Kính thưa đại chúng,
Hôm nay là ngày ba mươi tháng ba năm hai ngàn không trăm lẻ bảy.
Chúng ta đang ở Tổ Đình Từ Hiếu
[1]
trong khóa tu dành cho những người xuất gia.
Hồi hai mươi hai tuổi, tôi có viết một bài tựa đề “Tu là một
nghệ thuật và thầy tu là một nghệ sĩ”. Trong tu tập, mình phải
có sự khéo léo, tu tập không phải là lao động mệt nhọc, cần phải
có chất liệu nghệ thuật ở trong đó.
Chúng ta xét cho kỹ thì thấy rằng làm gì cũng cần phải có nghệ
thuật thì làm cái đó mới hay. Giống như khi mình xay lúa, giã
gạo, gánh nước, bửa củi, hay nấu cơm. Nếu có ý tứ, học được kinh
nghiệm của quá khứ thì càng ngày mình càng làm khéo. Càng làm
khéo, mình không có mệt mà sự thành công nó lớn hơn. Nấu ăn là
một nghệ thuật, có nhiều sư cô nấu cơm rất là ngon, có nhiều sư
chú, nhiều thầy nấu cũng ngon lắm. Khi chúng ta chiên một miếng
tàu hũ, mà thật sự muốn chiên cho thành công, phải để cho miếng
tàu hũ đó nó vàng, khi chưa vàng thì chúng ta để thêm thì giờ để
cho nó vàng, chứ còn nó chưa vàng mà mình đã lấy ra thì thất
bại.
Đã về đã tới
- Tâm về với thân
Hơi thở của mình cũng vậy, bước chân của mình cũng vậy, nó phải
chín, khi mà chưa chín thì mình coi là nó chưa thành công. Khi
tôi thở vào một hơi mà tôi bước đi một bước, tôi nói rằng là
tôi đã về, con đã về. Khi tôi thở ra, tôi bước một bước, tôi
nói tôi đã tới, con đã tới. Đã về đã tới là những
câu thiền ngữ để thực tập trong khi thở, trong khi đi thiền
hành, trong khi ngồi, và mình biết rất rõ là đã về đã tới
ở đây tức là tâm về với thân.
Chúng ta trở về với giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, không
có phiêu lưu trong thế giới của quá khứ, hay của tương lai, trở
về hoàn toàn an trú và thiết lập sự có mặt của mình vững chãi
trong giây phút hiện tại gọi là đã về đã tới. Vậy khi tôi
thở một hơi vào, tôi bước một bước chân, tôi nói tôi đã về,
thì bước chân đó nó phải có công năng giúp tôi trở về với giây
phút hiện tại. Nếu tôi chưa về hết một trăm phần trăm thì tôi
nhất định không bước cái bước thứ hai: Miếng đậu hũ nó chưa
vàng, không thể gắp ra được.
Khi mình thở vào một hơi, mình nói là thở vào, tôi theo dõi hơi
thở vào của tôi, từ đầu cho tới cuối. Mình quyết tâm làm cho
được, nếu chưa làm được thì phải làm cho đến khi mình làm được,
mới thôi. Tu tập là phải như vậy. Mình có về, mình nói mình đã
về, mình nói mình đã tới. Đã về đã tới trong giây phút hiện tại
ngay tại đây, không có bị cuốn hút theo tương lai, không có bị
giam hãm trong quá khứ. Đó là sự thực tập, chứ không phải là một
lời tuyên bố xuông. Mình tuyên bố mình đã về mình đã tới, nhưng
mà trong thật sự mình chưa về mình chưa tới, hoặc là mình mới về
lưng chừng năm mươi phần trăm, bốn mươi phần trăm, (như) miếng
đậu hũ nó chưa vàng, không có thể nào gắp miếng đậu hũ ra được.
Giả sử như là sư chú bước một bước và tuyên bố rằng con đã về,
thì phải đem hết con người của mình ra, tức là đem hết cả thân
và tâm của mình để làm chuyện đó, để bước bước chân đó. Phải đầu
tư một trăm phần trăm thân và tâm của mình vào bước chân đó để
có thể thật sự về, thật sự tới một trăm phần trăm. Không có thể
làm nửa chừng được.
Mình đã về hay đã tới thì chuyện đó mình biết, mình không cần
một vị Bụt, hay một vị Bồ Tát, hay một vị thánh tăng chứng thực
rằng là mình đã về đã tới. Chính mình, mình biết là mình đã về
hay đã tới. Khi mình đã về rồi, đã tới rồi thì mình mỉm cười,
mình chứng nhận cho mình biết là mình đã thành công, thì lúc đó
mình bước một bước thứ hai. Và sự tu học nó đòi hỏi một quyết
tâm như vậy, chứ còn mình tu sơ sơ, lai rai thì không có thành
gì hết.
Khi mình đi thiền với chúng, mình đi cả trăm người, mấy trăm
người. Nhưng mà khi mình đi một mình thì mình muốn đi chậm bao
nhiêu cũng được. Đi chậm dễ hơn đi mau. Trong khi chúng ta ở
trong chánh điện, đi kinh hành thì chúng ta đi chậm, có thể đi
chậm được. Mỗi bước chân đi theo với một hơi thở đã về đã tới,
và bước nào cũng đưa mình về, bước nào cũng đưa mình tới. Nếu mà
mình niệm “Nam mô A Di Đà Phật”
trong từng bước chân thì cũng được. Nhưng mà với điều kiện là
mình phải ở với đức A Di Đà một trăm phần trăm, chứ không phải
chỉ tuyên bố “Nam mô A Di Đà Phật”,
còn đầu thì nghĩ tới quá khứ, tương lai. Hay miệng “Nam mô A Di Đà Phật”
nhưng đầu đang ở những chỗ khác, thì cũng vậy. Mình tuyên bố đã
về nhưng mà thật sự mình không có về, chưa về. Mình tuyên bố đã
tới nhưng thật sự mình không có tới.
Mình phải đầu tư hết tất cả một trăm phầm trăm thân và tâm vào
một bước chân, vào một hơi thở thì mới thành công được, không có
thể nửa vời mà thành công được. Người ta, những nhà thể thao
chuyên nghiệp đó, người ta muốn thi đấu ở trình độ cao, thì họ
phải làm việc mỗi ngày nhiều giờ lắm mới được. Đánh tennis, chay
bộ, đủ thứ. Huống hồ mình là người quyết đạt tới sự giải thoát.
Khi mình dồn hết tất cả thân và tâm của mình vào hơi thở và bước
chân, thì tự nhiên niệm và định trở thành sự thật,
không phải là một ước mơ nữa. Tại vì tất cả thân và tâm của tôi
nó đều chú vào một chuyện thôi, chuyện đó là thở một hơi cho
thành công, thở một hơi thở vào cho thành công, hay là bước một
bước chân cho thành công.
Ở trong thiền môn, có những chi tiết nếu mình nhìn không kỹ thì
không hiểu tại sao. Ví dụ như khi cắm một cây hương vào trong
bát hương, thì lại lấy cái tay kia đặt trên cái tay này. Cây
hương rất là nhẹ, chỉ cần một cánh tay thôi là đủ sức để nâng
cây hương và cắm lên rồi, tại sao phải có sự hỗ trợ của bàn tay
trái? Sự hỗ trợ của bàn tay trái có nghĩa là mình đang đem hết
tất cả thân và tâm vào chuyện cắm một cây hương. Trong khi cắm
cây hương là tất cả thân tâm đều được đầu tư vào chuyện cắm cây
hương. Vì vậy cho nên cắm hương là một hành động của niệm và của
định. Niệm có thể rất sâu và định có thể rất sâu trong thời
gian nửa phút, mươi giây cắm hương, tất cả bí quyết là ở chỗ đó.
Khi mình quét một lát chổi ở trong thiền đường, thì lát chổi đó
có thể là một sự thực tập niệm và định rất là sâu sắc. Khi mình
nâng một ly trà lên trước khi uống, thì mình nâng như thế nào mà
tất cả thân tâm đều được đầu tư vào chuyện nâng chén trà lên,
thì đó là công phu. Công phu nó không có nằm ở đâu ngoài ra
trong sự sống hàng ngày và mình phải biết lợi dụng những lúc
mình tưới rau, mình rửa bát, mình bửa củi, mình giặt áo,… để
mình tu. Chứ đâu phải là mình tu ngoài những thời gian chấp tác.
Nếu mà nói rằng là phải làm xong hết tất cả những cái đó rồi mới
có thì giờ tu, thì không còn sót lại bao nhiêu thì giờ để tu.
Hôm trước, tôi có kể chuyện một bà thiền sinh người Đức qua làng
Mai, tu một tuần với mục đích là chỉ để coi thầy đóng cái cửa,
mở cái cửa như thế nào. Cũng vậy, khi mình nắm cái chốt cửa vặn
một cái và mở cửa ra, phải đầu tư hết tất cả thân tâm vào trong
đó. Mở cửa với tất cả chánh niệm của mình, rồi khi mình bước ra,
thì cũng bước một bước hai bước như vậy, rồi nắm cái chốt cửa
kéo lại từ từ, với tất cả ý thức chánh niệm của mình, đậy lại
rồi đi. Tất cả đạo lực của mình nó nằm ở chỗ đó. Cho nên Thomas
Merton
[2] mới nói, chỉ cần nhìn thầy mở
cửa và đóng cửa thì mình biết rằng đó là ông thầy tu thiệt. Còn
nếu mình chỉ lao tác thôi, thì dù mình có làm được bao nhiêu
việc ở trong chùa đi nữa, thì công đức đó cũng không bằng công
đức của một hơi thở, một bước chân, tại vì trong đó nó trống
rỗng, nó không có chất liệu của niệm và của định. Người tu,
trong đời sống hàng ngày, phải chế tác niệm và định và giới luật
uy nghi là những biểu hiện cụ thể của niệm. Có lúc mình nói
giới định tuệ, có lúc mình nói niệm định tuệ. Nó có
nghĩa là giới và niệm là một thứ. Uy nghi trong
bốn thế của thân hành, mình đi, đứng, nằm, ngồi, phải có phẩm
chất, phải có nội dung. Ở trong kinh nói rất rõ là khi ngồi,
mình biết là mình đang ngồi, mình ý thức tư thế ngồi của mình.
Khi mình có ý thức về tư thế ngồi của mình thì tự nhiên lưng
mình thẳng dậy, không có còm nữa. Nếu mình ngồi theo kiểu bà
ngoại, lưng còm xuống, thì lúc đó mình không đang ngồi trong
chánh niệm. Mình ý thức được mình đang ngồi thì đồng thời (một
cách) tự nhiên, mình cũng thấy được lưng mình thẳng hay không
thẳng, rằng mình có buông thư hay là không có buông thư. Niệm
tức là sự có mặt đích thực của tâm mình trong mọi động tác,
trong mọi giây phút của đời sống hàng ngày. Chúng ta có bốn
quả, ở làng Mai cũng nói tới bốn quả nhưng mà bốn quả của làng
Mai
[3] nó dễ hiểu hơn nhiều.
Ở yên
Cái quả thứ nhất là an trú, dịch tiếng Việt là ở yên.
Tức là mình cảm thấy thoải mái trong đời sống hàng ngày của
mình, mình không có mong ước, không có mong cầu đi tới một chỗ
khác, tức là an thân lập mạng trong hoàn cảnh của mình,
mình không có đứng núi này trông núi nọ, gọi là an trú. Quả đầu
tiên người tu phải đạt được là quả vị an trú. Còn nếu mà mình
thấp thỏm, mình ngồi không yên, mình đứng không yên, mình ở
không yên, mình ăn không yên, mình muốn đi tới một chỗ khác,
mình muốn ở vào một địa vị khác, thì cái đó chưa gọi là an trú.
Cái quả (an trú) đó phải đạt được, trước khi mình đạt được tới
quả thứ hai.
Ngày xưa, tôi có làm một bài thơ gọi là “Phi cóc tính”[4]
, cóc tính tức là tính nhảy chỗ này rồi nhảy chỗ khác, không có
thể ngồi một chỗ được. Người Việt chúng ta có một câu thành ngữ
là “như bắt cóc bỏ dĩa”. Có cái dĩa, bắt con cóc bỏ vào đó, thì
lúc sau nó nhảy ra khỏi, rồi mình lại bắt nó bỏ trong dĩa, rồi
nó lại nhảy ra, thì đó là “cóc tính”. Trong người tu của mình,
nhất là những người mới tu, có cái cóc tính. Không an trú được,
không có ở yên, đứng núi này trông núi nọ. Cho nên, quả vị đầu
tiên mà mình phải đạt được là quả vị phi cóc tính, không
có tính cách con cóc bỏ dĩa nữa. Vậy có cô nào, chú nào mà còn
có nhiều cái cóc tính đó, không có ở yên được, luôn luôn đứng
núi này trông núi nọ, thì nên biết rằng cái quả đó mình chưa
chứng. Và khi chứng quả đó (được) thì tự nhiên thấy thoải mái,
thấy an lành, có hạnh phúc liền. Hình như trong này có bài phi
cóc tính.
Quả vị đầu tiên mà ta tu
chứng
là quả vị phi cóc tính
Nếu bạn bỏ cóc vào dĩa
chỉ trong vài giây
cóc sẽ nhảy ra.
Nếu bạn bắt cóc bỏ vào dĩa trở lại,
trong vài giây
cóc lại sẽ nhảy ra.
Giữ cóc trong dĩa
thật là rất khó.
Bạn và tôi
chúng ta đều có Phật tánh trong tâm,
đó thật là một niềm an ủi.
Nhưng bạn và tôi
chúng ta cũng có cóc tánh ở trong tâm.
Vì vậy cho nên
quả vị tu chứng đầy tiên của chúng ta
là đạt tới
phi cóc tính.
Ai đạt tới quả vị đó thì mình biết thôi. Và khi mình nhìn người
khác mình thấy họ đang còn cóc tính nhiều quá thì mình biết rằng
người này chưa có an tâm lập mạng, chưa có yên được.
Có một bài nữa, bài này cũng cùng một chủ đề là “Đi Vòng
Quanh”:
Này người đang đi vòng quanh,
hãy dừng lại,
anh đi như thế để làm gì.
Chúng ta biết rằng chung quanh ta, có những người đang đi vòng
quanh, họ có cóc tính rất là nhiều, họ không an trú được, không
ở yên được. Họ không tìm được vui, hạnh phúc nơi họ đang ở và
chỗ họ đang làm. Họ thao thức, họ muốn từ bỏ chính họ, từ bỏ
điều kiện họ đang có để đi tìm một vị trí khác. Này người
đang đi vòng quanh, hãy dừng lại, anh đi như thế để làm gì.
Người kia trả lời:
tôi không thể không đi
và vì tôi không biết đi đâu
nên tôi đi vòng quanh.
Rất là tội, mà những người như vậy đâu phải là không có, nhìn
xung quanh là thấy, rất nhiều người đang đi vòng quanh, không
thể không đi được, nhưng mà tại vì không biết đi đâu cho nên đi
vòng quanh. Trước hết, mình tự hỏi mình có phải là một người
trong những người đang đi vòng quanh hay không.
Tôi vẽ cái hình này để tặng cho sư em Pháp Khoa, sư em trẻ nhất
mới có mười ba tuổi, trước khi xuất gia thọ mười giới, nó cũng
đi vòng quanh nhiều lắm. Mình đi vòng quanh vậy nè, (nhưng) khi
mình gặp con đường rồi thì sao mình (vẫn) phải đi vòng quanh,
mình (phải) đi thẳng là như vậy. Nhất hướng là đi một
hướng thôi, không có đi vòng quanh nữa. Khi mình gặp được thầy,
gặp được tăng thân, gặp được những điều kiện tu học thuận lợi
thì mình nhất hướng mình đi tới thôi, hướng thượng nhất lộ
[5]
Này
người đang đi vòng quanh, hãy dừng lại, anh đi như thế để làm
gì,
thấy kỳ cục quá, thấy tội nghiệp quá. Và xung quanh chúng ta, có
biết bao nhiêu người đang đi vòng quanh.
Sư cô tự hỏi là mình có đang đi vòng quanh không. Đứng về phương
diện hình thức thì giống như là mình đã mặc áo nâu rồi, đã mặc
áo lam rồi và mình đang một hướng đi về giải thoát. Nhưng mà có
thể trong lòng nó đang đi vòng quanh. Sư chú cũng vậy, bề ngoài
mình thấy rõ ràng là mình đã cạo đầu rồi, quyết tâm rồi, đã thọ
mười giới rồi, đã mặc áo nâu vào rồi, sáng nào cũng đi công phu,
chiều nào cũng đi công phu, tham dự vào thời khóa đầy đủ hết.
Đứng về phương diện hình thức thì giống như là mình đã có một
hướng đi và mình quyết tâm đi. Nhưng chưa chắc, ở trong tâm mình
còn có thể đang đi vòng quanh. Mình đang đi tìm một đỉnh núi
khác, mình thấy đỉnh núi này chưa cao, chưa tốt, chưa hay. Này
người đang đi vòng quanh, hãy dừng lại, anh đi như thế để làm
gì. Người kia trả lời rất là tội nghiệp - tôi không thể không
đi. Tại vì cuộc đời là một chuyến đi, đi đâu đó cũng phải đi
thôi. Nhưng mà tại vì tôi không biết đi đâu cho nên tôi đi vòng
quanh.
Này người đang đi vòng quanh,
anh hãy chấm dứt việc đi quanh.
Nhưng nếu tôi chấm dứt việc đi
thì tôi cũng chấm dứt tôi,
điều này rất là đúng, đời là phải có một mục đích, mình phải đi
về một hướng nào đó, nếu mình không đi đâu tức là không có sự
sống, không có mục đích.
Này người đang đi vòng quanh,
anh không phải là sự đi quanh,
anh có thể đi
nhưng không cần phải đi quanh.
Đó là lời khuyên anh có thể đi nhưng mà anh không nên đi quanh.
Tôi có thể đi đâu ?
thì người này nói :
anh hãy đi tìm anh.
Anh hãy đi tìm người thương
Anh hãy đi tìm người thương anh, người anh thương.[6]
Chúng ta nhớ đến câu chuyện trong Đường Xưa Mây Trắng, là một
lần có một bọn thanh niên vào rừng, đi picnic, đem theo một cô
vũ nữ. Sau khi ăn picnic xong, uống rượu no say rồi thì cả bọn
lăn ra ngủ. Cô vũ nữ đó mới thu lượm tất cả những đồ trang sức
quý giá, rồi trốn đi mất. Mười mấy chàng trai này thức dậy đi
tìm. Đi tìm không thấy mà lại gặp đức Thế Tôn đang ngồi trong
rừng. Rồi đức Thế Tôn hỏi mấy anh đi tìm gì vậy, đi đâu mà sớn
xác, đi đâu mà có vẻ gấp rút như vậy. Thì mấy ảnh mới nói thưa
thầy tụi con đi tìm một cô thiếu nữ, cô vừa mới ăn trộm rất là
nhiều châu báu của chúng con và cô đi mất. Đức Thế Tôn cười, mới
nói là này các anh đi tìm cái gì quan trọng hơn? Các anh nên đi
tìm cô đó hay các anh nên đi tìm chính các anh? Câu nói đó làm
cho những người thanh niên giựt mình. Tại vì mình tìm ra mình
chưa được, thì đi tìm một cái gì khác làm sao được. Đi tìm chính
mình tức là con đường tu.
Ai Là Người Niệm Phật?
Những người bên Thiền tông có cung ứng một công án để tặng cho
những người tu ở bên Tịnh độ tông. Công án đó là Niệm Phật
thì thùy[7]
, Niệm Phật thì thùy tức là “cái người đang niệm Phật - người
đó là ai vậy?”. Anh nói là anh đang niệm Phật, anh niệm Phật
suốt ngày, chỗ anh ở là Niệm Phật đường, bảy ngày anh thực tập
là Niệm Phật thất, Niệm Phật thì thùy là công án rất nổi tiếng.
Đây là nhịp cầu mà người bên Thiền tông muốn bắc sang bên Tịnh
độ tông để mời bên kia cùng thực tập.
Anh nói anh đang niệm Phật, anh niệm Phật với tất cả tấm lòng
của anh, nhất tâm. Anh cho tôi biết người đang niệm Phật đó là
ai vậy? Đó là một công án thiền. Nó làm cho pháp môn niệm Phật
trở thành ra một pháp môn thiền tập. Tại vì bất cứ một sự thực
tập nào mà có niệm thì nó đưa tới định. Và có niệm và có định
thì nó đưa tới tuệ và đều là Phật giáo hết, dù là Thiền tông,
hay Tịnh độ tông, hay Mật tông.
Nhưng mà niệm phải là niệm đích thực. Thiền không có niệm Phật
trong khi đi, cũng có thể niệm Phật nhưng mà thay vì niệm Phật
thì mình nói con đã về con đã tới. Khi mình tuyên bố đã về nhưng
mình không có về thiệt, thì bên kia (Tịnh Độ) niệm Phật cũng
vậy, có thể là miệng niệm nhưng mà tâm không có ở với Phật.
Thành vấn đề là phải có chánh niệm, tức là phải có niệm thật,
phải có năng lượng đó có thật trong tâm. Phải chế tác được năng
lượng niệm. Chứ còn Nam mô A Di Đà Phật có thể chưa phải
là niệm, nó mới là một lời tuyên bố thôi, như là tôi đã về tôi
đã tới. Nam mô A Di Đà Phật là có sáu chữ, nó tương đương
với một hai ba bốn năm sáu, tôi đã về nó tương đương với
một hai ba là mình không có về thiệt được. Tại mình không có đầu
tư hết tất cả thân và tâm để bước một bước chân. Đối với người
quen, rất là dễ. Đi một bước chân, đem tất cả thân tâm mình trở
về một mối để tập trung nơi bước chân đó. Đối với những người
thực tập quen, nó quá dễ, cũng như là các sư cô chiên một miếng
đậu hũ đó, để cho nó vàng rụm, không có khó gì mấy. Khi mình
bước được một bước và mình về tới được một trăm phần trăm thì
mình biết rằng mình có thể bước bước thứ hai, hay là bước thứ
ba. Vấn đề là mình muốn hay là không. Mà muốn, muốn cho thiệt
nhiều đó, thì tức là làm được.
Cho nên khi mà mình thực tập một mình, mình là người mới bắt đầu
thì mình phải quyết tâm, mình không có thể làm sơ sơ được. Tôi
thở vào và tôi đi rất là chậm, tôi bước một bước con đã về.
Và mình có tám giây, sáu giây, hay mười giây để mà về, mà sáu
giây là nhiều lắm, tám giây là nhiều lắm. Nếu mình không về được
hoàn toàn trong vòng sáu giây tám giây, là niệm và định của mình
nó hơi yếu. An trú được trong bước chân đó, mình cảm thấy đã về
đã tới, mình dừng sự rong ruổi trở lại. Tại vì trong con người
của mình nó có một năng lượng gọi là tập khí, nó luôn luôn đẩy
mình đi, và năng lượng đó rất mạnh, nó là con voi hoang, nó là
con mãnh hổ, mình phải khôn khéo trói nó lại. Ở đây, mình trói
nó bằng hơi thở và bước chân. Trở lực lớn nhất khiến cho mình
không có về được trong một bước chân là chính anh chàng đó,
chính năng lượng, tập khí nó đẩy mình, nó nói phải đi mau, phải
đi mau, (nó nói) quan trọng là ở tương lai chứ không phải ở hiện
tại, (hiện tại) không có gì đâu mà dừng lại để làm cái gì. Cho
nên tôi bước một bước, tôi để hết tất cả tâm của tôi ở dưới gan
bàn chân, tôi không có để tâm ở trên đầu.
Chúng ta có một bài kệ đi chơi[8]
trong bản môn, nên đi bằng hai chân, không nên đi bằng đầu, đi
bằng đầu sẽ lạc, phải đi bằng hai chân mình và mỗi bước chân nó
giúp mình tiếp xúc với tất cả những mầu nhiệm của sự sống đang
có mặt. Vì vậy nên đi bằng chân chứ không nên đi bằng đầu. Đi
bằng đầu thì mình bay bổng lên hư không trong vòm trời của tư
duy, của triết học, của mộng mị. Đi chơi trong bản môn, nên đi
bằng hai chân, không nên đi bằng đầu, đi bằng đầu sẽ lạc. Đi
chơi trong bản môn, tay ta nắm tay người, nắm tay của đức Thế
Tôn mà đi chơi. Tại sao không? đức Thế Tôn là thầy của mình mà,
là cha của mình mà, là anh của mình, là bạn tu của mình. Nắm tay
đức Thế Tôn đi chơi, đức Thế Tôn chỉ đi trong giây phút hiện
tại, đi như một con người tự do không bị quá khứ ràng buộc,
không bị tương lai lôi kéo. Đi chơi trong bản môn, tay ta
nắm tay người. Ngàn xưa và ngàn sau cùng về chung một lối. Chúng
ta hãy tưởng tượng Bụt Thích Ca với Bụt Đa Bảo ngồi chung một
pháp tòa ở trong một bảo tháp rất là vui.
Sáng nay tôi thấy thầy Đức Nghi với thầy Chí Mậu, hai anh em nắm
tay nhau đi ở ngoài đó. tôi rất là vui. Vậy khi đi, tôi là người
mới tập thì tôi không có để tâm của tôi ở chổ này, tôi đem tâm
của tôi để ở dưới này. Và khi tôi đi, tôi chú ý chỗ tiếp xúc
giữa bàn chân với mặt đất. Một bước chân như vậy, nó giúp tôi
trở về, tôi đang đứng ở trên miếng đất của thực tại, tôi không
đang đứng ở trong thế giới của tư duy, của mộng mơ, của quá khứ.
của tương lai. Tôi thật sự được an trú trong hiện tại.
Vua Trần Thái Tông nói là "Bộ bộ đạp trước thật địa"[9]
tức là mỗi bước đều dẫm lên mảnh đất của thực tại. Mảnh đất của
thực tại là mảnh đất của giây phút hiện tại, “bộ bộ đạp trước
thật địa” là mỗi bước chân đều dẫm lên mảnh đất của thực tại gọi
là thật địa. Khi tôi để hết tâm của tôi vào dưới bàn chân và tôi
tiếp xúc được với mặt đất mầu nhiệm, tôi trở về được một trăm
phần trăm với hiện tại, tôi chống cự lại khuynh hướng kéo tôi về
quá khứ, về tương lai. Tôi có thể làm như đức Thế Tôn “hiện
pháp lạc trú “ tức là ngay trong giờ phút hiện tại, tôi có
an, tôi có lạc. Nếu sư chú quyết tâm thì sư chú có thể về được,
tới được giây phút hiện tại bây giờ và ở đây, trong vòng bốn
giây, sáu giây, hay là tám giây. Tâm mình nó không có rong ruổi
nữa, tâm mình nó an trú trong giây phút hiện tại và thấy rằng
đang còn sống đây, đứng ngay chỗ này là mầu nhiệm, không còn có
mong ước bương chải đi tới đường kia để làm cái gì hết. Có cảm
tưởng mình đã về thật sự, đã tới thật sự thì sư chú thành công,
thành công được một bước, nó có nghĩa là mình có thể thành công
được nhiều bước. Nếu mà chưa về thì tại sao phải bước bước thứ
hai, cứ để đó, cứ để bước như vậy cho đến khi mình về thì lúc đó
mới bước thứ hai, miếng đậu hũ chưa vàng không có gắp ra, để đó
cho nó vàng, các sư cô nghe không?
Cho nên, hơi thở, bước chân, thiền ngồi, thiền đi, tất cả những
cái đó là để giúp cho mình đạt tới quả vị đầu là quả vị an trú.
Không như là con cóc bỏ vào đĩa, mình có hạnh phúc, mình có an
lạc, mình có sự thoải mái ngay bây giờ và ở đây.
Phật Là Ai?
Trở lại cái này một chút, “Niệm Phật thì thùy?” tức là
đưa ra câu hỏi - ai là người đang niệm Phật đó? Tại vì trước đó
mình chắc mẻn mình biết mình là ai rồi, mình chỉ đặt vấn đề là
mình có niệm Phật được hay không thôi. Và mình có niệm Phật đến
mức độ nhất tâm bất loạn hay không thôi, chứ mình biết mình là
ai rồi. Đó là một ảo tưởng, mình chưa biết mình là ai đâu.
Vì vậy, mình cũng chưa biết Phật là ai đâu.
Trong công án này có một giả thiết, giả định là mình chưa biết
mình là ai cho nên mình phải quán chiếu. Nhưng mà trong công án
này nó bao hàm ý là mình đã biết Bụt là ai rồi. Niệm Phật thì
thùy, Ai là người niệm Phật? Mình chưa biết ai là người niệm
Phật, nhưng mà mình đã biết Phật là ai rồi. Cái đó chính nó
lại là một công án khác. Mình chưa biết Bụt là ai đâu, mình mới
chỉ mới có một ý niệm về ngài.
Hồi nhỏ, lúc ba tuổi đến chùa, mình có một ý niệm Phật là ai
rồi. Đến khi mình lên tám tuổi, ý niệm đó thay đổi. Rồi khi mình
đọc sách Phật thì mình có một vài ý niệm mới về Phật. Cái ý niệm
về Phật của mình nó cứ chuyển biến từ từ, bỏ ý niệm trước được,
có ý niệm (mới) cao (hơn), nó gần với sự thật hơn. Trong chúng
ta có nhiều người thấy Phật như là một ông vua, cách chúng ta
lạy giống như là tung hô vua. Cái cách chúng ta để ngài lên trên
đài sen cao chót vót đó nó, chứng tỏ chúng ta thờ phụng ngài như
một ông vua. Cái cách thờ tự, lạy (lục) của chúng ta nó mang
nhiều tính phong kiến. Trong khi đó mình có thể thấy Bụt là một
bậc thầy rất là đơn sơ, đi chân đất, ngồi dưới gốc cây, ngồi
trên cỏ. Và ngài không có thoải mái khi mình đưa ngài lên cao
đứng ở chỗ chót vót đó rất là xa, rồi mình (chỉ) quỳ lạy thôi và
tạo ra một hố cách biệt rất là lớn giữa mình và Phật. Mình là
con số không, Phật là tất cả. Mình đi kiếm chác một chút uy lực,
một chút tình thương, trí tuệ của Bụt. Trong khi đó tổ Lâm Tế
nói - Bụt là ai? Bụt chính là anh - Anh đang ngồi trước mặt tôi,
anh là Bụt đó, đừng có đi tìm Bụt ở ngoài anh. “Phật sanh bất
nhị”, đây là một cái thấy, mình thấy ở trong Lâm Tế lục rất
là rõ, Phật sanh bất nhị, sanh tức là chúng sanh, Phật và
chúng sanh không phải là hai thực thể tách biệt ra. Trong Phật,
mình tìm thấy chúng sanh, trong chúng sanh, mình tìm thấy Phật.
Đi tìm Phật ngoài chúng sanh, đi tìm chúng sanh ngoài Phật cũng
là không có được. Trong khi đó, trong sự thực tập của mình, mình
càng ngày càng đào hố chia cách giữa mình với Bụt càng sâu. Hơn
nữa, mình có ảo tưởng là mình biết Phật là ai rồi, chỉ có vấn đề
còn lại thôi là mình chưa biết mình là ai mà thôi, mình giải
quyết được năm mươi phần trăm rồi trong khi đó mình chưa giải
quyết được một phần trăm. Thành ra công án này nó giả định mình
biết Phật là ai rồi, mình chỉ chưa biết mình là ai mà thôi.
Sự thật là khi mình biết mình là ai thì mình cũng biết Phật là
ai. Và sự thật cũng là khi mình biết Bụt là ai thì mình cũng
biết mình là ai. Tại vì Phật sanh bất nhị.
Công án này đánh dấu một giai đoạn của lịch sử Phật giáo, trong
đó người tu thiền muốn tới gần người tu tịnh, để hai bên kết lại
tình thân hữu, chia sẻ với nhau cái thấy, cái kinh nghiệm tu
tập, rất là vui. Niệm Phật thì thùy, ở Trung Quốc hiện
bây giờ cũng còn thực tập công án này.
Có những thiền sinh xuất phát từ môn phái Tịnh độ, họ nói uổng
quá, nếu mà mình sử dụng những thiền ngữ như “đây là Tịnh độ,
Tịnh độ là đây”, “tôi đã về, tôi đã tới” thì nó uổng, thay
vì sử dụng “tôi đã về tôi đã tới” thì “Nam mô A Di Đà
Phật” có phải hay hơn không. Vừa được đi thiền hành, vừa
được thở, mà lại vừa được niệm Phật, không có bỏ cái nào hết,
hay không! ý là vậy đó, Nam mô A Di Đà Phật. Thì vừa thở,
vừa đi thiền hành, vừa được niệm Phật, đâu cần bỏ, trong khi đó
đã về đã tới, thì đã về đã tới, đâu phải Phật, làm sao mà
linh bằng Nam mô A Di Đà Phật. Vấn đề (là) anh “nói” cái
gì cũng được, nhưng trong khi anh thực tập, anh phải chế tác
được niệm. Vấn đề là anh có chế tác được niệm hay không. Mà anh
chế tác được niệm tức là anh chế tác được định, tại vì trong
niệm nó có mầm mống của định. Niệm mà duy trì được niệm thì định
nó lớn lên từ từ. Mà Niệm Định Tuệ tức là Phật đó.
Anh chú ý tới ly trà, anh có chánh niệm về ly trà, anh có chánh
niệm về đám mây ở trong ly trà. Khi tôi rót trà trong chánh
niệm, tôi biết cái gì đang xảy ra, tôi thấy nước trà trong bình
nó chảy ra, tôi biết rằng tay của tôi đang cầm cái bình và nước
trà từ trong bình trà chảy ra. Cái tâm của tôi nó hoàn toàn chú
tới cái bình trà với nước trà chảy ra, tâm tôi không có suy nghĩ
quá khứ, tương lai, (hay) những dự án. Tôi đang sống với hiện
tại, đặt xuống tôi biết là tôi đang đặt xuống, tôi mở cái
thermot rót nước sôi thì tôi biết nước sôi đang chảy ra. Và tôi
buộc niệm, buộc tâm tôi vào những cái đó, tôi nhận diện được cái
gì đang xảy ra. Tại vì niệm trước hết là biết được cái gì đang
xảy ra, cái gì đang xảy ra là mình đang thở vào, mình đang thở
ra, mình bước một bước một, hoặc là mình đang rót trà, cái gì
đang xảy ra là cái đó, mà cái đó là niệm. Mà nếu Niệm cho vững
thì nó có Định ở trong đó. Mà có Niệm, có Định, có Tuệ thì tức
là Phật ở trong đó rồi, dù mình không có niệm danh hiệu.
Có khi mình niệm danh hiệu nhưng mà không có Phật, tại vì mình
niệm danh hiệu như là mình nói tôi đã về mà mình không có về.
Tôi đã về mà không có niệm đó thì cũng không có Phật. Mà Nam
mô A Di Đà Phật mà không có niệm đó thì cũng không có Phật,
nó trống rỗng. Và khi mà mình uống nước mà tâm của mình đang ở
đây bây giờ thì mình thấy cái gì? mình nhìn vô trong trà thì
mình thấy trà và nhìn vô trong trà mình thấy đám mây. Ngày hôm
qua đám mây bay trên trời và bây giờ đám mây chun vào trong cái
ly trà của tôi. Và điều này không phải là một điều phải tưởng
tượng. Tại vì trà với mây là nhất thể, và khi mình uống trà với
cái thấy đó thì mình thấy rõ ràng là mình đang uống mây. Đám mây
không phải trên trời, ở trong người mình có quá nhiều mây, mười
mấy lít máu đó là mây, chứ đừng nói mây chỉ có ở trên trời. Mây
nó có trong con người của mình và mình đang đưa mây về từ từ,
mỗi ngày mình đều tiêu thụ mây hết. Và mây với mình nó thân
thiết hơn là mình tưởng, nếu không có mây là mình chết liền lập
tức, cũng như là nếu không có mặt trời là mình chết liền lập
tức, sẽ có băng giá. Như vậy thì niệm nó chứa đựng định và định
nó đưa tới tuệ, những cái thấy đó là tuệ. Cái thấy tương tức
tương duyên, cái này nằm trong cái kia, cái kia nằm trong
cái nọ. Khi mình nhìn ly trà tôi thấy nước trà, tôi thấy đó rõ
ràng là những đám mây. Tuy là đám mây hôm qua mình thấy trên
trời không còn nữa, nhưng mà không có nghĩa đám mây nó chết rồi.
Đám mây không có chết được, đám mây nó chỉ có thể biến thành
mưa, thành nước hay là thành tuyết thôi. Và mình đạt tới cái
thấy bất sinh bất diệt về đám mây, đám mây bản chất của
nó là không sinh không diệt, đám mây không có thể nào chết được,
đám mây không có thể nào từ có trở thành không, đám mây chỉ có
thể thay hình đổi dạng. Và đây tôi thấy đám mây rất rõ ràng và
tôi tiếp xúc với đám mây. Những cái thấy đó là tuệ, mà tuệ nó
tháo gỡ cho mình khỏi sự sợ hãi, khỏi sự ưu phiền, khỏi cảnh
biệt ly. Thì niệm định tuệ chính là Phật, hể làm cái gì mà chế
tác được niệm, được định và tuệ là mình đang ở với Phật. Đang
uống trà với Phật, đang cầm tay Phật đi thiền hành, đi trong bản
môn tay ta nắm tay người là chuyện có thể làm được bây giờ. Chứ
không phải đợi khi thân hình này nó tàn hoại rồi mình mới đi
sang bên nớ, mình phải là ngay bây giờ. Nắm tay đức A Di Đà, đức
Thích Ca để đi thiền hành là chuyện mình có thể làm được ngày
hôm nay, tại sao phải đợi khi mà thân thể này nó tan hoại rồi
mới đi qua bên đó.
Các Tổ cũng đã nói như vậy chứ phải không nói đâu, các Tổ nói
Tịnh độ là trong trái tim của anh, duy tâm Tịnh độ , nói
nó nằm ở phương Tây là một cách nói thôi, bộ bên phương Đông
không có Tịnh độ sao, ở đây không có Tịnh độ sao. Bản chất của
Tịnh độ cũng như bản chất của Niết bàn là phương ngoại kiếp
ngoại. Phương là không gian mà không gian thì chúng ta có
thể phân biệt đông, tây, nam, bắc. Ở ngoài đời họ nói có bốn
phương, có khi họ nói sáu phương, trong đạo Phật mình gọi là
mười phương, đông tây nam bắc, tứ duy và thượng hạ là mười
phương. Thành ra chữ phương này nó có nghĩa là không gian và
phương hướng. Thì mình nói tới Niết bàn, Niết bàn nó không có
nằm ở trong không gian, nó không có nằm ở trong phương hướng,
Niết bàn không phải ở đông tây, hay là nam hay bắc. Niết bàn là
phương ngoại tức là ở ngoài không gian, nó là không gian ở ngoài
không gian, phương ngoại. Và những người giác ngô, các bậc giác
ngộ họ sống ở một không gian ngoài không gian, mà có phân biệt
được đông tây nam bắc tứ duy thượng hạ gọi là phương ngoại
phương, tức là không gian ngoài không gian.
Ngày xưa Tuệ Trung Thượng sĩ là một thiền sư cư sĩ, anh ruột của
tướng Trần Hưng Đạo, có làm bài Phóng Cuồng Ca
[10]
, trong đó có câu chống gậy rong chơi phương ngoại phương,
rong chơi ở cái đó thì không bao giờ cuộc chơi nó tàn hết. Còn
rong chơi ở trong không gian của mình thì thế nào cũng có lúc
tàn phai cuộc chơi, cuộc chơi thế nào cũng tàn phai.
Ngày xưa ở chùa Từ Quang, thầy Trúc Dục có làm bài bóng hoa đàm
ca ngợi sự giáng sinh của đức Thích Ca và thầy nói hoa lòng nở,
nở hoài trong kiếp ngoại. Kiếp ngoại tức là thời gian ngoài thời
gian, kiếp tức là thời gian đó. Và trong lời tán dương giáo pháp
thì nói giáo pháp đức Thế Tôn nó vượt thoát thời gian, nó không
có tàn phai với thời gian, nó luôn luôn có giá trị gọi là akalica.
Akalica tức là nó vượt thoát thời gian.
Tính cách của Niết bàn,
Niết bàn - mình không có thể nào tìm trong không gian và thời
gian được, tại vì Niết bàn nó siêu thoát không gian và thời
gian, (mà) không gian và thời gian là những sản phẩm của ý thức.
Có một điều rất là lạ lùng hiện bây giờ đây, khoa học lượng tử
nó cũng tìm ra như vậy, nó nói các điện tử - dương điện tử, âm
điện tử, những cái đó nó lạ lắm, nó như “ma”, nó có thể có mặt
một lần ở nhiều chỗ. Và các nhà khoa học mới, họ nói về những
quantum, những lượng tử, họ nói rằng là bản chất của lượng tử là
“phi cục bộ”. Phi cục bộ tức là một danh từ khoa học bây giờ họ
dùng, phi cục bộ
[11]
tức là nó không có tính cánh địa phương. Phi cục bộ, đây là
tiếng Việt, mà tiếng Anh là no local, không có tính cách địa
phương, tức là mình không có thể xác định vị trí của nó ở trong
không gian được và cũng không có xác định vị trí ở trong thời
gian, no local, no time (temp). Ngay những lượng tử như
là một quang tử. Thì Einstein đã cho mình ý niệm là ánh sáng nó
gồm những hạt rất là nhỏ, gọi là quang tử photon. Mà những
photon đó, mình có thể quan niệm nó là một hạt mà cũng có thể
quan niệm nó như là một đợt sóng. Khi mình nghiên cứu nó dưới
dạng hạt thì nó hiện hình ra dưới dạng những hạt, nhưng mà khi
nghiên cứu nó dưới tư cách một đợt sóng thì nó hiện hình ra cho
mình là một đợt sóng. Giống như đức Quan Thế Âm, có khi hiện ra
là một đồng tử, có khi hiện ra là một đồng nữ, có khi hiện ra là
một thương gia, có khi hiện ra là một nhà chính trị. Thì những
photon nó cũng vậy, mình muốn nó hiện ra cái gì thì nó hiện ra
cái đó, rất là hay, ưng dĩ đồng nam thân đắc độ giả, tức hiện
đồng nam thân nhi đắc độ giả, ứng hiện càn thát bà, atula,
carola, cẩn na la, thân đắc độ giả, niết tất gia(…) hiện chi vị
thuyết pháp.
[12]
Ơ đây cũng vậy, một quang tử, một photon, một là nó là một hạt,
hai là đợt sóng, làm sao làm một lần (là) hai được. Vậy mà khi
nghiên cứu, thấy rằng có khi nó hiện ra như là một hạt, có khi
hiện ra như một đợt sóng, tùy theo câu hỏi mình đặt ra. Người ta
đã đi tới một kết luận, các nhà khoa học hiện đại nhất về lượng
tử đã nói rằng tính chất của các lượng tử là phi cục bộ, tức là
nó vượt thoát thời gian, nó không có thể được xác định vị trí
trong không gian và thời gian được. Và đi về quá khứ là chuyện
không thể làm được. Vậy thì Tịnh độ cũng vậy, Niết bàn cũng vậy,
bản chất của Tịnh độ và Niết bàn là nó vượt thoát không gian,
vượt thoát thời gian, mình không cần nói nó là ở phương tây hay
là ở phương đông. Cái tâm của mình cũng vậy, tâm của mình không
thể nào xác định nó là ở trong thời gian và không gian được. Và
từ từ khoa học và Phật học nó tới gần với nhau. Và người ta dự
đoán rằng thế kỷ thứ hai mươi mốt này, nhà khoa học với nhà Phật
học cầm tay nhau đi chơi giống như là thầy Đức Nghi với thầy Chí
Mậu sáng nay.
Chống gậy rong chơi trời phương ngoại phương,
đó là lời của Tuệ Trung thượng sĩ. Mình đi chơi, nhưng mà đi
chơi ở khung trời không phải là không gian có đông tây nam bắc,
là mình có không gian vô biên, thời gian vô tận, không có tàn
hoại, cuộc chơi không bao giờ bị chấm dứt, vượt thắng sinh tử,
vượt thắng có không, đó là Niết bàn. Niết bàn tức là một cái
gì nó vượt thắng có không, còn mất, sinh tử, tới và đi. Vậy
thì ngay hơi thở của mình, ngay bước chân của mình mà nếu mình
tiếp xúc sâu sắc thì chính hơi thở và bước chân của mình cũng
đưa mình tiếp xúc với phương ngoại và kiếp ngoại và đưa mình
tiếp xúc với Niết bàn, với Phật độ, chứ không phải là ABC của
Phật pháp. (Phật pháp) không có gì là ABC hết, một pháp nó chứa
dựng tất cả các pháp. Và khi mà mình thực tập pháp đó cho nó
thật sâu sắc thì mình thật chứng được tất cả các pháp khác, đó
là giáo lý của kinh Hoa Nghiêm. Ngay trong kinh Quán Niệm Hơi
Thở và kinh thứ tám trăm mười
[13]
cũng có câu đó. Các pháp, các pháp này tức là tứ đế, bát chánh
đạo, tứ chánh cần, ngũ căn ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh
đạo phần, tứ niệm xứ. Tất cả những pháp đó, pháp này nương vào
pháp kia, pháp này yểm trợ pháp kia và trong một pháp có đủ tất
cả các pháp. Và chỉ cần thực tập một pháp cho nó sâu sắc thì
mình đạt hết tất cả các pháp khác. Ai nói rằng kinh đó là kinh
tiểu thừa, kinh A Hàm là kinh tiểu thừa và những tư tưởng đại
thừa uyên ảo nó đã có nằm sẵn trong những kinh đó.
Ngày xưa thì tôi cũng được học tại các Phật học viện ở Việt Nam
như phần lớn các thầy. Nhưng mà tôi có cơ duyên tiếp xúc được
với Phật giáo nguyên thủy và đọc những kinh căn bản của thiền
tập như là kinh Niệm xứ, kinh An ban thủ ý, kinh Người bắt rắn.
Tôi đã để nhiều thì giờ để nghiên cứu những kinh căn bản thiền
tập đó. Biết rất rõ ràng vào thời đức Thế Tôn, các thầy đều học
thuộc lòng và đều sử dụng kinh đó làm “sách”
[14]
gối đầu giường cho nên tôi nghiên cứu rất kỹ và tôi khai thác,
đem ra áp dụng. Và với cái thấy phóng khoáng của Phật giáo đại
thừa, tôi đem những kinh đó ra sử dụng để giảng dạy cho thiền
sinh Tây Phương. Và mình giảng dạy cho họ không phải trên căn
bản kiến thức mà mình đạt được trong khi nghiên cứu mà mình
giảng dạy hướng dẫn cho họ trên căn bản của sự thực tập của
mình.
Pháp môn nào mà mình đem ra chia sẻ với xã hội là trước hết mình
phải tinh luyện, mình phải thực tập ngay trong đồ chúng của
mình, trong nội bộ của mình cho thành công. Ví dụ như thiền
lạy chẳng hạn, mình tập thành công rồi thì mình mới đem ra ở
ngoài. Cũng giống như là một loại thuốc vừa mới bào chế, phải
đem thí nghiệm cho các loài thú vật trước, nếu nó không có những
tệ hại thì mới đem áp dụng cho con người. Và có những người tình
nguyện uống thử thuốc đó và sau khi có một số người đã thí
nghiệm và đã có kết quả tốt rồi thì mới được phép đưa ra thị
trường, ở đây cũng vậy. Và kết quả là ở Mai thôn đạo tràng đã
chấp nhận một Tịnh độ tông, đã tìm ra rằng Thiền tông và Tịnh độ
tông có thể đi đôi một cách tuyệt hảo với nhau. Khi mình đào sâu
vào giáo lý và sự thực tập của Tịnh độ tông, mình thấy được rằng
Di Đà là tự tánh của mình và Tịnh độ phát xuất từ chân tâm của
mình. Thì mình thấy rõ ràng rằng là đức Phật A Di Đà cũng như
cõi nước Tịnh độ là những thực tại mà mình có thể tiếp xúc được
ngay trong giây phút hiện tại, không cần phải chết rồi mới được
gặp đức A Di Đà, không cần chết rồi mới bước sang Tịnh độ. Ngay
trong trong giây phút hiện tại nếu có niệm và định khá vững chãi
thì có thể bước một bước là đi vào Tịnh độ. Và trong Tịnh độ
mình có quyền nắm tay đức A Di Đà để đi thiền hành và hạnh phúc
rất là lớn, không cần phải chờ đợi. Và đó là giáo lý vượt thoát
thời gian Akalika
[15]
.
Giáo pháp mình không có cần phải chờ đợi năm năm bảy năm, hễ nắm
được giáo pháp mà áp dụng vào là có sự thuyên giảm, có sự trị
liệu, có sự chuyển hóa bắt đầu liền lập tức, gọi là hiện thân
thọ chứng. Hiện thân thọ chứng với thân thể này, với hình hài
này, với kiếp sống này. Mình tiếp nhận và chứng ngộ không có cần
phải (đợi) kiếp sau, không có cần phải tương lai, hiện thân thọ
chứng. Đó là một đặc tính của giáo pháp. Cho nên trong những
bài sám của nhật tụng hai ngàn, có bài sám có câu là - mỗi bước
chân đi vào Tịnh độ, mỗi cái nhìn thấy được Pháp thân.
Mình đi vào trong Tịnh độ phải có một hộ chiếu, phải có một
visa, mà visa đó tức là niệm định và tuệ. Nếu anh không có visa
, (không) có ba dấu ấn đó thì tôi đố anh đi vào trong Tịnh độ
được. Mà tuệ đó là tuệ gì? Cái tuệ đó là nó có mặt ngay trong
giây phút hiện tiền, nó không cần phải đi tìm ở phương nào cả và
ở trong tương lai. Và chính ngay trong kinh A Hàm đức Thế Tôn
đã sử dụng danh từ hiện pháp Niết bàn. Khi nào mình có niệm định
tuệ, mình có giải thoát thì Niết bàn là cái có thể sờ mó được
bằng chính hình hài của mình, chứ đừng có nói bằng chính tâm của
mình, hiện pháp Niết bàn và hiện pháp Tịnh độ . Và passport,
visa nó cho phép mình đi vào trong Tịnh độ, chính là năng lượng
của niệm của định và của tuệ. Và mình có thể bước vào Tịnh độ
bất cứ lúc nào mình muốn, mỗi bước chân đi vào Tịnh độ. Và vì
vậy cho nên sự thực tập căn bản của mình là phải chế tác niệm,
chế tác định và chế tác tuệ trong đời sống hàng ngày của người
tu. Mình làm việc nhiều, mình xây chùa nhiều, mình tổ chức
nhiều. Nhưng mà nếu trong khi mình làm những cái đó mà mình
không có chế tác niệm định tuệ thì mình bỏ phí cuộc đời tu của
mình mà thôi. Mà nếu mình tu rục, mà không chế tác niệm định tuệ
thì cũng bỏ phí cuộc đời tu của mình mà thôi, mình hành xác,
mình tu rục nhưng mà trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày
không có niệm, không có định, không có tuệ, không có hỷ, không
có lạc thì cũng bỏ phí cuộc đời tu mà thôi. Đức Thế Tôn nói rằng
giáo pháp của ta nó tốt đẹp lúc ban đầu, nó tốt đẹp lúc ở chặng
giữa và nó cũng tốt đẹp cái chặng cuối, sơ thiện, trung
thiện, hậu thiện. Không có nghĩa là ban đầu phải lao tác mệt
nhọc, phải chịu khó, phải chịu cực thì sau này mới có hạnh phúc.
Không - cái đó là hậu thiện thôi, không có sơ thiện và trung
thiện. Giáo pháp của ta nếu các con chấp nhận áp dụng thì hạnh
phúc liền lập tức ngay khúc đầu gọi là sơ thiện.
Sơ thiện, mà trung cũng thiện, mà hậu cũng thiện, lovely in
the beginning, lovely in the midle, lovely in the end.
Xã hội ngày hôm nay là một xã hội hết sức là bận rộn, nó có một
sự bương chãi rất là lớn, nó có một sự cạnh tranh rất là ác
liệt, rất là khốc liệt. Để thành công hơn người trong giới doanh
thương, trong giới chính trị, trong giới quân sự. Cho nên người
ta càng ngày càng không có khả năng sống an lạc hạnh phúc ngay
trong giây phút hiện tại, càng ngày càng đi xa cái thứ hạnh phúc
mà đức Thế Tôn nói là hiện pháp lạc trú, tức là đức Thế Tôn nói
rằng con có thể sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại,
nếu con tập sự xuất gia con cũng có thể hạnh phúc được liền,
không có cần phải xuất gia rồi mới có hạnh phúc, nếu con mới là
sa di thôi, chưa là tỳ kheo con cũng có hạnh phúc rồi không phải
đợi thọ giới lớn mới có hạnh phúc, sự thật là nó như vậy.
Và lúc đó mình thấy rằng quả vị án trú là nó cần thiết như thế
nào, mình phải đạt cho được quả vị đó. Cái quả vị tiếp theo là
đã về đã tới, an trú chuyển hóa được cái cóc tính ở trong người
thứ hai là đã về đã tới. Dừng lại được, không có trôi lăn nữa,
cảm thấy thoải mái, an lạc hiện ngay bây giờ, không có bị cái
tập khí nó kéo theo nữa, nó lôi kéo đi nữa, đã về đã tới. Con đã
chạy suốt đời, con đã chạy trong những kiếp khác, bây giờ con đã
dừng lại được và con đã thấy được niềm vui trong mỗi giây phút
của đời sống hàng ngày. Cái đó là quả đã về đã tới mà chư tôn
đức vị nào chứng được quả đó thì vị đó cũng biết không có cần
phải người khác nói. Khi người ta nhìn vào, người ta thấy mình
sống an lạc được trong giây phút hiện tại, không có bương chãi,
không có trôi lăn trong sự lo lắng về tương lai, thì mình biết
rằng người đó đã chứng được quả vị đã về đã tới, hoặc là đang ở
trên đường đã về đã tới, đã về đã tới hướng hay là đã về đã tới
quả, có nghĩa là A La Hán hướng, A La Hán quả.
Vậy quả thứ ba là quả gì? có ai nhớ không? là quả tương tức,
là tuệ giác nó cho mình thấy rằng cái này tức là cái kia, cái
này nó nằm trong cái kia, Phật nằm trong chúng sanh, mình nằm
trong cha, trong mẹ, (cha) mẹ nằm trong mình, đám mây nó nằm
trong ly nước trà, cái này nằm trong cái kia, cái này là cái kia
gọi là tương tức. Tương tức là cái thấy về duyên sinh, mà cái
thấy này không phải là mình đạt được do lý thuyết, do học hỏi,
do nghiên tầm triết học. Mình thấy được cái này là tuệ giác chứ
không phải là kiến thức.
Có một lần thầy Anan nói với đức Thế Tôn - giáo lý về duyên sinh
hình như là đơn giản thôi, con có cảm tưởng là con hiểu được một
cách rất rõ ràng. Bụt nói đừng nói như vậy thầy Anan, giáo lý
duyên sinh rất là mầu nhiệm. Mà tuệ giác duyên sinh mà đạt tới
là chấm dứt được sanh tử. Những lần đầu đức Thế Tôn nói về duyên
sinh, ngài nói với những danh từ hết sức là đơn giản “thử
hữu tức bỉ hữu, thử vô tức bỉ vô, thử sinh tức bỉ sinh, thử diệt
tức bỉ diệt”, dịch là “cái này có thì cái kia có, cái này
không vì cái kia không, cái này sanh vì cái kia sanh, cái này
diệt vì cái kia diệt”, nó hết sức là đơn giản nhưng mà nó
sâu sắc vô cùng.
Cái này nó nương vào cái khác mà có, mà biểu hiện, cái khác
nương vào cái này mà biểu hiện, nó nương nhau mà biểu hiện không
cần cái nào trước cái nào hết. Ví dụ như tôi vẽ một hình tam
giác ABC, rồi tôi muốn từ hình tam giác ABC, tôi tạo ra hai hình
tam giác, tôi gạch một đường AH và bây giờ tôi có hai tam giác
là AHC với ABH. Thì bây giờ thử hỏi hai hình tam giác đó, cái
nào có trước? cái nào có sau? - Hai cái đó nó nương vào nhau mà
có, không có cái này thì không có cái kia, không có cái kia thì
không có cái này, nó vượt thoát thời gian, nó nương vào nhau mà
có thì cái này không phải là có trước mới sinh ra cái kia, cái
kia không phải là có sau là tại vì cái này có trước. Nó đơn sơ
như vậy, tương tức mình dịch là interbeing, đó là một
danh từ của Hoa Nghiêm tông, bây giờ bên Tây Phương nổi tiếng
lắm, danh từ này, sóng ở trong nước, nước ở trong sóng, mây ở
trong dòng sông, dòng sông ở trong mây.
Ở bên Ai Cập, họ tin rằng dòng sông Nile là từ trên trời chảy
xuống, mà thật sự nó đúng như vậy, là từ trên trời nó chảy
xuống, dòng sông Cửu Long cũng vậy, từ trên trời chảy xuống, là
từ mây mà xuống chứ có gì đâu, rất là đúng. Cho nên khi mình an
trú được rồi, thoải mái trong giây phút hiện tại rồi, quán chiếu
thấy được cái nhìn tương tức, có được tuệ giác đó rồi thì mình
đạt được tới quả vị gọi là vô sinh, thoát khỏi sống chết.
Chữ vô sinh, vô sinh dĩ chứng, vô sinh tốc chứng ở trong
công phu chiều hay công phu sáng gì đó. Thì nó đại diện cho bảy
cái “vô” khác, vô sinh nó có nghĩa là bất diệt, vô khứ vô
lai, phi nhất phi dị, phi hữu phi vô, phi thường phi đoạn.
Những cái đó, chữ vô sinh nó đại diện cho tất cả những ý niệm
khác. Mình có ý niệm có và không, thường và đoạn, tới và đi, một
và nhiều. Thì tất cả những cái đó nó được đại diện bằng cái anh
chàng “sinh”, vô sinh tức là cũng “vô” tất cả những cái khác
(đó).
Trình bày bốn quả này thì rất là dễ, ai cũng hiểu được hết và
người nào đi tới đâu thì mình biết là mình đi tới đó. Khi tổ
chức một khóa tu cho người xuất gia hay cho người tại gia thì
mình có thời khóa ngồi thiền, đi thiền, pháp đàm, ăn cơm trong
chánh niệm, nghe chuông tập thở, và các thiền sinh tham dự xong,
họ có an lạc, họ có hạnh phúc. Nhưng mà mình tổ chức khóa tu,
sau khi khóa tu chất dứt rồi thì mình vẫn tiếp tục làm như trong
khóa tu. Cái điều này nó rất là quan trọng, tại vì tôi đã thấy
những thiền viện theo truyền thống Nhật Bổn tổ chức những khóa
tu, mà trong khóa tu đó trong năm ngày, mười ngày, ba tuần,…
thực tập rất là gắt gao, có thể mình không có theo nổi. Nhưng
sau khi khóa tu chấm dứt thì buông thua ra hết, đi uống rượu, đi
chơi, không có tiếp tục. Đợi khóa tu tới thì gắt gao trở lại. Nó
có những thái cực ở giữa những khóa tu, nó có những thời gian
gọi là không-khóa-tu. Và trong thời gian không-khóa-tu mình có
thể làm bất cứ cái gì mình muốn.
Còn tại làng Mai nó khác, khóa tu chấm dứt rồi, thiền sinh đi
về, mình cũng tiếp tục tu giống hệt như khóa tu đang còn. Tại vì
sao vậy? Mình tu cho mình chứ đâu phải tu cho ai, tại vì làm cái
đó nó an lạc, nó hạnh phúc. Sau mỗi khóa tu làm việc hơi cực
nhọc, thì thường thường mình có được mấy ngày gọi là ngày làm
biếng để mình làm những cái chuyện mình ưa làm, ví dụ ngồi
viết thơ cho thầy, ngồi viết thơ cho bạn, đọc một vài cuốn sách,
ngồi võng như vậy đó, rồi mình nói thời khóa trong tuần muốn
ngồi thiền thì ngồi, còn không muốn ngồi thiền thì đi ra nằm
võng, hoặc là đọc sách cũng được. Nhưng mà thường thường sự việc
nó xảy ra ở xóm thượng làng Mai hay là xóm hạ làng Mai, sau bốn
năm ngày như vậy thì năng lượng ở trong chúng nó không có được
vững bằng, vì vậy cho nên các thầy các sư chú rủ nhau đi ngồi
thiền trở lại, đi sinh hoạt theo thời khóa trở lại, tại vì cái
đó nó nuôi dưỡng mình hơn, mà không cần phải thầy nhắc nhở,
không cần phải có quy luật gì hết, mình thấy cái như yếu cần tu
với nhau để cho năng lượng tập thể nó nuôi mình. Cho nên mình
không có muốn kéo dài thời gian gọi là không-thời-khóa. Và cố
nhiên là khi mình đi thiền hành với bảy trăm thiền sinh thì mình
đi từng bước thảnh thơi an lạc, bước nào cũng về, bước nào cũng
tới, bước nào cũng đi vào Tịnh độ, không có bước nào đi ra khỏi
Tịnh độ, đi lạc vào cõi địa ngục, ngạ quỷ hay súc sinh, năng
lượng tập thể nó giúp cho mình bước nào cũng đi vào Tịnh độ.
Nhưng mà khi khóa tu chấm dứt rồi thì mình cũng đi như vậy. Tại
cái đi đó hạnh phúc quá, tại sao mình lại phải bỏ, nó đâu có
phải là khổ sai, nó đâu phải là lao tác mệt nhọc đâu. Tại vì đi
như vậy hạnh phúc hơn nhiều. Vì vậy cho nên chúng ta có thể tạo
ra một môi trường mà trong đó chúng ta có thể thực tập nghiêm
mật. Tại vì sự thực tập nghiêm mật đó đưa tới sự chín muồi, sự
thành công của các quả này. Cho nên khi mình đi với đại chúng,
mình cũng đi với những bước chân có phẩm chất như vậy mà khi
mình đi một mình , mình cũng đi với những bước chân có phẩm chất
như vậy. Khi mình đi nửa cây số với đại chúng mình cũng đi như
vậy, mà khi mình đi hai thước từ phòng mình ra cầu tiêu thì mình
cũng đi những bước chân vững chãi thảnh thơi như vậy. Bước nào
cũng phải đi vào trong Tịnh độ, không có để cho bước nào nó lọt
ra khỏi Tịnh độ, là chuyện mình có thể làm được, và chuyện Tịnh
với Thiền nó đi đôi với nhau một cách tuyệt hảo là chuyện mình
có thể làm được.
Ba Dấu Ấn - Niệm Định Và Tuệ
Tịnh độ ở Việt Nam rất là quan trọng, rất là lớn và vì vậy cho
nên những người thiền tập phải biết cách để cùng thực tập với
những người trong Tịnh độ. Tại vì bất cứ một tông phái nào của
Phật giáo mà không có ba dấu ấn đó của sự thực tập thì chỉ là sự
thực tập hình thức và ba dấu ấn đó là niệm định và tuệ.
Bên Tịnh độ tông rất chú trọng đến chuyện nhất tâm bất loạn.
Nhất tâm bất loạn là gì, nếu không phải là niệm định tuệ. Có
niệm, có định rồi thì thấy đức Di Đà ngay trước mặt, sau lưng
mình, ở trong trái tim của mình, mình nắm tay đức A Di Đà đi
chơi được ngay trong giây phút hiện tại. Còn nếu không thấy được
như vậy thì dầu người ta có chở mình đi sang Tịnh độ thì cũng
không có đi với đức Di Đà được, thấy rằng các vị bồ tát đang vây
xung quanh ngài, sức mấy mà tới gần, còn khuya mới được tới.
Nhưng mà trong hoàn cảnh thực tập này thì không có người nào
ngăn hết, mình cứ nắm tay đức A Di Đà mà đi thôi, tay ta nắm tay
người, rất là hay. Và khi mà mình đi chậm thành công thì mình đi
mau cũng thành công, lúc ban đầu mình đi một bước và mình phối
hợp với một hơi thở, con đã về con đã tới.
Mình có thể chọn một đoạn đường từ một gốc cây cho đến một tảng
đá. Và mình phát nguyện với chính mình từ gốc cây này cho đến
tảng đá đó, bước nào cũng bước vào Tịnh độ hết, bước nào cũng đã
về đã tới một trăm phần trăm và mình thực tập cho kỳ được. Ngày
nào cũng đi khúc đó cho đến khi nào mà mình đi đâu cũng đi được
những bước như vậy, thì dầu là tới phi trường, hay là tới ga xe
lửa, hay là leo ngũ đài sơn, hay là leo lên đồi vọng cảnh thì
cũng đi như vậy. Và lúc đó mình đã về đã tới thật sự trong mỗi
giây phút của đời sống hàng ngày của mình. Chúng ta cần phải có
những thầy, những ni sư đi được như vậy, chúng ta cần phải có
những sư anh, những sư chị đi được như vậy, đi cho các sư em
trông theo, mỗi bước chân nó phải có phẩm chất của sự vững chãi
của sự thảnh thơi của sự đã về, của sự đã tới. Và nó phải chế
tác được an lạc hạnh phúc. thì ngày xưa tăng đoàn của đức Thế
Tôn đã đi như vậy, và đi tới đâu gây sự cảm phục, cảm hứng rất
là nhiều.
Còn như hôm qua có câu hỏi thảnh thơi thiên hạ nói mình ngồi mát
ăn bát vàng, đâu có được! Mình phải thảnh thơi thôi, nếu không
có thảnh thơi thì không có dấu ấn của thầy tu. Phải thảnh thơi,
phải an lạc, phải hạnh phúc, thầy tu phải như vậy. Mà nếu thầy
tu cứ mỗi ngày đều khóc, đều than buồn thì chưa phải, chưa thoát
ra được. Chúng ta có phước mới có được bốn ngày tu chung với
nhau, nhưng mà bốn ngày nó hơi ít. Chừng nào chúng ta nên tổ
chức một khóa chín mươi ngày tu cho đã, ngày nào cũng có pháp
thoại, ngày nào cũng có đi thiền hành chung, ngày nào cũng được
ăn cơm chung với nhau rất là vui.
Bên Pháp năm nào cũng có một khóa chín mươi ngày hết, nó xảy ra
ở mùa đông. Không biết mùa đông ở Huế mình có thể kiết Đông an
cư được hay không, nó ít nóng. Cái bài tập thứ tám trong kinh An
ban thủ ý là đối phó những cảm xúc lớn, đời người tu thỉnh
thoảng nó cũng có xảy ra những cảm xúc lớn buồn khổ, lo lắng,
chán nản, sợ hãi. Thì bài tập thứ bảy là trở về nhận diện ôm ấp
được nỗi khổ niềm đau đó thì mới là người tu. Còn nếu mình là
người tu mà mình cứ để khi mà có một cảm xúc lớn như là đau buồn
sợ hãi giận dữ tuyệt vọng nó trấn ngự mình và mình chỉ làm nạn
nhân của tâm hành đó thì mình không phải là người tu. Mình phải
biết xử lý cảm thọ đó, cảm xúc đó. Mình phải có năng lượng của
niệm của định khá vững để nhận diện nó và ôm lấy nó, như là bà
mẹ thấy được em bé đang khổ đang đau, bà mẹ ôm lấy đứa con đó là
hành động thứ nhất. Và hành động thứ hai là tiếp tục chế tác
năng lượng đó để làm cho năng lượng đó nó lắng dịu xuống, đó là
đối tượng của bài tập thứ tám trong kinh an ban thủ ý. Thở vào
tôi làm lắng dịu tâm hành đang có mặt trong tôi, cái đó có thể
là giận hay buồn, sợ hãi, lo lắng hay tuyệt vọng. Và chính năng
lượng của niệm của định đó nó sẽ làm lắng dịu tâm hành kia. Và
khi mình có niệm có định thì thế nào cũng có một chút tuệ, có
nhiều hay có ít, có ít hay có nhiều cũng có tuệ. Và chính tuệ đó
nó gỡ rối cho mình rất nhiều. Ví dụ như mình có tuệ giác về vô
thường, trước hết mình thấy tâm niệm này nó vô thường thôi.
Trong quá khứ mình đã từng trải qua những cảm xúc lớn như vậy,
một cơn sóng gió, sự sợ hãi, sự buồn giận, sự bực bội hay là sự
tuyệt vọng. Mình tưởng là mình sống không nổi, nhưng mà ai dè
một ngày sau, hai ngày sau thì nó cũng qua và nó cũng như bất cứ
một hiện tượng nào khác, bản chất của nó là vô thường. Trong khi
mình ôm ấp nó, mình nhận diện nó mình nói nỗi khổ của ta ơi,
niềm đau của ta ơi, ta biết là ngươi có đó nhưng mà ta cũng biết
rằng ngươi vốn thường, ta sẽ chăm sóc cho ngươi trong thời gian
này, ta biết ngày mai ngươi cũng sẽ chuyển biến. Thì nội một tuệ
giác vô thường đó nó cũng đã làm cho mình đỡ khổ rồi. Còn nếu
không có tuệ giác vô thường đó thì cứ nghĩ rằng mình sẽ khổ như
vậy ngày này sang ngày khác sẽ khổ cho đến trọn đời, nó đưa đến
tư tưởng là phải đi tự tử cho nó hết khổ.
Nội một tuệ giác vô thường đã giúp rất là nhiều cho mình rồi. Và
nếu mình thực tập được thì mình có thể dạy cho em mình con mình.
Những chàng thanh niên những cô thiếu nữ đang còn dại dột, mỗi
khi lâm vào một cảm xúc lớn như vậy, nghĩ rằng chắc là mình sẽ
khổ hoài, khổ mãi, không có biết rằng đây chỉ là một cơn bão tố
và cơn bão tố nó vô thường. Cho nên trong lúc ôm ấp mà chăm sóc
nó, bảo quản nó, mà có được một ít tuệ giác thì mình vượt qua nó
rất mau, mình làm lắng dịu rất mau. Cái niệm cái định thế nào
cũng có đưa tới cái tuệ, tuệ giác vô thường, tuệ giác vô ngã.
Tuệ giác vô ngã nó cũng dễ lắm, dễ thấy lắm. Ví dụ như là cha
với con giận nhau, là khi mình giận người kia là mình muốn người
kia khổ đi cho biết, chết đi cho rồi, khổ đi cho biết. Nhưng mà
tuệ giác nó cho mình biết rằng cha mình chính là mình đó, cha mà
chết một cái rồi mình lãnh đủ. Hay là con mình, mình đang giận
nó, mình muốn đánh đòn nó, mình muốn nó biến mất đi không có
trước mặt mình nữa. Nhưng mà nó chết một cái là mình cũng chết
luôn, nó là sự tiếp nối của mình. Trong cái vô minh mình thấy
con mình với mình là hai cái thực thể khác nhau, con mình là con
mình, mình là mình cái đó là ngã chấp. Còn vô ngã là nói con
mình là sự tiếp nối của mình và mình đang có mặt trong con mình
, con mình đang có mặt nơi mình. Mình giận mình tức là mình giận
con mình, mình giận con mình tức là mình giận mình. Mình làm cho
con khổ tức là mình làm cho con khổ, mình làm cho mình khổ, mình
làm cho con mình khổ.
Có câu chuyện tiếu lâm, có ông đó ông thấy con trai đánh cháu
của ông quá, ông nóng ruột. Mà ông không có ngưng con ông lại
được, thấy con đánh cháu nội mình quá, tức quá, ông nói mày đánh
cháu tao thì tại sao tao không đánh cha mày và ông ta tự tát tai
ông, đó là trả thù. Mà sự thực là đánh cháu mình cũng là tự đánh
mình, cũng tự đánh cha mình. Tự đánh mình cũng là đánh con mình
đánh cháu mình, sự thật là nó như vậy, nó là tương tức, nó là
duyên sinh, nó là vô ngã, hòa thượng Thiện Siêu nói vô ngã là
Niết bàn là như vậy đó. Vô ngã là chìa khóa nó mở cửa cho Niết
bàn, đó là tuệ giác chứ không phải là kiến thức.
Duy tuệ thị nghiệp
Chúng ta hay lạm dụng câu “Duy tuệ thị nghiệp” . “Duy tuệ
thị nghiệp” có nghĩa là chỉ có tuệ giác mới là cái sự nghiệp
đáng theo đuổi mà thôi. Không có sự nghiệp nào đáng để mình
theo đuổi ngoài tuệ giác. Mà tuệ giác này không phải là kiến
thức mà mình chất chứa trong trường học. Thành nói sự học hỏi để
chất chứa kiến thức gọi là tuệ là không có đúng. Có thể những
kiến thức mà mình chất chứa đó nó là chướng ngại. Không cho
mình có được tuệ giác là chính vì những cái mình chất chứa, kiến
thức mình chất chứa. Đó là những cái sở tri chướng. Cho
nên mình phải giảng giải câu đó cho nó rõ, câu đó trong kinh Bát
đại nhân giác. “Duy tuệ thị nghiệp” có nghĩa là chỉ có
một sự nghiệp đáng đeo đuổi đó là thực hiện tuệ giác. Mà thực
hiện tuệ giác không có nghĩa là đậu bằng tiến sĩ, đậu bằng tiến
sĩ không phải là theo đuổi sự nghiệp tuệ giác, đó là sự nghiệp
học hỏi trao dồi kiến thức, “Duy tuệ thị nghiệp” là nó có nghĩa
là như vậy.
Cho nên mình là sư cô trẻ, mình là sư chú trẻ, mình phải lập tức
học hỏi những điều căn bản. Mình phải làm thế nào để có thể chế
tác được niệm, được định, ngay trong đời sống hành ngày của mình
với tư cách một vị sa di hay sa di ni. Mình phải tập làm làm sao
để bảo quản được thân và tâm của mình. Khi có những đau nhức, có
những căng thẳng trong thân mình phải biết cách để mà tháo gỡ.
Khi có những đau nhức, những căng thẳng ở trong tâm đó là đối
tượng của bài thứ bảy thứ tám là mình phải biết cách tháo gỡ,
biết cách làm lắng dịu. Và không có cách nào hơn là sử dụng ba
nguồn năng lượng niệm định và tuệ. Và vì vậy cho nên trong đời
sống hàng ngày việc chính của người tu là chế tác niệm định tuệ.
Cố nhiên chúng ta phải có nhiều việc cần làm như là hành đường,
như là quét là trên sân, như là cắm hoa, như là tiếp khách.
Nhưng mà tất cả những điều đó chúng ta đừng có làm như người
đời, chúng ta sử dụng những công tác đó và làm trong chánh niệm.
Chúng ta có hình ảnh của một chú tiểu mở cánh cửa ra với tất cả
chánh niệm, rồi đi ra với tất cả chánh niệm, rồi đóng lại trong
chánh niệm. Chúng ta hãy mở cửa và đóng cửa như vậy. Chúng ta có
hình ảnh của một chú tiểu thắp một cây hương, đầu tư hết tất cả
thân tâm vào trong việc cắm cây hương đó trong bát nhang, một
trăm phần trăm thân và tâm. Chính những lúc đó là lúc mình là
chế tác chánh niệm, chính những lúc mình đi từ liêu phòng của
mình xuống nhà bếp, lên thiền đường là mình phải đi những bước
chân như thế nào để mỗi bước có thể chế tác được chánh niệm. Và
khi mà trong chúng người nào cũng làm như vậy thì rất là hay và
mình cũng phải làm thôi. Còn nếu trong chúng mà ai cũng chạy
hết, thì dù mình có ráng cách mấy thì mình chỉ tiến bộ được một
phần nào thôi.
Cho nên vấn đề là phải làm chung, phải có năng lượng tập thể,
phải được tổ chức để ai cũng có thể làm được như vậy. Và khi mà
những người thiền sinh tới, những người cư sĩ tới, họ thấy các
thầy các sư cô đi những bước đi vững chãi thảnh thơi, nắm vững
được tình thế của thân và của tâm, họ tự động họ đi chậm lại, họ
tự động họ thực tập, rất là hay. Dầu mình chưa đến tuổi làm giáo
thọ, dù mình chưa giảng giải hay chia sẻ mà cách mình đi đứng
nói cười làm việc đã tạo ra rất là nhiều tác dụng tốt.
Trong chuyến đi này của phái đoàn làng Mai, đoạn đầu là chỉ có
Sài Gòn và Bảo Lộc thôi. Thì sau cuối chuyến thì tôi có nhận
được thơ của một thiền sinh người Thụy Sĩ. Và người này nói rằng
- con hết sức là ấn tượng, thấy rằng các cô các chú sao mà còn
trẻ quá đi mà tại sao làm việc nhiều như vậy mà giữ được sự tươi
mát và nụ cười, con rất lấy làm ngạc nhiên, ở đời không có thể
nào làm được như vậy. Mà tình trạng của chùa Bát Nhã trong khóa
tu cư sĩ là một tình trạng rất là bất thường. Cái khả năng của
mình là tiếp đón hai ngàn người, nhưng mà cuối cùng mình đã mở
cửa tiếp đón sáu ngàn người và mỗi chúng ta đều phải làm việc
nhiều hơn lên gấp ba lần. Vậy mà mình giữ được sự trầm tỉnh, sự
thảnh thơi, đó là chuyện rất là đáng khen.
Mỗi khi tôi đi ngang qua nhà bếp, tôi thấy năm bảy nhóm các vị
cư sĩ xắt gọt mít, một núi mít! Mỗi khi có tiếng chuông, thấy
ngưng lại thở đàng hoàng, mỗi khi tôi đi ngang qua mọi người đều
đứng dậy chắp tay thở và thường thường tôi cũng dừng lại để chào
họ, khen học thực tập giỏi và có khi còn đứng lại để chụp hình
chung với họ, hạnh phúc rất là lớn. Tôi thấy tổ chức như vậy rất
là được, người xuất gia có cơ hội tu tập mà người tại gia tới
tiếp xúc cũng được cơ hội tu tập rất là hay, chứ không phải là
họ chỉ tới để làm công quả, để bòn chút phước đức hay là yểm trợ
người xuất gia mà thôi. Họ tới họ cũng được thực tập rất là hay.
Nhưng mà hy vọng rằng chuyện khóa tu đó nó không có xảy ra, mình
làm sao để cho mình đừng có phải làm quá sức của mình. Tại vì
mình ráng độ chừng năm ngày thì được nhưng mà mình ráng độ chừng
một tháng chắc là mình cũng sụm luôn, mình phải biết giới hạn
của mình , có phải như vậy không, thành ra đại chúng phải cẩn
thận. Có nhiều người họ nhìn vào thời khóa của chuyến đi Đông
Nam Á của thầy họ sợ luôn, nói ông già này sao mà làm được, tôi
đây người trẻ mới bốn chục tuổi mà tôi thấy thời khóa này tôi đã
mệt rồi mà không biết tại sao ổng làm được. Mà thật sự tôi cũng
không biết tại sao tôi làm được nữa.
Các thầy các sư cô có cây hỏi gì hỏi đi, tại vì mình chấm dứt
buổi pháp thoại này, đây là buổi pháp thoại chót của khóa tu.
Thôi khỏi hỏi, bây giờ mình chắp tay lại niệm Bụt Quan Âm đã gia
hộ cho chúng ta có một khóa tu an lạc và hạnh phúc
[16] .
(30-Mar-2007)
[1]
ChùaTừ Hiếu
– Huế.- bài giảng trong dịp TS NH về thăm quê hương lần thứ
hai – 2007.
[4]
Nhất Hạnh, "Phi cóc tính " trong Thơ Từng Ôm và
Mặt Trời Từng Hạt, TuyểnTập Thơ, Walnut Creek,
California: Lá Bối, 1996, pp. 24
[5]
Một đường đi lên – con đường chỉ có duy một hướng lên.
[6]
Nhất Hạnh, " Đi Vòng Quanh " trong Thơ Từng Ôm và
Mặt Trời Từng Hạt, TuyểnTập Thơ, Walnut Creek,
California: Lá Bối, 1996, pp. 25:
Này người đang đi vòng quanh,
Hãy dừng lại,
Anh đi như thế để làm gì?
Tôi không thể không đi
Và vì tôi không biết đi đâu
Nên tôi đi vòng quanh.
Này người đang đi vòng quanh,
Anh hãy chấm dứt việc đi quanh.
Nhưng nếu tôi chấm dứt việc đi
thì tôi cũng chấm dứt tôi,
Này người đang đi vòng quanh,
Anh không phải là sự đi quanh,
Anh có thể đi
Nhưng không cần phải đi quanh.
Tôi có thể đi đâu
Anh hãy đi tìm anh.
Anh hãy đi tìm người thương
[7]
Niệm Phật thì thùy -
念佛是
誰
– người niệm Phật là ai?
[8]
Nhất Hạnh, " Đi chơi " trong Thơ Từng Ôm và
Mặt Trời Từng Hạt, TuyểnTập Thơ, Walnut Creek,
California: Lá Bối, 1996, pp. 231:
[9]
Bước chân trên thật địa (thuật
ngữ): Đi trong chánh niệm, đi mà ý thức được từng bước
chân, tiếp xúc với thực tại nhiệm mầu của sự sống trong mỗi
bước chân. Vua Trần Thái Tông nói trong sách Khóa Hư Lục:
Bộ bộ đạp trước thật địa (bước nào cũng dẫm trên
đất đai của thực tại). Khác với khi đi mà không biết mình
đi, đi như người mộng du. (TDLangMai)
[13]
Kinh thứ tám trăm mười? (ghi âm không rõ) Kinh thứ mười ?
- Kinh Niệm Xứ (hay Tứ Niệm Xứ) - Satipatthan sutta,
là kinh thứ 10 trong Trung Bộ Kinh, được xem như là kinh căn
bản về thiền quán trong kinh tạng Pali (Majjhima Nikaya 10.
Satipatthana Sutta)
[14]
TS NH dùng nghĩa bóng – lúc đức Thế Tôn tại thế, chưa có
kinh sách – như dạng ngày nay!
[15]
Akalika: vượt thoát thời gian, nghĩa là không có
thời gian tính.
[16]
Nguyên văn bài giảng được ghi lại và biên dịch – chú
thích (nếu có sai lầm là) của người biên dich.
|