính đó. Tuy tuổi tác Hòa thượng đã lớn, hôm nay đã 80, nhưng với một trí tuệ, một nghị lực và ngôn ngữ Phật Pháp, chúng con thấy không khác hơn của gần năm mươi năm về trước. Giờ đây được đứng trước Hòa thượng để nghe những kim ngôn ngọc ngữ vừa qua, chúng con vô cùng xúc động và tự thấy mình như trẻ lại. Bây giờ chúng con xin đặt với Hòa thượng một vài chia sẻ. Thứ nhất năm mươi năm về trước đất nước chúng ta không thanh bình và giàu đẹp như ngày hôm nay mà từ Bắc, Trung, Nam bom đạn tơi bời, khói lửa chết chóc. Thầy trò chúng ta vừa tu, học vừa trốn đạn, trốn bom. Hôm nay đất nước vô cùng giàu đẹp, thanh bình, ra tới nơi là thấy xe hơi nhà lầu, phương tiện. Nghe những chia sẻ của Hòa thượng ở làng Mai rằng không một tăng ni nào có điện thoại di động, không có e-mail, không có xe hơi và honda riêng. Liệu Hòa thượng có giải pháp nào cho chúng con ở Việt Nam làm điều đó không? Bởi vì đất nước Việt Nam chúng ta hôm nay đang cất cánh, đang hội nhập với thế giới. Đồng thời đang cần những phương tiện để hội nhập với thế giới mà tốt đạo đẹp đời.

 Riêng con nghĩ, bản thân con thường gặp và thường tâm sự với tăng ni trẻ, thường trăn trở cùng với tăng ni trẻ về những ý niệm mà Hòa thượng vừa chia sẻ, nhưng chúng con vẫn chưa tìm được lối thoát. Chúng con nghĩ rằng chúng con ngày xưa thì tu trước học sau, còn giới đệ tử con bây giờ thì lại học trước tu sau. Nếu bây giờ mà bắt tu không cho học thì nó nói nó tu mù. Bắt học mà không cho tu thì nó gọi là đãy sách. Thành ra xin thưa Hòa thượng, chúng con cũng có dạy giới tăng trẻ, ni trẻ, nhưng mà dạy theo kiểu 'nghiệp lực nhân duyên' thôi, đứa nào khôn thì nhờ, đứa nào dại thì chịu. Chúng con thường nghĩ rằng một cây xoài ra hoa rất nhiều, nhưng mà đứa nào đậu thì đậu, mà rớt thì rớt chứ làm sao mà đậu hết cả cây xoài được.

Cho nên con nghĩ rằng nó học cao cấp, học trung cấp cứ dạy cho nó học, đứa nào có lý tưởng tuyệt vời như Hòa thượng vừa nói thì nó sẽ thăng tiến trên con đường tu học và trọn đời sẽ thành thánh đạo. Đứa nào mê trần luyến tục thì cho nó về có vợ có con để  thành một người của xã hội, có trí thức, có kiến thức, nó thành một công dân tốt sau khi rời cái lò đào tạo của Phật giáo Việt Nam. Đó là ý niệm của con, hôm nay con được chia sẻ một phần với Hòa thượng, nếu con có mạo phạm nào, con xin lạy và sám hối Hòa thượng. Xin Hòa thượng hoan hỷ, hoan hỷ đại hoan hỷ. Nam mô A Di Đà Phật.

         Cảm ơn Hòa thượng đã cho đại chúng rất nhiều nụ cười, rất nhiều hoan hỷ. Những điều Hòa thượng nói rất là chí lý. Mình chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình, về sự thành bại của cuộc đời mình. Nhưng có một điểm tôi thắc mắc là người xuất gia có liên hệ tới người cư sĩ. Gia đình của đức Thế Tôn có bốn chúng, xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam và tại gia nữ. Người cư sĩ đóng vai trò rất quan trọng trong việc yểm trợ người xuất gia. Người cư sĩ có bổn phận phải yểm trợ về nhiều mặt, trong đó có thực phẩm, y phục, thuốc men. Khi yểm trợ cho người xuất gia thì người cư sĩ có một mong chờ, một ước nguyện là người xuất gia đó phải  thành công. Cố nhiên, khi thấy người xuất gia rụng như là bông xoài, trứng cá thì những cư sĩ không hạnh phúc lắm, có phải như vậy không? Cho nên trong tinh thần tứ ân, chúng ta phải biết rằng chúng ta không có quyền thất bại. Chúng ta thất bại thì chúng ta phụ cái ơn của sư trưởng, của thiện trí thức và của những cư sĩ đang trông chờ sự thành công của chúng ta. Chúng ta không có quyền thất bại, chúng ta không có quyền rơi rụng như bông xoài hay trứng cá. Đó là cái thấy của tôi. Bây giờ xin mời một sư cô hỏi câu hỏi chót.

         Kính bạch thiền sư, chúng con xin thêm một câu nữa đi là được hai câu hỏi. Vì hôm nay các vị giáo thọ sư của các Phật học viện đều đến đây để nghe sư ông chia sẻ. Chúng con xin được trước nhất là kính mời một vị giáo thọ rồi sau đó đến một vị sư cô.

Dạ xin quý vị cho một tràng pháo tay vì thiền sư đã cho phép.

Chúng con xin kính giới thiệu thượng tọa Thích Đạt Đạo, tổng thư ký Học viện Phật Giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, người đã gắn bó với nền Phật học mấy mươi năm qua, đào tạo rất nhiều tăng ni và thượng tọa cũng là trưởng ban hướng dẫn nam nữ cư sĩ Phật tử tại thành phố Hồ Chí Minh và là phó ban hướng dẫn nam nữ cư sĩ Phật tử toàn quốc. Mối liên hệ của thượng tọa đối với tăng ni và phật tử rất nhiều. Câu hỏi thượng tọa sẽ đặt đến cho sư ông, chúng con tin chắc rằng nó rất thú vị. Dạ kính mời thượng tọa.

         Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngưỡng bái bạch Hòa thượng, thiền sư thượng Nhất hạ Hạnh. Trong bầu không khí vô cùng trang nghiêm của buổi nói chuyện của Hòa thượng với tất cả tăng ni trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Chúng con xin phát biểu đôi lời. Chúng con xin tự giới thiệu chúng con xuất thân từ Phật học viện Nha Trang và Báo Quốc Huế. Trong mấy mươi năm từ khi xuất gia đến khi lớn, chúng con có duyên lành được gần gũi và hầu hạ Hòa thượng bổn sư thượng Trí hạ Thủ của chúng con. Trong suốt thời gian tu học tại Phật học viện Nha Trang cũng như Báo Quốc Huế, chúng con không biết chư tôn đức đã chỉ dạy đào tạo chúng con như thế nào. Bất cứ làm một việc gì chúng con đều nghĩ đến phải gìn giữ, tiết kiệm của tam bảo. Phải làm những điều gì mà luôn luôn mình biết rằng mình là người xuất gia tu học. Ngồi trên xe honda chúng con nghĩ mình đang là đầu tròn áo vuông, không được chạy một cách cẩu thả. Trong lúc con học ở trường đại học, nhiều khi khát nước không dám ghé lại quán nước để mua nước uống mặc dù rất khát nước. Chúng con thấy rằng mình phải đi sau những người Phật tử, người ngoài đời một chút. Thí dụ dùng một chiếc xe honda thì xe đời mới chúng con không dám đi, chúng con đi xe đời cũ. Không hiểu lối giáo dục giảng dạy như thế nào mà chúng con luôn luôn khiêm cung với tất cả những việc làm, những suy nghĩ. Từ đó chúng con được hòa thượng chúng con chọn làm thị giả và theo hầu hạ ngài đến khi ngài viên tịch. Sau khi hòa thượng chúng con viên tịch, Giáo Hội mới chọn chúng con vào làm ở trường trung cấp Phật học thành phố. Được sáu tuần lễ thì giáo hội cử chúng con lên trường cao cấp Phật học Việt Nam suốt hơn hai mươi năm qua.

Khi nhận nhiệm vụ chúng con nghĩ ngay đến điều đầu tiên là phải đem hết sức mình để phụng sự cho Phật pháp, điều thứ hai là đối với các vị trưởng thượng phải kính trọng và điều tiếp nữa là đối với những vị ngang mình thì luôn luôn phải thương yêu và những người dưới mình thì phải hết sức nhỏ nhẹ để hướng dẫn những gì họ cần đến mình. Trong suốt hơn hai mươi năm qua chúng con luôn luôn nhỏ nhẹ và giúp đỡ tận tình các tăng ni sinh trẻ từ khóa một cho đến khóa sáu hiện nay

Ngược lại chúng con nhận những lời phê phán của rất nhiều chư tôn đức, cả phía tăng cũng như bên ni. Bởi vì chư tôn đức tăng ni biết rằng chúng con là người gần gũi nhất trong giới tăng ni sinh trẻ. Chư tôn đức nói rằng hiện nay đạo đức của tăng ni trẻ xuống cấp trầm trọng. Tư cách cũng như oai nghi tế hạnh xuống cấp trầm trọng. Sống đời sống hoàn toàn chạy theo vật chất từ chiếc xe honda cao cấp mắc tiền nhất, đến những bộ đồ và nhiều khi còn xức nước hoa nữa. Các vị tôn đức đã đánh giá và phê phán tại sao học viện Phật giáo Việt Nam là cơ sở đào tạo giáo dục tăng ni trẻ mà không hướng dẫn họ, không nâng cấp đạo đức cho họ, không hạn chế bớt những việc này. Chúng con nghĩ Học viện Phật giáo Việt Nam là ngôi trường truyền đạt lại kiến thức về Phật học cũng như thế học cho các tăng ni sinh để mở rộng con đường vào việc nghiên cứu giáo lý nhà Phật, để hoằng truyền chánh pháp.

Việc giáo dục về đạo đức, hướng dẫn oai nghi tế hạnh, chúng con nghĩ không phải thuộc về lãnh vực của các trường học. Các trường học chỉ nhắc nhở nhưng mà rèn luyện thì phải là một người khác. Như ngày xưa chúng con được như thế này là nhờ quý thầy đã giảng dạy trong các Phật học viện cho nên chúng con đã thâm nhập được những cái điều ngày hôm nay chúng con có được. Thì chúng con xin đặt một câu hỏi kính bạch Hòa thượng thiền sư như vậy đạo đức của các tăng ni sinh trẻ trong cả nước hiện nay có phải quy kết vào cho các trường Phật học, từ đại học xuống trung cấp sơ cấp chịu trách nhiệm hay không? Hay là ai là người chịu trách nhiệm về mặt đạo đức xuống cấp này. Chúng con xin hỏi một câu hỏi đó, kính bạch sư ông liễu tri. A Di Đà Phật.

         Sở dĩ Hòa thượng thành công như là một người xuất gia là tại vì Hòa thượng có một môi trường tốt. Sở dĩ người xuất gia trẻ bây giờ không thành công như Hòa thượng là tại vì họ có cái môi trường xấu. Đó không phải là trách nhiệm của các trường Phật học, mà tại môi trường, mình phải gọi đúng cái tên của thủ phạm. Sống trong môi trường xấu cho nên mình bị những cám dỗ, những tiện nghi vật chất và tình cảm nó kéo theo.

Thành ra câu trả lời là phải làm thế nào để thay đổi cái môi trường. Tức là chỗ mình sống cuộc sống hàng ngày. Mình phải sống trong một khung cảnh mà mình được bảo hộ, bảo hộ bởi tăng thân, bởi sự thực tập giới luật và uy nghi. Nhiều khi mình muốn thực tập giới luật và uy nghi nhưng không có tăng thân bảo hộ. Không có môi trường tốt, thành thực tập không được. Cho nên có thể nói rất rõ ràng rành mạch rằng trách nhiệm không phải là các trường Phật học mà tại cái môi trường trong đó người thanh niên tăng ni đang sống. Môi trường chính là cái chịu trách nhiệm. Chúng tôi nghĩ rằng công việc cấp thiết mà chúng ta phải làm là tạo dựng môi trường tốt cho người thanh niên tăng ni và đừng đổ lỗi cho bất cứ một ai. Xin cảm ơn liệt vị tôn túc.

         Dạ bây giờ là câu hỏi cuối cùng thiền sư dành cho chư ni.

Trước khi một vị ni đại diện cho toàn thể quý ni có mặt tại đây nêu câu hỏi, chúng tôi xin lưu ý quý Phật tử mở một dấu ngoặc đơn nhỏ về khái niệm mà chư tôn đức thảo luận nãy giờ là xuống cấp đạo đức của chư tăng chư ni đó không có nghĩa là trở thành một người đi vào hướng thế tục hóa mà là không có cái cơ hội trở thành những bậc thánh như ngày xưa. Quý vị nên lưu ý như vậy chứ đừng nghĩ rằng việc xuống cấp đạo đức như  những hưởng thụ ngoài thế gian, quý vị nên lưu ý vấn đề này.

Bây giờ mời một vị ni nêu câu hỏi.

         Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngưỡng bái bạch hòa thượng, ngưỡng bái bạch chư vị trưởng lão trong giáo hội. Kính thưa toàn thể chúng hội trong đạo tràng hôm nay.

Kính thưa Hòa thượng con xin được giới thiệu là ni sinh của trường trung cấp Phật học thành phố Hồ Chí Minh. Từ khi con biết đến pháp môn của làng Mai thì hầu như mỗi ngày con đều nghe một bài giảng, một bài pháp thoại của tăng thân làng Mai. Con nghĩ rằng tất cả những tăng ni sinh trẻ đều có lý tưởng và đều có những hoài bão rất muốn được vào sống chung trong tăng thân tại các tu viện của tăng thân làng Mai. Nhưng con cũng có đọc qua giới bản tân tu, rằng các vị nữ khất sĩ chỉ tìm đến một tăng thân khác khi mà tại cơ sở của mình không có điều kiện cho sự tiến tu. Qua buổi pháp thoại hôm nay của Hòa thượng, con có ý muốn hỏi rằng nếu các tăng ni sinh trẻ, hiện tại con thấy vẫn đi học một đại học ngoài, những môn học đó vẫn phù hợp với lý tưởng của người xuất gia. Con không biết rằng nếu đi học như vậy thì theo Hòa thượng có nên cho phép hay không?  Hồi nãy con nghe, theo Hòa thượng chỉ nên học ở tu viện. Hiện tại con biết rằng học viện Vạn Hạnh cũng đang xin được là đại học Van Hạnh và sẽ ngang tầm cỡ với các đại học thế giới. Con xin hỏi các ngành khoa học khác thì các tăng ni sinh trẻ có nên đi học ở ngoài hay không. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

         Câu hỏi này cũng hay lắm. Đó là cái thắc mắc, cái bâng khuâng của nhiều người xuất gia trẻ. Bên Tây Phương có nhiều trường học nổi tiếng như trường Oxfort, trường Colombia, họ cung cấp cả môn Phật học và họ dạy Phật pháp rất khoa học. Phật pháp của họ được soi sáng bởi khảo cổ học, văn bản học, sử học. Họ cấp phát những bằng tiến sĩ Phật học.

Trong các trường của chúng ta cũng cấp phát bằng cử nhân hay tiến sĩ Phật học. Những người có bằng tiến sĩ Phật học có thể không biết cách thực tập, họ có thể làu thông về các hệ thống tư tưởng, giáo lý, lịch sử, ngôn ngữ, Phật pháp. Nhưng khi gặp  những khổ đau, nhức nhối, những bức xúc, tuyệt vọng thì họ không làm gì để có thể giải tỏa được. Cho nên bằng cấp đó chỉ giúp cho họ làm giáo sư Phật học, để làm ăn thôi.

Chúng ta là người tu, chúng ta cần một cái gì hơn cái bằng cấp đó. Đã đành rằng khi mình có học vị cao, thì người ta nghe mình nhiều hơn. Nhưng nếu mình không có một nếp sống đạo đức tâm linh cao thì họ cũng không nghe mình nhiều. Thiền sinh Tây Phương tới làng Mai không phải vì làng Mai cấp phát bằng tiến sĩ Phật học. Họ có thể tới những trường đại học kia để lấy những bằng đó. Sở dĩ họ tới làng Mai là vì tại làng Mai có phương pháp tu tập giúp cho họ tháo gỡ được những khó khăn, những bức xúc, những cái kẹt của họ. Tại làng Mai cũng có dạy Phật pháp, nhưng Phật Pháp làng Mai là Phật Pháp có thể áp dụng được. Cho nên tôi nghĩ rằng sau này mình phải có một Viện Phật Học gọi là Viện Phật Học Áp Dụng, không phải Viện Phật Học lý thuyết. Là thứ Phật Học có thể áp dụng được chứ không phải là Phật học thuần túy lý thuyết.

Tôi rất mong tại Học Viện Phật Giáo, các trường trung cấp, các trường cơ bản hiện tại hãy bắt đầu cung cấp loại Phật Học đó, tức là Phật Học Áp Dụng, học cái gì thực tập được ngay cái đó. Đó là nói về Phật học. Còn về các môn học khác như môn học các nền văn minh trên thế giới, tâm lý học hoặc khoa học nó cũng có ích lợi cho mình. Tôi có cơ duyên được nghiên cứu về khoa học, tâm lý học, xã hội học, cái đó giúp cho tôi hiểu về Phật Pháp sâu hơn và giúp cho tôi diễn bày được giáo lý đạo Phật cho những nhà khoa học. Họ tiếp nhận được là nhờ mình biết nói ngôn ngữ của họ. Những môn học không phải là Phật học cũng có thể giúp đỡ mình rất nhiều. Tuy nhiên nếu mình không cho môn Phật học nội minh ưu tiên mà mình đi học những môn như khoa học hay là luật hay là các môn khác thì mình không có cơ hội đi sâu vào giáo lý của mình. Và nhất là không đi sâu vào nền giáo lý có thể đem ra để thực tập.

Cũng như hôm kia nói chuyện với nhà báo. Họ hỏi tại sao một người xuất gia không thể làm dân biểu quốc hội được? Tại sao thầy không muốn những người xuất gia làm dân biểu quốc hội ? Tôi nói là người tu phải để cho họ tu. Thì giờ của họ phải dành để học và tu trước. Nếu bị làm dân biểu quốc hội thì suốt ngày cứ bàn luận về những đạo luật này, đạo luật kia. Thì giờ đâu để đi sâu vào giáo lý và sự thực tập nữa. Vấn đề là phải để cho người tu tu. Tu ở đây tức là học và áp dụng cái mình học vào đời sống hàng ngày để chuyển hóa bản thân rồi để độ đời, giúp cho người ta chuyển hóa. Cho nên có hai  ý chính mà tôi muốn đưa ra trong câu trả lời này.

Ý thứ nhất là Phật Học của mình không thể là Phật Học lý thuyết được. Với Phật Học lý thuyết mình có thể là học giả, là lý thuyết gia Phật giáo. Đó không phải là mục đích của người xuất gia. Người cư sĩ cũng có thể làm được. Họ có thể làm một nhà Phật học rất  uyên thâm như giáo sư Demiéville đọc tam tạng kinh điển làu làu như mình đọc tiếng Việt và chú thích Lâm tế lục một cách rất sâu sắc. Nhưng họ chỉ là những nhà trí thức thôi, họ không phải là những hành giả. Còn mình là nhà tu, phải là hành giả chứ không chỉ là học giả. Trong số các vị học giả Phật học ở quê nhà, tôi thấy có nhiều vị nghĩ rằng phải học Phật cho thâm uyên, để trở thành thông bác trong phạm vi Phật học, đó là sự thành công. Tôi chưa cho đó là sự thành công. Vì mục đích của chúng ta không phải đào tạo ra những nhà bác học Phật giáo, những lý thuyết gia Phật học. Mà phải cung cấp cho đời những hành giả, những người có thể chế tác cho đời trí tuệ và từ bi, giúp đời chuyển hóa. Cái học vị tiến sĩ Phật học không phải là mục đích chính của chúng ta. Có càng tốt, không có cũng không sao. Xin quý vị nhớ chuyện đó, không có cái đó cũng không sao. Nhưng mình phải là một hành giả, mình phải là một yogi, mình phải nắm vững phương pháp thực tập hơi thở, thực tập bước chân, điều phục những tâm hành, biết rõ cội nguồn của các tâm hành của mình để chuyển hóa. Khi thành công trong sự chuyển hóa những tâm hành của mình. Mình đạt tới sự thảnh thơi, tự do và an lạc, lúc đó mình mới có khả năng giúp cho người, giúp cho các bạn đồng tu cũng làm được như vậy. Cho nên vấn đề thứ nhất không phải là vấn đề học vị.

Vấn đề thứ hai là chúng ta phải có khả năng độ đời. Muốn có khả năng độ đời phải tu tập, phải có kinh nghiệm tu tập bản thân về phương diện chuyển hóa. Nếu chúng ta đi học những môn không trực tiếp là Phật Học, thì chúng ta đi sâu vào một tầng nữa trong sự sai lầm. Có học vị tiến sĩ Phật Học mà không có sự hành trì đã sai lầm rồi. Còn đi học những cái không phải là Phật Học để không có thì giờ thực tập lại càng sai lầm thêm nữa. Tuy nhiên, không có nghĩa là mình không có quyền học những môn như khoa học, xã hội học hay các nền văn minh. Tôi nhờ học những cái đó mà có khả năng trao truyền một cách dễ dàng hơn cái tinh hoa Phật giáo cho những nhà khoa học, các nhà trí thức. Nhưng cái đó không cần phải bằng cấp. Mình chỉ cần có thì giờ đọc và nghiên cứu một số những tài liệu căn bản, dăm ba cuốn sách đúc kết những khoa học đó là mình đủ có kiến thức để có thể làm được việc này. Không cần phải có học vị và xin nhắc lại không cần phải có bằng cấp. Xin cảm ơn các vị tôn túc, xin cảm ơn đại chúng.

         Kính bạch thiền sư, ngày hôm nay buổi pháp thoại rất đặc biệt. Thiền sư đã dành cho hàng ngàn tăng ni sinh của các trường Phật học tại thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù không gian và không khí hôm nay là dành cho người xuất gia. Nhưng hàng trăm thiện tín đã đến từ mười phương trời và họ đang đầu tư với tư cách là thiện tri thức để giúp cho các vị tu sĩ trẻ trở thành những vị cao tăng giới đức để mang an vui cho cuộc đời. Nãy giờ họ lắng nghe thiền sư chia sẻ về những câu hỏi liên hệ đến giá trị việc đầu tư của họ. Có một số Phật tử họ nói, chúng con xin được đặt câu hỏi, nếu không được đặt câu hỏi chúng con cảm thấy uổng cái cơ hội quý báu như thế này. Cho nên xin thiền sư cho thêm một câu hỏi dành cho cư sĩ. Dạ bây giờ kính mời một vị cư sĩ.

         Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Con kính chúc Giáo hội Phật giáo Việt Nam và kính bạch Thầy cho con nêu một câu hỏi: nếu một vị xuất gia tu hành về thiền viện Trúc Lâm đầy đủ vật chất và một vị xuất gia tu khổ hạnh, ở trong núi hay ở trong cốc Hai phương cách tu của các vị, vị nào đúng, vị nào sai, vật chất và khổ hạnh. A Di Đà Phật.

Điều này trong kinh luật nói rất rõ là đời sống của một người xuất gia phải là một đời sống đơn giản. Người xuất gia không nên sống một đời sống vật chất sang trọng và xa hoa, đó là giới thứ tám của sa di.

Tôi xin đọc: Ý thức được rằng sống trong những điều kiện vật chất sang trọng và xa hoa người xuất gia sẽ khởi tâm ái dục và tự hào. Con nguyện suốt đời chỉ sống một nếp sống giản dị, thiểu dục và tri túc. Con nguyện không ngồi và không nằm trên những chiếc ghế và chiếc giường lộng lẫy, không sử dụng lụa là gấm vóc, xe cộ bóng loáng và nhà cửa cao sang. Đó là giới thứ tám.

 Khi không có hạnh phúc chúng ta thường nghĩ rằng có những điều kiện vật chất đầy đủ hơn thì sẽ có hạnh phúc. Nếu nhìn cho kỹ, chúng ta thấy có những người quá dư dả điều kiện vật chất mà vẫn đau khổ cực kỳ và nhiều người phải tự tử. Thành ra vấn đề không phải ở chỗ có những điều kiện vật chất đầy đủ hay không. Nếu chúng ta không có tình thương, không có khả năng thương, chúng ta không được thương yêu bởi thầy bởi huynh đệ thì chúng ta cũng đau khổ.

Do đó sự thực tập là làm thế nào để có thể chế tác được tình thương ban phát cho người xung quanh, cung cấp cho thầy mình, cung cấp cho huynh đệ của mình, cung cấp cho quần chúng các vị tại gia. Dầu mình sống một cuộc sống đơn giản thiểu dục tri túc thì cái hạnh phúc đó vẫn như thường. Sở dĩ mình đi tìm những tiện nghi vật chất tại vì mình không có hạnh phúc. Có hạnh phúc rồi thì ăn mặc đơn giản cũng hạnh phúc, ngủ trong phòng không có máy điều hòa không khí cũng không sao và ăn không no một trăm phần trăm cũng không sao.

Tôi nhớ lại thời tôi làm sa di, không có bữa nào được ăn no hết, năm bốn mươi hai bốn mươi ba gì đó. Nhưng mà vui vô cùng, sống trong chúng  với các điệu các sư chú, đó là thời đại hoàng kim của đời sống xuất gia tôi. Khi mình ăn no một trăm phần trăm thì nó nặng. Nếu mình tập ăn no chín mươi phần trăm hay chín mươi lăm phần trăm thì mình có sức khỏe gấp đôi. Cho nên trong kinh có nói rất rõ là trong ba cái ăn, mặc, ở phải thiếu thiếu một chút xíu, gọi là tam thường bất túc, không nên tràn đầy một trăm phần trăm trong ba cái đó. Cái ăn, dầu có dư dả để ăn thì cũng chỉ nên ăn chín mươi hay chín mươi lăm phần trăm thôi, còn để chút xíu nó trống trống. Điều đó giúp cho sức khỏe và nuôi dưỡng cái hạnh phúc rất nhiều. Bữa ăn tới sẽ là một hạnh phúc rất lớn. Còn nếu ăn quá no, phải nằm để thở thì rất hại cho sức khỏe. Nó làm tiêu bớt cái hạnh phúc của mình, rất là thực tế.

Ăn đã vậy, thì ở và mặc cũng vậy. Thiếu thiếu một chút mà cái hạnh phúc sẽ rất là lớn. Khi nó đầy quá thì hạnh phúc bắt đầu mất đi. Đó là kinh nghiệm của tôi và kinh nghiệm của một số lớn các vị tôn đức ở đây, tam thường bất túc là nếp sống của người xuất gia, trong ba cái ăn mặc ở không nên bao giờ quá đầy đủ. Đó là bí quyết của hạnh phúc. Xin cảm ơn chư vị tôn đức, các thầy các sư cô và các đạo hữu.

         Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch thiền sư, hôm nay buổi pháp thoại chia sẻ cho toàn thể chư tôn đức tăng ni và tăng ni sinh tại các trường Phật học rất viên mãn.

Các phương pháp với đời sống giới đức, thiết lập ra một phương trời cao rộng và mỗi bước chân đi và sự hành trì của người xuất gia mang lại an lạc cho bản thân và cho cuộc đời. Nhờ những kinh nghiệm thực tập chuyển hóa, thiền sư đã mang lại cho tất cả tăng ni sinh trẻ của chúng con con đường của hành trì, con đường của thương yêu, con đường của dấn thân phục vụ Phật Pháp.

Chúng con tin chắc rằng nhiều Phật tử có mặt hôm nay rất là hạnh phúc khi thấy được rằng việc đầu tư của họ cho những hạt giống xuất gia, cho những hạt giống an vui hạnh phúc với tư cách là những người tu mang lại hoa trái cho hiện tại và cho tương lai. Các giá trị đó chúng con sẽ ứng dụng và thực tập và nguyện cho đời sống này được an vui và hạnh phúc.

Bây giờ kính mời toàn thể quý tăng ni sinh và quý Phật tử hãy đứng dậy chắp tay trang nghiêm trước ngực, xá ba xá để tri ân thiền sư dành cho một buổi pháp thoại rất đặc biệt và tri ân chư tôn đức, ban trị sự thành hội Phật giáo và ban giám hiệu của các trường Phật học đã dành cho một buổi sinh hoạt rất có ý nghĩa của ngày hôm nay.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.