Người thương ta chết, ta có thể làm gì ? (II)
|
10 phút
thực tập có
hướng dẫn của một thầy giáo thọ
:
Chúng ta
ngồi yên với sư ông trong khoảng 10 phút.
Ngồi
yên là không nói chuyện, không suy nghĩ chuyện này chuyện nọ.
Ngồi
cho thật yên, buông thư toàn thân và trở về với hơi thở.
Thở vào tâm
tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
Quí vị dặt
tay xuống, buông thư. Mình có thể đặt tay trên hai đầu gối hoặc
tay trái đặt trên tay phải và buông thư toàn thân. Quí vị có thể
nhắm mắt lại và mình chỉ chú ý tới hơi thở thôi.
Thở vào tâm
tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
Vào tĩnh
lặng
Ra mỉm cười
Thở vào tôi
ý thức toàn thân tôi
Thở ra tôi buông thư toàn thân tôi
Vào ý thức
toàn thân
Ra buông thư toàn thân
Thở vào tôi
ý thức tổ tiên ông bà cha mẹ đang có mặt trong từng tế bào cơ thể
tôi.
Thở ra tôi thấy tôi là sự tiếp nối của họ
Vào ý thức
sự có mặt của tổ tiên ông bà cha mẹ
Ra họ đang có mặt trong tôi
Thở vào
tôi thấy tổ tiên ông bà cha mẹ đang được ngồi yên với tôi trong
phút giây hiện tại
Thở ra tôi cảm thấy hạnh phúc được đoàn tu với họ.
Vào tôi
thấy tổ tiên ông bà cha mẹ đang ngồi yên trong tôi
Ra tôi cảm thấy được đoàn tụ
2- Pháp
thoại Sư ông Nhất Hạnh
Kính
thưa quí thầy, quí sư cô, quí Phật tử cư sĩ,
Hôm nay
là ngày mồng ba tháng tư dương lịch chúng ta đang ở
chùa
Diệu Đế trong ngày thứ hai của Đại Trai đàn Bình đẳng Chẩn tế.
Chúng ta tiếp tục quán chiếu về đề tài “Người thương tôi mất
bây giờ tôi phải đi tìm người ấy ở đâu ?” “Tôi có thể làm
gì để người ấy được nhẹ nhàng chuyển hóa ?”
chỉ thay hình đổi
dạng mà thôi
Hôm qua
chúng ta đã đưa ra ba hình ảnh để quán chiếư. Hình ảnh thứ nhất là
một hạt bắp sinh ra cây bắp con, rồi đến hình ảnh một đám mây biến
thành mưa, cuối cùng là hình ảnh của một cây cam chế tác ra lá
cam, hoa cam và trái cam. Qua hình ảnh đầu chúng ta thấy rằng khi
một hạt bắp nức mầm và làm ra một cây bắp con thì hạt bắp đó không
chết. Nó chỉ thay hình đổi dạng thôi. Ta đi đến kết luận :
cây bắp là sự tiếp nối của hạt bắp. Hạt bắp không chết, hạt bắp
còn đó, hạt bắp chỉ thay hình đổi dạng mà thôi.
Chúng ta
đi đến hình ảnh thứ hai là hình ảnh của đám mây. Ban đầu chúng ta
nghĩ rằng đám mây có sanh và có diệt. Sanh là từ
không mà trở thành có. Diệt là từ
có mà trở thành không. Chúng ta biết rõ
rắng trước khi đám mây xuất hiện dưới hình thức một đám mây thì
đám mây đã là một cái gì đó rồi. Đám mây có một kiếp trước. Kiếp
trước đó có thể là sông hồ, biển cả hay sức nóng mặt trời. Nếu
không có những cái đó thì làm sao mà đám mây xuất hiện được. Đám
mây không phải từ không mà trở thành có. Đám mây
chẳng qua chỉ là một sự tiếp nối. Nghĩ rằng có những cái từ
không mà trở thành có là một tà kiến, một nhận thức,
một tri giác sai lầm. Trong kinh gọi đó là một vọng tưởng. Bản
chất của đám mây là vô sinh. Khi đám mây xuất hiện
trên nền trời, đó chẳng qua là một sự tiếp nối thôi.
Chúng ta
cũng vậy. Chúng ta không phải từ không mà trở thành có. Chúng ta
tiếp nối mẹ cha, ông bà và nghiệp cũ của chúng ta trong quá khứ.
Khi đám mây biến thành mưa hay tuyết thì không phải là đám mây.
Chúng ta cứ nghĩ trong đầu
:
chết là từ có mà trở thành không. Đám mây không thể
nào từ có mà trở thành không được. Đám mây chỉ có thể thay hình
đổi dạng để trở thành tuyết, thành mưa, thành nước đá mà thôi. Vì
vậy bản chất của đám mây là bất diệt. Đám mây không
thể nào chết được, đám mây chỉ thay hình đổi dạng mà thôi. Khi
chúng ta không nhìn thấy đám mây trên trời, chúng ta có thể thấy
đám mây dưới những hình dạng khác. Khi uống trà thì chúng ta thấy
đám mây trong ly trà của mình. Điều khó không khó gì mấy. Khi nhìn
cơ thể ta,
ta có thể thấy nhiều mây trong đó vì ta có mười mấy lít máu và một
phần máu đó đã được làm bằng mây. Mỗi ngày chúng ta uống trà, uống
nước suối, nước lọc, nước cam, những thứ đó cũng là mây. Nói có
sinh có diệt, đứng về phương diện giao ước thì đúng nhưng
đứng về phương diện sự thật tuyệt đối thì không đúng.
Đâu
có lẽ có chiều qua mà không sáng nay
Trong
đao Phật có hai loại sự thật: một loại là sự thật tương đối
hay giao ước ( conventionnel ) và một loại là sự thật tuyệt đối.
Ví dụ vấn dề trên và dưới. Chúng ta phải phân biệt
trên và dưới. đứng về phương diện tương đối thì có trên có dưới
nhưng đứng về phương diện tuyệt đối thì không có trên, không có
dưới. Chúng ta đang ngồi ở đây, ngồi bán già, kiết già hay trên
ghế. Chúng ta tin rằng trên đầu ta là phía trên, dưới gối ngồi,
dưới ghế ngồi của ta là phía dưới. Nhưng những người ngồi bên kia
quả địa cầu thì ngồi chổng ngược lại. Những người bên Pháp hay bên
Mỹ đang ngồi chổng ngược. Cái ta gọi là phía trên đối với họ là
phía dưới và cái ta gọi phía dưới thì lại là phía trên của họ..
Dưới là dưới cái gì và trên là trên cái gì. Không có cái dưới
tuyệt đối và không có cái trên tuyệt đối. Sinh và
diệt cũng vậy. Sinh và diệt là cái thấy còn cạn cợt.
Nhìn qua bề mặt ta thấy đám mây như có sinh có diệt. Nhưng nhìn kỹ
ta thấy đám mây không thể nào từ không mà trở thành có
và từ có mà trở thành không được. Đám mây vô sinh
bất diệt.
Chuyện
này là chuyện không khó khăn lắm. Bản chất của đám mây là vô sinh
bất diệt. Đám mây chỉ có thể trở thành nước, thành mưa, thành
tuyết nhưng đám mây không bao giờ trở thành số không được. Thi sĩ
Vũ Hoàng Chương có một câu trong bài tựa là Bài Thơ Siêu Thoát
:“
Đâu có lẽ có chiều qua mà không sáng nay”.
Đâu có lẽ cái có trở thành cái không và cái không
trở thành cái có được. Người thương của chúng ta cũng
vậy. Chúng ta nghĩ người đó đã chết rồi, người đó không còn nữa,
người đó từ có mà trở thành không. Đó là một tà kiến. Người thương
của ta vẫn còn đó nhưng đã thay hình đổi dạng. Chúng ta phải có
cặp mắt quán chiếu sâu sắc mới nhận thức được sự có mặt của người
thương ta.
Hôm qua
quí vị nhìn lên trời thấy một đám mây rất đẹp và quí vị có cảm
tình với đám mây đó. Nhưng đám mây vô thường, hôm nay nó đã trở
thành mưa. Mình không còn thấy đám mây đó nữa, mình thương tiếc
:
“Đám mây ơi ! tại sao lại chết đi để cho tôi buồn khổ?” Lúc đó đám
mây vẫn còn ở trong mưa, nó nói
:
“Anh ơi !, chị ơi !, em đang còn đây nầy, nhìn em đi.! Em đâu có
chết, em chỉ thay hình đổi dạng. Anh chị nhìn mưa đi, anh chị sẽ
thấy em trong cơn mưa. Em chỉ thay hình đổi dạng.”. Người thương
của mình cũng vậy, đang còn đó, dưới những hình thức khác và rất
gần với mình. Mình phải có con mắt của người biết quán chiếu thì
mình mới tiếp xúc được.
Đức Thế
Tôn, thầy của mình cũng vậy. Trên hình thức thì ngài đã nhập diệt
cách đây trên 2550 năm rồi. Nhưng Đức Thế Tôn nào phải từ có mà
trở thành không đâu. Đức Thế Tôn cũng vô sinh bất diệt như
đám mây vậy. Nếu khéo léo mình có thể tiếp xúc được với Đức Thế
Tôn trong giây phút hiện tại. Những người tu giỏi có thể thể nắm
tay Đức Thế Tôn đi thiền hành, ngồi thiền và ăn cơm với Đức Thế
Tôn. Nó hay như vậy đó ! Phải nhận thức được sự có mặt của Đức Thế
Tôn qua những hình tướng mới. Nếu đi tìm Đức Thế Tôn qua hình dáng
của người con vua Tịnh Phạn 35 hay 45 tuổi ngồi dưới gốc cây bồ đề
hay trên núi Linh Thứu, thì chúng ta không tìm ra được. Đức Thế
Tôn đã thay hình đổi dạng. Đức Thế Tôn hiện giờ đang có mặt khắp
nơi trên thế giới, bên Âu, bên Mỹ, bên Phi, bên Úc. Nơi nào cũng
có những người đang ngồi thiền. Nơi nào cũng có những người đang
thực tập hơi thở có ý thức. Nơi nào cũng có những người đang thực
tập từ bi và trí tuệ. Những người đó là sự tiếp nối của Đức Thế
Tôn. Chính chúng ta cũng là sự tiếp nối của Đức Thế Tôn. Chúng ta
tiếp nối một phần nào đó của Đức Thế Tôn mà thôi. Chúng ta cũng có
một ít hạt giống từ bi trí tuệ của Đức Thế Tôn. Chỉ tiếc là chúng
ta tu tập chưa giỏi nên những hạt giống từ bi trí tuệ đó chưa tưới
tẩm mỗi ngày để cho chúng ta có hạnh phúc nhiều hơn mà thôi.
Có một
lần một vị Phật tử hỏi ngài Đạt Lai Lạt Ma: “Ngài có thiệt là hậu
thân của Đức Quan Thế Âm không ?, ngài có phải là sự tiếp nối của
Đức Quan Thế Âm không ?”. Ngài gật đầu nói
:
“Ít nhất là một phần nào đó.” Một câu trả lời rất hay ! Trong Đức
Đạt Lai Lạt Ma thế nào cũng có từ, có bi, có trí. Nói rằng tôi là
sự tiếp nối của Đức Quan Thế Âm một phần nào đó rất là đúng. Chính
quí vị đang
ngồi trước mặt tôi cũng vậy. Quí vị có chất liệu của Đức Bồ Tát
Quan Thế Âm một phần nào đó. Có một ít từ, một ít bi, một ít trí.
Tại vì không có thì giờ nhiều để tu tập cho nên chất liệu từ, bi,
trí không được chế tác thêm để đem lại hạnh phúc cho mình và cho
những người chung quanh.
Biến
mất không có nghĩa là từ có mà trở thành không
Người tu
thành công là người đã đạt tới được cái vô sinh bất diệt. Vô sinh
bất diệt tức là Niết bàn. Niết bàn không phải nằm ở đâu xa. Niết
bàn có trong đám mây, trong cây bắp cũng như trong bản thân chúng
ta. Bản
chất của chúng ta cũng như của đám mây, của cây bắp, của Đức Thế
Tôn là vô sinh bất diệt. Chỉ khi nào chúng ta có thì giờ ngồi quán
chiếu, chúng ta tiếp xúc được với bản chất vô sinh bất diệt đó của
tự thân thì chúng ta đạt được Niết bàn. Chúng ta thoát ra khỏi sự
sợ hãi, lo âu. Những sợ hãi lo âu đó phát sinh ra từ ý niệm là có
sinh có diệt, có tới có đi, có có có không, có nhiều
có ít.
Hình ảnh
thứ ba tôi đưa ra là hình ảnh của cây cam. Cây cam làm ra lá cam,
hoa cam và trái cam.
Chúng ta
cũng vậy. Chúng ta chế tác ra những tư tưởng, những lời nói và
những hành động gọi là ý nghiệp, khẩu nghiệp và thân nghiệp. Nếu
nghiệp thân-khẩu-ý đẹp thì ta sẽ được tiếp nối đẹp đẽ. Nếu nghiệp
đó xấu thì ta sẽ được tiếp nối xấu xa, xấu ác. Chính chúng ta nắm
quyền tự chủ của chúng ta. Chúng ta đi vào con đường của ngạ quỷ,
súc sinh là do chúng ta. Chúng ta đi vào con đường của Thiên,
Nhân, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật cũng là do chúng ta. Mỗi
ngày phải cố gắng chế tác những lời nói lành, những hành động
lành, có khả năng tha thứ, thương yêu, đùm bọc, hiểu biết thì
chúng ta có thể bảo đảm được cho mình một tương lai đẹp. Khi có
một tương lai đẹp, một hiện tại đẹp thì cái nghiệp tốt này có thể
giúp cho người thương của chúng ta chuyển hóa.
Đức Thế
Tôn thành đạo và ngài đã giúp cho không biết bao nhiêu người đã
chuyển hóa. Sự tu học của chúng ta có khả năng giúp cho những
người thương chuyển hóa dầu trong quá khứ những người đó đã tạo ra
những lỗi lầm trong đời sống hằng ngày của họ.
Người
thương của chúng ta đi đâu?, bây giờ đang ở đâu ? Hôm nay tôi đưa
ra một hình ảnh thứ tư để quí vị quán chiếu, đó là hình ảnh của
một ngọn lửa. Đây một hộp diêm đem qua từ bên Pháp có những que
diêm khá dài. Mình biết ngọn lửa nằm ẩn tàng đâu đó. Nó có mặt đâu
đó nhưng nó chưa hiện ra cho mình thấy thôi.
Mình không thể nói
ngọn lửa không có. Nó có ở trong trạng thái tiềm ẩn của nó. Nó núp
ở đâu ? Chúng ta có thể nói ngọn lửa núp trong hộp diêm. Nhưng
cũng chưa đúng lắm. Nếu nghĩ đến dưỡng khí trong không gian thì
chúng ta biết rằng nếu không có dưỡng khí thì ngọn lửa không thể
nào phát sinh ra được. Ngọn lửa núp trong hộp diêm, ngoài hộp diêm
và nó núp ngay trong ngón tay của mình. Ngón tay mình có thể giúp
một điều kiện dể ngọn lửa phát sinh. Mình có thể hỏi
: “ Này ngọn
lửa !, mày đang đâu ?, nói cho ta biết mày đang núp ở đâu ? tại
sao không biểu hiện ra cho mọi người thấy?”. Mình có thể nghe ngọn
lửa trả lời: “Thầy ơi, các vị tôn túc ơi, các vị đạo hữu ơi ! con
đang có mặt. Khi nào các điều kiện đầy đủ thì con sẽ phát hiện cho
thầy, cho các vị tôn túc, cho các đạo hữu xem.”. Khi nghe như vậy
mình biết rằng ngọn lửa nói đúng. Tất cả những điều kiện để ngọn
lửa phát hiện dã có rồi chỉ còn một điểu kiện cuối là mình quẹt
một cái. Bây giờ mình cung cấp một điều kiện chót.
“Ngọn lửa ơi !, ta biết rằng mày có đó!. Bây giờ mầy biểu hiện đi.”
Nếu điều kiện thuận lợi, que diêm này dài một thước thì ngọn lửa ở
lại với mình lâu hơn. Nhưng nếu que diêm này ngắn thì nó chỉ ở lại
một phút hay ít hơn rồi nó đi. Mình hỏi ngọn lửa một câu hỏi rất
quan trọng. Đây là một chủ đề của thiền quán: “Ngọn lửa ơi ! Mày
đã từ đâu tới và mày đã đi đâu? .Ta vừa thấy mày đó mà mày đi đâu
mất rồì”.
Kiếp
người cũng vậy, Ta xuất hiện như một đứa con, một người anh, một
người chị, một người cha, một người mẹ, một người ông, rồi chúng
ta biến mất. Rồi người thương của chúng ta hỏi:
“Taị
sao mẹ đã đã bỏ con mà đi, bố đã bỏ con mà đi, con đã bỏ mẹ mà đi
?. Con đã đi đâu ?, thà rằng con đừng tới. Con tới con mới sống có
mười mấy tuổi rồi con bỏ mẹ con đi. Như vậy tội cho mẹ lắm !”.
Chúng ta nói những câu than phiền như vậy.
Chúng ta
đã hỏi ngọn lửa
: “Em từ đâu tới ?”. Ngọn lửa sẽ trả lời như thế
này
: “Bạch thầy, bạch các chư vị tôn đức, bạch các đạo hữu cư sĩ !
Con nào có từ đâu tới. Con không phải từ phương đông tới. Con
không phải từ phương nam tới. Con không phải từ phương bắc hay
phương tây tới. Khi mà những điều kiện tụ hội đầy đủ thì con xuất
hiện thôi. Bản chất của con là vô lai. Nghe cho kỹ thì mình
thấy ngọn lửa nói đúng. Ngọn lửa không từ phương đông hay phương
tây, không từ phương nam hay phương bắc tới. Khi điều kiện đầy đủ
thì ngọn lửa xuất hiện. Nó biểu hiện. Chữ biểu hiện là đúng nhất.
Người
thương của mình cũng vậy. Khi điều kiện hội tụ đầy đủ thì người
thương của mình biểu hiện. Nếu thiếu một điều kiện nào đó thì
người thương của mình ngưng sự biểu hiện đó lại để rồi biểu hiện
một cách khác. Sự thật là như vậy. Nếu dám mây không biểu hiện
thành đám mây thì sẽ biệu hiện thành cơn mưa. Nếu không biểu hiện
thành cơn mưa thì nó sẽ biệu hiện thành dòng sông. Nếu không muốn
biệu hiện thành dòng sông thì sẽ biểu hiện thành nước trà. Có
nhiều hình thái biểu hiện lắm. Người thương của mình cũng vậy.
Người thương của mình không phải từ không mà trở thành có và từ có
mà trở thành không được.
Nói từ
không trở thành có là một tà kiến ( wrong view ). Nói từ có trở
thành không cũng là một tà kiến. Hai ý kiến có và không là hai ý
kiến không đi đôi với sự thật cũng như hai ý kiến sinh và diệt.
Trong khi chúng ta ngồi đây thì chúng ta không có Ti Vi, Radio.
Chúng ta không nghe, không thấy những chương trình truyền hình,
truyền thanh. Nhưng trong không gian đầy những tín hiệu của những
buổi phát thanh, những buổi truyền hình. Ta nói không có chương
trình truyền thanh, truyền hình là không đúng. Nếu ta có máy bắt
được những làn sóng điện đó và chuyển hóa những làn sóng đó qua
những tần số mà mắt ta nhìn thấy được, tai ta nghe được thì tự
nhiên ta thấy được những chương trình đó. Vì không thấy được hay
không nghe được mà mình cho là không có thì là không đúng. Ý niệm
của chúng ta về có và không rất là sai lầm.
Bây giờ
chúng ta tiếp tục quán chiếu về ngọn lửa
: ”Ngọn lửa ơi !, em đã
đi đâu rồi ? Tại sao em bỏ ta mà đi ?”. Ngọn lửa sẽ trả lời rằng
:
“Thầy ơi !, chư tôn đức ơi !, chư Phật tử cư sĩ ơi !, em nào có
đi đâu. Em không đi về phương nam, phương bắc, phương tây. Khi nào
điều kiện không đầy đủ thì em ẩn thôi. Em chấm dứt sự biểu hiện
của em để rồi em sẽ biểu hiện trở lại khi có điều kiện đầy đủ.”.
Ngọn lửa nói đúng.
Người
thương của mình cũng vậy. Vì một cơn bệnh hay một tai nạn người
thương của mình biến mất không con biểu hiện. Biến mất không có
nghĩa là từ có mà trở thành không. Tại vì người thương của
mình cũng có ba nghiệp
: ý nghiệp, khẩu nghiệp và thân nghiệp. Nó
tiếp nối cho người đó. Người đó là kết quả của ba nghiệp. Nghiệp
đó là nền tảng cho những sự biểu hiện khác nhau. Cũng như nước tên
khoa học là H2O . H2O có thể biểu hiện dưới hình thức lỏng hay
hình thức đặc. Nó có thể biệu hiện bằng hình thức nhẹ như mây và
sương. Nếu H2O là bản chất của thì bản chất của chúng ta là ba
nghiệp, là ý nghiệp, thân nghiệp và khẩu nghiệp. Khi thì nó biểu
hiện ra cái này, khi thì nó biểu hiện ra cái kia. Chúng ta biết
rất rõ ràng người thương của chúng ta không phải từ không mà trở
thành có và không phải từ có mà trở thành không.
cầu nguyện, sám hối để chuyển nghiệp
Hôm qua
chúng ta đã nghe nói rằng, mỗi khi chúng ta phát khởi một tâm niệm
lành, một ý nghĩ lành, một ý nghĩ đi đôi với sự chấp nhận, sự tha
thứ, sự thương yêu, sự đùm bọc thì tư tưởng đó có tác dụng rất tốt
trên sức khỏe của mình. Trong tương lai của mình mỗi khi ta nói
được một lời nói hòa nhã dễ thương, có tác dụng khuyến khích, an
ủi, có tác dụng thương yêu, chấp nhận và tha thứ thì lời nói đó có
ảnh hưởng tốt trên sức khỏe của chúng ta và nó bảo lãnh cho chúng
ta một sự tiếp nối đẹp đẽ.
Mỗi khi
ta làm một hành động nhân từ, biểu lộ được cái hiểu cái thương, sự
chấp nhận và sự tha thứ thì hành động đó gây cho ta rất nhiều niềm
vui và gây cho những người khác chung quanh ta rất nhiều niềm vui,
và chúng ta cũng được tiếp nối một cách đẹp đẽ. Cho nên chúng ta
trong mỗi ngày phải nên đầu tư vào tương lai bằng ba nghiệp của
mình, chế tác những tư tưởng tốt, chế tác những lời nói đẹp và chế
tác những hành động lành.
Ở trong
đạo Phật có ý niệm biệt nghiệp và cộng nghiệp,
tức là nghiệp chung và nghiệp riêng. Có những nghiệp chung và có
những nghiệp riêng. Ví dụ, chúng ta là những người muốn tu tập.
Chúng ta tới với nhau do ý hướng muốn tu tập. Chúng ta làm ra một
thời khóa tu tập. Chúng ta đem ra áp dụng những điều chúng ta học
hỏi được vào sự tu tập hằng ngày, hàng tuần và hàng tháng thì
chúng ta tạo ra niềm vui của sự tu tập. Mỗi lần chúng ta tới với
nhau chúng ta tưới tẩm hạt giống của thương yêu, của hiểu biết,
của tuệ giác, của từ bi. Tưới tẩm những hạt giống tốt như vậy thì
những hạt giống đó luôn luôn sẽ nức mầm và đem lại những hoa trái
hiểu biết và thương yêu.
Tu tập
với nhau như vậy chúng ta tạo ra một cộng nghiệp tốt đẹp,
người nào cũng được hưởng. Nếu một người ra tổ chức không được
nhưng hai ba chục người tới với nhau tổ chức thì được, vậy nên
hành động đó gọi là hành động chung, gọi là cộng nghiệp. Và khi
chúng ta làm cái gì mà làm một mình thì cái đó gọi là biệt nghiệp.
Và khi những biệt nghiệp tới với nhau, cộng tác với nhau thì gọi
là cộng nghiệp.
Trong
khi tới với nhau mà chúng ta chỉ học kinh, chỉ ngồi thiền, chúng
ta chỉ ăn chay, chỉ nói chuyện đaọ đức thì có những người họ đi
tìm nhau để nói những chuyện đánh bài, đánh bạc, hoặc là sử dụng
ma túy hay là đi tìm sắc dục, mãi dâm. Có những người họ tới với
nhau để làm những chuyện đó và họ cũng có những cộng nghiệp của
họ. Nhưng mà mình không có cộng nghiệp chung với họ
tại vì mình muốn chuyện khác cho nên mình mới tổ chức cái đoàn thể
tu học. Vậy thì cộng nghiệp có nghĩa là chúng ta ảnh hưởng tới
nhau, chúng ta nâng đỡ nhau. Khi chúng ta chơi với những bạn xấu
thì cái cộng nghiệp ấy đưa chúng ta đi về hướng xấu. Khi chúng
ta chơi với những người bạn tốt thì cái cộng nghiệp đó đưa chúng
ta đi về hướng tốt. Thế nên trong cuộc đời mình phải có những
người gọi là thiện tri thức và mình chỉ nên chơi với thiện
tri thức thôi để cái cộng nghiệp mình tạo ra là một thứ cộng
nghiệp tốt đẹp đưa mình về hướng chân, thiện và
mỹ.
Khi
chúng ta cầu nghuyện cho một người thương đã khuất thì chúng ta có
thể cầu nguyện với tư cách cá nhân của mình. Nhưng khi chúng ta
tới với nhau hàng ngàn người, hàng chục ngàn người để cùng cần
nguyện thì cái lực của cộng nghiệp này rất là mạnh và khả năng
chuyển hóa của nó rất là lớn lao. Mình mời một thầy về tụng kinh,
thuyết pháp, bố thí thì cố nhiên là có kết quả tốt rồi. Nhưng nếu
mà có hai chục thầy giới luật tinh nghiêm, đạo đức cao viễn mà
góp phần vào hộ niệm thì các sức chú nguyện của hai chục thầy lớn
gấp trăm lần, gấp ngàn lần. Đó là sức mạnh của cộng nghiệp tốt đẹp
và sự siêu thoát trở thành ra dễ dàng gấp mười lần, gấp trăm lần.
Cho nên khi nói tới nghiệp chúng ta phải nghĩ tới nghiệp riêng và
nghiệp chung.
Vậy cho
nên khi chúng ta tổ chức trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan chúng
ta muốn thỉnh vị tôn đức nào có giới hạnh nghiêm minh, có lòng từ
bi rất lớn. Chúng ta mời những vị đạo hữu nào có tình thương lớn,
có tâm rất là tốt, muốn tổ chức, muốn hộ niệm để làm cho nhẹ nhàng
cái nghiệp của đất nước, cái nghiệp của dân tộc và hộ niệm cho
những đồng bào đã qua đời trong những năm chiến tranh. Khi chúng
ta qui tụ những người có giới hạnh cao viễn như vậy, những người
xuất gia và những cư sĩ như vậy thì cái nghiệp cộng đồng, cái sức
hộ niệm sẽ rất là lớn nhờ thế chúng ta có thể chuyển đổi được cái
nghiệp của những người đã có những lỡ lầm trong quá khứ.
Ta,
chính ta trong quá khứ đã có những lầm lỡ, đã hành động trên cơ
bản của sự đam mê, sự hờn giận và sự ngu si. Bây giờ nhờ sức chú
nguyện hùng vĩ đó mà ta chuyển được nghiệp. Ta biết rằng nếu chúng
ta có được sức chú nguyện mầu nhiệm của các vị tôn đức giới hạnh
nghiệm minh và của các vị cư sĩ đã thọ trì năm giới, bồ tát giới
hay là giới thập thiện sống đúng theo chánh pháp, thì sự có mặt
của những vị đó có thể chuyển hóa được những lầm lỡ của chúng ta,
những lầm lỡ của những người thương của chúng ta đã qua đời. Thế
nên cái chuyển hóa là chuyện có thể có thật.
Trong
kinh có nói rằng khi có một vị thánh nhân xuất hiện ở đâu thì nước
ở trong vùng đó trong hơn và cỏ ở vùng đó xanh hơn. Tôi tin rằng
chuyện đó có thật tại vì tất cả đều do tâm của mình mà ra.
Trai đàn
chẩn tế cũng vậy. Sau ba ngày Trai đàn Chẩn tế ở Chùa Vĩnh Nghiêm
mưa trái mùa đã rơi xuống ba trận rất là lớn đem lại sự mát mẽ cho
rất nhiều người như thể Trai đàn Chẩn tế đã làm êm dịu, đã đem lại
sự chuyển hóa lớn lao không chỉ ở trong lòng người, đối với người
sống cũng như với người đã chết, mà cả đất trời cũng cảm động.
Ngày hôm qua chúng ta đã hết lòng cầu nguyện trong ngày đầu của
Trai đàn Chẩn tế ở Quốc tự Diệu Đế và chúng ta đã có một trận mưa.
Thành ra sức chú nguyện của chư tăng và của các vị cư sĩ hành
trì giới bồ tát, ngũ giới và giới thập thiện rất là quan trọng
cho việc chuyển nghiệp.
Khi
chúng ta quyết tâm không lập lại những lỡ lầm cũ, khi chúng ta
quyết tâm từ nay về sau, đứng về phương diện ý nghiệp chỉ chế tác
ra những tư tưởng lành, đứng về phương diện khẩu nghiệp chỉ nói
lên những lời nói thương yêu, chấp nhận và tha thứ, đứng về phương
diện thân nghiệp không sát sanh mà chỉ bảo hộ sự sống thì lúc đó
cái cộng nghiệp của ý, cộng nghiệp của khẩu và cộng nghiệp của
thân sẽ có sức chuyển hóa vô song.
Tôi xin
mời quí vị ôn lại những điều tôi vừa nói :
Bản
chất của ngọn lửa là không đến và không đi. Bản chất người thương
của chúng ta cũng vậy, cũng không đến và không đi. Vô khứ vô
lai, vô sinh bất diệt. Khi nào có những nhân duyện, những điều
kiện thuận tiện thì những người thương của mình sẽ được biểu hiện trở lại
trong những hình thái tốt đẹp, nhẹ nhàng, và đó là điều chúng ta
có thể tin tưởng được.
Chính
chúng ta cũng vậy. Khi chúng ta gặp được Phật, gặp được Pháp, gặp
được Tăng, gặp được những điều kiện để tu tập chuyển hóa thì chúng
ta thấy thân tâm nhẹ nhàng, chúng ta tháo gỡ được những khó khăn,
những bức xúc, những buồn khổ và cuộc sống của chúng ta mang lại
nhiều hạnh phúc. Ở đây cũng vậy, khi mà chúng ta không cần phải đi
tìm cái hạnh phúc ở một phương trời nào khác hay ở tương lai là
tại vì chính ba nghiệp của chúng ta làm biểu hiện ra hạnh phúc đó
ngay trong giờ phút hiện tại.
Trong
lòng chúng ta có những nỗi khổ niềm đau, có những oan ức. Những
người
thương của chúng ta chết đi có thể trong lòng cũng mang những nỗi
khổ niềm đau, những sự oan ức. Chúng ta phải tìm cách, chúng ta
phải có cơ hội để công nhận, để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau
đó. Bởi vì chúng ta không thể đè nén nỗi khổ niềm đau đó và trao
truyền lại cho những thế hệ tương lai. Có khi chúng ta nói và
chúng ta làm một cách bạo động, chúng ta gây khổ đau cho những
thương nhất ở trong gia đình mà chúng ta không hiểu tại sao. „Tại
sao mình nói một câu ác độc như vậy với người mình thương ?, tại
sao mình làm một điều có vẻ ác độc, tàn nhẫn như vậy với người
mình thương ?„ Là tại vì trong đáy lòng mình có những nỗi khổ
niềm đau rất lớn, nỗi oan rất lớn mà lâu nay mình chỉ đè nó xuống
mà thôi. Thế nên nó âm thầm chi phối ý nghiệp, khẩu nghiệp và thân
nghiệp của mình và mình phát ra những tư tưởng trừng phạt, bực
tức, giận hờn. Mình nói ra những câu nói mất tình, mất nghĩa và
mình làm những cử chỉ thô bạo, phủ phàng đối với những người
thương của mình mà mình rất ngạc nhiên tại sao mình lại nghĩ như
vậy, tại sao mình đã nói, mình đã làm như vậy ?. Là tại vì có
những năng lượng tiềm ẩn trong chiều sâu của tâm thức, những nỗi
khổ niềm đau còn đó, nó bị đè nén và nó đêm ngày thúc đẩy mình
nghĩ, nói và làm như vậy.
Cho nên
phép thực tập của trai đàn chẩn tế cũng giống như phép thực tập
của tâm lý trị liệu là phải cho phép những đau khổ đó, những buồn
phiền đó, những oan ức đó được đi lên để mình công nhận rằng : „À
!, trong lòng mình có những nỗi khổ niềm đau“, và người thương
của mình phải công nhận là mình có những nỗi khổ niềm đau đó. Khi
chúng nhận nhận diện những nỗi khổ niềm đau rồi, công nhận là
những nổi khổ niềm đau có thật rồi, chúng ta mới dùng tới biện
pháp như là cầu nguyện, tụng kinh, bái sám, phóng sanh, ái ngữ,
lợi hành để chúng ta chuyển hóa những cái nghiệp đó, trong đó có
phương pháp sám hối và phát nguyện. Trong đại lễ trai đàn chẩn tế
chúng ta làm công việc đó. Chúng ta làm cho chúng ta: những người
sống và chúng ta làm cho thân nhân của chúng ta : những người chết
và cho tất cả những đồng bào khác. Thành ra trong ba ngày của Đại
Trai đàn Chẩn tế chúng ta ngồi thiền, chúng ta đi thiền, chúng ta
tụng kinh, chúng ta ta bái sám, chúng ta phóng sinh. Chúng ta làm
đủ mọi cái để có thể chuyển được cái nghiệp của mình. Khi chúng ta
nhẹ nhàng rồi thì chúng ta có thể nghĩ những điều rất là thánh
thiện, nói những lời rất là êm dịu, tha thứ và làm những điều rất
có tính cách nhân từ và bảo hộ. Nếu không như thế chúng ta sẽ trao
truyền những nỗi khổ niềm đau cất chứa trong đáy lòng cho những
thế hệ tương lai. Sau này họ không hiểu tại sao tự nhiên mà họ bạo
động, độc ác với con, với vợ, với chồng của họ. Họ không biết rằng
chúng ta đã trao truyền cho họ những nỗi khổ niềm đau mà chúng ta
chưa chuyển hóa được. Cho nên tổ chức trai đàn chẩn tế là một
trong những phương pháp để chuyển hóa nghiệp cũ, chuyển hóa những
nỗi khổ niềm đau đang có. Đứng về phương diện sử học cũng như đứng
về phương diện tâm lý học trị liệu thì đây là một phương pháp thực
tập rất là khoa học. Chúng ta chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau
của chính chúng ta: những người sống và chúng ta tới để cùng thực
tập giúp cho những người thương của chúng ta đã qua đời cũng được
chuyển hóa, trong đó có những đồng bào của chúng ta đã chết trong
thời gian của cuộc chiến.
Lời khấn
nguyện quí vị đã được nghe tối hôm qua bây giờ tôi đọc lại. Đây là
lời của chúng ta, những người sống, nói với những hương linh
đang có mặt ở tại đây
:
Kính
thưa liệt vị hương linh
Quý
vị là cha chúng tôi, là chồng chúng tôi, là anh trai chúng tôi, là
em trai chúng tôi, là con trai chúng tôi. Quý vị cũng là mẹ chúng
tôi, là vợ chúng tôi, là chị gái chúng tôi, là em gái chúng tôi,
là con gái chúng tôi.
Trong
cơn binh lửa, trong cảnh tao loạn, quý vị đã bỏ lại hình hài quý
báu của quý vị mà đi. Chúng tôi đã đánh mất quý vị. Quý vị hoặc đã
chiến đấu dũng cảm cho đất nước và đã chết hào hùng không hề
thương tiếc thân mạng. Chúng tôi rất hãnh diện về quý vị. Nhưng
quý vị có thể cũng đã bỏ mình trong những hoàn cảnh cực kỳ bi
thương. Nỗi oan khổ không thể nào nói lên được, trong rừng sâu,
trên biển cả, nơi chốn tù đày, chết vì bom đạn hoặc vì kiệt
sức, hoặc vì bị bức bách, hãm hiếp rồi bị sát hại mà không có
phương tiện chống cự lại.
Có
biết bao nhiêu quý vị đã ngã quỵ mà nắm xương tàn không biết đang
được chôn vùi ở đâu. Những tai ương mà đất nước và dân tộc của
chúng ta đã phải gánh chịu trong bao nhiêu năm tranh đấu cho độc
lập và cho tự do thì chính quý vị là người đã phải gánh chịu nhiều
nhất.
Chúng
tôi, những người thân thuộc và đồng bào của quý vị, hôm nay tới
đây thắp hương tưởng niệm quý vị hoặc thiết lập bàn thờ cho quý vị
trước hiên nhà. Trong chúng tôi cũng có những người vẫn còn tiếp
tục gánh chịu oan khổ. Nhưng may thay cơn ác mộng đã qua rồi, đất
nước đã được hòa bình, dân tộc đang có cơ hội kiến thiết trở lại.
Nhờ phúc đức tổ tiên chúng tôi hôm nay mới có cơ hội đến với nhau
chính thức, chắp tay nguyện cầu Tam Bảo nhờ pháp lực gia trì thỉnh
cầu tất cả liệt vị trở về đoàn tụ, cùng nhau cầu nguyện để giải
trừ nghiệp cũ, mở ra một vận hội mới, nhìn nhận nhau, ôm lấy nhau,
thương lấy nhau như đồng bào ruột thịt, không còn phân biệt Bắc
Nam, gái trai, già trẻ, chủng tộc, tôn giáo, đảng phái và ý thức
hệ.
Tất
cả chúng ta đều là đồng bào của nhau, gặp vận nước rủi ro trên
đường tranh đấu cho độc lập, cho tự do, bị dồn vào thế phải đối
lập nhau, vì tự vệ mà phải chống đối nhau. Nhưng phúc đức tổ tiên
để lại vẫn còn cho nên hôm nay tất cả chúng ta mới được về lại với
nhau để nhìn nhận nhau như con một nhà, để cùng hứa với nhau là sẽ
học cho thuộc bài, cái bài học đau thương trong quá khứ.
Nguyện từ nay về sau không để cho đất nước bị chia cắt một lần nào
nữa.
Nguyện từ nay về sau khi có khó khăn nội bộ sẽ không nhờ đến bất
cứ một thế lực ngoại bang nào can thiệp nữa.
Nguyện từ nay về sau sẽ không khởi xướng một cuộc chiến tranh ý
thức hệ nào nữa.
Nguyện từ nay về sau sẽ không sử dụng vũ khí bên ngoài để tranh
đấu với nhau nữa.
Nguyện từ nay về sau sẽ nổ lực xây dựng một xã hội thực sự dân chủ
để có thể giải quyết tất cả mọi bất đồng bằng những phương thức
hòa bình dân chủ mà không sử dụng đến những phương tiện tranh đấu
bạo động giữa người đồng bào với nhau.
Lạy
chư vị tổ tiên huyết thống và chư vị tổ tiên tâm linh chứng minh.
Trước mặt quý ngài chúng con xin kính cẩn phát nguyện như thế và
chúng con biết rằng một phen đã phát nguyện được như thế thì mọi
oan ức sẽ được hoàn toàn giải tỏa và những vết thương hằn sâu
trong lòng tất cả mọi chúng con sẽ được bắt đầu được chữa lành.
Hôm
nay Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan được thành lập. Mọi
nhà đều có thiết bàn thờ cầu nguyện.
Chúng
con ngưỡng nguyện ơn trên Tam Bảo độ thoát cho tất cả mọi hương
linh để tất cả được nương vào pháp lực vô song mà chuyển hóa siêu
thăng.
Kính
thưa quí liệt vị hương linh, chúng
tôi và các con cháu nguyện sẽ lên đường để tiếp tục chí hướng của
liệt vị hương linh.
Chúng
tôi nguyện mang quý vị trong trái tim để đi về hướng tình huynh đệ
và nghĩa đồng bào và luôn luôn nhớ rằng bầu và bí luôn luôn có thể
leo chung một giàn, gà cùng một mẹ không nên
bôi mặt đá nhau, và tuệ giác ấy của tổ tiên sẽ soi đường chỉ lối
cho con cháu chúng ta bây giờ và mãi mãi.
Xin đại
chúng chắp tay niệm Đức Bổn Sư
: Nam Mô Bụt Thích Ca Mâu Ni./.