Thực
tập hơi thở có chánh niệm :
Xin đại chúng cùng
thực tập.
Thở vào, tôi để ý tới
hơi thở vào, thở ra tôi để ý tới hơi thở ra, để ý hơi thở vào,
để ý hơi thở ra. Thở vào tôi theo dõi hơi thở vào từ đầu tới
cuối, thở ra tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu cho tới cuối. Theo
dõi hơi thở vào, theo dõi hơi thở ra. Thở ra tôi thấy hơi thở ra
của tôi đã chậm hơn, sâu hơn, chậm hơn.
Thở vào tôi để ý tới
hình hài tôi, toàn thân tôi, thở ra tôi làm lắng dịu toàn thân.
Để ý toàn thân khi thở vào, làm lắng dịu toàn thân khi thở ra.
Thở vào tôi thấy khỏe, thở ra tôi thấy nhẹ, thở vào thấy khỏe,
thở ra thấy nhẹ. Thở vào tôi cảm thấy hứng thú khi thở vào, thở
ra tôi thấy hứng thú khi thở ra, thở vào hưng thú, thở ra hứng
thú.
Thở vào tôi thấy được
cha tôi trong từng tế bào cơ thể của tôi, thở ra tôi mỉm cười
với cha tôi trong từng tế bào cơ thể. Thở vào thấy cha, thở ra
mỉm cười với cha trong tế bào cơ thể. Thở vào tôi mời cha tôi
cùng thở vào với tôi một lần, thở ra tôi mời cha tôi cùng thở ra
một lần với tôi, hai cha con thở vào, hai cha con thở ra. Thở
vào con thấy khỏe quá, ba có thấy khỏe như con không, thở ra con
thấy nhẹ quá, ba có thấy nhẹ như con không.
Thở vào tôi thấy mẹ
tôi trong từng tế bào cơ thể, thở ra tôi mỉm cười với mẹ tôi
trong từng tế bào cơ thể, thấy mẹ trong từng tế bào, cười với mẹ
trong từng tế bào. Thở vào tôi mời mẹ tôi cùng thở vào với tôi,
thở ra tôi mời mẹ tôi cùng thở ra với tôi, hai mẹ con cùng thở
vào một lần, hai mẹ con cùng thở ra một lần. Thở vào con thấy
khỏe quá, mẹ có thấy khỏe như con không, thở ra con thấy nhẹ
quá, mẹ có thấy nhẹ như con không.
Thở vào tôi thấy thầy
tôi trong từng tế bào của cơ thể tôi, thở ra tôi mỉm cười với
thầy tôi trong tôi, thở vào thấy thầy, thở ra mỉm cười với thầy
trong tôi. Thở vào tôi mời thầy tôi cùng thở vào với tôi một
lượt, thở ra tôi mời thầy tôi cùng thở ra với tôi một lượt. Hai
thầy trò cùng thở vào một lần, hai thầy trò cùng thở ra. Thở vào
với thầy con cảm thấy rất là khỏe, thầy có cảm thấy khỏe như con
không. Thở ra với thầy con cảm thấy nhẹ, thầy có thấy nhẹ như
con không. Thở vào tôi biết tôi là sự tiếp nối của thầy tôi, thở
ra tôi biết là tôi phải nối tiếp sự nghiệp của thầy tôi.
Tình thương
thiêng liêng
Kính thưa đại
chúng hôm nay là ngày hai 26 tháng 3 năm 2007. Chúng ta đang ở
tại Tổ đình Từ Hiếu ngày kỵ giỗ, ngày giỗ Tổ. Pháp thoại hôm nay
là pháp thoại đặc biệt về ngày ngày giỗ Tổ.
Khi người đệ tử được
thầy tin cậy và thương yêu, đó là một cái hạnh phúc rất lớn. Tôi
đã hưởng được cái hạnh phúc đó từ khi còn mười sáu mười bảy
tuổi, mười sáu tuổi tây, mười bảy tuổi ta. Cái hạnh phúc, cái
tình thương đó mình cảm nhận được trong đời sống hàng ngày. Thầy
không nói ra là thầy tin mình, thầy không nói ra là thầy thương
mình. Ngày xưa là như vậy, không ai nói ra nhưng mà niềm tin đó
có, tình thương đó có và mình cảm thấy được. Đó là một cái gì
rất linh thiêng, hình như nói ra thì nó bớt thiêng, thành ra giữ
rất kín. Mình là đệ tử, mình cảm thấy và có thể nói rằng khi một
đệ tử được thầy tin cậy và thầy thương yêu đó là hạnh phúc rất
lớn cho người đệ tử và cũng là hạnh phúc cho thầy.
Thầy trò được nuôi
dưỡng bằng cái hạnh phúc đó và thầy trò có thể cùng đi với nhau
rất xa. Niềm tin cậy cũng như tình thương của thầy là cái tư
lương, một thứ vốn liếng. Nếu mình mang theo được thì mình sẽ
vượt thắng được rất nhiều khó khăn trong đời tu của mình, trong
đời thực tập của mình.
Thầy cũng có thể coi
như cha, đẻ ra mình trong đời sống tinh thần, trong đời sống tâm
linh. Có những lúc mình giận cha, có những lúc mình giận thầy,
chuyện này cũng thường thôi. Tôi đã từng hỏi một đệ tử: con đã
giận thầy lần nào chưa, sau một năm, hai năm, ba năm, năm năm
tu. Có những vị đệ tử nói: dạ chưa. Có vị nói: có một lần, có
hai lần. Rồi thầy trò mới ngồi đó và nói giận lúc nào, trong
trường hợp nào, nói thầy nghe coi. Giữa thầy trò lâu lâu phải
check lại, phải coi lại, xem thử giữa mình với thầy có khó khăn
nào không. Mình muốn biết giữa mình với thầy không có cái nội
kết nào, không có một khó khăn nào. Nhiều khi mình là thầy mình
phải đi bước đầu, con có giận thầy lần nào chưa, đó là câu hỏi.
Khi người đệ tử nói chưa, dạ hai năm rồi mà con chưa giận thầy
lần nào hết, may quá. Nếu người đệ tử nói có, một lần hoặc hai
lần thì mình mới ngồi ân cần thăm hỏi: ' chà bữa đó thầy nói gì
mà con giận vậy, bữa đó thầy làm gì mà con giận vậy '. Hai thầy
trò có thể nói chuyện với nhau như là hai người bạn, hai anh em.
Thầy là một người cha nhưng thầy cũng là một người anh, anh là
người đi trước mình, nắm tay mình đưa mình đi tới. Mình là đệ tử
xuất gia, mình là đệ tử tại gia, thầy vừa là cha vừa là anh của
mình và mình phải giữ cho liên hệ giữa thầy và mình tốt đẹp. Có
những pháp thực tập nó giúp cho mình giữ được liên hệ giữa thầy
với mình tốt đẹp.
Tôi đã thấy có những
cặp cha con không nói chuyện với nhau được, những cặp thầy trò
họ không nói chuyện với nhau được, đó là sự kiện đáng tiếc. Mình
tu tập, mình tới chùa là mình phải tiếp nhận được những pháp môn
cụ thể có thể tháo gỡ được những cái khó khăn, những cái bế tắc
đó. Nếu mình không tháo gỡ được những khó khăn giữa mình với
thầy, thì mình phải cầu cứu một thầy khác, một sư anh hay là sư
chị khác, phải làm cho kỳ được. Vì nếu không thì mình thất bại
và thầy cũng thất bại theo mình. Chữ đệ tử có nghĩa là con em.
Mình vừa là con của thầy, mình vừa là em của thầy, đệ là em, tử
là con. Người học trò của mình vừa là con vừa là em của mình,
mình có bổn phận phải đưa người đó đi tới. Mình là thầy mình
chịu trách nhiệm chính, nếu có khó khăn gì với người đệ tử thì
mình có thể đi bước đầu tiên để tháo gỡ cho nó.
Người lớn đi bước đầu
tiên bao giờ cũng dễ dàng hơn. Mình là sư huynh, mình là sư tỉ,
mình là sư anh sư chị, khi có những khó khăn với đứa em ở trong
đạo thì mình nên đi bước đầu, bước trước, tại vì nó dễ hơn.
Không phải là mình hạ mình xuống, nhưng mà nó dễ dàng hơn.
Trong một chúng tu tập
thì sự thực tập này mỗi người đều phải nắm vững. Nếu trong chùa
mà thầy trò mà huynh đệ không có hạnh phúc thì đó là cái chùa
thất bại, đó là một chúng thất bại. Khi chúng thất bại rồi thì
làm sao mình độ đời, mình giúp cho người ngoài đời.
Người cư sĩ cũng vậy,
mình là người cư sĩ tại gia, mình phải thành công ngay trong gia
đình của mình. Trong gia đình tâm linh và gia đình huyết thống
của mình. Vì người Phật tử tại gia cũng có bổn phận đem gieo rắc
những hạt giống của chánh pháp trong xã hội. Nếu mình thất bại
trong nội bộ gia đình mình thì mình làm thế nào để giúp người
đời được. Nếu trong gia đình cha không nói chuyện được với con,
vợ không nói chuyện được với chồng, thì dù mình có lão thông tam
tạng kinh điển, mình có giảng thuyết được rất giỏi về tứ đế, Bát
chánh đạo, thập nhị nhân duyên thì cũng vô ích. Cho nên trong
nội bộ của gia đình mình phải tạo dựng được sự truyền thông,
phải tạo dựng được hạnh phúc, sự hài hòa. Mà mình tới chùa, tới
với thầy là để học những cái đó.
Tôi đã từng làm đệ tử,
tôi đã từng làm sư em, sư đệ, tôi đã từng làm thầy, tôi có kinh
nghiệm. Có những lúc mình phải giả đò giận đệ tử, có lúc mình
muốn dạy đệ tử nhưng mà mình không dạy liền được, thời cơ chưa
chín, mình phải chờ ba tháng sau mới dạy được. Có lúc muốn dạy
đệ tử nhưng mình không dạy trực tiếp, mình nhờ sư anh của nó, sư
huynh của nó giúp nó, hoặc nhờ một người đệ tử khác tới giúp
người đệ tử kia của mình, có nhiều cách. Khi chúng ta có thầy,
có huynh đệ, chúng ta phải học những cách đó để xây dựng tăng
thân.
Tăng thân là một đoàn
thể. Mình có cái thân cá nhân của mình, nhưng mà mình lại có
tăng thân. Đoàn thể kia cũng là thân của mình, nếu có sự đau
nhức trong tăng thân thì sự đau nhức đó cũng là đau nhức của
mình. Có một thành phần của chúng, của tăng thân đau nhức, không
hạnh phúc thì đó cũng là vấn đề của mình chứ không có thể nói
rằng ông tu ông chứng, bà tu bà chứng, ông tu ông đắc, bà tu bà
đắc được. Vì vậy cho nên chữ tăng thân có nghĩa là cái thân thể
thứ hai của mình, thân thể tăng sangha body. Tăng thân là
gia đình tâm linh của mình, tăng thân có thể là tăng thân xuất
gia, có thể là tăng thân tại gia. Một đoàn thể tu học, một nhóm
tu học như là gia đình Phật tử, nó là một tăng thân. Một đạo
tràng Duy ma cật, đạo tràng Pháp hoa tới thực tập với nhau dù
toàn là người tại gia cư sĩ cũng là một tăng thân.
Trong đạo Phật, trong
truyền thống có tứ chúng tức là tăng thân bốn yếu tố, bốn thành
phần, là xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam và tại gia nữ đó
là bốn thành phần của một tăng thân đầy đủ, tứ chúng. Mỗi thành
phần đó tự thân nó cũng là một tăng thân, bốn thành phần hợp lại
thành ra tứ chúng.
Cha mẹ là người sinh
ra mình. Cha mẹ đã trao truyền cho mình những cái hạt giống của
cha mẹ. Ngày xưa gọi là chủng tử, bây giờ học sinh học, mình
nghe nói tới những nhiễm thể, những gien. Trong mỗi tế bào cơ
thể của mình có gien của cha, có gien của mẹ. Cha đã trao truyền
cho mình con người của cha, mẹ đã trao truyền cho mình con người
của mẹ. Mình có đầy đủ cha trong mỗi tế bào, mình có đầy đủ mẹ
trong mỗi tế bào. Mình là sự tiếp nối của cả cha lẫn mẹ và mình
đem cha mẹ đi vào tương lai. Nếu mình hạnh phúc thì cha mẹ trong
mình cũng hạnh phúc, nếu mình khổ đau thì cha mẹ trong mình cũng
khổ đau. Cho nên mình tu không phải là tu cho riêng cá nhân
mình, mình tu cho cha, mình tu cho mẹ và mình cũng tu cho cả tổ
tiên ông bà có mặt trong mỗi tế bào của cơ thể mình.
Khi là một
người cha hay một người mẹ thì mình có thể trao truyền cho con
mình cả những cái tiêu cực mà mình đang có. Mình có những nỗi
khổ niềm đau, có những sự ganh tị, sợ hãi mà mình chưa chuyển
hóa thì mình truyền hết cho con, cho cháu. Cho nên nếu mình biết
tu, mình chuyển hóa nó sớm, mình nhẹ nhàng và khi mình có con,
con sẽ tiếp nhận từ mình nhiều sự nhẹ nhàng, nhiều sự thanh
thoát hơn. Cho nên tôi mới có ý là lập một cái viện để cho người
thanh niên, thiếu nữ trước khi lập gia đình tới tu một năm để
chuyển hóa những cái buồn giận, những cái phiền não. Sau một năm
đó sẽ được một cái chứng chỉ và có chứng chỉ đó thì mới được lấy
chồng hay là được cưới vợ. Giống như là một cái loại ' quân dịch
tâm linh '.
Trong cái viện đó
người ta dạy cho mình những biện pháp, những pháp môn tu tập rất
cụ thể để mình nhận diện được những hạt giống tiêu cực trong
mình như ganh tị, sợ hãi, độc tài. Khi mình nhận diện được thì
mình sẽ có ý thức hơn, mình biết rằng sau này mình sẽ làm khổ
người thương của mình vì những hạt giống xấu đó, cho nên mình cố
gắng tu tập. Một năm đó tuy không đủ nhưng đó là một sự bắt đầu
và khi thành hôn rồi thì mình tiếp tục tu tập, mình biết cách
giữ mình, mình biết cách đừng tự làm mình khổ và mình biết cách
đừng làm cho người kia khổ. Các con sẽ được thừa hưởng sự thực
tập của cả hai bên. Cái ước mong của tôi là lập cái viện đó và
tôi gọi đùa là " viện làm hạnh phúc cho một người ", người đó là
người yêu của mình. Làm hạnh phúc cho một người cũng khó lắm rồi
đó.
Khi đi tu thì không
phải học trường đó, mà phải học cái " viện làm hạnh phúc cho
nhiều người ". Viện làm hạnh phúc cho một người. Mỗi thành phố
phải có một viện như thế để những người thanh niên trước khi
thành lập gia đình tới học, tới tu. Các giáo thọ làng Mai đã
được trao truyền những pháp môn đó. Vì chính ở trong chùa huynh
đệ xuất gia với nhau mình phải thực tập để mình đừng làm khổ
mình và làm khổ người huynh đệ của mình. Cho nên mình có kinh
nghiệm. Tuy mình không lập gia đình nhưng mình vẫn có kinh
nghiệm, vì mình đang có gia đình tâm linh của mình, gia đình
xuất gia của mình. Cho nên mình có thể tới dạy ở các viện đó.
Nếu quý vị là những đệ tử giỏi thì mai mốt phải lập ra những cái
viện như vậy trong khắp nước gọi là viện làm hạnh phúc cho một
người. Làm hạnh phúc được cho một người thì có cơ hội làm hạnh
phúc cho nhiều người.
Nếu mình không chuyển
hóa thì sau này mình có con, thế nào cũng có những khó khăn với
con. Vì mình đã có những khó khăn với người bạn hôn phối của
mình, tại trước đó mình không tu, chưa biết tu. Và lỡ có con rồi
thì giữa cha với con sẽ có những khó khăn, sẽ có những khổ đau.
Cho nên cả cha con bây giờ mới biết đi học để thực tập, hơi trễ
một chút nhưng mà vẫn còn chưa trễ lắm. Tới chùa các thầy các sư
cô sẽ dạy cho mình cách nói năng, cách lắng nghe để tái lập
truyền thông, để thấy được những hạt giống xấu nơi mình, nơi cha
mình để hai bên cùng hòa với nhau, cùng tu tập với nhau để
chuyển hóa.
Tuy mình biết
rằng mình giận cha hay giận mẹ, nhưng nếu mình không tu tập để
chuyển hóa những cái tiêu cực trong mình thì ngày mai mình sẽ
giống hệt như cha hoặc sẽ giống hệt như mẹ. Và mình sẽ làm khổ
đàn con của mình, đó là luân hồi. Có những đứa con giận cha, nó
lập một lời nguyện là sau này nó sẽ làm ngược lại những điều
cha làm. Vì đối xử như cha nó quá khắc nghiệt, quá tàn nhẫn và
nó cương quyết rằng khi lớn lên nó sẽ làm ngược lại. Nhưng tai
hại thay lớn lên nó lại làm giống hệt như cha nó, tại vì nó có
đầy đủ những hạt giống của cha mà chưa chuyển hóa. Cho nên giận
cha cũng là giận mình, vì mình có tất cả những hạt giống của cha
ở trong các tế bào của cơ thể. Chỉ có một nẻo thoát là tu tập để
chuyển hóa những hạt giống đó, rồi mình sẽ không làm khổ mình và
sẽ không làm khổ các con của mình. Và cha nếu mà giỏi thì có thể
làm thầy, dạy cho con những cái kinh nghiệm mà mình đã đạt được
trong sự tu tập chuyển hóa. Tại mình là người Phật tử tại gia,
mình đã học được và mình cũng có thể trao truyền những cái mà
một vị thầy xuất gia có thể trao truyền được. Nếu mình là một
người cư sĩ thực tập giỏi, mình vừa là cha, vừa là sư huynh,
mình là huynh, mình là thầy.
Nói như vậy không có
nghĩa là những người xuất gia là không có vấn đề. Những người
xuất gia theo nguyên tắc là phải được học những cái pháp môn đó.
Nếu có khó khăn với thầy với đệ tử, nếu có khó khăn với huynh đệ
thì phải biết cách tháo gỡ. Nhưng sự thực chúng ta thấy có những
chúng xuất gia không có hạnh phúc không biết cách tháo gỡ những
khó khăn khi mà họ có với thầy với đệ tử, với huynh đệ. Đây là
một sự thất bại, sự thất bại của cả tứ chúng. Cho nên lập tức
học hỏi, nắm vững được những phương pháp chuyển hóa để có thể
tái lập được truyền thông giữa mình với thầy, giữa mình với
người huynh đệ là chuyện rất cấp bách, cấp bách hơn chuyện làm
chùa, hơn việc làm thiền đường rất nhiều, cấp bách hơn chuyện tổ
chức Phật đản.
Phước đức ông
bà, thầy tổ
Nếu mình không có khó
khăn với thầy, điều đó có nghĩa là mình đã thực tập giỏi, thầy
mình đã thực tập giỏi. Điều đó cũng có nghĩa là mình có phước
hoặc là thầy mình có phước, hai thầy trò khỏi phải thực tập gì
cả mà tự nhiên giữa hai thầy trò truyền thông tốt, thầy thương
đệ tử, thầy tin đệ tử, đệ tử thương thầy, đệ tử tin vào thầy. Đó
là cái phước của ông bà để lại, chư Tổ để lại.
Đó là trường hợp của
tôi và hôm nay là ngày giỗ của sư ông. Tôi nói điều này để tỏ
lòng biết ơn chư Tổ. Có những lúc quá nhiều công việc, làm một
vị giáo thọ còn trẻ, lo chuyện này chuyện kia, lo chuyện Phật
sự, Pháp sự còn lo chuyện xã hội nữa, cứu trợ bão lụt, cứu trợ
dân nghèo, người khuyết tật, thì giờ không có. Có khi năm sáu
tháng chưa về thăm thầy một lần, để thầy ngóng, để thầy đợi. Có
nhiều mùa đông rất lạnh mà thầy cần một cái túi nước nóng bằng
cao su mà mình cũng không nhớ để mua, vì lo cứu trợ đâu đâu. Mỗi
khi đi xa về, thầy nhìn mình không nói gì hết, nhìn rất là lâu,
có thể là sáu giây, bảy giây hay là tám giây rồi lúc đó mới
cười. Biết chắc rằng đây là đứa đệ tử của mình. Lúc đó mới tin
rằng đệ tử đã về với mình thiệt, lúc đó mới bắt đầu cười hạnh
phúc. Tội nghiệp như vậy mà mình không biết, mình lo đi làm
chuyện này chuyện kia, mình nói đó là Phật sự, mình nói đó là
tăng sự, mình nói đó là xã hội sự, nhưng mà chưa chắc lắm. Tình
thầy trò rất là sâu đậm, nó rất là ngon lành, nó rất là bổ
dưỡng.
Khi tôi viết bông hồng
cài áo, tôi chỉ nói về bà mẹ, tình mẹ nó nuôi dưỡng mình rất
nhiều, tình cha cũng vậy và tình thầy cũng vậy. Có những lúc
ngồi yên, ngồi thật yên để mình thấy thầy mình có mặt trong từng
tế bào cơ thể, mình nhớ lại những lúc mình đi hầu thầy, mình làm
thị giả. Đi một vòng xung quanh chùa hái một ít măng cán giáo
đem xuống bếp để cho dì Tư kho hay là nấu canh cho chúng. Có
những lúc hai thầy trò đi hái nấm. Có những lúc hai thầy trò đi
thăm những nhóm trong chúng chấp tác ở ngoài rừng, ở trong bếp
hoặc ở ngoài vườn rau. Những kỷ niệm đó, những hình ảnh đó còn
mãi trong người mình, nó còn mãi trong từng tế bào của cơ thể.
Khi mình có thì giờ, có cơ hội để nhìn cho sâu thì thấy rằng
những thành đạt của mình. Những thành đạt không phải là những
bằng cấp hay những công tác. Những thành đạt này là những cái
thảnh thơi, những cái vững chãi, những cái thấy từ bi, những lời
nói có từ bi. Mình làm ra được và mình biết rằng cái này là vốn
liếng từ thầy. Tại vì ngày xưa thầy đã nhìn được bằng con mắt từ
bi như vậy, thầy đã nói ra được những lời tha thứ bao dung như
vậy, thầy đã hành xử một cách nhẹ nhàng như vậy, rộng rãi như
vậy. Rồi mình biết rằng nếu mình làm được cái đó là nhờ thầy.
Có một ông cha dòng
Trappiste rất là nổi tiếng, ông tên là Thomas Morten, ông có
viết cuộc gặp gỡ với tôi năm một ngàn chín trăm sáu mươi sáu ở
tại tu viện Trappiste tiểu bang Kentucky. Ông có nói một câu như
thế này " thầy Nhất Hạnh đó, mình chỉ cần nhìn ông đóng cái cửa,
mở cái cửa là mình biết ông là thầy tu thứ thiệt, chỉ cần nhìn
ông mở cửa rồi đóng cửa lại là mình biết ông là thầy tu thứ
thiệt ". Đó là một bài giảng mà ông cha đã giảng một tuần lễ sau
khi tôi tới viếng thăm ông ở tại tu viện Trappiste. Thì ra ông
ta quan sát mình chứ không phải ông ta chỉ nói chuyện với mình
thôi. Tôi nhớ đêm hôm đó tôi thức khuya, tôi tán cho ông ta nghe
một bài và ông cũng tán cho tôi nghe một vài bài trong truyền
thống Thiên Chúa giáo. Ông là một nhà văn nổi tiếng và ông ta đã
viết phê bình cuốn đạo Phật ngày nay của tôi, hồi đó xuất bản
bằng tiếng Pháp. Rồi một mùa xuân đó, có một bà thiền sinh người
Đức đến làng Mai để tu học, lúc đầu bà xin tu một tuần thôi
nhưng mà bà đã ở tới ba tuần. Ngày bà rời làng, bà được dự một
buổi thiền trà và bà nói rõ lý do tại sao bà là người Catholic
chưa bao giờ đi chùa, mà kỳ này qua làng tu ba tuần. Tại vì bà
được nghe cuốn băng giảng đó của cha Thomas Morten, nói rằng chỉ
cần nhìn thầy Nhất Hạnh đóng cửa, mở cửa là biết rằng ông thầy
tu này, thầy tu thứ thiệt. Bà muốn qua làng Mai để coi cách mình
mở cửa đóng cửa như thế nào, bà là đệ tử của Thomas Morten.
Nhưng cái luật của
làng Mai, đến làng Mai là phải ở ít nhất bảy ngày không có tham
quan. Làng Mai không phải là chỗ tham quan, mà là chỗ tu. Hy
vọng chùa Từ Hiếu cũng làm như vậy, đừng cho người ta tới tham
quan, tới tu thì cho tới, tham quan rắc rối lắm, mất thanh tịnh.
Nếu muốn thấy thầy Nhất Hạnh với các thầy khác mở cửa hay đóng
cửa thì chỉ cần một ngày là đủ rồi. Nhưng bà bắt buộc phải ở bảy
ngày, nhưng nhờ ở bảy ngày nên thấm và xin ở bảy ngày nữa rồi
lại bảy ngày nữa. Thấm cái pháp môn, thấy trong người thanh tịnh
an lạc. Và bữa đó bà phát lộ, bà nói tôi qua chỉ với mục đích
coi thầy mở cửa đóng cửa như thế nào thôi, tôi rất tò mò chứ
không phải muốn qua để tu. Nhưng mà ở rồi thấm, nhìn các thầy
các sư cô đi đứng nằm ngồi mở cửa đóng cửa, tôi thấy cái pháp
môn tu tập chánh niệm rất là mầu nhiệm.
Câu chuyện này nó có
gốc gác cách đó sáu chục năm. Có một bữa Ôn bảo tôi: " chú, chú
ra làm cái gì đó … " thì tôi rất hăng hái muốn đi làm cái đó cho
Ôn liền. Cho nên đi ra hấp tấp mở cửa rồi đóng cửa cũng hấp tấp,
không có chánh niệm. Ôn kêu lại: " chú, và Ôn nhìn Ôn nói : bây
giờ chú phải đi ra lại, chú mở cửa làm sao cho nó nhẹ nhàng cho
có chánh niệm, đi ra rồi chú đóng cửa làm sao cho nó nhẹ nhàng,
có chánh niệm. Và tôi đã làm theo. Tôi bước từng bước chậm rãi,
có chánh niệm, tôi mở cửa ra thong thả nhẹ nhàng. Khi tôi đi ra
khỏi, tôi đóng cửa lại nhẹ nhàng và có chánh niệm. Ôn không phải
dạy lại lần thứ hai, không cần nhắc lại lần thứ hai. Từ đó về
sau tôi biết phải mở cửa như thế nào và phải đóng cửa như thế
nào trong chánh niệm. Đó là uy nghi của người tu. Tôi đã truyền
lại cho các đệ tử xuất gia và tại gia cách mở cửa và đóng cửa.
Đó là sự trao truyền của thầy mình. Nếu mình là một đệ tử giỏi,
hết lòng, thì mình tiếp nhận được từ thầy rất nhiều, còn nếu
mình vô tâm, hững hờ thì thầy có cho bao nhiêu đi nữa mình tiếp
nhận rất ít.
Một công án
Có một lần sau khi đi
tản cư về hết gạo, Ôn dẫn hai điệu ra ngoài phía sau vườn đào
đất và làm phát hiện ra một cái lu rất là lớn, ở trong đó có cất
chứa lúa. Vì trước khi đi tản cư thì phải dấu đi để khi hồi cư
còn có lúa mà ăn. Bữa đó trời khá nóng, thầy trò đào rồi mồ hôi
mồ kê chảy đầm đìa, Ôn nói " chà mệt quá, chắc chết rồi mới hết
mệt ", có nghĩa là còn sống thì còn mệt, nói xong Ôn cười, rồi
mấy chú cúi xuống làm việc tiếp. Nhưng bỗng nhiên Ôn ngừng và
nói: " này chú, nhưng mà khi chết rồi thì ai hết mệt ". Chết rồi
thì ai hết mệt, tức là sự quán chiếu về vô ngã, một công án về
vô ngã. May mắn tôi nhớ được câu đó, tôi không thấy nó là một
công án lúc đó, nhưng sau đó nhiều tuần lễ, nhiều tháng tôi thấy
đó là một lời nói của một thiền sư, của một người có tu, có
chánh niệm, có suy nghĩ, có biết về những cái gì mình nói.
Câu đầu " chà chừng
nào chết mới hết mệt ", câu đó thường thôi. Nhưng có câu thứ
hai:" nhưng mà chết rồi thì ai hết mệt ". Chết có phải là từ có
trở thành không hay không, chết có hết mệt thiệt hay không? Mà
chết không hết mệt chết làm cái gì. Nếu anh nghĩ rằng anh khổ
quá, anh đi tự tử cho hết khổ, anh từ có trở thành không. Nhưng
mà sự thật có phải như vậy không hay là chết rồi anh vẫn tiếp
tục khổ. Câu hỏi đó mà đào sâu, nó cho mình thấy một chiều hướng
mới, chiều hướng khác của sự sống. Thì ra những cái mình trao
truyền cho đệ tử của mình hóa ra là những cái mà mình đã được
tiếp nhận từ thầy của mình và mình quả thật đã mang thầy của
mình đi về tương lai, mình mang cha mẹ mình đi vào tương lai,
mình mang thầy mình đi vào tương lai và thầy mình bây giờ đang ở
trong một hình thức rất mới, rất trẻ, thầy mình chưa tịch, thầy
mình vẫn tiếp tục ở trong mình và trong những người đệ tử của
mình.
Cũng như khi quý vị
gieo một hạt ngô, hạt bắp, độ chừng một tuần sau hạt bắp nó nứt
mầm, nó thành ra cây bắp non. Nhìn vào cây bắp non thì không
thấy hạt bắp nữa, mình nói hạt bắp chết rồi. Kỳ thực hạt bắp
không chết, hạt bắp đã trở thành cây bắp non. Mình cũng vậy.
Thầy của mình đã trao truyền tuệ giác thảnh thơi, an lạc cho
mình. Mình phải tiếp nhận cái đó, phải nuôi dưỡng, phải làm lớn
lên những cái đó để rồi trao truyền lại cho những đệ tử của
mình, những người em, những người con của mình. Và mình trở
thành một đứa con có hiếu. Đứa con có hiếu là như vậy chứ không
phải là tới ngày giỗ làm cho lớn gọi là có hiếu.
Đôi khi thầy mình có
vài cái yếu kém, một vài khó khăn nhưng thầy mình vẫn là thầy
của mình. Với tư cách một người đệ tử, mình có thể hiểu được tại
sao thầy có những khó khăn, thầy có những yếu kém như vậy. Mình
có thể giúp thầy, tại vì đệ tử mà giúp thầy, con giúp cha,
chuyện đó xảy ra rất thường. Nếu mình có sự tươi mát, nếu mình
có sự dịu dàng, nếu mình biết dùng lời ái ngữ và phương pháp
lắng nghe. Nếu mình có những pháp môn tu tập, mình có thể giúp
cha mình, giúp mẹ mình thay đổi. Và mình có thể giúp thầy mình
tháo gỡ những khó khăn của thầy. Tôi có những người đệ tử rất
giỏi, họ giúp được cha, họ giúp được mẹ, tháo gỡ được những cái
khó khăn của cha mẹ. Tôi rất lấy làm hãnh diện về những người đệ
tử đó, có khi còn rất trẻ.
Còn những người xuất
gia trẻ, có nhiều người đi xuất gia không được phép của cha mẹ
và cha mẹ giận lẫy năm này sang năm khác. Nhưng những người đó
đã thực tập hết lòng, đã thành công, đã trở về độ cho cha, độ
cho mẹ và giúp cho cha biết tu, giúp cho mẹ biết tu. Tôi rất
hãnh diện với những người đệ tử đó.
Pháp thoại hôm nay là
một pháp thoại đặc biệt nói về tình thầy trò, về tình cha con.
Tôi cầu mong quý vị có được cái may mắn, tiếp thu được những
pháp môn thực tập để có thể tạo dựng những liên hệ tốt giữa mình
với thầy mình, giữa mình với các sư anh ,sư chị, sư em của mình.
Trong chúng nếu có hạnh phúc thì chúng ta được nuôi dưỡng. Thực
tập cho đầy đủ chúng ta sẽ có kinh nghiệm. Với kinh nghiệm đó
chúng ta có thể hướng dẫn, dạy dỗ giáo hóa những tăng thân khác
và những cộng đồng trong xã hội, trong đó có những gia đình của
người tại gia. Tại vì có rất nhiều gia đình trong đó cha không
nói chuyện được với con, vợ không nói chuyện được với chồng. Nếu
chúng ta nắm vững được pháp môn và thành công được trong gia
đình xuất gia hay gia đình tại gia của mình thì mình có thể đem
pháp môn đó chia sẻ và cứu vớt, tháo gỡ cho những gia đình khác.
Xin chúc quý vị tôn
túc, các thầy, các sư cô một ngày kỵ Tổ hạnh phúc, luôn luôn nhớ
tới công ơn của thầy, của Tổ.
|