Nhận
diện
và
chuyển hóa khổ đau
|
Thực tập 19 hơi thở
chính niệm:
Thở vào tôi để
ý tới sống lưng của tôi, sống lưng của tôi thẳng, tôi ngồi thẳng
như Đức Thế Tôn thường ngồi
Thở ra
tôi mỉm cười cho thơ dãn các cơ bắp trên mặt
Thở vào
tôi ý thức về toàn thân
Thở ra
tôi buông bỏ sự căng thẳng trong toàn thân
Thở vào
tôi ngồi yên như Đức Thế Tôn
Thở ra
tôi mỉm cười nhẹ nhàng như Đức Thế Tôn
Thở vào
tôi để ý tới hơi thở vào
Thở ra
tôi để ý tới hơi thở ra.
Thở vào
tôi theo dõi hơi thở vào từ đầu tới cuối
Thở ra
tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu tới cuối
Theo dõi
hơi thở vào
Theo dõi
hơi thở ra
Thở vào
tôi hơi thở vào của tôi đã sâu hơn
Thở ra
tôi thấy hơi thở ra của tôi đã chậm hơn
Thở vào
sâu
Thở ra
chậm
Thở vào
tôi bắt đầu thấy khỏe
Thở ra
tôi bắt đầu thấy nhẹ
Thở vào
khỏe
Thở ra
nhẹ
Thở vào
tôi thấy sự có mặt của cha tôi trong từng tế bào cơ thể tôi
Thở ra
tôi mỉm cười với cha tôi trong từng tế bào cơ thể tôi
Thấy
được sự có mặt của cha trong từng tế bào
Mỉm cười
với cha trong từng tế bào
Thở vào
tôi mời cha tôi trong tôi cùng thở vào một lần với tôi
Thở ra
tôi mời cha tôi trong tôi cùng thở ra một lần với tôi
Hai cha con
cùng thở vào
Hai cha con
cùng thở ra
Thở vào con
thấy khỏe quá, ba có thấy khỏe như con không
Thở ra con thấy
nhẹ quá, ba có thấy nhẹ như con không
Thở vào tôi
thấy sự có mặt của mẹ tôi trong từng tế bào cơ thể tôi
Thở ra tôi mỉm
cười với mẹ tôi trong từng tế bào cơ thể
Thấy mẹ trong
từng tế bào
Cười với mẹ
trong từng tế bào
Thở vào tôi mời
mẹ tôi cùng thở vào một lần với tôi, hai mẹ con cùng thở vào
Thở ra tôi mời
mẹ tôi cùng thở ra một lần với tôi, hai mẹ con cùng thở ra
Thở vào con
thấy khỏe quá, má có thấy khỏe như con không
Thở ra con thấy
nhẹ quá, má có thấy nhẹ như con không
Nhận
diện và ôm ấp để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau
Kính thưa các thầy, các sư cô, các chư vị tôn đức, các Phật tử cư
sĩ. Hôm nay là ngày 8 tháng tư năm 2007 dương lịch, chúng ta đang
ở tại Chùa Hương Sơn trong khóa tu. Ngày hôm nay chúng ta nghe bài
pháp thoại thứ ba của khóa tu.
Hôm nay chúng ta được sư cô Chân Không hướng dẫn thiền buông thư
và thiền lạy. Thiền buông thư là một pháp môn để giúp chúng ta
buông bỏ những sự căng thẳng làm giảm thiểu những sự đau nhức
trong cơ thể. Thiền lạy để giúp chúng ta buông bỏ những lo lắng,
ưu sầu, phiền muộn. Chúng ta ký thác cho đất để nhờ chuyển hóa
những lo lắng, ưu sầu, phiền muộn ấy. Hy vọng sau khóa tu quí vị
có thể tiếp tục sự thực tập đó tại nhà hay tại chùa của mình.
Trong đời sống hiện đại người nào cũng gấp gáp, cũng có quá nhiều
công việc. Người nào cũng có nhiều căng thẳng và đau nhức. Một
ngày kia chúng ta sẽ bị bệnh, bệnh thân và có khi bệnh tâm nữa.
Mỗi ngày thực tập buông thư là chuyện rất quan trọng. Trong Kinh
Quán Niệm Hơi Thở Đức Thế Tôn có dạy những bài tập để buông thư,
để làm lắng dịu thân mình và làm lắng dịu những nỗi khổ niềm đau
trong tâm mình. Tôi đã phiên dịch Kinh Quán Niệm Hơi Thở bằng
tiếng Pali sang tiếng Việt. Tôi cũng phiên dịch Kinh Quán Niệm Hơi
Thở từ chữ Hán ra tiếng Việt và chú giải đưa ra những phương pháp
thực tập cụ thể để giúp chúng ta thành công trong sự tu tập. Nếu
quí vị thấy buổi thiền buông thư ngày hôm qua đem lại lợi lạc cho
thân và tâm, nếu quí vị đã hưởng được những giây phút thư dãn thì
quí vị có thể thỉnh cuốn băng đó đem về nhà. Mỗi ngày mình để ra
15 hay 20 phút, mở dĩa đó, cuốn băng đó để cả gia đình thực tập
theo. Nếu mỗi ngày mà ta thực tập buông thư được một lần thì đỡ
lắm.
Hôm nay chúng ta đi sang lãnh vực của cảm thọ, những đau nhức và
cảm thọ của tâm. Chúng ta có những nỗi sợ hãi, lo lắng, buồn đau,
giận hờn. Vì có những năng lượng như vậy nên ta không có hạnh
phúc. Theo phương pháp của Đức Thế Tôn dạy thì mình đừng đè nén
những nỗi khổ niềm đau của mình xuống. Trái lại mình phải tập
nhận diện và ôm ấp những nỗi khổ niềm đau đó một cách nhẹ
nhàng cũng như mình ủ phân rác. Phân rác nếu biết cách ủ thì nó sẽ
trở thành ra phân xanh và mình sẽ đem nuôi rau, hoa của mình được.
Những buồn khổ, lo lắng, u sầu của mình, nếu mình biết cách
ôm ấp,
nhận diện thì nó cũng có thể chuyển hóa. Nếu mình biết cách thì nó
có thể nuôi dưõng được những bông hoa của tình thương, của tha thứ
bao dung, của hạnh phúc. Phương pháp không phải là đè nén cái
giận, đè nén cái lo sợ xuống. Thường thường mỗi khi chúng ta có sự
lo lắng, bồn chồn thì chúng ta tìm cách ém nó xuống. Chúng ta vặn
nhạc
lên nghe, lấy tiểu thuyết đọc, mở
ti
vi ra coi và chúng ta
dồn cái bồn chồn lo lắng sợ hãi kia xuống đáy lòng, phủ một lớp
quên lãng lên trên.
Nhưng ban đêm khi ngủ chúng ta đâu có coi
ti
vi, đâu có đọc sách,
nghe nhạc. Những nỗi khổ niềm đau, sự bồn chồn lo lắng đó thức dậy
vào tạo ra những giấc mộng khó chịu. Chúng ta có thể la hét, khóc
lóc, buồn thương trong khi chúng ta ngủ. Tức nước thì vỡ bờ.
Phương pháp dồn nén không đúng với lời Thế Tôn dạy. Phương pháp
của Đức Thế Tôn dạy là ta phải nhận diện nỗi khổ niềm đau đó và ôm
lấy chúng nó, ôm lấy một cách nhẹ nhàng, trìu mến, thân ái, giống
như chúng ta ôm lấy một đứa bé đang đau khổ. Giả dụ có một con mèo
bị thương mà ta ôm lấy nó thì nó sẽ cảm thấy bớt khổ. Em bé đang
sốt, đang đau nhức mà ta ôm lấy em bé một cách nhẹ nhàng thì năng
lượng nhẹ nhàng, thương yêu đó sẽ đi vô em bé và em sẽ thấy bớt
khổ.
Khi chúng ta có nỗi khổ niềm đau, sự giận hờn buồn bực, thì chúng
ta phải chế tác một năng lượng, năng lượng này có mục đích là nhận
diện và ôm ấp và làm lắng dịu nỗi khổ niềm đau đó. Năng lượng này
được chế tác bằng hơi thở có ý thức, bằng bước chân có ý thức. Mỗi
khi có sự bực bội, giận hờn hay buồn tủi trào lên thì chúng ta
đừng đè nó xuống. Chúng ta lập tức trở về với hơi thở. Chúng ta
thở, đi thiền hành và nói rằng: “ Có một năng lượng bực bội trong
tôi và tôi đang ôm ấp nhận diện, tôi đang chăm sóc cho sự bực bội
đó.”.
Tôi đưa lên nắm tay trái, ví dụ nắm tay này là cơn giận, nỗi buồn
của tôi. Khi cơn giận, nỗi buồn bắt đầu trào lên thì mình là người
tu, mình phải lập tức làm một cái gì đó, nếu không cơn giận nỗi
buồn đó sẽ trấn ngự, sẽ tác yêu tác quái, sẽ khiến cho mình nói và
làm những điều gây tan vỡ. Rất là nguy hiểm !. Khi cơn bực bội,
giận hờn trồi lên, xuất hiện thì mình phải làm một cái gì đó. Cái
gì đó là trở về với hơi thở, trở về với bước chân để chế tác một
năng lượng thứ hai gọi là năng lượng chánh niệm.
Chánh
niệm là ánh sáng để nhận diện
Năng lượng chánh niệm được tượng trưng bằng bàn tay phải của tôi.
Năng lượng thứ hai nhận diện : “À, thì ra cái giận đó hả !. Ta
biết rồi, ngươi vừa mới xuất hiện đó phải không. Đừng có lo, ta sẽ
chăm sóc ngươi.” Đó là chánh niệm, chánh niệm trong
khi thở, trong những bước chân nếu nhận diện được là có cái giận
đó. Đó là sự nhận diện. Khi ăn cơm ta biết ta ăn cơm. Cái biết đó
là chánh niệm. Có khi ta ăn cơm mà ta không biết là ta đang ăn.
Khi chải răng thì ta biết là ta chải răng. Có nhiều khi chải răng
mà ta không biết là ta đang chải răng. Cái tâm của chúng ta ở chổ
khác. Nó đang lo lắng, buồn khổ. Ta chải răng như một cái máy, ta
không biết ta đang chải răng. Ta ăn cơm nhu một cái máy, ta không
biết là ta đang ăn cơm. Chúng ta bước đi như những cái máy, chúng
ta không ý thức được những bước chân của chúng ta. Đó là thất
niệm. Thất niệm là sự quên lãng. Mình làm, mình nói như cái máy,
không có ý thức, cái tâm của mình không có ở đó.
Ngược lại, khi mình thật sự có ở đó : mình ăn mình biết mình ăn,
chải răng biết mình đang chải răng, bước một bước biết rằng mình
bước một bước, uống một ly trà biết rằng mình đang uống một ly
trà, cái tâm của mình có ở đó. Tâm mình biết cái gì đang xẩy ra,
đó là chánh niệm, ngược lại với thất niệm. Thất niệm là đi, đứng,
nằm, ngồi, hành xử như một cái máy, không biết minh đang đi, đang
đứng, đang nằm, đang ngồi, đang hành xử.
Người đời không tu, sống trong thất niệm, còn người tu sống trong
chánh niệm. Chánh niệm là đi biết mình đang đi, ngồi biết mình
đang ngồi, nói biết mình đang nói cái gì. Cái khác nhau căn bản
giữa người tu và người không tu là ở chổ đó. Khi thở vào mình biết
rằng đây là hơi thở vào, đó là chánh niệm về hơi thở. Khi thở ra
mình biết đây là hơi thở ra, đó là chánh niệm về hơi thở. Khi một
người có chánh niệm thì mình biết họ là người tu. Khi một người
sống như cái máy thì mình biết rằng họ là một người không tu. Sự
khác biệt giữa người tu và người không tu không phải là cái áo
nhật bình, cái áo tràng, mà là có chánh niệm hay không có chánh
niệm, sống như cái máy hay sống như một con người tỉnh thức. Sống
có chánh niệm là sống như một con người tỉnh thức.
Đức Thế Tôn là một người sống trong chánh niệm 24 giờ một ngày.
Khi đi thì ngài biết là ngài đi, khi ngồi thì biết là ngài ngồi.
Ngài luôn có mặt đó và ngài biết tất cả cái gì đang xẩy ra từng
giờ, từng phút, ngài có chánh niệm thường xuyên. Còn chúng ta, lâu
lâu chúng ta mới biết được. Hầu hết các giây phút trong ngày chúng
ta sống trong thất niệm
:
Thất
niệm là bóng đêm
Chánh niệm là ánh sáng
Đưa tỉnh thức trở về
Cho thế gian tỏ rạng
Đó
là bài kệ khi mình đốt lên một cây đèn sáp, đèn cầy để cúng dường
ĐứcThế Tôn. Cầm một cây đèn cầy đốt lên thì mình đọc câu kệ đó.
Thất
niệm là bóng đêm
Chánh niệm là ánh sáng
Đưa tỉnh thức trở về
Cho thế gian tỏ rạng
Bài kệ đó cho biết rằng những người không tu thì sống trong bóng
đêm ( thất niệm là bóng đêm ), làm như cái máy, sống như cái máy,
làm mà không biết mình làm gì. Chánh niệm là ánh sáng. Khi
thở, mình biết mình đang thở, khi đi mình biết mình đang đi, khi
nói mình biết mình đang nói. Đó là chánh niệm. Khi cái giận trào
lên mình biết rằng cái giận trào lên. Đó là chánh niệm. Tuy có cái
giận, nhưng cũng có chánh niệm. Nó nhận diện : “À, đã có cái giận
rồi, mình bắt đầu giận rồi,
bắt đầu bực rồi. “. Mình dùng chánh
niệm nhận diện cái giận rồi ôm ấp nó một cách rất nhẹ nhàng, ưu
ái. Lúc đó có 2 năng lượng : năng lượng giận và năng lượng chánh
niệm. Hai năng lượng đã giao lưu với nhau.
Khi một người không tu giận thì cái giận đó tác yêu tác quái. Cái
giận đó ở một
mình trong tâm, nó làm chủ trấn ngự. Người không tu
không biết làm gì để làm lắng dịu cái giận đó xuống, không biết
làm gì để chuyển hóa cơn giận đó. Chúng ta hãy thử tưởng tượng một
người làm vườn giỏi. Khi ngườì làm vườn giỏi thì người đó biết xử
lý những lá khô lá úa, những cành khô cành úa. Người đó cắt những
lá, cành úa đó ủ thành phân xanh. Người tu cũng vậy. Khi người tu
thấy sự bực bội, giận hờn lo lắng trồi lên thì người tu nhận diện,
ôm ấp và chuyển hóa được những tâm hành tiêu cực đó.
Ví
dụ như một bà mẹ đang nấu ăn trong bếp. Bà nghe em bé khóc la
trong phòng, em bé mới 2, 3 tháng. Bà mẹ buông những gì đang cầm
trong tay, đi vào phòng bồng em bé lên, ôm em bé vào trong hai tay
một cách rất nhẹ nhàng, rất trìu mến. Người tu cũng vậy. Khi có sự
bực giận, giận hờn lo lắng trào lên thì người tu biết rằng có sự
bực bội, giận hờn, lo lắng. Người tu lập tức trở về với hơi thở,
thở trong chánh niệm và dùng năng lượng chánh niệm do hơi thở chế
tác để công nhận nỗi khổ niềm đau đó và ôm lấy nó một cách
nhẹ nhàng giống như bà mẹ đang ôm ấp đứa con của mình. Nếu bà mẹ
ôm con một cách nhẹ nhàng như vậy trong
vài, ba phút thì năng
lượng dịu dàng của bà mẹ đi vào trong đứa con và làm cho đứa con
bớt khổ.
Chánh
niệm là năng lượng ôm ấp và chuyển hóa
Chúng ta cũng vậy. Khi chúng ta thở vào thở ra mà có chánh niệm,
khi chúng ta bước những bước chân nhẹ nhàng có chánh niệm thì
chúng ta chế tác ra năng lượng chánh niệm và với năng lượng chánh
niệm đó ta nhận diện nỗi khổ niềm đau kia, ta ôm lấy nó và nhẹ
nhàng chăm sóc nó. Chỉ độ hai, ba hay năm phút sau nỗi khổ niềm
đau sẽ lắng dịu xuống bớt. Nó chưa biến mất nhưng nó đã lắng dịu
20 phần trăm, 30 phần trăm, và nếu biết phương pháp thì ta sẽ
chuyển hóa từ từ những nỗi khổ niềm đau đó.
Thở vào
tôi biết sự bực bội đang từ từ phát sinh trong tôi
Thở ra tôi mỉm cười với sự bực bội, tôi sẽ chăm sóc đàng hoàng sự
bực bội đó
Đó
là người tu ! Còn với người không tu thì khi sự bực bội trào lên mình không
biết, mình để cho nó tác yêu, tác quái, để nó xúi đẩy mình nói
những câu nói, làm những hành động gây ra sự đổ vỡ. Trong một
trung tâm tu học thì các thầy, các sư cô, các vị Phật tử luôn luôn
trở về với hơi thở, với bước chân để chế tác năng lượng chánh
niệm. Năng lượng đó là một năng lượng bằng vàng, rất đáng quí.
Năng lượng đó sẽ làm lắng dịu những đau nhức trong thân, trong tâm
và sẽ chuyển hóa những đau nhức đó. Đó là những sự thực tập căn
bản : Hơi thở có ý thức và bước chân có ý thức. Hơi thở nào cũng
phải là hơi thở có chánh niệm Bước chân nào cũng là bước chân có
chánh niệm. Mỗi ngày mình chế tác ra năng lượng chánh niệm và với
năng lượng chánh niệm đó chúng ta sẽ chế tác được định và tuệ.
Niệm, Định, Tuệ là ba năng
lượng chánh mà người tu phải chế tác ra mỗi ngày.
Một cây cam chế tác ra lá cam, hoa cam và trái cam, đó là cái đẹp
nhất mà một cây cam có thể chế tác được. Người tu cũng chế tác
được những cái rất đẹp. Người tu phải có khả năng chế tác ra niệm,
định và tuệ. Một người tu mà không chế tác ra Niệm- Định-
Tuệ thì không phải là người tu, dù người đó có mặc
áo nâu,
áo lam hay áo vàng cũng vậy thôi. Niệm-Định-Tuệ là ba nguồn
năng lượng làm cho mình có chất thánh trong người, giúp cho mình
đạt tớí đạo quả, giúp mình chuyển hóa được nỗi khổ niềm đau trong
lòng.
Niệm là biết được gì đang xẩy ra. Cái gì đang xẩy ra là tôi đang
thở vô, đang thở ra. Cái gì đang xẩy ra là tôi đang bước những
bước chân. Cái gì đang xẩy ra là tôi đang uống trà. Cái gì đang
xẩy ra là tôi đang bắt đầu giận. Khi mình giận mà mình không biết
là mình đang giận thì đó là mình không tu. Khi mình giận mà mình
biết là mình giận thì dù cho cơn giận còn đó mình vẫn là người tu
như thường. Tại vì cái giận đó đang được chánh niệm nhận diện, ôm
ấp và chuyển hóa. Nếu quí vị thực tập cho quen thì chỉ trong một
hay hai phút nỗi buồn đó đã lắng dịu trở lại.
Người Phật tử, người có thực tập thì mỗi khi nỗi buồn, cơn giận
trào lên, người đó không nói, không làm, không phản ứng gì hết.
Trái lại người đó trở về với hơi thở, với bước chân để chế tác
những hơi thở, những bước chân có ý thức. Như vậy là chế tác chánh
niệm và hể có chánh niệm là bắt đầu có định, có tuệ. Nếu niệm và
định vững chãi thì bắt đầu có tuệ. Có tuệ thì có giải thoát, có
tuệ thì có thể chuyển hóa được nỗi buồn, cơn giận của mình. Có
niệm-định-tuệ thì mình có thể làm chủ được tình trạng, nếu không
thì mình thành nạn nhân của tình trạng. Tình trạng có thể là tình
trạng của cái giận, cái buồn trào lên, nhưng nếu mình là người có
tu thì mình làm chủ được được tình trạng.
Có
chánh niệm thì mình có sự an toàn. Vì vậy mỗi ngày mình phải tập
hơi thở có ý thức, bước chân có ý thức. Chúng ta lái xe có ý thức,
rửa rau có ý thức. Chúng ta giặt áo có ý thức, làm gì cũng có ý
thức hết. Chúng ta chế tác được chánh niệm và với chánh niệm đó
chúng ta nhận diện những nỗi khổ niềm đau khi chúng xuất hiện để
ôm ấp, chuyển hóa. Khi mình giận cha mẹ, mình giận con, giận chồng
hay vợ, nếu là Phật tử thì mình khoan làm gì, khoan nói gì hết,
khoan phản ứng. Mình trở về với hơi thở và nói : “Cái giận ơi, ta
biết mi đang xuất hiện, đang có mặt và ta biết cách chăm sóc cho
mi. Mi không thể xúi ta nói và làm những điều gây ra tan vỡ
trong tình cha con, tình vợ chồng.”. Đó là người tu.
Chăm
sóc và bảo quản cho cái giận
Người cha không nên lạm dụng quyền làm cha để đàn áp, chửi mắng
đứa con. Người thầy không nên lạm dụng quyền làm thầy để la mắng,
đàn áp người đệ tử. Khi có chánh niệm thì mình nhớ được điều đó.
Nếu không có sự trầm tĩnh, không có tình thương thì mình không thể
nào giúp cho người kia chuyển hóa được. La rầy, trừng phạt sẽ
không đem tới kết quả nào hết. Chỉ có sự trầm tĩnh, tình thương,
sự hiểu biết mói có thể giúp mình và giúp cho người kia mà thôi.
Khi mình nhận thây cái giận bắt đầu trào lên thì phải lập tức trở
về với hơi thở, thở theo cách thức cửa Đức Thế Tôn dạy:
Thở vào
tôi biết tôi đang thở vào
Thở ra tôi biết tôi đang thở ra
Thở vào, tôi theo dõi hơi thở vào từ đầu tới cuối
Thở ra tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu tới cuối
Quí vị mà thực tập được như vậy trong ba phút thì cái giận sẽ lắng
xuống :
Thở vào,
tôi biết là cái giận đang có mặt trong tôi
/
Thở ra, tôi hứa sẽ chăm sóc, bảo quản cho cái giận, không để cho
cái giận tác yêu tác quái.
Cái giận kia có thể phát sinh từ tri giác sai lầm của mình.
Người kia không cố ý trừng phạt hay làm khổ mình nhưng mình nghĩ
là người kia cố ý gây khổ đau cho mình nên mình giận. Có thể là
ngày xưa hạt giống giận hờn trong mình nhỏ bé hơn nhiều. Chúng ta
không dễ giận như bây giờ. Bây giờ chúng ta dễ giận hơn ngày xưa
nhiều lắm tại vì trong bao nhiêu năm chúng ta không biết thực tập,
cứ dồn nén xuống những bực tức, lo lắng, sầu khổ, giận hờn, nên
cục giận trong lòng bây giờ lớn lên rất nhiều, hễ động một chút là
giận.
Ông chồng của mình ngày xưa đâu có dễ giận như vậy. Bây giờ hễ
động tới một chút là giận. Tại sao ?. Tại vì trong bao nhiêu năm
ông ấy không biết thực tập. Ông cứ dồn nén bực bội mỗi ngày một
chút cho nên cục giận của ông càng ngày càng lớn. Mình không giúp
đỡ chồng mình, lâu lâu mình nói những câu điếc con ráy, những câu
chua chát, bực bội. Hạt giống giận của ông chồng mình ngày càng
lớn, mình cũng phải chịu trách nhiệm một phần nào đó, tại vì chính
trong mình cũng có sự bực bội. Hạt giống giận hờn trong mình cũng
càng ngày càng lớn tại vì mình không tu. Nếu biết tu thì hạt giống
giận hờn càng ngày càng yếu mà không tu thì hạt giống đó ngày càng
mạnh. Mình cứ dồn chứa từ ngày này sang ngày khác thì cái khối
giận ngày càng lớn. Gia đình trở nên một tù ngục, một địa ngục.
Mỗi người trở thành một trái bom, sờ vô có thể nổ, rất nguy hiểm.
Vì vậy chúng ta bắt đầu tu đi là vừa. Chúng ta phải giúp nhau tu
tập để nhận diện khối giận đó và làm cho nó lắng dịu xuống, làm
cho nó chuyển hóa.
Bà
trách rằng : bây giờ ông nóng quá, nóng hơn ngày xưa nhiều ! Nhưng
bà tự hỏi tại sao như vậy ?. Tại sao hồi còn trai trẻ ông ít nóng
mà bây giờ ông nóng dữ vậy ?
Tại vì trong bao nhiêu năm ông không có tu. Ông đã dồn nén sự bực
bội rất nhiều và bà cũng đóng góp một phần không ít vào cục giận
của ông. Bà cũng vậy. Ngày xưa bà rất tươi mát, rất dịu hiền, rất
dễ
thương. Bây giờ bà khó chịu, chua chát lắm. Có khi bà hành xử
như một bà chằng. Tại ai ? Cũng tại mình một phần. Mình đàn áp,
mình chua chát, nói năng thô lỗ, mình gây ra những chuyện oan ức
cho bà. Hạt giống bực bội, giận hờn của bà càng ngày càng lớn,
mình cũng chịu trách nhiệm một phần nào đó.
Ngày xưa khi mới cưới nhau sao cái gì cũng dễ, người này nói người
kia nghe. Tiếng nói của người kia sao nó dịu dàng, ngọt ngào như
vậy. Bây giờ tiếng nói của người kia khó nghe quá, nó chua chát,
trách móc, hờn giận nghe mệt cả trái tim của mình. Đó là tại vì
mình không biết làm ăn, mình làm ăn lỗ lã. Tại thiếu tu mà ra hết.
Tu
không phải chỉ là đi chùa, cúng dường, bái sám, cầu nguyện, tụng
kinh. Không !
Tu
là phải thực tập thêm nữa. Mình phải học niệm, định, tuệ. Mình
phải học đi, học thở, học buông thư, học nhận diện, học chuyển hóa
mới được.
Có
một hôm nào đó hai vợ chồng có cơ hội ngồi với nhau, rỗi rãnh,
không có chuyện gì làm.
-Chúng ta ít có cơ hội như vậy lắm. Ông quá
bận mà bà cũng quá bận-. Hai ông bà thử so sánh ngày xưa với bây giờ.
Ngày xưa tại sao mà dễ dàng vậy ! Người này nói người kia nghe, mà bây giờ không ai nghe ai nữa. Tại
khi nói chúng ta dùng ngôn từ rất chua chát, có tính cách buộc
tội, lên án, trách móc, nghe mệt vô cùng. Ngày xưa câu nào câu đó
nghe ngọt như mật ong, như đường mía lau. Bây giờ câu nào câu đó
chua lè như dấm. Tại vì mình không có thực tập ái ngữ và lắng nghe
trong đạo Phật.
Một hôm nào đó có cơ hội ngồi chơi với nhau, không
làn gì hết, mình thử nói chuyện tâm tình coi ra sao. “Nầy ông
nè, ( hoặc còn trẻ thì mình nói: anh nè ) tại sao mà mình không có
hạnh phúc. Mình có công ăn việc làm, các con cũng đã lớn rồi, tại
sao mình không có hạnh phúc. Tại sao mình không tươi mát với nhau.
Ngày xưa mình cảm thấy không có nhau thì mình sống không nổi, mà
bây giờ mình không thương nhau, mình không làm hạnh phúc cho nhau
được. Tại sao vậy ?. Nhiều khi tôi bực bội, cáu kỉnh, tôi đã nói
và làm những điều khiến cho ông buồn khổ, giận hờn, tức tối. Tôi
xin lỗi ông. Tôi đâu có muốn làm cho ông khổ đâu. Nhưng tại vì
trong bao nhiêu năm tôi không được cơ hội tu tập. Tôi không biết
cách nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa cái bực bội, lo lắng, sầu khổ
trong tôi. Tôi khổ và đã làm cho ông khổ. Tôi rất hối hận.
Bây giờ
làm sao mình tu đi để mình đừng làm khổ nhau nữa.”. Bà có thể
nói một câu như vậy nếu bà có sự giác ngộ sau khi nghe bài pháp
thoại. Sau khi đi một khóa tu bà có thể giác ngộ. Bà có thể về nói
với ông một câu như vậy. Trước đó thì nói không được, bây giờ thì
có thể nói được.
Ông cũng vậy,
ông có thể về nói với bà một câu như vậy: “ Ngày
xưa em rất tươi mát ngọt ngào. Anh cảm thấy nếu không có em thì
làm sao anh sống được. Nhưng bây giờ
anh cảm thấy mình không được
như vậy nữa. Anh phải chịu một phần trách nhiệm. Anh đã bực bội,
la mắng, trách móc, hờn giận. Anh đã đối xử với em một cách thô
bạo và không biết rằng anh đã gây cho em những buồn khổ đau đớn.
Tại vì anh chưa gặp được thầy, chưa gặp được bạn tu. Anh chưa nắm
được những phương pháp thực tập nên anh đã làm cho em mất đi sự
tươi mát, mất đi hạnh phúc. Anh rất hối hận. Bây giờ hai vợ chồng
mình bắt đầu tu, sửa đổi lại.”.
Mình học nói những lời thương yêu, tha thứ, bao dung. Đừng trách
móc, lên án, buộc tội nhau nữa. Đừng nói với nhau những lời chua
chát nữa. Chuyện đó mình có
thể làm được. Tại sao mình không ký với nhau một hiệp định thương
yêu, hòa bình sống với nhau. Trong đạo Phật có những phương pháp
thực tập rất mầu nhiệm. Chỉ cần tu tập một tuần lễ là mình có thể
khôi phục lại được những hạnh phúc mà mình đã đánh mất.
Có
ba câu tôi muốn quí vị học thuộc để thực tập khi cái giận trào
lên
:
-
Tôi đang giận, đang khổ, tôi muốn anh biết điều đó.
- Tộiđang giận, đang
khổ, tôi muốn em biết điều đó.
-
Ba đang giận, đang khổ, ba muốn con
biết điều đó cho ba.
Khi mình giận người kia, người kia có thể là chồng, là vợ, là cha
mẹ hay con trai con gái mình, thì mình hay có khuynh hướng đổ lỗi
cho người kia. Sở dĩ mình đau, mình khổ là tại vì người kia hết.
Mình không bao giờ công nhận rằng cái khổ đau đó một phần là do
chính mình.
Mình có khuynh hướng muốn trừng phạt người kia. Người kia làm cho
mình khổ bây giờ mình phải làm khổ lại. Đó là khuynh hướng trừng
phạt mà tất cả chúng ta đều có. Đôi khi chúng ta trừng phạt bằng
một thái độ lạnh lùng, hỏi không thèm trả lời. Có khi muốn trừng
phạt người kia bằng cách làm cho mình khổ, tự làm cho mình khổ, ý
muốn nói rằng : “ Tôi mà ra thân thể như thế này là tại vì ông, vì
bà mà ra”. Mình tự làm khổ mình cho người kia biết. Mình có nhiều
cách trừng phạt.
Cách trừng phạt thông thường nhất là nói một câu hay làm một điều
làm cho người kia khổ tại vì người kia dám làm mình khổ. Người kia
nói một câu làm cho mình đau. Mình nói một câu dữ hơn để cho người
kia đau cho biết. Thông thường là như vậy. Khi người kia nghe một
câu, người kia khổ quá, muốn làm cho bớt khổ, người kia tìm một
câu nặng hơn để nói với mình. Mình nghe như vậy mình khổ hơn nữa,
mình tìm một câu động trời hơn nữa. Hai bên cứ leo thang
làm khổ
nhau, leo
thang
thanh trừng phạt nhau. Đó là chuyện người đời. Phương
pháp đó rất là con nít. Hai người hành xử như hai đứa con nít.
Người này làm khổ người kia, người kia muốn trừng phạt lại bằng
cách làm khổ lại cho biết. Cứ trừng phạt nhau như vậy, leo thang
chiến tranh, leo thang làm khổ nhau, leo thang giận hờn.
Ở
đời là như vậy, Không có lý mình là người tu mà mình lại làm giống
hệt như vậy. ĐứcThế Tôn dạy: khi giận mình đừng nói và đừng làm gì
hết. Chỉ nói và chỉ làm khi mình hết giận mà thôi. Mình phải trở
về với hơi thở, bước chân. Mình phải thực tập ôm ấp nhận diện, làm
lắng dịu nỗi khổ niềm đau xuống. Mình phải nhìn cho kỹ, coi gốc rể
nỗi khổ niềm đau của mình là từ đâu. Có khi nó từ mình ra chứ
không phải từ người kia. Có thể sau mấy giờ đồng hồ thực tập mình
thấy cái giận của mình không có căn cứ, hoàn toàn là do mình hiểu
lầm. Lúc đó mình thành công.
Lá
bùa cứu mạng
Nhưng nếu sau 24 giờ đồng hồ mà mình vẫn còn giận thì lúc đó mình
phải làm một cái gì. Mình tu chưa có kết quả. Mình bắt đầu phải
dùng ba câu như tôi vừa nói.
Câu thứ nhất là:
Tôi đang
giận, đang khổ, em phải biết điều này
!
Mình là người chồng, người vợ, là đứa con, là người thầy, người đệ
tử, mình có thể thực tập như vậy: “ Bạch thầy, con đang giận thầy,
con đang khổ lắm và con muốn thầy biết điều đó.” Hay là thầy có
thể viết cho đệ tử: “ Này con, thầy, thầy đang giận con. Thầy đang
buồn và thầy muốn con biết điều đó.” Nếu là cha mình nói:
”Cha
đang khổ, đang giận, đang buồn con. Cha muốn con biết điều đó.”
Nếu là người con mình nói: “ Con đang khổ, đang buồn, con muốn cha
biết cho con điều đó.” Nếu là người chồng mình nói : “ Anh đang
khổ, đang buồn, anh đang giận và anh muốn em biết cho điều
đó.” Nếu là người vợ mình nói : “Em đang khổ, đang
buồn, em giận anh và em muốn anh biết cho điều đó.” Đó là câu thứ
nhất. Nếu không nói trực tiếp được thì mình viết lên miếng giấy
đưa cho người kia.
Câu thứ hai là:
Anh
đang cố gắng hết sức anh.
(Em đang cố gắng hết sức em. Thầy
đang cố gắng hết sức thầy. Con
đang cố gắng hết sức con. Ba
đang cố gắng hết sức ba. Mẹ
đang cố gắng hết sức mẹ).
Cố gắng
đây là thực tập. Người tu đẹp là ở chổ khi giận không nói, không
làm gì hết, trở về hơi thở, trở về bước chân và thực tập. Câu thứ
hai đó cho người kia biết rằng mình không phải là người thường,
mình là người tu. Mình là người cư sĩ thọ Tam qui Ngũ giới, mình
là người tu. Mình là người xuất gia, thọ mười giới, thọ 250 giới,
mình là người tu. Vì vậy mình không hành xử như người không tu.
Mình không nói, không làm gì hết trong khi giận, trái lại, mình
trở về với hơi thở, trở về với bước chân. Mình nhận diện, ôm ấp,
làm lắng dịu và chuyển hóa cái giận, điều đó là “ tôi đang cố gắng
hết sức tôi “, tôi đang thực tập. Khi người kia nghe hoặc đọc câu
đó người kia sẽ kính phục: “ Chà, người vợ mình giỏi thiệt. Vợ
mình biết tu. Khi giận biết không nên nói gì, không nên làm gì,
biết trở về hơi thở, trở về bước chân, biết nhận diện, ôm ấp và
chuyển hóa, làm lắng dịu cơn giận. Mình có bà vợ như vậy là quí
lắm. Những bà vợ khác đâu có làm như vậy, họ đâu có tu, họ la
làng, la trời, la đất, họ than khóc chửi rủa đủ thứ. Mình có người
vợ biết tu, rất là quí.”.
Nếu ông
viết được câu đó thì bà rất quí ông: “ Mình có một người chồng
biết tu. Khi mình giận, chồng mình biết không nên nói gì, không
nên làm gì, nên trở về hơi thở, đi thiền hành để nhận diện, ôm ấp
và chuyển hóa làm lắng dịu cơn giận. Mình rất hãnh diện có một
người chồng như vậy.” Câu thứ hai đó rất quan trọng. Nó làm người
kia kính phục mình.
Mình là
người cha, mình nói: “Ba đang giận con, ba đang khổ, đang buồn con
lắm. Ba muốn con biết điều đó. Ba đang thực tập hết lòng, hết mình
của ba.”. Khi đứa con nghe như vậy, đọc được như vậy thì rất kính
phục ba. Ba mình không xài xể mình, không chửi, không đánh mình mà
khi giận ba biết thực tập, mình có một người ba rất đặc biệt.”.
Câu thứ hai đó cũng là sự mời mọc cho người kia cùng thực tập với
mình.
Khi
người vợ nhận được miếng giấy có câu: “ Anh đanh khổ, đang buồn,
đang giận em. Anh muốn em biết điều đó. Anh đang thực tập hết
lòng. “ thì người vợ sẽ tự hỏi : “ Mình nói cái gì, làm cái gì
khiến cho giận ông buồn như vậy.”. Hai câu đó cũng mời mọc cho
người kia cũng quán chiếu, cũng thực tập, nhìn lại mình đã làm gì,
đã nói gì ?. Rất là hay ! Mình là vợ chồng của nhau, mình là cha
con, là thầy trò của nhau nhưng mình cũng là những người bạn đồng
hành trên con đường tu tập. Mình là đạo hữu, là bạn đạo với nhau.
Câu thứ
ba là: Em giúp
anh một tay có thể anh thực tập không thành công. Tại sao anh thực
tập 24 giờ rồi mà anh chưa hết giận em. Em giúp anh một tay.
(Ba thực
tập 24 giờ rồi mà ba vẫn còn giận con. Con giúp ba một chút. Ba ơi
con giận ba, con khổ lắm, con buồn lắm, con muốn ba biết điều đó.
Con thực tập gần 24 giờ đồng hồ rồi mà con vẫn chưa hết giận ba.
Ba giúp cho con. Ba cắt nghĩa cho con tại sao ba nói như vậy, làm
một điều như vậy.
Anh cắt
nghĩa cho em tại sao anh nói một câu như vậy. Tại sao đã làm một
điều như vậy).
Ba câu
nói đó tôi xin lập lại. Tôi muốn quí vị viết ba câu đó vào trong
một miếng giấy lớn bằng một credit card ( thẻ tín dụng ).
Câu thứ
nhất :
Anh đang
giận em, anh đang khổ, anh muốn em biết điều đó. Hoặc là
:
Ba đang
giận con, ba đang khổ, ba muốn con biết điều đó. Hoặc là
:
Con đang
giận ba, con đang khổ, con muốn ba biết điều đó cho con. Có nghĩa
là :
Con
không hiểu tại sao ba lại nói một câu như vậy, ba đã làm một điều
như vậy.
Hoặc là
:
Em đang
giận anh, em đang khổ, em muốn anh biết điều đó. Có nghĩa là :
Em không
hiểu tại sao anh đã nói một câu như vậy, anh đã làm một điều như
vậy.
Câu thứ
hai :
Anh cố
gắng hết sức anh, có nghĩa là :
Anh đang
thực tập.
Em đang
cố gắng hết sức em, có nghĩa :
Em đang
thực tập.
Ba đang
cố gắng hết sức ba, có nghĩa là :
Ba đang
thực tập.
Con đang
cố gắng hết sức con, có nghĩa là :
Con đang
thực tập.
Thầy
đang cố gắng hết sức thầy, có nghĩa là :
Thầy
đang thực tập.
Câu thứ
ba :
Em phải giúp anh mới được
/
Con phải
giúp ba mới được
/
Thầy
phải giúp con mới được
Quí vị
viết nắn nót trên mãnh giấy nhỏ câu thứ nhất, thứ hai, thứ ba rồi
bỏ vào ví của mình
giống như chứng minh nhân dân. Mỗi khi cái giận trào lên thì lập
tức rút ví ra,
theo dõi hơi thở và đọc ba câu đó. Ba câu đó là bùa cứu mạng của
mình, cứ làm theo
đúng ba câu đó là được. Trước hết là mình trở về với hơi thở, với
bước chân.
Mình thở vào cho khỏe, thở ra cho nhẹ, nhìn cho sâu coi thử là cái
đau khổ của mình
tới từ mình, từ người kia hay từ hai bên. Nếu chịu trách nhiệm thì
mình chỉ chịu
mấy chục phần trăm trong vụ này, còn ông chịu mấy chục phần trăm
?. Nhìn cho kỹ và mình phải thực tập hết lòng. Câu thứ hai nói
rằng mình đang thực tập.
Đây là
một pháp môn đã được thực tập ở Làng Mai. Tất cả các thiền sinh
đến từ Âu châu, Mỹ châu, Úc châu đều được học hỏi ba câu này. Khi
cái giận trào lên thì họ phải thực tập, Nếu sau 24 giờ đồng hồ mà
chưa chuyển hóa được cái giận thì phải nói cho người kia ba câu
đó. Nếu nói chưa được bằng lời nói êm dịu thì mình viết xuống giấy
và trao cho người kia. Sau khi trao cho người kia thì mình sẽ khỏe
hơn. Quí vị thử đi. Khi giận mình thực tập, nếu chưa thành công
thì mình viết ba câu đó xuống mà gửi cho người kia. Người kia có
thể là chồng hay vợ, là con trai con gái, là ba, má, là thầy hay
đệ tử của mình.
Cách
hành xử đó rất văn minh, rất đẹp, đi đúng chánh pháp. Khi giận
không nói câu nào hết, không có hành động nào hết, trở về thực
tập. Nếu thực tập chưa thành công thì gửi thư cầu cứu người kia,
trong thư có ba câu đó, chắc chắn sẽ thành công.
Nếu quí
vị hành xử theo được lời đề nghị này thì quí vị sẽ trở thành những
con người rất đẹp, rất văn hóa, rất văn minh. Cái bản chất này
được rút ra từ giáo lý, từ cách hành trì của Đức Thế Tôn. Đi trên
đường phố tôi thấy có những bảng hiệu
:
„ toàn
dân khu phố quyết tâm xây dựng khu phố văn hóa, văn minh !“. Tôi
không hiểu văn hóa, văn minh ở đây là gì. Nhưng tôi thấy cách hành
xử trình bày
ở trên rõ ràng là văn hóa, văn minh. Khi mình giận
nhau thì mình không làm khổ mình và làm khổ người kia. Mình tu tập
và mình đúng thật là những con người văn hóa, đúng thật là những
con người văn minh. Chất liệu văn hóa và văn minh này bắt nguồn từ
đại từ, đại bi, đại trí của Đức Thế Tôn. Quí vị làm đi và quí vị
sẽ là mẫu mực cho con cháu mình, các bè bạn của mình. Chúng ta là
người trần mắt thịt. Chúng chưa phải là những vị thánh thành thử
chúng ta cứ bị làm nạn nhân của những tri giác sai lầm. Những cái
thấy, cái nghe của mình thường thuờng là sai lạc. Mà cái giận,
cái buồn của mình nó phát sinh từ cái thấy sai lạc đó. Những cái
thấy sai lạc đó trong đạo Phật gọi là vọng tưởng, gọi là những cái
tà kiến. Tà kiến là ngược lại với chánh kiến, vọng tưởng là ngược
lại với bát nhã, với tuệ giác.
Gây khổ đau vì tri giác sai lầm
Có một
ông đó đì xa về, vợ ông sanh cho ông một đứa con trai. Không biết
vì lý do gì mà ông tin rằng đứa con trai này không phải là con của
ông mà là con của ông hàng xóm. Họ có một ông hàng xóm rất dễ
thương. Trong khi ông đi vắng thì người hàng xóm cứ qua giúp đỡ
rất nhiều. Ông ta nghe nói như vậy và ông cứ tin chắc rằng đứa
con này không phải là con của ông mà là con của ông hàng xóm. Lạ
như vậy đó ! Ông đi 3 năm, 4 năm rồi ông về. Sau khi ông đi khoảng
chừng 7 tháng, 8 tháng thì bà vợ sinh ra đứa con đó. Khi về, ông
nhìn mặt thằng nhỏ thì ông ghét cay ghét đắng. Ông nghĩ rằng thằng
này không phải là con mình, thằng này là con ông hàng xóm, thằng
này chắc là con của ông hàng xóm. Rồi ông mang theo trong lòng một
nỗi khổ niềm đau cả đêm, cả ngày, không nói ra được.
Không có bằng
cớ gì hết thành ra ông lạnh nhạt với bà vợ. Cái thái độ lạnh nhạt
của ông là một hình thái trừng phạt bà vợ. Ông không trực tiếp nói
: „ Em đã ngủ với ai và em đã sinh ra đứa con này. Đứa con này
không phải là con của anh !“ Ông không nói như vậy. Ông giữ cái đó
bí mật trong lòng ông thôi, nhưng mà ông biểu lộ ra bằng cách lạnh
nhạt thành ra bà vợ rất đau khổ. Đứa con bị ông nhìn bằng con mắt
như vậy thì đứa con cũng rất đau khổ. Quí vị biết cái nỗi đau khổ
đó kéo dài bao lâu không ? Nó kéo dài 11, 12 năm. Cho đến khi có
một người bạn từ phương xa về. Ông ta nhìn đứa con và nói :
“ Trời
!, cái thằng nhỏ nay nó giống anh như là đúc. Nè !, cái lỗ tai nè,
Có phải là cái lỗ tai anh không !. Cái môi, giống hệt ! đúng là
cái môi của anh rồi !.“. Thì lúc đó ông ta mới buông bỏ cái tri
giác sai lầm, mới buông bỏ cái tà kiến, và lúc đó ông mới bắt đầu
nhìn đứa con bằng con mắt thiện cảm. ông mới nhìn bà vợ bằng một
cái nhìn chấp nhận và thương yêu. Nhưng mà ông đã gây đau khổ
trong suốt 10 năm, 11 năm.
Cho nên
một tà kiến, một tri giác sai lầm có hại rất nhiều. Chúng ta đều
là những người chưa phải là những bậc thánh. Mỗi người chúng ta
đều có những tri giác sai lầm. Nếu cứ bám lấy cái tri giác sai lầm
như vậy là chúng ta tự làm khổ mình và làm khổ những người thương
của mình. Cho nên mình đừng tin chắc quá vào cái tri giác của
mình, những cái vọng tưởng điên đảo
-điên đảo có nghĩa là chổng
ngược lại, trắng thì nói là đen, xiên thì nói là thẳng- gọi là
vọng tưởng điên đảo. Cho nên mỗi khi chúng ta khổ đau, chúng ta
giận hờn, chúng ta đừng tin chắc rằng tại vì người kia muốn làm
khổ chúng ta. Bà vợ kia có ngoại tình đâu, đâu có ngủ với ông hàng
xóm đâu. Vậy mà mình cứ chắc mẩm là vợ mình ngủ với ông hàng xóm.
Đó là một nỗi oan ức rất lớn mà có thể khi chết mình mang theo mối
oan ức đó xuống suối vàng, mình mang cái tri giác sai lầm đó theo
tới suối vàng. Rất là dễ sợ !
Cho nên
mình phải đặt vấn đề là mình có tri giác sai lầm hay không. Mình
làm khổ nhau là do mình có những tri giác sai lầm về nhau và về
bản thân của chính mình. Cho nên khi mình hỏi câu hỏi thứ nhất,
mình viết câu thứ nhất là „ Anh đang khổ, anh đang giận em. Anh
buồn lắm. Anh muốn em biết như vậy. Em phải cắt nghĩa cho anh tại
sao em đã nói lên một lời như vậy, em đã làm một điều như vậy với
anh.“. Đó là cầu cứu đấy. Đó là tiếng kêu cầu cứu đấy!. Và mình
phải cầu cứu mới được, tại người kia có thể giúp mình tháo gỡ được
những tri giác sai lầm. Khi mà mình có cảm tưởng rằng người thương
của mình đã làm khổ mình thì mình cảm thấy bị một thương tích rất
là nặng. Nếu là người dưng nước lã nói câu đó, làm điều đó mình
tuy là giận, nhưng mà giận ít. Nhưng chính là người thương nhất
trong đời mình đã nói câu đó, đã làm điều đó cho nên mình không
thể nào tha thứ được.
Quí vị
có biết câu chuyện thiếu phụ Nam Xương và chàng Trương. Chàng
Trương đi lính sống sót trở về, và lần đầu thấy được đứa con của
mình, đứa con trai của mình. Chàng dụ nó kêu mình bằng ba, bằng
bố, nhưng thằng con nhất định không chịu. „Ông đâu phải là bố tui
!, bố tui thường thường tới mỗi đêm mà mỗi khi bố tui tới mẹ tui
nói chuyện với bố tui cả giờ đồng hồ, khóc lóc, kể lể. Mỗi khi bố
tui ngồi xuống thì mẹ tui cũng ngồi xuống. Mỗi khi bố tui nằm
xuống thì mẹ tui cũng nằm xuống luôn.“. Nó nói như vậy đó. Thì quí
vị cũng biết sự thật là làm gì có người nào đi vào trong nhà của
thiếu phụ Nam Xương đâu.
Thiếu
phụ Nam Xương cô đơn một mình một bóng thành thử hay nói chuyện
với cái bóng của mình ở trên vách tường.“ Anh ơi, anh đi lâu
quá.
Một mình em ở nhà làm sao nuôi con được.“, và khóc. Và cố
nhiên là mỗi khi mà thiếu phụ Nam Xương ngồi xuống thì cái bóng
cũng ngồi xuống và mỗi khi thiếu phụ Nam Xương nằm xuống thì cái
bóng cũng nằm xuống. Thì con nít chỉ nói vậy thôi. Nhưng mà anh
chàng có một tri giác lầm. Anh ta tưởng có một người đàn ông nào
đó đêm nào cũng vô nhà hết. Cho nên khi thiếu phụ Nam Xương đi chợ
về để làm mâm cơm cúng thì chàng Trương không thèm nhìn vợ nữa. Vợ
hỏi câu gì thì chàng Trương cũng không trả lời, tại vì có cái tri
giác sai lầm, có một nỗi khổ, niềm đau rất lớn, nghĩ rằng trong
thời gian mình đi vắng vợ mình đã ngoại tình rồi. Tri giác sai lầm
!.
Thiếu
phụ Nam Xương rất tủi thân. Nàng không biết tại sao mà từ khi mình
đi chợ về anh ấy không thèm nhìn mặt mình nữa, mình hỏi câu gì anh
cũng không thèm trả lời. Mình đã làm nên tội tình gì để bị đối xử
một cách tồi tệ như vậy. Cho nên nàng chỉ âm thầm mà khóc thôi.
Không có cầu cứu ! . Mà chàng Trương cũng bị một vết thương
rất là nặng. Một người mà mình thương nhớ mỗi đêm, mong cho chiến
tranh kết thúc để chóng trở về ôm trong tay, mà người đó lại đi
phản bội mình như vậy thì cái nỗi khổ niềm đau này làm sao mà tiêu
cho được. Vì vậy nên chàng không nhìn người kia. Người kia hỏi câu
gì chàng không thèm trả lời. Tại cái nỗi khổ niềm đau lớn quá. Cả
hai bên đều khổ hết !, và đứa trẻ ở giữa lãnh đủ hết.
Khi cúng
xong, đáng lý phải bưng mâm cơm cúng xuống và cả nhà cùng ăn một
bữa cơm đoàn tụ sau bao nhiêu năm xa cách thì anh chàng không chịu
ăn cơm. Anh chàng bỏ đi vào trong nhà hàng để uống rượu. Anh chàng
uống rất nhiều rượu để say, để quên nỗi khổ niềm đau của mình cho
tới hai giờ khuya mới về. Hai giờ khuya chàng về rồi ngủ cho tới
mười một giờ trưa rồi đi vô quán rượu lại, và cứ liên tiếp như vậy
nhiều ngày, thành ra thiếu phụ Nam Xương cuối cùng chịu không nổi
phải nhảy xuống sông tự tử.
Buổi tối
đó, sau khi nghe vợ mình chết rồi thì chàng Trương trở về để chăm
sóc đứa nhỏ và khi chàng thắp đèn lên thì đứa nhỏ nói : „Ông này,
bố tui đây nè !, bố tui tới mỗi đêm như vậy đó. Mỗi khi bố tui nằm
xuống thì mẹ tui cũng nằm xuống.“ .Bây giờ chàng Trương thấy được
sự thật, không còn tri giác sai lấm nữa, nhưng mà trễ quá rồi. Vợ
đã chết rồi.
Giả sử
chàng Trương thuộc ba câu đó, và chàng Trương tới với vợ mà nói
rằng: „ Em ơi, u nó ơi, tôi khổ lắm, tôi giận lắm, tôi buồn lắm,
và tôi muốn u nó biết. Tại sao u nó đã làm một điều như vậy. Tại
sao u nó nỡ làm một điều như vậy, tại sao u nó lại ngủ với một
người đàn ông khác ? trong khi mỗi đêm tại chiến trưòng tôi đều
nhớ thương, mong cho chiến tranh kết thúc để về đoàn tụ. U nó cắt
nghĩa đi, tại sao u nó đã làm như vậy, đã hành xử như vậy ?. Tôi
đau khổ quá.“. Nếu chàng nói như vậy thì thiếu phụ Nam Xương đã có
cơ hội giải thích rồi mà giúp mình tháo gỡ cái tri giác sai lầm.
Nhưng tại vì mình không có cầu cứu. Mà tại sao mình không cầu cứu
?. Tại vì mình tự ái rất là lớn.
Ông cũng
vậy, ông có tự ái rất lớn. Bà cũng vậy, bà có tự ái rất lớn. Mỗi
khi ông nghĩ rằng bà đã làm khổ ông, ông nhất định không cầu cứu
bà đâu. Bà cũng vậy, mỗi khi bà tin rằng chính ông làm khổ bà, bà
không cầu cứu, mà dù ông có tới hỏi thăm „ Sao em có vẻ buồn như
vậy ?, sao em có vẻ khổ như vậy ?“, thì mình nói „ Buồn? tôi có
buồn gì đâu !,tại sao tôi phải buồn?. Tôi nào khổ gì đâu !, tại
sao tôi phải khổ ?“. Mình nói như vậy đó. Rồi chồng mình tới muốn
an ủi mình, đặt tay lên trên vai mình thì mình né „Đừng có đụng
tới tui!“. Đó là mình tự ái, mình muốn chứng tỏ rằng : „ Tôi không
cần anh ! Anh đã làm điều rất tệ. Tôi không cần anh ! Một mình tôi
có thể sống sót được, tôi không cần anh !“. Mình muốn trừng phạt
người kia. Mình nói ra một câu là „ Tôi không cần anh !“. Đó là
một cách trừng phạt. Một trong những cách trừng phạt là chứng tỏ
mình không cần tới người đó. „ Tôi không cần ba !, tôi không cần
má!, tôi một mình cũng có thể sống ở trên cõi đời này được !“. Đó
là đứa con trừng phạt ba má như vậy.
Chúng ta
có cái tự ái. Chúng ta khi nghĩ rằng chính người kia, người mà ta
thương yêu đã phản bội mình, đã làm cho mình khổ, thì trái tim
mình đóng thành một cục băng !, cứng lại,và mình lạnh lùng, mình
muốn chứng tỏ cho ngưòi kia biết rằng mình không cần người kia. Đó
là một hình thái trừng phạt. Ông cứ nghĩ lại xem, trong quá khứ
ông đã từng hành xử như vậy.
Bà cũng
vậy, bà nghĩ xem. Trong quá khứ bà cũng đã từng hành xử như vậy.
Bà đã muốn trừng phạt và tỏ thái độ lạnh lùng không cần ông. Và đó
là sự dại dột của mình. Cho nên ba câu tôi đọc cho quí vị chép
xuống nó là cứu tinh của mình. Mình phải tới cầu cứu. „ Em nè,
giúp anh đi !. Em hãy cắt nghĩa tại sao em đã nói một câu như vậy,
em đã làm một hành động như vậy, em đã đối xử với anh như vậy.“.
Nếu
chàng Trương tới nói được với thiếu phụ Nam Xương một câu như vậy
thì thiếu phụ Nam Xương đã có cơ hội cắt nghĩa rồi. „Đâu có ai vô
đâu !“. „Thằng nhỏ nó nói như vậy đó !“. „Thằng nhỏ nó nói như vậy
đó hả, kêu nó tới đây !“. Và thằng nhỏ sẽ cắt nghĩa là bố nó chẳng
qua là cái bóng ở trên tường thôi. Vì buổi chiều đó nó đi chơi,
nói với mẹ nó: „ U ơi, đứa nào cũng có bố hết mà tại sao con không
có .“. Nếu cắt nghĩa rằng vì chiến tranh, rồi mặt trận, rồi chiến
đấu nghĩ cũng khó, cho nên thiếu phụ Nam Xương chỉ vào cái bóng
của mình trên tường , do ánh đèn dầu hôi chiếu lên, nói:
„ Bố con
đó ! con chắp tay lại, lạy bố ạ đi !“. Rồi thì thằng bé tin bố nó
là cái bóng đó, chứ làm gì có người thứ ba chen vô.
Mà thiếu
phụ Nam Xương cũng có tự ái lắm. Nếu như thiếu phụ Nam Xương thực
tập theo ba câu này thì đâu đến nỗi. „ Nhà nó ơi, bố nó ơi, tôi
khổ lắm, tôi buồn lắm, tôi giận lắm, tôi không biết tại sao từ khi
đi chợ về bố nó không nhìn tôi mà tôi hỏi câu nào bố nó cũng không
trả lời. Tôi đã làm nên tội tình gì mà bố nó đối xử với tôi tàn tệ
như vậy ?.“ Tức là phải tới, phải cầu cứu ! Và nếu thực tập theo 3
câu đó thì chàng Trương sẽ nói: „ Thằng nhỏ nó nói như vậy đó !.
Nó nói là trong khi tôi đi vắng thì có một người đàn ông tới mỗi
đêm, người đàn ông đó là ai ?“. Vậy là mình có cơ hội cắt nghĩa
rồi !, và chỉ cần có 3 phút hay 5 phút để tháo gỡ cái tri giác sai
lầm.
Cái tri
giác sai lầm ghê gớm lắm!. Mộng tưởng điên đảo là gốc rễ của hầu
hết mọi đau khổ trong cuộc đời. Mà chúng sanh khổ đau da diết cũng
vì vọng tưởng điên đảo, tri giác sai lầm. Mình tin quá vào cái tri
giác của mình là mình chết, cho nên tu là phải cẩn thận, là phải
đi tìm sự thật, vượt thoát những tri giác sai lầm. Chúng ta là
những người bạn tu của nhau, chúng ta phải giúp nhau tháo gỡ những
tri giác sai lầm.
Chúng ta phải lắng nghe nhau, chúng ta phải
nương nhờ nhau để làm chuyện này.
Những
phương pháp Đức Thế Tôn đưa ra để cho chúng ta thực tập có giá trị
rất thực tế, giúp cho chúng ta làm lắng dịu những căng thẳng,
những đau nhức trong thân, giúp ta ôm ấp, làm lắng dịu những nỗi
khổ niềm đau trong lòng. Nhất là khi có niệm và có định rồi chúng
ta có thể tháo gỡ được những tri giác sai lầm, vốn là nền tảng cho
biết bao nhiêu khổ đau của ta và của những người khác. Xin quí vị
hãy tiếp tục học hỏi giáo lý của đạo Phật, tham cứu những phương
pháp thực tập, tham dự những khóa tu như thế này để từ từ nắm được
lấy những pháp môn cụ thể mà giải thoát cho thân và cho tâm, cho
mình và cho gia đình mình và cho xã hội.
Lời khấn nguyện
Tôi xin
đọc cho quí vị nghe lời khấn nguyện mà các thầy, các sư cô và các
đạo hữu đã đọc trong ĐạiTrai đàn Chẩn tế Giải oan Bình đẳng Cứu
bạt ở Chùa Vĩnh Nghiêm, thành phố Hồ Chí Minh và tại Chùa Diệu
Đế, thành phố Huế. Những Trai đàn Chẩn tế Giải oan đó là để cầu
nguyện cho cả hàng 6 triệu đồng bào đã chết trong cuộc chiến
tranh, trong đó có các chiến sĩ hai miền, trong đó có những nạn
nhân của bom đạn, của tù đày, của sự sát hại, trong đó có hàng
trăm ngàn thuyền nhân thiệt mạng trên biển cả, nạn nhân của sóng
gió và của hải tặc.
Hàng vạn
người đã tới tham dự Trai đàn Chẩn tế ở Chùa Vĩnh Nghiêm và ở Chùa
Diệu Đế và đã có gần một trăm ngàn tên của những đồng bào xấu số
đã chết trong cuộc chiến hoặc ngoài biển cả hay trong rừng sâu gửi
tới để cầu nguyện. Các thầy, các sư cô, các Phật tử cư sĩ đã tổ
chức Trai đàn hết lòng, người nào cũng hết lòng cầu nguyện để cho
đồng bào tử nạn trong cuộc chiến được siêu thoát. Trong suốt quá
trình tổ chức và hành lễ Trai đàn Chẩn tế Giải oan Bình đẳng tại
Chùa Vĩnh Nghiêm, thành phố Hồ chí Minh và Chùa Diệu Đế, thành phố
Huế tôi đã chứng kiến rằng tình huynh đệ được xây dựng rất lớn
lao, tại vì ai cũng có lòng khẩn thiết cầu nguyện cho âm siêu
dương thới, cho sự siêu độ của tất cả những đồng bào của chúng ta,
không phân biệt người Nam hay người Bắc, người cộng sản hay người
chống cộng sản, người Phật tử hay là người Công giáo, người Tin
lành. Cho nên Trai đàn được gọi là Trai đàn Bình đẳng Giải oan.
Đây là lời của người sống nói với người chết. Lời khấn nguyện
trong các Trai đàn Chẩn tế Giải oan tại các Chùa Vĩnh Nghiêm và
Diệu Đế :
Kính
thưa liệt vị hương linh,
Quý
vị là cha chúng tôi, là chồng chúng tôi, là anh trai chúng tôi, là
em trai chúng tôi, là con trai chúng tôi. Quý vị cũng là mẹ chúng
tôi, là vợ chúng tôi, là chị gái chúng tôi, là em gái chúng tôi
hoặc là con gái chúng tôi.
Trong
cơn binh lửa, trong cảnh tao loạn, quý vị đã bỏ lại hình hài quý
giá của quý vị mà đi. Chúng tôi đã đánh mất quý vị. Quý vị hoặc đã
chiến đấu dũng cảm cho đất nước và đã chết hào hùng không hề
thương tiếc thân mạng. Chúng tôi rất hãnh diện về quý vị. Nhưng
quý vị có thể cũng đã bỏ mình trong những hoàn cảnh cực kỳ bi
thương. Nỗi oan khổ không thể nào nói lên được. Trên rừng sâu,
ngoài biển cả, nơi chốn tù đày, chết vì bom đạn hoặc vì kiệt sức,
hoặc vì bị bức bách, bị hãm hiếp rồi bị sát hại mà không có phương
tiện chống cự lại.
Có biết bao nhiêu quý vị đã ngã quỵ mà nắm xương tàn không biết đã
được chôn vùi ở đâu. Những tai ương mà đất nước và dân tộc của
chúng ta đã phải gánh chịu đựng trong bao nhiêu năm tranh đấu cho
độc lập và cho tự do thì chính quý vị là người đã phải gánh chịu
nhiều nhất.
Chúng tôi, những người thân thuộc và đồng bào của quý vị, hôm nay
tới đây thắp hương tưởng niệm quý vị hoặc thiết lập bàn thờ cho
quý vị trước hiên nhà. Trong chúng tôi cũng có những người cũng
vẫn còn đang tiếp tục gánh chịu oan khổ. Nhưng may thay cơn ác
mộng đã qua rồi, đất nước đã được hòa bình, dân tộc đang có cơ hội
kiến thiết trở lại. Nhờ phúc đức tổ tiên chúng tôi hôm nay mới có
cơ hội đến với nhau một cách chính thức, chắp tay nguyện cầu Tam
Bảo nhờ pháp lực gia trì thỉnh cầu tất cả liệt vị trở về đoàn tụ
cùng nhau cầu nguyện để giải trừ nghiệp cũ, mở ra một hội mới,
nhìn nhận nhau, ôm lấy nhau, thương lấy nhau như đồng bào ruột
thịt, không còn phân biệt Bắc Nam, gái trai, già trẻ, chủng tộc,
tôn giáo, đảng phái và ý thức hệ.
Tất
cả chúng ta đều là đồng bào của nhau, gặp vận nước rủi ro trên
đường tranh đấu cho độc lập tự do, bị dồn vào thế phải đối lập
nhau. Vì tự vệ mà phải chống đối nhau. Nhưng phúc đức tổ tiên để
lại vẫn còn cho nên hôm nay tất cả chúng ta mới được trở về lại
với nhau, nhìn nhận nhau như đứa con một nhà để cùng hứa với nhau
là sẽ học cho thật thuộc cái bài học của đau thương trong quá khứ.
Nguyện từ nay về sau không để cho đất nước bị chia cắt một lần nào
nữa.
Nguyện từ nay về sau khi có khó khăn nội bộ sẽ không nhờ bất cứ
một thứ thế lực ngoại bang nào can thiệp nữa .
Nguyện từ nay về sau sẽ không khởi xướng
một cuộc chiến tranh ý thức hệ nào nữa.
Từ
nay về sau sẽ không sử dụng vũ khí bên ngoài để tranh đấu với nhau
nữa.
Nguyện từ nay về sau sẽ nổ lực xây dựng một xã hội thực sự dân chủ
để có thể giải quyết tấ t cả mọi bất đồng bằng những phương thức
hòa bình dân chủ mà không phải xử dụng đến những phương tiện tranh
đấu bạo động giữa những người đồng bào với nhau.
Lạy
chư vị tổ tiên huyết thống và chư vị tổ tiên tâm linh chứng minh
cho chúng con. Trước mặt quý ngài chúng con xin kính cẩn phát
nguyện như thế và chúng con biết rằng một phen đã phát
nguyện được như thế thì mọi oan ức sẽ bắt đầu
được hoàn toàn giải tỏa và những vết thương đã hằn sâu trong
lòng chúng con sẽ bắt đầu được chữa lành.
Hôm
nay Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan Cứu Bạt được thành
lập. Mọi nhà đều có thiết lập bàn thờ cầu nguyện. Chúng con ngưỡng
nguyện ơn trên Tam Bảo độ thoát cho tất cả mọi hương linh để tất
cả được nương vào pháp lực vô song mà chuyển hóa siêu thăng. Chúng
tôi và các con cháu nguyện sẽ lên đường để tiếp tục chí hướng của
liệt vị hương linh. Chúng tôi nguyện mang quý vị trong trái tim để
đi về hướng tình huynh đệ và nghĩa đồng bào và luôn luôn nhớ rằng
bầu và bí đều luôn luôn có thể leo chung một giàn, và gà một mẹ
không bao giờ nên bôi mặt đá nhau, và tuệ giác ấy của tổ tiên sẽ
soi đường chỉ lối cho chúng ta bây giờ và mãi mãi.
Lời khấn
nguyện này được in trên báo Giác ngộ và sẽ được đọc trong Đại trai
Đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan ở Chùa Non, Sóc Sơn, ở miền Bắc.
Xin quí vị, trong 3 ngày Đại Trai đàn Chẩn tế miền Bắc cũng xin
hướng về để cầu nguyện, thiết lập bàn thờ linh ở tại hiên nhà, ăn
chay trong 3 ngày, cầu nguyện trong 3 ngày, phóng sanh trong 3
ngày. Trong 3 ngày này hãy thực tập nói với nhau những lời yêu
thương, tha thứ, chấp nhận, bao dung và thực tập hết sức nghiêm
chỉnh, hướng tất cả công đức đó về cầu nguyện cho hàng triệu đồng
bào chúng ta đã chết một cách oan ức, tối tăm trong suốt thời gian
của cuộc chiến.
Nam Mô
Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni
Trai Đàn
chẩn tế Giải oan ở miền Bắc sẽ được sẽ được thiết lập vào những
ngày 20., 21 và 22 tháng tư dương lịch tại Sóc Sơn.
Xin quí
vị chắp tay để chúng ta niệm Đức Thế Tôn và danh hiệu chư Đại Bồ
Tát :
Nam Mô
Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni
Nam Mô
Đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi
Nam Mô
Đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền
Nam Mô
Đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm
Mỗi danh
hiệu niệm 3 lần./.