Kính thưa quí vị Tôn Đức, kính thưa các Thầy, các Sư cô, các
Phật tử và chư vị quan khách,
Chúng ta sẽ bắt đầu bằng xướng tụng bài Tào Khê một dòng biếc
và sau đó niệm danh hiệu Đức Bồ Tát Quan Thế Âm.
Tào
Khê một dòng biếc - chảy mãi về phương Đông
Tào
Khê
là
tên một dòng suối, một dòng suối tâm linh, một dòng suối văn
hóa, một dòng Thiền ở phương Đông. Dòng suối này đã nuôi dưỡng
đời sống dân tộc chúng ta hằng bao thế kỹ, đã cung cấp cho
chúng ta không biết bao nhiêu giọt nước Cam Lồ để chúng ta
thỏa mãn được cái đói, khát, hiểu và thương của chúng ta.
Trong chúng ta có nhiều người đói và khát! Chúng ta đói
tình thương, chúng ta khát hiểu biết! Suốt đời có
lẽ chúng ta mãi rong tìm hiểu biết và thương yêu? Chúng ta
biết rằng hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu trong
trái tim chúng ta không có hiểu và thương. Trong chúng ta có
người chưa bao giờ được hưởng hai gia bảo đó, chưa bao giờ cảm
thấy mình được hiểu và mình được thương.
Trong đạo Phật có nói đến những loài quỷ đói, những loài ma
đói, những loài cô hồn, có cái bụng rất lớn, bao tử rất đói mà
khả năng tiếp nhận rất là ít, cổ họng nhỏ bằng cây kim cho nên
không nuốt được thức ăn. Cái đói ở đây không hẵn là đói cơm,
đói gạo mà là đói hiểu và đói thương! Nếu có một giọt nước cam
lồ của Tào Khê rót vào trong cổ họng thì cổ họng nhỏ bé bằng
cây kim đó lấy lại được tầm cỡ, hình dáng trước kia của nó và
nó bắt đầu có khả năng tiếp nhận được hiểu và thương.
Cha mẹ chúng ta đã và đang hiến tặng cho chúng ta rất nhiều
hiểu và thương nhưng chúng ta vì giận hờn, vì tri giác sai lầm
nên không có khả năng tiếp nhận được tình thương và sự hiểu
biết của cha mẹ. Có được giọt nước cam lồ của dòng Tào Khê thì
chúng ta sẽ có được khả năng tiếp nhận hiểu và thương đó.
Tào
Khê một dòng biếc
Chảy
mãi về phương Đông
Thiền Tào Khê bắt đầu từ Lục Tổ Huệ Năng và trong ca dao Việt
Nam cũng có một bài nói về Tào Khê:
Đá
mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.
Thiền Tào Khê là gia sản văn hóa Việt Nam! Nếu chúng ta biết
bảo quản, khai thác, dòng thiền đó có thể cung cấp cho chúng
ta những giọt nước cam lồ, khiến cho đứa con có thể hiểu được
cha, hiểu được mẹ, truyền thông lại được với cha, với mẹ. Có
được một giọt nước của dòng Tào Khê thì chồng có thể nói với
vợ bằng ngôn từ hòa ái và vợ hiểu được những khó khăn, bức
xúc, lo lắng của chồng.
Trong đời sống chúng ta mỗi người cần phải có một chiều hướng
tâm linh! Chúng ta là nhà chính trị, nhà văn hóa, nhà doanh
thương, nhà giáo dục, là người cha, là người mẹ, là một công
dân, chúng ta cần phải có một chiều hướng tâm linh trong đời
sống hàng ngày của chúng ta. Chiều hướng tâm linh sẽ giúp
chúng ta tháo gỡ những khó khăn, bức xúc, buồn tủi, giận hờn
để chúng ta có thể tái lập lại truyền thông với những người
trong gia đình, trong cộng đồng, trong xã hội.
Tào
Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước Tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần.
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tượng trưng cho khả năng hiểu và
thương. Đức Bồ Tát này thực tập lắng nghe với tâm từ bi và sử
dụng lời ái ngữ để giúp cho người khác có thể hiểu được mình
và mình hiểu được người khác. Quan Thế Âm có nghĩa là lắng
nghe tiếng nói đau thương để tìm tới mà giúp đỡ.
Quan
Âm bình Nước Tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Trong cuộc đời chúng ta có nhiều bụi bậm, nhiều đau khổ, nhiều
khó khăn. Bình nước cam lồ của Quan Thế Âm có thể rửa sạch tất
cả những dấu vết đau buồn, oan khổ của quá khứ.
Cành
Dương rưới Cam Lộ
Làm sống dậy mùa Xuân
Chúng ta có thể nghĩ rằng mùa Xuân đã mất rồi, bây giờ chúng
ta chỉ có mùa Đông lạnh lẽo, vườn xanh tươi không còn nữa chỉ
còn những cây khô héo đã chết rồi, nhưng nếu có giọt nước cam
lồ của Quan Thế Âm, giọt nước của dòng Tào Khê có thể làm sống
dậy một mùa Xuân. Khi nào hiểu và thương được tái sinh, chúng
ta có được hạnh phúc thì mùa Xuân lại trở về.
Tào
Khê một dòng biếc
Chảy
mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Cành Dương rưới Cam Lộ
Làm sống dậy mùa Xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng
Nam mô Bồ tát Cam lộ vị
Khi cổ họng ta bỏng cháy, đề hồ (chất bổ, cam lộ) nhỏ vào sẽ
làm cổ họng ta mát dịu, thân tâm ta lắng dịu và ta nhận thấy
rằng hạnh phúc là điều có thực.
Avalokitesvara
là tên của Đức Quan Thế Âm, Avalokita có nghĩa là nhìn
cho sâu, lắng nghe cho kỹ, lắng nghe cho sâu. Esvara có
nghĩa là tự do tự tại, nhờ quán chiếu, nhờ nhìn sâu mà mình
đạt tới tự do. Không có hạnh phúc nào mà không thiết lập trên
tự do! Khi chúng ta hệ lụy, chúng ta bị ràng buộc, khi chúng
ta đánh mất tự do thì chúng ta không còn hạnh phúc nữa, vì vậy
cho nên tự do là nền tảng của hạnh phúc. Chúng ta đạt được tự
do đó là do quán chiếu và khám phá sự thật cho nên gọi
Avalokita là quán chiếu, Esvara là trở thành con
người tự do, tự do bằng thực tập quán chiếu, lắng nghe.
Khi các thầy, các sư cô xướng tụng bài này, chúng ta có thể
tham dự vào bài thực tập, chúng ta không cần xướng tụng theo,
chúng ta chỉ cần ngồi cho thật thoải mái, buông thư tất cả các
bắp thịt ở trong cơ thể và chúng ta để ý đến hơi thở, chúng ta
mở lòng ra. Nếu chúng ta có những đau nhức, những căng thẳng
trong cơ thể, chúng ta để những năng lượng đó đi vào mà chuyển
hóa những đau nhức và những căng thẳng đó trong thân ta. Nếu
chúng ta có những căng thẳng, những đau nhức, nỗi lo sợ, cơn
giận hay nỗi khổ niềm đau ở trong tâm ta, thì chúng ta cũng có
thể mở trái tim ra để cho năng lượng Bồ Tát và tăng thân đi
vào ôm ấp, chuyển hóa những năng lượng đó ở trong tâm ta. Chỉ
cần thực tập năm phút, chúng ta sẽ thấy những đau nhức trong
tâm chuyển hóa và ta sẽ thấy nhẹ nhàng hơn. Chúng ta có người
thân đang bị bệnh, đang trong tình trạng lo lắng và tuyệt vọng
không thể tới hôm nay, chúng ta cũng có thể gởi năng lượng này
về cho người đó bằng cách nghĩ tới người đó hay gọi thầm tên
người đó thì năng lượng của Đức Quan Thế Âm và tăng thân sẽ
chuyển về ngay trong giờ phút này và người đó ở nhà sẽ thấy
bớt khổ.
Tào
Khê một dòng biếc
Chảy
mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Cành Dương rưới Cam Lộ
Làm sống dậy mùa Xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng
Nam mô Bồ tát Cam lộ vị
Quyền
lực thế gian: Tiền bạc, Danh vọng, Quyền hành và Sắc dục
Kính thưa liệt vị,
Chúng ta ai cũng có quyền lực, ai cũng có quyền hành, ai cũng
có quyền uy, nhưng mà cách chúng ta sử dụng quyền lực của
chúng ta khác nhau.
Chúng ta là người cha, chúng ta có quyền của người cha, nếu
chúng ta không biết sử dụng quyền của cha thì chúng ta sẽ gây
đau khổ cho người con và gây đau khổ luôn cho người cha tức là
gây đau khổ cho chính chúng ta.
Chúng ta là môt bậc thầy, chúng ta có quyền của một bậc thầy
nhưng mà nếu chúng ta lạm dụng quyền làm thầy, nếu chúng ta sử
dụng sai lầm quyền làm thầy của mình thì chúng ta sẽ gây đau
khổ cho người đệ tử, cho người học trò và do đó gây đau khổ
cho chính chúng ta.
Chúng ta là một nhân viên cảnh sát, một người công an, nhưng
chúng ta sử dụng quyền lực của một người cảnh sát, công an một
cách sai trái thì chúng ta gây đau khổ cho người và gây đau
khổ cho chính mình. Hầu hết chúng ta đều biết rằng nếu mà lạm
dụng quyền lực thì gây đau khổ cho chính bản thân mình và cho
những người khác.
Chúng ta là một vị giám đốc một doanh nghiệp, chúng ta có
quyền lực và quyền hành nhưng cách chúng ta sử dụng quyền lực
và quyền hành không đúng có thể gây đau khổ cho những người
trong doanh nghiệp và cho chính chúng ta.
Chúng ta là một vị tổng thống, một vị quốc truởng, một vị chủ
tịch nước, một vị tổng bí thư, chúng ta có quyền hành và nếu
chúng ta không biết sử dụng quyền hành cho đúng cách, chúng ta
cũng gây đau khổ cho chính bản thân và cho rất nhiều người
khác.
Thường chúng ta nghĩ rằng, càng có nhiều quyền uy, càng có
nhiều quyền lực thì càng có nhiều hạnh phúc, điều này không có
chắc? Hoa kỳ là một siêu cường quốc có rất nhiều quyền lực, có
quân đội rất hùng mạnh, có vũ khí tối tân, có nền kinh tế
đứng hàng đầu trên thế giới. Biết bao nhiêu người thanh niên
Mỹ đang mơ ước trở thành tổng thống Hoa Kỳ vì tổng thống Hoa
Kỳ là người có quyền lực rất lớn. Nếu chúng ta có thì giờ để
nhìn vào đời sống của tổng thống Hoa Kỳ chẳng hạn, để có thể
thấy được tầm mức hạnh phúc của một người đang làm tổng thống.
Theo tôi thấy thì tổng thống Bush là người có rất nhiều khó
khăn, bức xúc, lo lắng, đau khổ, tuyệt vọng! Những người nghèo
trong nước chúng ta có thể ngủ ngon được sau một ngày làm việc
nặng nhọc nhưng tôi không thể nghĩ rằng Tổng thống Bush có thể
ngủ ngon được?.
Chúng ta nói đến cuộc chiến ở Iraq, tổng thống Mỹ điên đầu vì
cuộc chiến này! Ban đầu mình nghĩ mình có quyền lực rất lớn,
mình có thể giải quyết được vấn đề Iraq theo ý muốn của mình
và sau đó bị kẹt vào tình trạng Iraq! Bây giờ đi tới cũng
không được, mà đi lui cũng không được! Làm sao có thể hạnh
phúc được khi biết rằng những người trai trẻ trong nước mình
mỗi ngày đang chết ở bên đó! Tình trạng càng ngày càng xấu
hơn, những người dân Iraq thuộc về các đảng phái khác nhau họ
đang chết mỗi ngày! Vì vậy tôi không tin là tổng thống Bush có
thể ngủ ngon được! Triết gia Pháp Jean-Jacques Rousseau đã
nói rằng, “Những người có quyền lực lớn nhất không bao giờ
thấy mình có đủ quyền lực”. Mà nếu quyền lực của một
người như Tổng thống Bush chưa đủ để có hạnh phúc thì quyền
lực bằng ba mươi phần trăm hay năm mươi phần trăm của quyền
lực đó làm sao có hạnh phúc được?
Tuy vậy, một số rất đông nghĩ rằng hễ có quyền nhiều là có
hạnh phúc nhiều! Quyền lực đó không hẳn là quyền lực chánh trị
hay quyền lực của một vị giám đốc trong một công nghiệp lớn.
Khi có nhiều tiền thì cũng có nhiều quyền, có nhiều danh thì
cũng có nhiều quyền, có quyền hành nhiều thì sẽ có sắc dục
nhiều, cho nên bốn cái đó có dính líu tới nhau, ít nhiều làm
cho biết bao nhiêu người điên đảo, tiền bạc, sắc dục, tiếng
tăm và quyền hành.
Trong thời gian cư trú và giảng dạy đạo Phật ở tây phương,
chúng tôi có cơ hội tiếp xúc được với nhiều người có rất nhiều
tiền bạc, tiếng tăm, quyền hành và khám phá rằng trong giới
quyền lực đó có những người cũng cực kỳ đau khổ! Chúng ta có
thể đi đến kết luận là dầu có đầy đủ bốn cái quyền lực đó vẫn
có thể khổ đau một cách da diết như thường, tiền bạc, danh
vọng, quyền hành và sắc dục.
Quyền uy tâm linh: Đoạn đức, Trí đức và Ân đức
Trong khi đó thì trong đời sống tâm linh, chúng ta cũng đi tìm
một thứ quyền lực nhưng mà thứ quyền lực trong nếp sống tâm
linh nó không tạo ra đau khổ cho mình hay cho người khác, trái
lại nó có thể ban phát rất nhiều hạnh phúc cho chính mình và
cho người khác. Chúng ta hãy dùng danh từ đạo đức, đạo
là con đường, mỗi người trong chúng ta phải có một con đường
đi, một con đường lý tưởng, một con đường tinh thần, một con
đường tâm linh. Với con đường đó chúng ta có thể chế tác ra
quyền lực tinh thần gọi là đức, chữ đức có thể dịch là
vertu, vertu là đức hạnh, có người dịch
là pouvoir, pouvoir là quyền năng. Trong truyền
thống đạo Phật, chúng ta nói đến ba thứ quyền uy tâm linh, đó
là đoạn đức, trí đức và ân đức.
- Quyền uy tâm linh thứ nhất: đoạn đức, đoạn có
nghĩa là chặt đứt. đoạn đức tức là khả năng có thể cắt đứt
được gốc rễ của khổ đau!
Chúng ta
có thể gọi những gốc rễ đó bằng tên thật của nó là thèm
khát, đam mê, oán thù, oán hận và
si mê. Người nào tu tập, biết được con đường tu tập thì có
khả năng chặt đứt những thèm khát, những hận thù, những si mê
của mình! Tại vì hận thù, thèm khát, si mê đem đến rất nhiều
đau khổ, nó là địa ngục ngay trong trái tim của mình! Con
đường tâm linh để đi tới khả năng chặt đứt những thèm khát,
những hờn oán và những si mê đó, cái đó gọi là đoạn đức.
Đó là quyền uy rất lớn, nó đem lại cho người thực tập nhiều
hạnh phúc và người chung quanh rất nhiều hạnh phúc,
-
Quyền uy tâm linh thứ hai: trí đức tức là có trí tuệ.
Thực tập theo con đường tâm linh này thì mình có trí tuệ, trong
đạo Phật gọi là prajnã tức bát nhã là một thứ
tuệ giác có khả năng giúp mình tháo gỡ được những bức
xúc, những mâu thuẩn, những xung đột, những tuyệt vọng trong
nội tâm của mình. Nhưng đây không phải là thứ ân huệ được ban
xuống từ một đấng thần linh nào mà là do công phu thực tập của
mình! Trí đức không phải là sự chất chứa những điều mình học
hỏi được trong kinh sách. Những kiến thức có được từ sách vở,
sách triết học, sách tôn giáo, sách khoa học đó không phải là
tuệ giác và có khi nó còn ngăn cản tuệ giác. Tuệ giác là một
cái thấy sâu sắc vào trong lòng thực tại, nó có khả năng giúp
mình tháo gỡ tất cả những bức xúc, những oán hờn, những mâu
thuẩn, những khổ đau trong chính bản thân mình và người khác,
trước hết là người mình thương. Trí đức là quyền lực vô song,
nó giải phóng mình được ra khỏi những phiền não, những tuyệt
vọng, những bức xúc, những mâu thuẫn trong nội tâm mình và
giúp những người khác cũng làm đươc như vậy.
-
Quyền uy tâm linh thứ ba: ân đức nghĩa là quyền lực
giúp mình có thể tha thứ, có thể chấp nhận và có thể thương
yêu. Thường thì mình chỉ thương những người dễ thương và mình
muốn trừng phạt những người không dễ thương. Nhưng với ân
đức thì mình không những thương được người dễ thương mà
mình còn có khả năng thương được người khó thương và thương
được cả những người rất là dễ ghét. Những người tội phạm,
những người gọi là kẻ thù, mình cũng thương được và muốn cho
họ được chuyển hóa, được hạnh phúc mà không hề có tâm niệm
muốn trừng phạt, muốn làm cho họ khổ, đó gọi là ân đức.
Thỉnh
thoảng ta thấy ta một vị chân tu thực hiện được ba cái Đức đó.
Vị đó không cần phải làm gì nhiều, sự có mặt của vị đó trong
một tỉnh làm cho tỉnh đó đẹp, sự có mặt của một vị đó trong
một gia đình làm cho gia đình đó hạnh phúc. Mục đích của sự tu
học, của sự thực tập là để đạt tới ba cái đức, đó là
đoạn đức, trí đức và ân đức.
Tôi đã
từng quán sát và tôi thấy rằng người nào có khả năng buông bỏ,
có khả năng quán chiếu, có khả năng tha thứ và thương yêu là
những người hạnh phúc nhất, là những người có khả năng làm
hạnh phúc cho rất nhiều người chung quanh.
Khi mình
đã có được ba loại quyền uy đó, quyền lực đó thì những quyền
lực khác như tiền tài, danh vọng nó trở thành những lợi khí
rất là mầu nhiệm, có thể giúp dân, giúp nước được. Nhưng mà
nếu không có ba cái Đức này trong đời sống tâm linh thì những
quyền lực kia, những danh vọng kia, sự giàu có kia nó có thể
gây ra đau khổ rất lớn.
Đạo Phật
không lên án những người làm giàu, đạo Phật không chống báng
những chuyện làm cho nước giàu, dân mạnh, nhưng đạo Phật nói
là phải có một chiều hướng tâm linh để cho quyền lực, danh
vọng và tiền tài kia được dùng, được sử dụng vào những mục
tiêu tốt đẹp để có thể làm lắng dịu, làm vơi bớt những nỗi
khổ, niềm đau trong xã hội.
Doanh
nghiệp và Gia đình
Có nhà
doanh thương Đức tên là Frederick, ông là nhà doanh thương
trẻ, rất có tài, ông thành công khá nhiều trong sự nghiệp
doanh thương của ông và bà vợ ông tên là Claudia lúc nào cũng
sẵn sàng tổ chức những buổi tiếp tân cho chồng, rất tự hào về
sự thành công của chồng. Hai người chia sẻ nhau giấc mơ về sự
thành công trong doanh nghiệp và hy vọng rằng sau này mình
giàu có, có thế lực, có nhà cao cửa rộng, có xe đẹp, có một
gia đình hạnh phúc thì cuộc sống của mình sẽ là cuộc sống có
lý tưởng và mình sẽ không còn nghĩ đến việc gì khác.
Nhưng mà từ từ,
doanh nghiệp trở thành nhà độc tài, nó chiếm tất cả thì giờ,
nó chiếm tất cả năng lượng của Frederick. Frederick ngày đêm
chỉ nghĩ tới doanh nghiệp, chỉ nghĩ tới sự thành công của mình
và vì vậy không còn thì giờ cho chính mình, cho vợ và hai đứa
con của mình.
Mình
không có mặt cho chính mình, mình có những đau nhức, những
căng thẳng trong tâm, mình không có khả năng, không có thì giờ
bảo quản và chăm sóc cái thân của mình và như vậy mình làm gì
có thì giờ để chăm sóc và thương yêu những người trong gia
đình của mình.
Claudia ngày
càng thấy cô đơn, ban đầu bà nghĩ là những công việc xã hội sẽ
làm cho bà bớt buồn và bà sẽ có được niềm vui trong công tác
làm việc xã hội, về sau bà ghi tên học ở các trường đại học để
lấy thêm một bằng tiến sĩ nữa, bà học tâm lý học và trở thành
nhà tâm lý trị liệu. Cái mục đích là để quên đi những thì giờ
trống vắng không có chồng bên cạnh, Nhưng tất cả những cái đó
đều không lấy đi được sự cô đơn, buồn tủi vì sự thường xuyên
vắng mặt chồng, vì thiếu sự quan tâm, chăm sóc của chồng.
Ngày mà đứa con trai Phillip đi vào nhà thương để mổ tim, các
bác sĩ mổ tới bảy giờ đồng hồ và Claudia phải ở suốt bảy giờ
đồng hồ bên cạnh đứa con mà Frederick không có thì giờ để vào
nhà thương thăm con. Đến khi chính Claudia vào nhà thương để
mổ bướu mà Frederick cũng không về được để lo cho vợ.
Người chồng đang chạy theo sự thành công, chạy theo quyền lực
và nghĩ rằng nếu có được quyền lực đó thì sẽ có được hạnh phúc
lớn? Claudia có những đêm khóc và nói với Frederick „anh
không có thì giờ cho em, anh không có thì giờ cho con, chừng
nào anh mới có thể dành thì giờ cho em và cho các con?“.
Frederick nói rằng „doanh nghiệp chưa tìm ra người có thể
thay anh được! Em ráng đợi một thời gian nữa, khi tìm ra được
người thay thế thì anh sẽ có thì giờ cho em và cho các con“.
Cứ như vậy, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác,
lời hứa đó chưa kịp thực hiện thì Frederick bị tai nạn xe hơi
và chết lúc anh 51 tuổi. Giấc mơ đó chưa bao giờ thành, sẽ
không bao giờ thành, giấc mơ có thì giờ để sống thoải mái
với vợ và các con. Và chỉ trong vòng ba hôm người ta tìm
được vị giám đốc mới khác thay thế chỗ của Frederick. Trước đó
thì nói là không ai có thể thay thế được, chỉ có Frederick là
người duy nhất có khả năng hướng dẫn, điều hành được doanh
nghiệp!
Claudia đã tới tham gia một khóa tu dành riêng cho giới doanh
nhân ở Làng Mai và Claudia đã kể lại câu chuyện của cuộc đời
bà cho chúng tôi nghe.
Quan Âm bình nước tịnh - tẩy sạch dấu phong trần
Đạo Phật không có chống lại sự làm giàu, đạo Phật không có
chống lại sự thành công nhưng đạo Phật nói với chúng ta là
quyền lực, danh vọng và tiền tài không đủ để có hạnh phúc
chân thật, phải có một chiều hướng tâm linh, phải chế tác
đoạn đức, phải chế tác trí đức, phải chế tác ân
đức.
Bên Mỹ có tờ báo của giới doanh thương tên là Fortune
- Cơ nghiệp. Mỗi năm tờ báo này cho ra
danh sách 100 doanh nghiệp đứng hàng đầu trên thế giới nhằm
khuyến khích, hướng dẫn người ta đầu tư vào đó. Đó là những
doanh nghiệp đang trên bước đường thành công! Khi mình nghiên
cứu bản chất của 100 doanh nghiệp đó thì mình thấy có những
điểm giống nhau trong cả 100 doanh nghiệp đó là họ thực tập ba
cái mà mình thấy trong đạo Phật có nói tới là đoạn đức, trí
đức và ân đức.
Những doanh
nghiệp đó hành xử trên cơ bản của tình thương và trí
tuệ. Tìm hiểu, chăm sóc những gia đình của công nhân trong
doanh nghiệp trở thành rất quan trọng, rất căn bản. Họ nghĩ
tới vấn đề chăm sóc trẻ em của công nhân, họ nghĩ tới việc
chăm nom người bệnh tật, những ngày nghỉ cho công nhân. Khi
công nhân có những tai nạn, có những khó khăn thì có những quy
chế để có thể giúp đỡ cho công nhân. Khi công nhân có những
khó khăn về tinh thần thì được quan tâm, chăm sóc và trị liệu.
Nói tóm lại, cái nét chung của 100 doanh nghiệp lớn đó là có
tình thương, có sự ưu ái đến tất cả mọi người trong doanh
nghiệp. Có khả năng chấp nhận tha thứ và thương yêu thì doanh
nghiệp biến thành một cộng đồng, một gia đình, trong đó người
ta có thì giờ chăm sóc nhau, tìm hiểu nhau và nâng đỡ nhau.
Trong khi làm như vậy lợi nhuận đã không những không giảm đi
mà lại còn tăng thêm vì mọi người tin nhau và ai nấy đều hết
lòng làm công việc của mình. Đó là đạo đức trong doanh nghiệp!
Kết luận là khi quyền lực tâm linh đi chung với quyền lực thế
gian thì mình có sự thành công trong lãnh vực chính trị cũng
như là trong lãnh vực thương mãi.
Chúng ta có những ông vua dầu hỏa, vua điện ảnh, vua xe hơi,
và nếu chúng ta lắng nghe họ chúng ta thấy được những nỗi khổ
niềm đau của họ, chúng ta biết rằng họ rất khao khát tình
thương, họ rất khao khát sự hiểu biết. Phần lớn những người
trong các giới đó đều là những người cô đơn, đều là những
người không có bạn, những người tới với họ, họ đều nghi ngờ là
những người muốn lợi dụng mình chớ không phải thật sự vì tình
bạn.
Giám đốc hãng xe hơi Ford, tức là William Ford có tới tu viện
chúng tôi để tu 48 giờ đồng hồ, ông là thế hệ thứ tư của gia
đình Ford, ông có chi nhánh ở tại Việt Nam. Ông tới để tập
ngồi thiền, tập đi thiền hành, tập để thở, tập ôm ấp và làm
cho lắng dịu những căng thẳng, những đau nhức, những lo lắng,
những sợ hãi ở trong thân và trong tâm. Tôi có tặng cho ông ta
một cái chuông nhỏ, tôi nói mỗi ngày thỉnh cái chuông này và
thở nhiều lần để làm lắng dịu thân tâm. Ông đã kể cho tôi biết
bao nhiêu chuyện về những nhà tỷ phú ở bên Mỹ những khổ đau da
diết của họ, những cô đơn, những sợ hãi của họ.
Chúng tôi có một tu viện ở tiểu bang Vermont miền Đông Bắc
nước Mỹ gọi là tu viện Rừng Phong. Và tu viện Rừng Phong đã
giúp lập nên những trung tâm thực tập Thiền cho những tiểu
bang gần đó. Trung tâm Thực Tập Chánh Niệm Mindfulness
Practice Center và chúng tôi trình bày lối thực tập nó không
có tính cách tôn giáo, trong tu tập đó không có tượng Phật,
không có đốt hương, không có cúng lạy. Người ta tới đó chỉ để
thực tập ngồi, ngồi như thế nào cho nó khỏe, cho nó lắng dịu
thân tâm. Thực tập đi, đi như thế nào để cho thảnh thơi, an
lạc. Thực tập thở, thực tập ăn cơm, ăn cơm như thế nào để khi
ăn cơm có hạnh phúc. Ăn là một sự thực tập, có nhiều người ăn
mà suy nghĩ những chuyện khác, ăn hấp tấp và không có hạnh
phúc trong khi ăn. Những người đến đó để học thở, học mỉm
cười, học thư giãn, học buông thư, học uống trà, học đi, học
ngồi. Chúng tôi muốn trình bày, muốn cống hiến sự thực tập
trong đạo Phật với dạng không tôn giáo để cho mọi người tới
thực tập mà không có cảm tưởng là mình bị dụ vào trong một tôn
giáo mới.
Bửa đó bên bờ sông có một ông già, ông đang ngồi đọc cuốn sách
đã nhàu nát, một người đệ tử Hoa kỳ của tôi đi ngang qua thấy
ông già này thấy tội nghiệp quá, ghé lại ngồi một bên thì thấy
ông đang đọc cuốn sách Peace is every step, An Lạc
Từng Bước Chân của thầy Nhất Hạnh, cô ta có cảm tình liền
với ông vì ông đang đọc sách của thầy mình. Thấy ông ta có vẻ
cô đơn, lủi thủi một mình cho nên cô mới nói „ nè bác, gần
đây chỉ có bảy cây số thôi, có trung tâm thực tập chánh niệm,
do chúng tôi, đệ tử của thầy lập ra, nếu bác muốn thực tập thì
mời bác tới thực tập với chúng tôi?“ Ông già cảm ơn và
tiếp tục đọc sách. Cô đệ tử người Mỹ đó nghĩ rằng ông già này
không có xe hơi, thành ra cô mới nói „ nè bác cho con địa
chỉ, chừng nào có dịp sinh hoạt, con sẽ tới nhà bác chở bác
đi?“ Và ông già móc túi ra lấy card visit của mình và
trên card visit đề tên Rockefeller Laurence, nhà tỷ phú bậc
nhất ở New York.
Cành dương rưới Cam Lộ - làm sống dậy mùa Xuân
Cách đây gần 14 năm, tháng 10 năm 1993, chúng tôi có tổ chức
một khóa tu dành riêng cho những người có phận sự giữ an ninh
trong xã hội, trước hết là những nhân viên cảnh sát rồi tới
các vị quan tòa, các ban giám đốc các nhà tù. Khóa tu có chủ
đề là bảo vệ và phụng sự mà không căng thẳng hay sợ hãi
( Protecting and serving without stress or fear) - Bảo hộ an
ninh và phụng sự xã hội mà không căng thẳng hay sợ hãi - Khóa
tu đó chỉ dành cho các vị cảnh sát, các vị quan tòa, các vị
chưởng khế, các luật gia, những người cai tù, những người
trong ban gíám đốc các trại cải tạo.
Người đứng ra giúp chúng tôi tổ chức là nữ đại úy cảnh sát
tên là Cheri Maples, phận sự của cô là đào tạo và huấn luyện
nhân viên cảnh sát trong toàn tiểu bang Wisconsin. Cô này đã
tham dự khóa tu vào năm 1991, cô được nghe nói rằng mình có
thể ôm cây súng với tinh thần chánh niệm và mình có thể sử
dụng cây súng của mình với tình thương và vì vậy cô ghi tên
tham dự khóa tu. Trong khóa tu cô khám phá ra được rằng tu tập
chánh niệm nó đem tới cho cô một thứ quyền lực mới mà cô không
có khi cô làm nhân viên cảnh sát. Khi mới đi vào cảnh sát thì
cô rất là lý tưởng, muốn đem lại hòa bình, hạnh phúc, an lạc
cho dân. Nhưng khi vào trong nghề rồi thì thấy điều này rất
khó và cảm thấy mình bất lực, cô không tin vào nghề của mình
nữa, là một nghề có thể đem lại an ninh, hòa bình thật sự cho
dân. Vì vậy cho nên cô chán nãn, cô bắt đầu uống rượu, hút
thuốc, hư hỏng như những người cảnh sát khác. Mãi cho đến khi
gặp được khóa tu thì cô mới tìm ra được lý tưởng của mình.
Khóa tu này được tổ chức tại Madison tại tiểu bang Wisconsin.
Ban đầu chúng tôi gặp nhiều khó khăn vì có nhiều người viết
thư phản đối, là tại sao trộn lẫn tôn giáo vào trong chính
quyền? Chúng tôi mới thanh minh là khóa tu này không dính gì
tới tôn giáo hết! Những người nhân viên cảnh sát, những ông
tòa, những người cai tù đến đây để học thở, học mỉm cười, học
thư giản, học đi, học ngồi như thế nào để buông bỏ căng thẳng,
đau nhức trong thân, trong tâm, để đừng có sợ hãi, để có khả
năng truyền thông lại với những người đồng nghiệp và những
người trong gia đình. Hoàn toàn không có tính cách tôn giáo,
sẽ không có tượng Phật, sẽ không đốt nhang, sẽ không tụng
kinh, sẽ không có lễ lạy. Rốt cuộc chúng tôi tổ chức được khóa
tu đó ở tại Greenlake Madison Wisconsin, khóa tu rất là khó
nhưng mà thành công viên mãn. Cheri Maples vị thiền sinh cảnh
sát đó đã hết lòng tổ chức.
Những nhân viên cảnh sát bên Mỹ họ có cuộc sống rất là căng
thẳng! Họ đi ra ngoài với bộ đồng phục, người ta ngán ghét họ
nhưng cũng sợ họ, rồi về nhà họ quen, họ cũng ra oai như ở
ngoài, họ dùng quyền lực đó với vợ con họ! Quí vị có biết
không, số những người cảnh sát Mỹ dùng súng của mình để tự
sát nó còn nhiều hơn số những người cảnh sát bị những người
trong băng đảng hay tội phạm bắn chết? Vì vậy cho nên
những người cảnh sát, những người cai tù, những luật gia đó có
rất nhiều căng thẳng, có rất nhiều khổ đau, họ rất cần tới
những giọt nước cam lồ của dòng suối Tào Khê.
Sau khi đã tổ chức thành công khóa tu ở tại Wisconsin, nữ cảnh
sát viên đó đã được mời đi tổ chức những ngày thực tập chánh
niệm tại các trung tâm cảnh sát khác. Từ đó đến giờ Cheri
Maples đã tổ chức được 400 khóa tu và những ngày chánh niệm
dành riêng cho giới cảnh sát. Hiện bây giờ Cheri Maples chịu
trách nhiệm về tất cả các cảnh sát viên đang thực hành nhiệm
vụ chăm sóc cho những phạm nhân đang bị quản chế và những phạm
nhân đã được phóng thích nhưng dưới sự giám sát trong toàn
tiểu bang Wisconsin. Cheri Maples đã thọ tam quy ngũ giới và
14 giới tiếp hiện, tuy rằng chưa được truyền đăng làm giáo thọ
nhưng có khả năng tổ chức, giảng dạy, hướng dẫn thực tập cho
giới cảnh sát, không những trong tiểu bang Wisconsin mà còn
trong các tiểu bang khác ở Hoa Kỳ. Cheri Maples biết là có một
tiểu bang đứng sau lưng mình và cho mình quyền lực rất lớn,
nhưng Cheri Maples biết sử dụng quyền hạn của mình rất là đúng
phép, khi gặp một người làm bậy thì Cheri sẽ không nói rằng
anh làm bậy, anh sẽ bị bỏ tù!
Cheri nói
„ rủi cho anh quá, tôi cảm thấy rủi cho anh quá, ngày xưa
tôi cũng có làm những lầm lỗi như vậy, nó làm cho tôi đau khổ
và tôi thoát khỏi được nhờ sự thực tập và mong rằng anh cũng
làm được như tôi“. Thay vì dùng lời dọa dẫm, Cheri có thể
nói được những lời dễ thương như vậy, trong đạo Phật gọi là ái
ngữ.
Ông thị
trưởng của thành phố Madison đã tặng một văn phòng khá lớn ở
tại tòa thị sảnh khá lớn để Cheri làm nơi huấn luyện thiền
sinh, hướng dẫn thực tập thiền ngồi, thiền đi, thiền thở,
thiền buông thư. Cheri đã thành lập tăng thân, một đoàn thể tu
tập, tuần nào cũng tới thực tập và hướng dẫn thực tập không
những cho những người cảnh sát mà còn cho dân chúng trong
vùng. Bộ trưởng bộ tư pháp của tiểu bang Wisconsin mời Cheri
Maples tới và yêu cầu Cheri làm việc chung với tất cả các
nghành cảnh sát trong tiểu bang vì Cheri đã có văn bằng tiến
sĩ luật.
Cheri đã
quy y Phật, giữ năm giới và thực tập rất giỏi, đã dùng phương
pháp thực tập thiền quán để giúp người ta tháo gỡ những đau
nhức, những căng thẳng trong thân, trong tâm. Giúp người ta
tái lập lại truyền thông và đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Cheri còn làm nhiều công tác rất là hay để giúp cho những cộng
đồng nghèo đói, nhiều bạo động chuyển hóa.
Kỳ này
về thăm quê hương và chia sẻ pháp môn tu tập thì trong số mấy
trăm vị thiền sinh cư sĩ có mặt Cheri Maples đang ngồi đâu
đây, có lẽ lát nữa mời Cheri lên đây giới thiệu với quí vị. Đó
là một người phụ nữ, đã thực tập 21 năm với tư cách của một
nhân viên cảnh sát và hiện bây giờ đang chịu trách nhiệm với
tất cả nhân viên cảnh sát lo cho các phạm nhân bị quản chế và
các phạm nhân sắp được thả ra, đã được thả ra nhưng dưới sự
giám sát.
Người nữ
đại úy thiền sinh cảnh sát Cheri Maples hiện giờ cũng có mặt
nơi đây, đang mặc áo tràng như là một Phật tử Việt Nam.
Chất
liệu của tình thương - làm lắng dịu muôn lòng
Trước
khi để thì giờ cho quí vị đặt vài câu hỏi và chia sẻ, tôi xin
kết luận bài nói chuyện hôm nay như thế này.
Khi mình
có tình thương ở trong lòng, khi mình có chất liệu từ bi ở
trong lòng, thì doanh nghiệp mình đang thực hiện nó sẽ đem lại
cho mình hạnh phúc, sẽ đem lại cho những người khác trong
doanh nghiệp đó hạnh phúc, nếu mình chỉ nghĩ tới chuyện thành
công của mình mà thôi, mà không có đặt chất liệu tình thương
vào trong doanh nghiệp của mình thì doanh nghiệp của mình có
thể tạo ra khổ đau cho mình, cho gia đình mình, cho những
người trong doanh nghiệp. Nếu mình là nhà chính trị, nếu mình
có tình thương ở trong trái tim của mình và mình hành động
trên cơ bản của tình thương đó, mình sẽ không bao giờ đau khổ
và sẽ không gây đau khổ cho người khác.
Quyền
lực,danh vọng, tiền tài khi có tình thương nó trở thành ra
những dụng cụ rất mầu nhiệm. Khi vắng mặt của tình thương thì
những cái đó trở nên những yếu tố phá vỡ hạnh phúc. Vì vậy cho
nên theo đưổi một sự nghiệp chính trị, một sự nghiệp xã hội,
một sự nghiệp văn chương, môt sự nghiệp doanh thương mình phải
có chất liệu của từ bi, của tình thương ở trong lòng của mình
và cái đó chính nó bảo vệ cho mình, nó bảo vệ cho sự nghiệp
của mình. Một trăm doanh nghiệp mà báo Fortune nêu ra đó là
những doanh nghiệp đứng hàng đầu tại vì trong đó có chất liệu
tình thương. Những người giám đốc, những người điều khiển
doanh nghiệp đó luôn luôn nghĩ tới những người cộng sự, biết
được những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc của những
người trong doanh nghiệp và vì vậy cho nên có thì giờ để lân
mẫn, để hỏi han, để cứu giúp, để hỗ trợ và vì vậy cho nên tình
thương đó đã làm cho doanh nghiệp trở thành một cộng đồng, một
gia đình và khi làm việc đó căn cứ trên tình thương, mình
không có đánh mất thì giờ, mình không có đánh mất năng lượng
mà thâu nhập của mình càng ngày càng lớn, đó là sự thật đã
được chứng minh.
Đứng về
phương diện chính trị cũng vậy, nếu có thì giờ để chăm sóc
mình, chăm sóc những người thân trong gia đình mình, chăm sóc
của những người trong cộng đồng của mình thì mình sẽ tạo dựng
ra được sự cấu kết, được sự đoàn kết, được sự tin tưởng chung
và điều này đem lại sự thành công trong sự nghiệp chính trị
của mình.
Cho nên
ba cái đức kia rất cần thiết trong tất cả mọi người trong
chúng ta, chúng ta làm cha, làm mẹ, làm anh, chúng ta làm thầy
giáo, làm thị trưởng, làm giám đốc, làm tổng thống, làm bộ
trưởng, chúng ta phải biết rằng hạnh phúc có được khi mà chúng
ta có chiều hướng tâm linh, chúng ta biết chế tác tình thương
và chính tình thương đó nó sẽ giúp cho chúng ta sử dụng những
quyền lực của chúng ta một cách đúng phép.
Vấn đáp
:
Kính
thưa quí vị, nếu có điều gì muốn phát biểu hay có câu hỏi gì,
đây là lúc chúng ta chia sẻ với nhau.
Hỏi:
Trong các quốc gia chậm phát triển, nền kinh tế đang còn thấp
thì dù có trí tuệ bao nhiêu đi nữa, có tình thương đến mức đại
từ bi nhưng không có đủ năng lực về kinh tế thì làm sao giải
quyết được vấn đề nghèo khổ, đói khát và bệnh hoạn?
Thiền
sư Thích Nhất Hạnh:
Mình muốn thành công trong lãnh vực kinh tế, chính trị, kỷ
thuật là phải có trí tuệ, mình rất là cần chất xám, sở dĩ mình
nghèo là tại mình thiếu chất xám, thiếu trí tuệ, sở dĩ mình
không có đoàn kết được vì mình thiếu tình thương. Trí tuệ và
tình thương rất cần cho sự phát triển kinh tế và xã hội như
vậy rồi, tại sao mình không có thấy? Mình có nạn tham nhũng
nhưng mình chưa có trừ được nạn tham nhũng tại mình chưa có đủ
trí tuệ để tìm ra những giải pháp hữu hiệu để chống tham
nhũng. Thành ra vấn đề không phải tại mình dư trí tuệ mà tại
mình thiếu trí tuệ. Vấn đề không phải là tại mình dư tình
thương mà tại mình thiếu tình thương, thiếu tình thương cho
chính mình và cho những người khác.
Hỏi:
Một con người mà có ba Đức: Đoạn đức, Trí Đức và Ân Đức. Những
người như vậy thì Tùy xử tác chủ, Lâm xứ tác chân xin
Hòa thượng giảng lại những điều mà Hoà thượng dịch ra từ sách
Lâm Tế Ngữ Lục.
Thiền
sư Thích Nhất Hạnh:
Tùy xử tác chủ là đi đâu mình cũng làm chủ được mình,
mình không đánh mất mình, mình không trở thành công cụ nô lệ
cho kẻ khác. Tùy xử tác chủ là ở đâu mình cũng nắm được quyền
tự chủ của mình.
Lâm
xứ tác chân
là đứng ở đâu mình cũng là con người thật của mình, chớ không
phải là ra giữa công chúng thì mình như thế này, mà đi vào
buồng riêng thì mình trở thành con người khác. Đi vào trong
hoàn cảnh này mình cũng con người đó, đi vào hoàn cảnh kia
mình vẫn là con người đó, mình có chân thật của mình, mình
không có mang mặt nạ. Khi mà muốn được việc thì phải mang mặt
nạ, khi xong việc thì gở mặt nạ xuống. không có khả năng,
không có năng lực để cho người ta thấy được con người thật của
mình.
Một con
người mà có được ba cái Đức: Đoạn Đức, Trí Đức và Ân Đức, hạnh
phúc rất là lớn, những người đó ban phát hạnh phúc rất là
nhiều. Và sự thành công đó là sự thành công mà không có đem
lại một tai hại nào. Vì có nhiều người thành công trong sự
nghiệp của mình thì chính là nạn nhân trong chính sự thành
công của mình. Những người sống bằng gươm giáo, sẽ chết vì
gươm giáo. Những người sống bằng doanh nghiệp của mình, làm
giàu, leo lên mức địa vị cao chính là nạn nhân của địa vị của
chính mình. Còn sự thành công trong ba phương diện Đoạn Đức,
Trí Đức và Ân Đức đó là sự thành công không có mang theo tiêu
cực đó. Chỉ có một sự thành công mà trong đó mình không là nạn
nhân cho sự thành công của mình, đó là sự thành công vể đạo
đức.
Mình
không có làm là nạn nhân cho sự thành công của mình, còn ngoài
ra bất cứ với một ngành nào, mình theo đuổi sự nghiệp nào,
mình có thể chết vì sự nghiệp đó. Như tướng De Gaules giải
phóng nước Pháp, đã được xem như là người hùng nước Pháp nhưng
mà cuối sự nghiệp của vị Tổng thống ông đã khổ đau rất nhiều,
ông đã không giải quyết được vấn đề rối loạn trong nước. Ông
đã mở ra một cuộc trưng cầu dân ý và người ta đã trả lời Non
và ông đã đau khổ rất nhiều. Nhìn quanh ta thấy rất nhiều
người thành công trên bước đường sự nghiệp của họ, cho đến
cuối cùng họ chết vì sự thành công đó.
Lâm
xứ tác chân
là chỗ nào mình cũng là con người thật của mình và sự thành
công của đạo đức đó không bao giờ làm hại mình hết, nó chỉ gây
hạnh phúc mà thôi, đó là lời dạy Tổ của Lâm Tế Ngữ Lục.
Hỏi:
- Như Thầy
giảng, quyền lực như là phương tiện để mang lại hạnh phúc cho
con người nếu hội đủ ba cái Đức (Đoạn Đức, Trí Đức, Ân Đức )
mà ở đây có thể nói ngắn gọn là từ bi và trí tuệ. Vậy thì nếu
có một người, họ có quyền lực đó, khi ra ngoài xã hội, họ có
mang lại hạnh phúc cho mình và cho tha nhân nhưng ở trong gia
đình của họ, họ có một gia đình tồi tệ, cụ thể có một bà vợ
quá quắc, có một đàn con hư đốn và sự thực trong gia đình ông
không bao giờ có hạnh phúc, vậy thì liệu rằng với quyền lực đó
thì ông sử dụng như thế nào để hóa giải trong gia đình để mang
lại hạnh phúc cho bản thân ông, cho vợ ông, cho bản thân ông ?
- Câu
hỏi thứ hai như Thầy giảng, ở những khóa tu bên Mỹ, không có
thắp hương, lể bái gì, nếu như ở Việt Nam nhiều người có tâm
huyết muốn tổ chức khóa tu Thiền cho những người có quyền lực,
có rất nhiều căng thẳng trong cuộc sống, thì đâu là những yếu
tố cần thiết để thực hiện ở Việt Nam trong thời điểm này ?
Thiền
sư Thích Nhất Hạnh:
Những người mà không có hạnh phúc, những người mà làm khổ
người thương của mình, những người đó mình không có tin tưởng
giúp được cho xã hội có hạnh phúc. Cho nên tôi thường nói các
bạn, khi mình muốn bỏ phiếu cho ai, mình nên nhìn vào đời sống
cá nhân và gia đình của người ứng cử viên. Coi họ đối xử với
vợ họ, với con họ bạn bè họ như thế nào để mình biết được con
người của họ. Nếu họ không có khả năng truyền thông được với
vợ, thương yêu được con thì làm sao họ có thể làm hạnh phúc
cho dân, cho nước. Cho nên trước khi mình bỏ phiếu cho ứng cử
viên nào, mình phải có quyền biết về đời tư ứng cử viên đó.
Chứ không phải đọc một bản tiểu sử, những bằng cấp và công
việc của người đó mà mình có thể có một cái thấy đầy đủ để
chọn lựa được. Con người là căn bản, mà nếu con người là con
người hư thì sẽ mang lại đau khổ cho những người khác.
Còn vấn
đề thực tập, những phương pháp trong đạo Phật có thể trình bày
như là một phương pháp không cần một niềm tin tôn giáo. Tại vì
đạo Phật là truyền thống tâm linh mà trong đó tôn giáo chỉ là
một phần nhỏ, nhiều người trong đạo Phật chúng ta chỉ nghĩ là
sự cúng lễ, bái sám, cúng dường, tín ngưỡng nhưng mà đó chỉ là
cái vỏ ngoài của đạo Phật thôi, đạo Phật không phải chỉ vỏ của
tôn giáo, tín ngưỡng đó, nếu mình chọc thủng được cái vỏ đó,
mình đi vào được một kho tàng tuệ giác rất là lớn.
Đạo Phật
lúc ban đầu là một kho tàng tuệ giác, và tuệ giác đó mình đạt
tới được thì mình có thể tháo gỡ những khó khăn, những muân
thuẩn, những bức xúc, những tuyệt vọng, những hờn tủi của mình
và sau khi mình làm được rồi thì mình cũng giúp người khác làm
được như vậy và tự độ, độ tha. Bản chất của đạo Phật trước hết
là tuệ giác, phần tôn giáo chẳng qua là phần phụ nhưng hầu hết
chúng ta chỉ thấy đạo Phật là một tôn giáo cho nên đem tuệ
giác đó ra để cống hiến mọi người, để giúp cho mọi ngưòi tháo
gỡ mọi khó khăn trong đời sống của họ mà không cần họ trở
thành Phật tử, đó là những chuyện chúng tôi đã làm trong bốn
mươi năm qua.
Mục đích
của mình không phải là có thêm tín đồ Phật giáo tại vì tín đồ
Phật giáo có quá nhiều rồi mà tu hành cũng không có đàng hoàng
gì mấy, mình đã chăm sóc số lượng đó cũng đã hết hơi rồi, dù
người ta theo đạo thêm cũng không đủ sức lo cho họ. Thành ra
phương pháp của chúng tôi ở Tây phương là khuyên người nào,
đạo nào cứ giữ đạo đó. Quí vị có thể tới học hỏi những pháp
môn, những thực tập Phật giáo mà quí vị cũng không cần phải
trở thành tín đồ Phật giáo, và vì vậy cho nên các thiền sinh
từ các truyền thống khác như Do thái giáo, Cơ đốc giáo, Hồi
giáo tới thực tập rất nhiều và sau khi mà họ thực tập tháo gỡ
được những khó khăn của họ, họ có thể trở về với truyền thống
của họ mà giúp đào sâu rồi chuyển hóa những truyền thống đó
cho thích hợp với thời đại mới, tại vì những truyền thống đó,
tuổi trẻ cũng bắt đầu từ bỏ vì không có khả năng làm mới để
thích hợp với những nhu yếu của thời đại mới.
Hôm
trước tôi có tổ chức một ngày Quán niệm cho giới Doanh thương
của thành phố Hồ chí Minh và những vùng phụ cận, có rất nhiều
người Công giáo tới tham dự và họ cũng thực tập, cũng nghe
Pháp thoại, họ cũng dự Pháp đàm, họ cũng Thiền hành được và
cũng có hạnh phúc như những người Phật tử. Thực tập để lắng
dịu căng thẳng, những đau nhức trong thân và trong tâm, đó là
thực tập mà ai cũng có thể làm được mà mình không cần phải quy
y, thọ giới gì hết. Và khi mà làm được rồi, thì tuy là chưa
quy y, chưa thọ giới nhưng mà trong nội dung đã có chất liệu
của tam quy và ngũ giới rồi. Nó hay như vậy đó.
Trong
khóa tu mà tôi tổ chức cho những cảnh sát viên đó, cố nhiên là
chúng tôi không có lập bàn thờ và tổ chức lể quy y thọ năm
giới nhưng mà chúng tôi đã trao truyền tam quy ngũ giới bằng
một đường lối khác, chúng tôi có một văn bản mà các cảnh sát
viên đã đọc, đã chấp nhận và đã long trọng hứa trước quần
chúng của khoá tu.
- Thay
vì nói là con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho
con trong cuộc đời, tự quy y Phật thì mình nói rằng, tôi có
niềm tin nơi khả năng hiểu biết và thương yêu nơi tôi. Nghĩa
là tôi công nhận rằng nếu tôi thực tập thì tôi có thể phát
triển trí tuệ và từ bi trong tôi và cái đó nó tương đưong với
quy y Phật tại vì Phật là trí tuệ và từ bi. Trí và bi viên
mãn.
- Thứ
hai là tôi có đức tin nơi con đường nó làm cho tôi phát triển
được mỗi ngày cái trí tuệ và từ bi đó, đó là quy y Pháp, một
câu nói không có tính cách tôn giáo.
- Tôi có
niềm tin nơi những đoàn thể thực tập với nhau, nâng đỡ nhau để
mà chế tác năng lượng của Hiểu biết và Thương yêu, cái đó là
quy y Tăng. Và cố nhiên năm giới mình đã trình bày với ngôn
ngữ hoàn toàn không có tôn giáo.
- Ý thức
được rằng đã có quá nhiều đau khổ gây ra bởi sự chém giết và
tàn sát, tôi nguyện từ đây về sau tôi sẽ làm đủ cách để tôn
trọng sự sống của mọi người, mọi loài, đó là giới bất sát.
Không cần danh từ Phật, Pháp và Tăng trong đó.
Có một
số đông những vị công an cảnh sát, các vị luật sư, các vị
chánh án, các vị giám đốc các trại cải tạo đã tiếp nhận ba quy
và năm giới với hình thức không tôn giáo đó. Thành ra tất cả
mọi người đều có thể thừa hưởng tuệ giác của đạo Phật mà không
cần tới màu sắc của tôn giáo, điều này là một điều rất là
khích lệ.
Hỏi:
Xin Ôn Nhất Hạnh đọc và giảng giải lại bài thơ „Một mũi tên
rơi hai lá cờ ảo tưởng“, vì bài thơ này mà có người nói, „Ôn
chống quốc gia và Ôn chống luôn cả cộng sản, muốn cho lá cờ
này rơi xuống và lá cờ kia rơi xuống“?
Thiền
sư Thích Nhất Hạnh:
Trong đạo Phật đó chúng ta được nghe đến con đường Trung Đạo
tức là con đường không có bị kẹt vào ý niệm chống đối nhau như
là Sinh và Diệt, Có và Không, Tới và
Đi, Một và Khác. Khi mà chúng ta quán sát
thực tại, chúng ta thấy hình như mọi vật đều có sanh, có diệt,
có có, có không, có tới, có đi, có một có khác nhưng mà nếu
chúng ta quán chiếu sâu sắc, chúng ta sẽ tìm thấy rằng thực
tại nó thoát ra khỏi những khái niệm mà chúng ta có tức là
sanh, diệt, có, không, tới, đi, một và khác.
Ví dụ
như đám mây, chúng ta nghĩ rằng đám mây có sanh có diệt, sanh
tức là từ chỗ không có đó, sanh trở thành đám mây và diệt là
từ những đám mây có đó tới những đám mây không có đó. Đứng về
phương diện hình thức thì ta thấy đám mây có sanh và có diệt
nhưng mà quán chiếu cho kỹ, thì chúng ta thấy rằng là đám mây
không phải từ không trở thành có, trước khi nó là đám mây, nó
đã là cái gì rồi. Nó là nước sông, nước hồ, nước biển, nó là
sức nóng của mặt trời, và đám mây chẳng qua là sự tiếp tục của
những cái đó thôi. Đám mây không phải từ không mà trở thành
có, cho nên bản chất của đám mây là vô sanh.
Khi đám
mây trở thành mưa, thành tuyết đó, thì nó đâu có phải từ có
trở thành không đâu, nó chỉ thay hình đổi dạng thôi. Một đám
mây không bao giờ thể chết được, nó không bao giờ từ có trở
thành không được, đám mây chỉ trở thành tuyết, thành mưa mà
thôi. Bởi vậy bản chất của đám mây là vô sanh bất diệt. Và vì
vậy cho nên sanh và diệt là hai ảo tưởng, hai tri giác sai
lầm, hai khái niệm. Và khi mình tu tập, quán chiếu cho sâu,
mình tiếp xúc được bản chất vô sanh bất diệt của đám mây cũng
như của bản thân mình và ý niệm có và không cũng vậy. Ý niệm
có là một khái niệm và không cũng là một khái niệm, quán chiếu
cho kỹ thì thấy thực tại nó vượt khỏi ý niệm có và không.
Thi sĩ
Vũ Hoàng Chương nói: Đâu có lẽ có chiều qua mà không sáng nay.
Và vì vậy cho nên những quan niệm đó, những ý niệm là đó là
những ảo tưởng và nếu mình có thiền quán, có sức mạnh của Niệm
và của Định thì thiền quán đó giống như vùng năng lượng.
Một mũi
tên nếu mà nó bắn trúng được cái đích tức là cái chủ đề của
Thiền quán, thì nó làm rơi một lần hai cái ảo tưởng mà mà
chính cái ảo tưởng đó thường đi đôi với nhau.
Có
và không, (to be or not to be) là một cặp ảo tưởng, sanh và
diệt (to be born or to die) cũng là một cặp ảo tưởng.
Và
chuyện này là mình đang nói về Thiền quán chứ không nói về
chính trị. Có người nói rằng “Thầy chống Quốc gia và chống
cả Cộng sản, muốn cho lá cờ này rơi xuống và lá cờ kia rơi
xuống”. Tôi bị oan ức nhiều nhưng có điều là tôi không có
khổ. Tôi mỉm cười là vì tôi hiểu được thiên hạ có sự sợ hãi,
có sự nghi kỵ. Có cả triệu người nghi mình là Cộng sản trá
hình, có cả triệu người nghi mình là CIA trá hình nhưng mà
mình tỉnh bơ, mình biết mình đang đi đâu, là ai thành ra đâu
cần phải khổ, vì vậy cho nên những điều người ta nói đó đâu có
đụng được tới tôi, là nhờ tôi có quán chiếu, có tu tập.
Trong Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan, chúng ta sẽ khai mạc vào ngày
mai tại Quốc tự Diệu Đế, tôi sẽ nói ba bài Pháp thoại, đề tài
ba bài Pháp thoại là Người thương của tôi đã chết, tôi phải đi
tìm ở đâu? Tôi có thể làm gì để cho người thương tôi được nhẹ
nhàng và siêu thoát và nếu quí vị có thì giờ thì xin tới Chùa
Diệu Đế. Bài giảng đầu và bài giảng thứ hai vào lúc 5 giờ
rưỡi chiều. bài pháp thoại thứ ba vào 8 giờ sáng. Cũng một đề
tài đó nếu chúng ta đi liên tiếp ba ngày chúng ta sẽ nghe từ
đầu đến cuối của bài giảng.
Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan Bình Đẳng có mục đích là đưa chúng
ta về với nhau và công nhận rằng có những khổ đau, những oan
khuất đã xẩy ra trên đất nước và trên dân tộc trong mấy mươi
năm chinh chiến. Chúng ta tới với nhau không phân biệt Nam,
Bắc, trai, gái, già, trẻ, tôn giáo hay là đảng phái chánh trị.
Chúng ta tới với nhau như những ngưòi đồng bào và chúng ta cầu
nguyện cho tất cả những người đồng bào xấu số đã tử nạn trong
chiến tranh, có những đồng bào đã chiến đấu và đã chết vẻ vang
trong cuộc đời tranh đấu của họ cho độc lập, tự do, cho đất
nước nhưng cũng có biết bao nhiêu người chết trong tăm tối,
trong oan khổ, trong tủi nhục, có những người đã chết mà hài
cốt chưa tìm ra được, quân nhân cũng như thường dân.
Sở
dĩ chúng ta gọi trai đàn này là Trai Đàn Bình Đẳng là vì chúng
ta muốn cầu nguyện cho tất cả mọi người đồng bào của chúng ta.
Họ có thể là cha, là chồng, là con trai, là em trai của chúng
ta. Họ có thể là mẹ, là vợ, có thể là em gái, con gái, con dâu
của chúng ta. Chúng ta cầu nguyện là cầu nguyện cho tất cả mọi
người không phân biệt Nam, Bắc, tôn giáo, chủng tộc, đảng phái
chánh trị vì vậy cho nên trai đàn được gọi là Trai Đàn Bình
Đẳng. Chúng ta cũng sẽ cầu nguyện cho nạn nhân cuộc tàn sát,
cá nhân hay là tập thể, chúng ta sẽ cầu nguyện cho những người
vượt biển đã trở thành nạn nhân của hải tặc và của sóng gió.
Kỳ
này về nước chúng tôi được phép của Thủ tướng chính phủ hợp
tác với Giáo hội Phật giáo Việt Nam được tổ chức những trai
đàn như vậy. Giải oan lập một đàn tràng bên sông, cầu nguyện
cho tất cả những người thân của mình.
Ngày hôm qua chúng tôi đi thực tập Cổ Phật Khất Thực, tất cả
các Thầy, các Sư cô, tám chín trăm người đã cầu nguyện bằng
từng bước chân của mình, mỗi bước chân là một lời cầu nguyện,
mỗi bước chân là một lời chú nguyện cho tất cả các đồng bào tử
nạn trong cuộc chiến. Chúng tôi đã đi như thế nào để cho các
đồng bào đó có thể sử dụng hai chân của chúng tôi để đi trên
quê hương. Mỗi bước đã về, mỗi bước đã tới, mỗi hơi thở đã về,
mỗi hơi thở đã tới để cảm thấy rằng những oan khổ của mình đã
được công nhận và sự chuyển hóa bắt đầu ngay trong trái tim
của người cầu nguyện. Chúng tôi đã hoàn tất cùng với Giáo Hội
Phật Giáo thành phố Hồ Chí Minh và Giáo Hội Trung Ương Trai
Đàn Chẩn Tế Bình Đẳng Giải Oan tại Chùa Vĩnh Nghiêm và điều
làm tôi cảm động hết sức là tất cả mọi người tham dự Trai Đàn
Chẩn Tế đã cầu nguyện bằng tất cả trái tim của họ, đã đóng góp
tất cả những gì mình có thể đóng góp để xây dựng nên Đàn
Tràng, để tổ chức cầu nguyện và cả vạn người tới cầu nguyện
trong suốt ba ngày đêm liên tiếp.
Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan Vĩnh Nghiêm là một Phật sự vĩ
đại, có nhiều đồng bào Công Giáo đã tới cầu nguyện với người
Phật Tử và ai cũng thực tập nghiêm chỉnh hết lòng. Không ai
nghĩ đến sự thành công của tổ chức, ai cũng để hết tâm tư cầu
nguyện với tất cả tình thương và vì vậy Trai Đàn Chẩn Tế Vĩnh
Nghiêm là một tổ chức, một hoạt động rất là thánh thiện, rất
là thần thánh. Khi mà có cuộc tranh đấu của đồng bào Phật Tử
cho nhân quyền vào thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, tôi thấy
rằng là cuộc đấu tranh dân quyền đó, rất là thần thánh, mọi
người không ai nghĩ tới thành công của riêng mình, danh vọng
của riêng mình, mọi ngưòi đều tham dự vào cuộc tranh đấu với
một trái tim rất là trong sáng, rất là thánh thiện thì Trai
Đàn Chẩn Tế Vĩnh Nghiêm xảy ra y hệt như vậy, tôi có thể cảm
thấy được tình đồng bào, tình đồng đạo nó rất là đẹp, của tình
huynh đệ nuôi dưỡng tất cả mọi người qua Phật sự rất là đẹp
lúc đó. Có bao nhiêu người đã khóc trong Trai Đàn Chẩn Tế và
những giọt nước mắt đó đều có khả năng làm lành những vết
thương ở trong lòng lâu nay bị bít lấp bởi những lo lắng buồn
khổ hằng ngày.
Chúng tôi đã đề nghị là tất cả mọi người gia đình đều thiết
lập bàn thờ linh ở trước hiên nhà trong ba ngày ba đêm liên
tiếp, ngày nào cũng thắp hương, đêm nào cũng thắp hương, ngày
nào cũng cúng cháo, thay cháo mới, thay nước mới và trong suốt
ba ngày ăn chay cho tinh khiết, thực tập phóng sanh, cứu giúp
cho những người nghèo đói bệnh tật, và nhứt là giữ cho ba
nghiệp thanh tịnh, chủ yếu chỉ nói những điều lành, chỉ làm
những điều lành và hồi hướng tất cả công đức đó để cho các
hương linh được chuyển hóa và được siêu thăng và chúng ta cầu
nguyện như là một dân tộc của cá một nước. Ở miền Nam chúng
ta đã làm được như vậy.
Chúng tôi nhớ đến buổi đi chiêu linh ở cầu Rạch Chiếc, nơi đó
có những trận đánh rất là lớn và bao nhiêu người chết, chính
tôi đã tới cùng với Ban Kinh Sư để làm lể chiêu linh tại đó,
chúng tôi đã thả xuống dưới sông Rạch Chiếc một dãi lụa để làm
chiếc cầu cho các vong linh đi lên linh vị và sau khi tuyên
điệp, cầu nguyện, thí thực, chúng tôi kéo các dãi lụa đó lên,
tưởng là nó nhẹ, một người kéo không có lên, hai người kéo
cũng không có lên , ba người kéo cũng không có lên, rốt cuộc
phải tám người mới kéo lên được dãi lụa đó từ dưới nước đi
lên, một điều đó thôi chứng tỏ rằng những oan khổ, những uất
ức mà dân tộc ta đã chịu đựng trong bao nhiêu năm chiến tranh
nó lớn như thế nào.
Hôm nay chúng ta có cơ hội tới với nhau như những người đồng
bào ruột thịt hướng tâm hồn về hướng đó cầu nguyện hết lòng
cho tất cả các hương linh, cho tất cả các đồng bào của chúng
ta đã bỏ chúng ta mà đi trong thời gian của cuộc chiến, thì
đây là một phương pháp tâm lý trị liệu cho người sống, để
người sống có thể chữa lành được những thương tích đó, những
oan khổ đó, những bức xúc đó mà không có trao truyền lại cho
các thế hệ sau này. Theo nguyên tắc trị liệu tâm lý thì nếu
mình cứ đè nén những đau khổ, những oan ức đó xuống tiềm thức
thì nó không bao giờ được chuyển hóa, và có khi mình hành
động, mình nói năng là do những oan khổ, những bực bội đó nó
thúc đẩy. Không biết tại sao mình nói những câu nặng như vậy,
mình có hành động thô bạo như vậy đối với những người thương.
Mình đâu có biết rằng chính những hành động đó, những lời nói
đó phát xuất từ những khổ đau, những bức xúc, những oan khổ
đang có mặt ở chiều sâu tâm thức. Và phép thực tập là phải đưa
nó lên trên mặt phẳng của ý thức công nhận, cầu nguyện, thực
tập để chuyển hóa nó.
Như vậy chúng ta không nên trao truyền những oan khổ đó cho
con cháu, nếu không sau này con cháu sẽ bạo động, sẽ dữ dằn
với những người thương của chúng nó và chúng nó không hiểu tại
sao mà chúng nó hành xử như vậy ? Cho nên chúng ta không có
quyền trao truyền những nỗi khổ niềm đau lại cho con cháu,
chúng ta hãy thực tập ngay bây giờ để chuyển hóa nỗi khổ,
niềm đau đó, trong khi đó chúng ta làm được. Vì vậy Trai Đàn
Chẩn Tế là một phương tiện rất là khoa học để mà chuyển hóa
những nỗi khổ, niềm đau đang có trong mỗi chúng ta và đồng
thời chúng ta cũng cầu nguyện được cho âm siêu dương thái. Kết
quả của cầu nguyện này không thể lường đuợc.
Đất nước chúng ta đang ở trên một vận hội mới, nếu chúng ta
không có chữa lành những thương tích, nếu người Nam không xích
lại gần với người Bắc, người ngoài nước không xích lại với
người trong nước thì chúng ta đánh mất cơ hội này của dân tộc.
Cho nên sự thực tập để thống nhất lòng người, để chuyển hóa
những nghi kỵ, những hận thù đã gây ra trong quá khứ là một
phép thực tập rất là quan trọng và đứng về phương diện hình
thức cầu nguyện cho người chết giải oan nó có như hành động
tôn giáo mê tín nhưng nhìn cho kỹ phương pháp thực tập rất là
khoa học. Vì vậy xin mời tất cả liệt vị Tôn đức, các Thầy, các
Sư cô, các vị Phật tử, các vị quan khách hết lòng thực tập,
nếu mình không có tới dự lễ được ba ngày đó thì mình nên thiết
lập bàn thờ linh trước hiên nhà mình và mình thực tập hết lòng
trong khu phố của mình hay là nơi thôn ấp của mình. Xin nhắc
lại Trai Đàn Chẩn Tế sẽ được khai mạc lúc 5giờ30 sáng mai,
chúng ta sẽ chiêu linh tại địa điểm mà có rất nhiều đồng bào
tử nạn và mỗi ngày chúng ta có một bài pháp thoại ngày đầu là
5 giờ 30 chiều và ngày chót vào 8 giờ sáng. Xin cám ơn các vị
Tôn đức và chư vị.
Phụ
Lục :
Lời chia sẻ của Cheri
Maples
Sư
cô Đẳng Nghiêm thoát dịch
Kính bạch Thầy
Con cảm thấy lòng tràn ngập tình thương khi nói tới vị Thầy mà
con trân quí nhất. Con muốn nói là đất nước Việt Nam đã làm
cho con rất là xúc động, một phụ nữ Việt Nam đã mời con về nhà
ăn cơm, đối với con đây là một biểu hiện của sự cởi mở, của sự
bao dung, của tình thương rất là lớn của con người Việt Nam,
con xin cúi đầu khâm phục.
Năm 1991, con đến Làng để tham dự khóa tu đầu tiên với thầy,
với sư cô Chân Không và các thầy, các sư cô. Đó là lần đầu
tiên con tiếp xúc với pháp môn tu tập chánh niệm và nó đã làm
thay đổi cuộc đời của con. Lúc đó con còn là nữ cảnh sát viên
còn trẻ, làm việc được bảy năm. Sau khi mà con trở về sở làm
của mình thì con không hiểu tại sao mọi người rất là dễ thương
với con? Nhưng sau đó con nhận thấy rằng, chính cái năng lượng
của con đã thay đổi! Trái tim của con từ từ mở ra lần nữa,
thay vì dùng quyền của mình để ép buộc người khác, bắt người
khác nghe theo, thì con bắt đầu tìm hiểu về họ, tập nhìn từ
cái nhìn của họ. Điều quan trọng nhất mà con đã học được là
khi mình có quyền lực của cả một tiểu bang đứng sau lưng mình
và có rất nhiều người đầu tư vào mình thì mình phải rất là
khiêm cung với cái điều đó, vì khi chỉ một người cảnh sát viên
dùng quyền lực đó một cách không cần thiết thì nó làm ảnh
hưởng đến danh tiếng cái đồn cảnh sát, cái ty cảnh sát đó cho
cả nước và cho toàn thế giới.
Có
một điều rất tuyệt vời xảy ra sau một khóa tu là khi mà người
cảnh sát phải bắt giữ một phạm nhân vào tù thì trước tiên
người cảnh sát đó phải xá chào người phạm nhân đó, xá chào
“cộng đồng” những người phạm nhân đó! Con có nói với người
cảnh sát làm việc với con là „một khi mà mình xá chào những
người phạm nhân coi như là mình đã về, đã tới rồi đó“.
Bây giờ con thấy điều quan trọng nhất của con là tạo dựng nên
những cộng đồng mà người ta có thể đến làm việc với nhau và
nâng đỡ cho nhau và giữ gìn an ninh trật tự trong khu phố của
họ mà không cần đến sự can thiệp của những người cảnh sát.
Như vậy chúng con, những người cảnh sát khỏi cần phải làm việc
nữa?
Và
điều cuối cùng mà con muốn nói là bây giờ việc làm của con
không còn khó nữa, ngày xưa con khổ rất là nhiều với công việc
của con. Nhưng nhờ với sự thực tập con biết học cách để từ từ
tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc, đó là sự có mặt cho chính
con và cho những người khác. Nếu mà con có sự như lý tác ý ở
trong tâm của con thì con có thể làm những điều tốt, những
điều đúng mà không cảm thấy như mình có quyền làm những việc
đó.
Tất cả những điều mà con đã và đang làm được, đó là nhờ công
ơn của vị Thầy và con là một đệ tử rất thành tâm. Con mang ơn
tất cả các Thầy và các Sư cô đã giữ nền tảng căn bản này cho
tất cả moi chúng con. Con rất mang ơn là được về Việt Nam,
được có mặt trên đất nước này và con sẽ mang đất nước của quí
vị, đất nước của Thầy đi bất cứ nơi nào mà con đi và con sẽ
thực tập cho tất cả quí vị và con sẽ thực tập cho mọi người
trên thế giới này.
(ngày 01.04.2007 tại Trung Tâm Festival, Huế)
-------------------------------
Ghi
chú :
īśvara:. Theo luật biến âm nên “iśvara” thành “eśvara”. Có
người hiểu “īśvara” là một “người nam” quán chiếu thế giới
("lord", "ruler", "sovereign", "master"), nên dịch là Quán Tự
Tại tức là vị Bồ Tát lắng nghe mọi tiếng thế gian. Có người
hiểu “svara” là “Âm”, nên dịch là Quán Thế Âm
Fortune
magazine là tạp chí Mỹ, có từ 1930. Tạp chí này nổi tiếng do
bảng xếp hạng hàng năm về 500 công ty Mỹ có lợi nhuận cao
nhất, giàu nhất. Tổ hợp Time Warner, xuất bản tạp chí này cũng
xuất bản tờ Times.
Fortune
500 – Danh sách những công ty giàu nhất nước Mỹ – xếp hạng
hàng năm – Danh sách 100 lấy từ đây.
William
Clay Ford, Jr. cháu đời thứ 4 (chắt) của ông Henry Ford –
người sang lập công ty xe ô tô Ford.
Đại úy
(bà) Cheri Maples, giám đốc về huấn luyện và tuyển quân
(director of training and recruiting) cho Nha cảnh sát thành
phố Madison, Wis. Vốn là một Phật tử Mỹ (a practicing
Buddhist), sau đó bà đến Làng Mai và đã gia nhập dòng Tiếp
Hiện.
|