Kính thưa
chư vị tôn đức, kính thưa các vị lãnh đạo, chư vị quan khách và
chư vị Phật tử, tôi xin kể câu chuyện về Frederick. Frederick là
một thương gia, doanh nhân rất tài ba, trên 40 tuổi ( 45 tuổi ).
Ông ta là người Đức, một người có trách nhiệm, có thể coi ông là
một doanh nhân khá thành công. Tôi không biết trực tiếp
Frederick, nhưng tôi biết Claudia, là phu nhân của ông, của nhà
doanh thương này. Claudia đã tới tham gia một khóa tu dành riêng
cho giới doanh nhân. Claudia đã kể lại câu chuyện của cuộc đời
bà.
Khi tương
lai trở thành một nhà tù
Lúc đầu
thì hai vợ chồng có rất nhiều hạnh phúc. Frederick là một người
có tài ba, có trách nhiệm. Hai vợ chồng chia sẻ niềm hy vọng là
khi nào họ thành công, có thế lực, có tiền bạc nhiều thì cuộc
sống của họ sẽ là một cuộc sống lý tưởng và mình không còn nghĩ
đến việc gì khác. Trong khi hành xử như vậy thì Frederick không
có thì giờ để chăm sóc cho bản thân mình, chăm sóc vợ và hai đứa
con của mình. Claudia bắt đầu thấy lẻ loi, cô đơn, không có sự
chú ý của chồng. Bao nhiêu tâm ý ông đều để dành dồn vào sự
nghiệp của ông. Để khuây khỏa thì Claudia ghi tên học đại học để
lấy thêm một bằng tiến sĩ. Nhưng cái đó không khỏa lấp nổi sự cô
đơn của mình. Claudia học thêm về tâm lý học và bắt đầu thực
tập như một nhà tâm lý trị liệu.
Nhưng
những công việc đó không đủ để khỏa lấp được nỗi cô đơn của
Claudia. Có những đêm Claudia khóc với chồng, nói rằng: „ Anh
không có thì giờ cho em và cho các con.“. Frederick cứ nói rằng:
„ Em và các con gắng đợi. Hiện bây giờ đây trong doanh nghiệp
không ai có thể thay thế anh được. Có thể trong một thời gian
ngắn nữa, tìm được người thay thế, anh sẽ có nhiều thì giờ cho
em và cho con.“ , và cứ hứa như vậy. Ngày Phillip vào nhà thưong
mổ tim, Frederick không vô nhà thương để thăm con được. Bận rộn
đến nước đó!. Claudia phải thức luôn 7 giờ đồng hồ bên cạnh con
trai mình. Đến khi chính Claudia vô nhà thương để mổ bướu thì
Frederick cũng không về được để chăm sóc cho vợ. Bận như thế đó
và cứ nói rằng: „ Em hãy chờ, các con hãy chờ. Thế nào anh cũng
tháo gỡ ra được. Anh sẽ trở về để có thì giờ chung sống hạnh
phúc với nhau. Doanh nghiệp đang thành công khá nhiều.
Frederick cứ lấy cớ là hiện giờ không có ai trong doanh nghiệp
có thể thay thế được mình, mình là người duy nhất có thể điều
khiển, hướng dẫn được doanh nghiệp.
Nhưng cái
ước mơ không bao giờ được thực hiện vì Frederick đã bị tai nạn
xe hơi và chết đi lúc 51 tuổi. Chỉ 3 ngày sau thì doanh nghiệp
đó đã chọn được một viên giám đốc mới. Trước đó thì nói là không
ai có thể thay thế được Frederick, nhưng khi ông chết rồi thì họ
chỉ cần 3 ngày là tìm ra một vị giám đốc mới.
Chúng ta,
người nào cũng muốn thành công trong sự nghiệp của mình. Chính
người đi tu cũng muốn thành công trong sự nghiệp tu tập của
mình. Chúng ta muốn đầu tư thì giờ và năng lượng vào sự nghiệp
của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho tương lai lôi kéo, không
có được thì giờ và khả năng sống trong giây phút hiện tại thì
chúng ta không có thực sự sống. Trong đạo Phật chúng ta được
học:
Quá khứ đã đi qua
Tương lai thì chưa tới.
Sự sống
chỉ có mặt thực sự trong giây phút hiện tại.
Trong bộ
Trung A Hàm có ít là 6 Kinh nói về đề tài này:
Đừng
tiếc quá khứ
Đừng lo
lắng tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Kẻ
thức giả ẩn trú
Vững chãi và thảnh thơi
Trong giây phút hiện tại
Theo
tuệ giác đó thì quá khứ có thể là một nhà tù giam hãm mình. Có
những người không có khả năng sống trong giây phút hiện tại tại
vì người đó cứ nghĩ về quá khứ quá nhiều đau thương hay quá
nhiều hiển hách mà bây giờ không còn nữa. Vì vậy quá khứ đã trở
thành một nhà tù. Nó giam hãm mình, không cho mình có khả năng
sống trong giây phút hiện tại.
Trong giây phút hiện tại có những mầu nhiệm của sự sống, có trời
xanh, mây trắng, thông reo,
có
chim hót, hoa nở, có mặt của người yêu, có những người thương
của mình. Nhưng nếu mình bị quá khứ giam hãm thì mình không tiếp
xúc được với sự mầu nhiệm đó của sự sống để được nuôi dưỡng,
chữa trị.. Mình cứ héo mòn trong khi mình luyến tiếc về quá khứ.
Tương lai cũng vậy. Tương lai có thể là một nhà tù nếu chúng ta
quá lo lắng sợ hãi về tương lai. Nếu chúng ta để hết thì giờ để
toan tính về tương lai thì chúng ta cũng không có thì giờ để
sống phút giây hiện tại. Chúng ta không có thì giờ cho ta, cho
bản thân ta. Ta không có thì giờ cho những nguời thương của ta
trong đó có vợ, chồng và con ta. Tương lai ở đây đã trở thành
một nhà tù. Nó muốn chiếm độc quyền tất cả những năng lượng và
những thì giờ của chúng ta.
hiện pháp lạc trú
Trong
các Kinh điển Phật giáo, ĐứcThế Tôn thường hay dùng cụm từ
dristadharma sukhavihara dịch ra tiếng Hán Việt là
hiện pháp lạc trú, có nghĩa là sống hạnh phúc ngay
trong giây phút hiện tại.
Ngày
xưa có một thương gia rất giàu có và thành công tên là Cấp Cô
Độc, một người đệ tử tại gia của Phật. Có một lần ông đem tới
mấy trăm người bạn trong giới doanh thương để thăm Đức Thế Tôn.
Cấp Cô Độc là thương gia một giỏi, có tài và có một trái tim rất
lớn, biết chăm sóc lo lắng cho những người cùng khổ trong thành
phố Xá Vệ. Ông tuy rất bận rộn nhưng vẫn có thì giờ để đi nghe
Phật thuyết pháp mỗi tháng mấy lần. Ông cũng từng đem vợ con tới
nghe Phật thuyết pháp. Chính ông đã cúng dường cho Đức Thế Tôn
một sở đất mua được của thái tử Kỳ Đà để làm tu viện cho các
thầy năm đầu tiên Đức Thế Tôn tới hành đạo ở Xá Vệ Quốc. Có một
lần gặp thời buổi khó khăn ông Cấp Cô Độc bị sạt nghiệp, nhưng
ông không đau khổ. Trong thời gian hành nghề ông giúp bao nhiêu
là bạn bè nên khi ông sạt nghiệp thì bạn bè tới giúp ông xây
dựng lại cơ nghiệp rất mau chóng. Cấp Cô Độc đã xây dựng sự
nghiệp của mình trên tình thương. Danh từ Cấp Cô Độ không phải
là tên của ông mà là do dân chug trong thành phố thương quá đặt
cho. Cấp Cô Độc là cấp dưỡng cho những người cô độc không nơi
nương tựa. Tên thiệt của ông là Sudatta.
Hôm đó
Cấp Cô Độc đưa tới Đức Thế Tôn mấy trăm bạn bè trong giới doanh
thương. Trong dịp này Đức Như Lai đã thuyết một Kinh cho giới
doanh thương tên là Kinh Người Áo Trắng. Người Áo Trắng là người
cư sĩ. Trong Kinh Người Ắo Trắng Đức Thế Tôn đã dùng tới 5 lần
cụm từ “ hiện pháp lạc trú “ có nghĩ là quí vị có thể sống an
lạc hạnh phúc trong giờ phút hiện tại. Tôi nghĩ rằng các vị
doanh thương, các vị có sự nghiệp trong lãng vực thương mãi, đầu
tư, giáo dục, chính trị, đều nên đọc Kinh đó, Kinh Người Áo
Trắng.
Đức
Thế Tôn là một người sống đúng với những điều ngài giảng dạy.
Thí dụ như khi ngài đi thì từng mỗi bước chân đều đem lại vững
chãi, thảnh thơi, an lạc. Ngài không đi như bị ma đuổi như phần
lớn trong chúng ta. Ngài không đi hấp tấp như chúng ta. Ngài đi
rất khoan thai, thảnh thơi và các thầy, các sư cô đệ tử của Đức
Thế Tôn cũng học đi như vậy. Mỗi bước chân đem mình tới phút
giây hiện tại để mình có thể tiếp xúc được với cái mầu nhiệm của
sự sống trong giờ phút hiện tại. Ví dụ như hai mắt của mình, hai
mắt khi mở ra thì có thể tiếp xúc được với biết bao nhiêu là màu
sắc, hình ảnh. Có một thiên đường của màu sắc và hình ảnh đang
có mắt trong phút giây hiện tại. Chỉ cần mở mắt ra là ta có thể
tiếp xúc được với nét đẹp muông màu muôn vẻ của sự sống. Mùa
Xuân cũng đẹp, mùa Hè cũng đẹp, mùa Thu cũng đẹp mà chính mùa
Đông cũng đẹp. Nhưng nếu ta bị quá khứ ràng buộc, bị tương lai
lôi hút thì ta không có khả năng tiếp xúc với những mầu nhiệm
của sự sống trong giờ phút hiện tại.
Phương
pháp thiền hành , tức là phương pháp đi từng bước chân vững
chãi, thảnh thơi, là một trong những phương pháp chúng ta có thể
áp dụng để tập sống trở lại một cách sâu sắc mỗi giây phút của
đời sống hằng ngày.
không bỏ sót một giây phút nào cả
Năm
2003 chúng tôi có tổ chức một khóa tu cho các dân biểu quốc hội
Hoa kỳ. Chúng tôi biết rằng đời sống của một dân biểu quốc hội
rất căng thẳng, rất bận rộn. Sau khóa tu mọi người nắm được bí
quyết thực tập. Khi thở mình biết phải thở như thế nào để làm
lắng dịu những đau nhức trong thân và trong tâm. Khi bước đi thì
mình biết phải bước như thế nào để không bị quá khứ và tương lai
lôi kéo. Khi ăn cơm thì mình biết phải ăn như thế nào để mình
thực sự có mặt với thức ăn và với gia đình của mình. Khi bước
lên máy bay thì mình biết bước như thế nào để có thể thưởng thức
được những bước chân của mình. Khi ngồi chờ ở phi trường thì
mình biết phải ngồi chờ như thế nào để những giây phút đó không
phải là những phút giây bỏ đi, có thể sống hạnh phúc ngay trong
khi chờ đợi chuyến bay của mình. Phải thừa hưởng tất cả những
giây phút của đời sống mà cuộc sống đã ban phát cho mình, không
bỏ sót một giây phút nào cả.
Trong
những khóa tu mà chúng tôi tổ chức cho thiền sinh Tây phương thì
chúng tôi chỉ hiến tặng, cung cấp những phương pháp như vậy để
cho họ có khả năng tháo gỡ những khó khăn, bức xúc trong lòng,
có thể làm lắng dịu những đau nhức, những căng thẳng trong thân
và trong tâm và có thể tập sống trở lại như thế nào để mình có
thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong giờ phút
hiện tại để được nuôi dưỡng và chữa trị. Hiện giờ Capitol Hill (
tức là trụ sở của quốc hội Hoa kỳ ) có những dân biểu đang đi
thiền hành. Có nhiều dân biểu sau khóa tu viết thư cho tôi nói
rằng sau khóa tu vài tháng họ vẫn thực tập thiền đi (
thiền hành ). Trong khi đi thì để ý đến bước chân và bước nào
cũng đem mình trở về với giờ phút hiện tại, đã về đã tới!, để mình có thể sống trong giờ phút hiện tại mà không
phóng tâm về tương lai. Các dân biểu quốc hội từng tham dự khóa
tu báo cáo rằng mỗi khi đi từ văn phòng của họ tới phòng bỏ
phiếu thì họ luôn luôn áp dụng phương pháp thiền đi, không suy
nghĩ về bất cứ gì hết. Mình có quyết định bỏ phiếu cho ai rồi
nên từ văn phòng đi tới chổ bỏ phiếu thì không suy nghĩ nữa. Họ
tập đi những bước chân thảnh thơi, an lạc và buông thư.
Chúng
tôi cũng tổ chức những khóa tu cho cảnh sát, công an, các luật
gia, các vị luật sư chánh án, các người lo về an ninh trong xã
hội. Chúng tôi khám phá ra những người cai tù, cảnh sát có rất
nhiều căng thẳng trong thân tâm của họ. Số người cảnh sát dùng
súng tự tử đông hơn số cảnh sát bị băng đảng bắn chết. Trong
thân tâm của những người cảnh sát đó có rất nhiều sợ hãi, căng
thẳng. Quí vị có thể tưởng tượng ra được những cảnh sát viên Hoa
kỳ rất đồ sộ đi từng bước chân thảnh thơi, an lạc ? Vậy mà họ
làm được ! Cố nhiên khóa tu rất khó, nhưng sau khi thực tập năm
bảy ngày thì có thể làm được.
Tôi có
người đệ tử là đại úy Cheri Maples, cảnh sát Hoa kỳ. Cô này có
văn bằng tiến sĩ luật và bây giờ đang lo huấn luyện cho giới
cảnh sát trong toàn tiểu bang Wisconsin. Hiện cô đang điều
khiển tất cả những cảnh sát thực hành nhiệm vụ quản chế và phóng
thích tù nhân có điều kiện quản chế sau đó. Lần đầu tiên cô tham
dự một khóa tu tổ chức cho thiền sinh Tây phương. Cô được nghe
nói rằng mình có thể ôm một cây súng với tinh thần chánh niệm và
mình có thể sử dụng cây súng của mình với tình thương. Sau khi
tham dự khóa tu thì Cheri Maples, người cảnh sát đó đã tháo gỡ
được rất nhiều chán nản buồn bã. Khi mới đi vào cảnh sát thì cô
rất lý tưởng, muốn đem lại hòa bình, hạnh phúc, an lạc cho dân.
Nhưng vào trong nghề rồi thì thấy điều này rất khó và cảm thấy
mình bất lực. Vì vậy cô bắt đầu uống rượu, hút thuốc, hư hỏng
như những người cảnh sát khác. Cô không tin vào nghề của mình
nữa, là một nghề có thể đem lại an ninh, hòa bình thật sự cho
dân. Mãi cho đến khi gặp được khóa tu thì cô mới tìm ra được lý
tưởng của mình. Chính cô Cheri Maples đã giúp chúng tôi tổ chức
một khóa tu cho giới cảnh sát, giới cai tù, giới luật sư, chánh
án tại tiểu bang Wisconsin.
Ban
đầu có những người phản đối : tại sao đem tôn giáo trộn lẫn với
chính quyền. Nhưng chúng tôi nói rằng khóa tu này không dính gì
tới tôn giáo hết. Người cảnh sát, công an cai tù tới đây để học
cách đi, đứng, nằm, ngồi, cách thở để tháo gỡ những căng thẳng,
khó khăn trong thân và trong tâm. Chúng tôi không đốt nhang, lễ
lạy, không tụng kinh gì hết. Rốt cuộc thì mình mở được khóa tu.
Chính Cheri Maples đã đứng ra giúp tổ chức khóa tu đó ở thành
phố Madison Green Lake. Vị đại úy cảnh sát này ngồi thiền rất
giỏi, thở rất giỏi và bắt đầu huấn luyện cảnh sát viên dưới
quyền mình bằng phương pháp thiền. Sau đó cô rất nổi tiếng và đã
được những tiểu bang khác mời tới để mở những lớp huấn luyện như
thế. Từ đó đến giờ Cheri Maples đã tổ chức được 400 khóa tu và
những ngày chánh niệm dành riêng cho giới cảnh sát. Ông thị
trưởng thành phố Madison cho phép đại úy Cheri Maples sử dụng
một căn phòng khá lớn trong tòa thị sảnh để làm nơi hướng dẫn
thực tập thiền ngồi, thiền đi, thiền thở, thiền buông thư. Cheri
Maples đã giúp thành lập bao nhiêu là nhóm tăng thân thực tập
theo đường hướng của Làng Mai mà cô đã học được. Trong chuyến về
thăm quê hương và hành đạo lần thứ hai này của Tăng thân Làng
Mai có đại úy Cheri Maples đi theo. Tôi đã giới thiệu vị thiền
sinh đặc biệt đó cho các vị nhân sĩ trí thức tại thành phố Huế.
Hôm nay thì chỉ có một số ít vì hội trường của mình không đủ
lớn nên Cheri Maples không được tới tham dự sinh hoạt này.
Quyền lực và hạnh phúc
Phần
lớn chúng ta đều nghĩ rằng hạnh phúc được làm bằng danh vọng,
quyền lực, tiền tài. Chúng ta người nào cũng muốn có thêm uy
quyền, có thêm tiền bạc, có thêm danh vọng. Chúng ta cứ tin rằng
khi nào mình có nhiều danh lợi, nhiều tiền, nhiều uy quyền thì
mình có nhiều hạnh phúc. Tôi đã từng gặp nhiều người có uy quyền
rất lớn, có tiền bạc rất nhiều, có danh vọng rất cao nhưng nỗi
khổ niềm đau của họ rất sâu sắc. Họ rất cô đơn. Có những người
như vậy đã tới thiền viện của chúng tôi để tu tập. Ví dụ như
William Ford, giám đốc hãng xe hơi Ford bên Mỹ là thế hệ thứ tư
của gia đình tỷ phú Ford, đã tới tu viện chúng tôi tại thành phố
Vermond để tu tập. Tôi có tặng cho ông một cái chuông và chỉ cho
ông cách thỉnh chuông để thở mỗi ngày. Ông đã ngồi kể cho tôi
nghe đời sống của những nhà tỷ phú Mỹ. Họ rất là cô đơn. Họ có
nhiều sợ hãi, đau buồn. Họ rất chán nản cuộc sống.
Nếu
nói về uy quyền thì người nào có uy quyền bằng tổng thống Hoa
kỳ. Hoa kỳ là một đại cường quốc có một quân đội rất mạnh, một
nền kinh tế rất lớn. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào người của tổng
thống Bush đương nhiệm thì chúng ta thấy ông không phải là một
người có hạnh phúc. Đối với tổng thống Bush ông không có uy
quyền để giải quyết vấn đề ông đang gặp phải, vấn đề Irak chẳng
hạn. Đó là vấn đề nan giải cho ông. Quyền lực như vậy, quân đội
như vậy, tiền bạc như vậy, mà vấn đề Irak
kông thể nào giải quyết
được, khạc không ra mà nuốt cũng không vào. Quí vị rất may mắn
không làm tổng thống Hoa kỳ. Nếu quí vị làm tổng thống Hoa kỳ
thì quí vị sẽ suốt đêm không ngủ. Quí vị ngủ làm sao được khi
biết rằng tại chiến trường Irak mỗi ngày, mỗi đêm, con em mình
đều chết. Con số những người thanh niên Hoa kỳ chết ở Irak đã
lên tới ba ngàn mấy trăm người. Dân chúng địa phương Irak, nơi
mà mình muốn tới giúp đỡ đã chết cả triệu người. Tình trạng Irak
là một tình trạng rất là tuyệt vọng.
Nhà
văn hào Pháp Jean Jacques Rousseau đã nói: “ Những người có
quyền lực lớn nhất không bao giờ thấy mình có đủ quyền lực:”.
Điều này rất đúng. Mình có niềm tin là khi mình có quyền lực
nhiều thì có thể làm tất cả những gì mình muốn làm, có thể mua
được tất cả những gì mình muốn mua: mua chức tước, mua địch thủ
của mình, mua được tất cả. Hể có quyền lực trong tay là mình có
thể làm được những gì mình muốn. Và hể có nhiều tiền bạc thì
mình sẽ có nhiều quyền lực. Mình phải xét lại niềm tin đó. Trên
thực tế chính bản thân tôi đã gặp những người có quyền rất lớn,
có tiền rất nhiều và có danh rất cao nhưng mà đau khổ cực kỳ.
Trở
lại với đạo Phật, ta thấy trong đạo Phật cũng có nói tới quyền
lực, uy quyền. Cái uy quyền trong đạo Phật rất khác. Nó là một
loại năng lượng có thể đem lại rất nhiều hạnh phúc cho mình và
cho những người khác. Trong văn học, đạo học, triết học Đông
phương ta nói đến chữ Đạo và chữ Đức.
Đạo là con đường. Mỗi người chúng ta phải một con đường tinh
thần, một chiều hướng tâm linh trong đời sống. Chúng ta là
thương gia, là nhà chính trị, nhà giáo dục, chúng ta phải có một
chiều hướng tâm linh trong đời sống hằng ngày. Nếu không có
chiều hướng tâm linh đó chúng ta không thể nào tháo gỡ được
những bức xúc, khó khăn, tuyệt vọng, mâu thuẩn trong lòng. Chúng
ta không thể nào thiết lập được sự truyền thông với những người
đồng sự, những người trong gia đình, trong sở làm, trong cộng
đồng của mình. Vì vậy mỗi người trong chúng ta phải có Đạo.
Đạo là một con đường tinh thần. Nếu thiếu một con đường tinh
thần thì chúng ta thiếu rất là nhiều dù chúng ta có rất nhiều
tiền, rất nhiều quyền năng, rất nhiều danh vọng.
Còn
chữ Đức nữa. Đức là một năng lượng. Ngày xưa có
người dịch chữ Đức là vertu. Vertu là một đức
hạnh. Có người dịch là pouvoir. Pouvoir là một
quyền năng. Trong đạo Phật có 3 cái đức mà chúng ta có thể chế
tác được. Người tu là phải chế tác ra ba loại năng lượng. Người
tu xuất gia cũng như người tu tại gia đều phải tập chế tác ra ba
loại năng lương đó.
Thứ
nhất là đoạn đức. Đoạn là chặt đứt, cắt đứt tất cả
những đam mê, những thù hận, những tuyệt vọng của mình. Nếu
không chặt đứt những đam mê, hận thù đó thì không thể nào có
hạnh phúc được. Muốn chặt đứt những hận thù, si mê đó thì phải
biết cách, phải có một con đường mới được. Phải có thầy, có bạn,
có pháp môn thực tập đành hoàng thì mới có thể chặt đứt được
những sợi dây đam mê và hận thù trói buộc mình. Khi chặt đứt rồi
thì mình trở thành một con người nhẹ nhàng, thanh thản.
Mình
có một niệm đam mê thì mình khổ vì niệm đam mê đó. Các ông các
bà đã từng có kinh nghiệm rồi. Ca dao của mình nói :
Vì gì một áng bèo mây
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi
Đó là
vì có những đam mê mà mình sẽ lên xuống vì những đam mê đó. Nếu
mình muốn không lên không xuống, thẳng một đường thì phải chặt
đứt sự đam mê đó. Những hận thù cũng vậy. Hận thù nung đốt tâm
cang làm mình ăn không ngon, ngủ không yên, tìm mọi cách để trả
thù. Đó là địa ngục. Đoạn đức là khả năng cắt đứt được tất cả
những thứ đó mà nếu không có con đường thì làm sao cắt được. Đạo
đem tới cái Đức.
Đức
thứ hai là trí đức. Trí đức là tuệ giác, tức là
cái thấy sâu sắc về sự thực. Trong đạo Phật giọ là Trí tuệ
Bát nhã. Trí đây không phải là kiến thức thâu lượm được trong
khi mình đọc sách hay trong khi học hỏi ở nhà trường. Đó là kiến
thức, không phải là Tuệ giác. Kiến thức nếu biết sử dụng cũng có
lợi, nhưng nếu mình bị vướng vào thì nó là những chướng ngại
cho tuệ giác. Trong nhà Phật có thành ngữ là duy tuệ thị
nghiệp, có nghĩa là : sự nghiệp duy nhất của nhà tu là
tuệ giác. Tuệ giác ở đây là sự giác ngộ, là trí tuệ của Bụt, của
Bồ Tát. Nó có khả năng giúp mình cắt đứt phiền não và chế tác
được những tình cảm cao thượng như từ, bi, hỷ, xả. Nếu
hiểu duy tuệ thị nghiệp là sự chất chứa kiến thức là mình đã
hiểu sai thành ngữ đó. Duy tuệ thị nghiệp có nghĩa là sự nghiệp
duy nhất của mình là phát khởi tuệ giác. Có tuệ giác rồi thì gỡ
rối rất là mau. Mình tháo gỡ những khó khăn của mình rất mau và
giúp người khác tháo gỡ khó khăn cũng rất mau.
Cũng
như vị lương y khi nắm vững nghệ thuật của sự chẩn bệnh rồi thì
bằng cách quan sát nghe ngóng, tìm ra được nguyên do và tháo gỡ
cho người bệnh một cách mau chóng bằng cách cho một phương dược
đúng với trường hợp đó. Nguồn năng lượng thứ hai mà người tu
phải chế tác là trí đức. Đối với một người có tuệ giác thì tháo
gỡ những vướng mắc, những cái kẹt kia rất dễ. Còn mình vì không
có tuệ giác nên cứ đi vòng mà không bao giờ thoát ra được. Nhưng
nếu gặp được minh sư chỉ cho một cái thì mình ra khỏi cái vòng
luẩn quẩn kia liền lập tức. Cho nên cái đức thứ hai, năng lượng
thứ hai, mà người tu chế tác là trí đức.
Đức
thứ ba, uy quyền thứ ba, theo đạo Phật là Ân Đức.
Ân đức là khả năng tha thứ, thương yêu và chấp nhận. Khi mình có
khả năng tha thứ, thương yêu và chấp nhận thì trong lòng mình là
khỏe, hoàn toàn không có hận thù, không có trách móc. Tình
thương yêu, sự tha thứ đó biểu hiện trong mắt mình, trong cách
mình nhìn, trong cách mình nói năng. Khi mình nhìn bằng con mắt
thương, mắt từ bi, khi mình nói bằng lời ái ngữ thì mình là
người hưởng trước hết, tại vì nó làm cho thân tâm thư thái. Khi
người kia thấy ánh mắt của mình, cảm thấy họ được tha thứ thương
yêu thì người đó tiếp nhận được của mình rất nhiều ân đức.
Trong
Kinh Pháp Hoa, Phẩm Phổ Môn, nói về Đức Quan Thế Âm, có năm chữ
từ nhãn thị chúng sinh có nghĩa là lấy con mắt
thương yêu mà nhìn mọi người. Khi mình biết nhìn người khác bằng
con mắt tha thứ và thương yêu thì mình khỏe trước nhất. Còn
người kia cũng khỏe theo vì cảm thấy được thương yêu, tha thứ.
Mắt thương nhìn cuộc đời là một phép hành xử rất tuyệt diệu của
Đức Bồ Tát Quan Thế Âm, không trách móc, không hận thù, chấp
nhận, tha thứ và thương yêu. Đó là cách nhìn. Còn cách nói là
dùng ái ngữ, dùng ngôn từ nhẹ nhàng, hòa ái để có thể giúp người
thấy được con đường đi, giúp họ thoát khỏi mê lộ mà họ đang
vướng mắc.
Khi
mình có ba cái đức đó : đoạn đức là cắt đứt những đam mê, hận
thù, trí đức là có được trí tuệ để hành xử, tháo gỡ và ân đức là
có khả năng chấp nhận, tha thứ và thương yêu thì lúc đó danh
vọng và tiền bạc trở thành những dụng cụ rất tốt. Khi đó thì
càng có nhiều tiền càng tốt, càng có nhiều danh càng tốt, càng
có nhiều uy quyền càng tốt. Những thứ đó trở thành phương tiện
để giúp người, để độ đời rất hay.
hành xử trên cơ bản của tình thương và trí tuệ
Đạo
Phật không lên án những người muốn làm giàu, những người muốn
thành công trong lãnh vực chính trị hay kinh tế. Nhưng dạo Phật
khuyên trong khi đeo đuổi sự nghiệp chính trị hay kinh tế mình
phải có một chiều hướng tâm linh. Mình phải hành xử trên cơ
bản của tình thương và trí tuệ. Trường hợp ông Cấp Cô Độc,
nhà thương gia trong thời Đức Phật tại thế là một thí dụ điển
hình.
Tạp
chí Fortune - tức Cơ Nghiệp – bên Mỹ, tạp chí của những nhà
doanh thương, mỗi năm cho ra danh sách 100 doanh nghiệp đứng đầu
trên thế giới và khuyên người ta nên đầu tư vào đó. Đó là những
doanh nghiệp đang trên bước đường thành công. Khi mình nghiên
cứu những doanh nghiệp đó thì mình thấy có một điều chung là tất
cả đang được dẫn dắt, tiến hành với tinh thần tình thương. Những
doanh nghiệp đó trong khi tính tới chuyện đạt được mức lợi nhuận
cao hơn vẫn có đủ thì giờ để chăm sóc những người trong doanh
nghiệp. Chuyện tìm hiểu, chăm sóc những gia đình của công nhân
trong doanh nghiệp trở thành rất quan trọng, rất căn bản.
Giữa
chủ và người làm trong doanh nghiệp phải có sự truyền thông tốt
đẹp, phải nói chuyện được với nhau và phải hiểu những khổ đau,
khó khăn của nhau. Công nhân hiểu được những khó khăn của chủ và
chủ hiểu được những khó khăn của công nhân. Hể công nhân làm
được gì giúp cho chủ thì làm và chủ làm được gì giúp cho công
nhân thì làm. Những vấn đề chăm sóc con nít, cứu trợ những gia
đình thiếu phương tiện y dược hay giáo dục được để tâm rất
nhiều. Vấn đề xã hội, tinh thần của tất cả thành phần trong
doanh nghiệp được quan tâm lo lắng. Phải biến doanh nghiệp của
mình thành ra một cộng đồng, một gia đình trong đó người ta có
thì giờ chăm sóc nhau, tìm hiểu nhau và nâng đỡ nhau. Trong khi
làm như vậy lợi nhuận đã không những không bớt đi mà còn tăng
thêm vì một người đồng lòng với nhau ai cũng làm việc hết lòng
của mình và tin nhau. Đó là đạo đức trong doanh nghiệp.
Sự
thành công của những doanh nghiệp trong danh sách nêu lên đó cho
mình thấy một sự thật: những doanh nghiệp đó chú ý đến phương
diện tương trợ, tình thương. Nếu không có tình thương thì doanh
nghiệp chỉ tìm lợi nhuận mà thôi và không thành công bằng những
doanh nghiệp đi trên con đường tình thương. Ngày xưa Cấp Cô Độc
đã đi trên con đường đó. Là một nhà doanh thương, một nhà chính
trị mà có tình thương thì mình trở thành một vị bồ tát. Mình có
khả năng cắt đứt những đam mê, những hận thù. Mình có trí tuệ
giúp đỡ những người đồng liêu, những người trong tổ chức, trong
doanh nghiệp. Mình có khả năng chấp nhận và thương yêu, tha thứ
những lỗi lầm của nhân viên, của những người trong tổ chức của
mình. Khi đó mình có một uy quyền rất lớn gọi là uy quyền tinh
thần.
Trong
đạo Phật khi làm thầy thì mình không được lạm dụng quyền làm
thầy của mình. Uy quyền của một ông thầy đối với đệ tử không
phải là tại vì mình làm chủ chùa, sư trưởng, mà là tại mình có
đoạn đức, trí đức và ân đức. Có ân đức cho nên có uy quyền. Cái
uy quyền của một ông thầy trong đạo Phật là do từ bi mà ra chứ
không phải là do nguyên tắc: chủ chùa nói
thì
mọi người phải nghe theo, thầy nói thì học trò phải nghe theo.
Không phải như vậy!
Trong
lãnh vực chính trị, doanh thương cũng vậy. Cái uy quyền của một
chủ sở, người dẫn đạo phải được xây dựng trên 3 cái đức đó, tức
là đoạn đức, trí đức và ân đức. Lúc đó mình sẽ sử dụng địa vị,
vị trí của mình một cách đầy đủ, khéo léo và không tạo ra sự tan
nát, đổ vỡ. Nếu không có 3 cái đức thì quyền hành, tiền bạc sẽ
làm ung thối hết tất cả, kể cả cuộc sống của ngươì chủ nhiệm hay
người lãnh đạo. Vì vậy một chiều hướng tâm linh rất cần thiết
cho một nhà lãnh đạo dù trong lãnh vực doanh thương hay trong
lãnh vực chính trị. Trong đạo Phật quí vị đã từng nghe Đức Thế
Tôn dạy rằng chúng ta không cần phải bươn chải về tương lai mới
có hạnh phúc. Chúng ta có thể có hạnh phúc ngay bây giờ và ở
đây. Sự thành công lớn nhất là chúng ta sống với tình thương
trong giây phút hiện tại. Chúng ta có thì giờ để chăm sóc cho
chính bản thân ta. Nếu bản thân ta có những đau nhức, những bực
bội, những giận hờn thì ta khổ và khi khổ thì tự động ta làm cho
những người chung quanh ta khổ trong đó có người thương của
mình. Phải có thì giờ cho bản thân rồi mới có thì giờ cho người
thương của mình, cho người trong cộng đồng của mình. Vì vậy trở
về với giây phút hiện tại, đừng để cho tương lai cuống hút hết
tất cả thì giờ và năng lượng của mình, đó là điều rất quan
trọng mà chúng ta phải rút ra được từ trong đạo Phật. Trở về
như vậy không phải là chuyện dễ vì chúng ta đã có thói quen, tập
quán chạy về tương lai. Chúng ta phải chặn đứng cái đà đó để trở
về với từng bước chân, từng hơi thở, để tập sống những giây phút
trong đời sống hằng ngày, sống cho sâu sắc, thảnh thơi, để tiếp
xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện
tại.
Trong
một thiền viện hay một trung tâm thực tập sự thực tập căn bản là
sử dụng ý thức của hơi thở, của bước chân để đưa mình trở về với
phút giây hiện tại. Ví dụ khi nghe một tiếng chuông, quí vị
ngưng hết mọi suy nghĩ, nói năng, trở về với hơi thở, đem tâm
trở về với thân và quí vị có mặt thật sự trong giây phút hiện
tại. Trong đời sống hằng ngày rất nhiều khi thân mình ở đây
nhưng tâm mình đang phiêu lưu trong quá khứ hay trong tương lai.
Tâm mình không thực sự có mặt với thân. Mình không có mặt cho
mình thì làm sao mình có mặt cho vợ con, cho người thương của
mình được.
Những
phương pháp của đạo Phật rất thực tiển, rất rõ ràng và không khó
nếu mình có cơ hội để bắt đầu sự thực tập. Tôi xin dành thì giờ
còn lại để quí vị đặt một số câu hỏi có liên quan đến chủ đề
chúng ta đã đàm thuyết hôm nay. Xin cám ơn quí vị đã lắng nghe.
Vấn
đáp:
Hỏi: Thưa
thiền sư, tôi xin nêu ra 2 câu hỏi
:
-
Câu thứ nhất là:
Trong các đệ tử của thiền sư, tôi rất ngạc nhiên khi thấy có
nhiều loại người như linh mục, mục sư, lãnh đạo cảnh sát
v..v.. Nhưng khi làm đệ tử của thiền sư thì những người đó vẫn
giữ tôn giáo của mình như mục sư, linh mục. Như vậy thì thiền sư
giải thích cho với phương thức huấn luyện của đạo Phật.
-
Câu thứ hai là:
Tôi biết thiền sư là bậc tu hành mà còn là một học giả. Tôi có
đọc một số tác phẩm của thiền sư. Tôi thấy thiền sư đã làm một
việc cho dân tộc là tuyên truyền, giải thích đạo Phật Việt Nam
cho thế giới cũng như giáo sư Trần văn Khê đã tuyên truyền, giải
thích cho thế giới biết về âm nhạc Việt Nam. Vai trò học giả đó
rất lớn và với vai trò học giả thiền sư đã đóng góp như thế nào
trong sự phát triển đạo Phật của Việt Nam.
Thiền sư Thích
Nhất Hạnh:
Ngày xưa khi các vị truyền đạo Cơ đốc giáo tới Việt Nam thì họ
có khuynh
hướng muốn người Việt bỏ đạo gốc của mình như thờ cúng ông bà,
đạo Phật, để ôm lấy đạo mới. Điều đó đã gây ra nhiều khổ đau.
Trong thời gian chúng ta có nhiều thuyền nhân cư trú tại các
trại tị nạn ở Thái Lan hay Phi Luật Tân cũng có những nhà
truyền giáo tới muốn giúp đỡ và cũng muốn dụ những thuyền nhân
theo đạo của họ. Tôi thấy cái đó không hay. Làm cho người nào
mất cái gốc của mình là tội lắm.
Khi
chúng tôi đem đạo Phật chia sẻ cho người Tây phương thì chúng
tôi khuyên họ đừng đánh mất gốc rễ, đừng bỏ đạo của mình. Quí vị
có thể tới với đạo Phật để học hỏi những pháp môn, những phương
pháp để tháo gỡ những khó khăn trong thân, trong tâm để thực
hiện được tình thương lớn. Nhưng quí vị không cần phải bỏ đạo
gốc của quí vị tại vì chúng tôi nghĩ làm như vậy không hay.
Ở Tây
phương giới bỏ đạo Cơ đốc mà đi rất đông tại vì những truyền
thống đó không làm mới, không đổi mới kịp để cung cấp cho giới
thanh niên những giáo lý, những phương cách thực tập mà họ cần.
Họ đã bỏ nhà thờ đi rất nhiều. Trong số đó có rất nhiều người
tới tu tập với chúng tôi. Chúng tôi nói rằng truyền thống của
quí vị cần phải được làm mới, đổi mới lại. Sau khi tu tập ở đây
rồi quí vị có thể trở về nhà thờ để cải tổ lại. Một quốc gia mà
không có nền đạo dức tâm linh để làm nền tảng thì quốc gia đó
không trường cửu lâu dài. Trước tiên phản ứng của các thiền sinh
là họ thấy đạo Phật rất bao dung, chấp nhận tất cả, ôm lấy tất
cả mà không loại trừ truyền thống nào. Tinh thần đó trong đạo
Phật gọi là xả, có nghĩa là không kỳ thị, không loại trừ.
Dịch tiếng Anh là Inclusivness (ôm lấy tất cả). Khi mình có yếu
tố xả thì thình thương đó mới là tình thương cao cả nhất.
Từ, Bi, Hỷ, Xả là bốn yếu tố của tình thương đích thực mà xả là
không kỳ thị, không phân biệt, ôm lấy tất cả (equanimity).
Điều
trước tiên là người ta thấy đạo Phật rất đẹp, rất bao dung, rộng
mở. Vì vậy họ càng thương đạo Phật nhiều hơn. Nếu mình nói quí
vị phải bỏ đạo của quí vị mới cho qui y thì nó không có Phật
giáo lắm. Không có Phật giáo lắm vì Phật giáo rất là rộng. Chúng
tôi đã độ được những linh mục, những mục sư mà lòng của họ vẫn
còn thương đạo gốc. Nhưng họ đã thực tập hết lòng vì trong đạo
Phật có những pháp môn rất cụ thể, rõ ràng để họ tháo gỡ được
những khó khăn, bức xúc của họ và giúp cho họ độ đời được nhiều.
Tôi
nghĩ rằng đó là cái rất quí của đạo Phật. Nếu mình có tinh thần
rộng lượng bao dung như vậy thì không bao giờ tạo ra chiến
tranh. Tôn giáo nếu ôm lấy với một thái độ độc quyền về chân
lý, nói rằng chỉ có chân lý trong truyền thống
của chúng tôi mà
thôi và các truyền thống khác không có chân lý thì đó là mầm
mống của chiến tranh rất ác liệt. Cho nên đạo Phật là một đạo
của hòa bình. Trong khi giảng dạy đạo Phật mình phải làm sáng tỏ
nguyên tắc đó. Cho nên rất nhiều người Tây phương hâm mộ mà đến
với đạo Phật khi chúng tôi mở những khóa tu những buổi giảng
hàng năm ngàn, bảy ngàn người tới nghe thì những người đó đâu
phải là Phật tử. Những người đó phần lớn là người gốc Cơ đốc
giáo và Do thái giáo. Có một lần chúng tôi giảng tại một nhà thờ
ở Rom mà thính chúng đi đông hơn là ngày Noel tại vì người ta
đang đi kiếm một cái gì cao cả, rộng mở và không có tinh thần kỳ
thị.
Bây
giờ những nhà khoa học tìm nguồn cảm hứng trong đaọ Phật rất
nhiều, trong đạo lý tương tức, nhân duyên sinh, không, vô tướng,
vô tác. Trong thế kỷ 21 này có thể là một thế kỷ mà các nhà khoa
học gần gũi với đạo Phật rất nhiều. Đó là một ý chúng tôi muốn
hiến tặng để trả lời câu hỏi đầu.
Câu
hỏi thứ hai thuộc về vấn đề học hành. Thật ra mỗi khi có một
khóa tu mới, thí dụ như khóa tu cho công an, cảnh sát, dân biểu
quốc hội, cho các nhà doanh thương, các nhà môi trường học hay
cựu chiến binh thì chúng tôi phải nghiên cứu, học hỏi trước. Học
hỏi trước để thấy những khó khăn, đau khổ, bế tắc của giới đó
thì chúng tôi mới giảng dạy và hướng dẫn thực tập đúng. Vì vậy
trong bao nhiêu năm hành đạo ở Tây phương chúng tôi đã học rất
nhiều.
Nếu
quí vị không hiểu được giáo lý và cách hành trì của Do thái giáo
thì quí vị không thể hướng dẫn được như vậy. Nếu quí vị không
thấy được những bức xúc, khổ đau, căng thẳng của giới doanh
thương thì quí vị không thể nào giảng dạy, chia sẻ và hướng dẫn
tu tập thể giúp họ tháo gỡ được những bức xúc, căng thẳng của
họ. Do đó cho nên mình phải học. Nhưng mình đâu cần phải học như
những sinh viên khác ở ngoài đời. Những ngành như khoa học, xã
hội học, tâm lý học người ta đã đúc kết thành những sách rất là
cô đọng. Nếu mình thực tâm muốn học thì mình chỉ đọc vài ba cuốn
cho thật hay trong lãnh vực đó là mình có thể học được rồi. Mình
không cần phải là nhà học giả. Mục đích của người tu không phải
là thành một học giả. Mình chỉ cần biết đủ về lãnh vực đó để có
thể nói được cái ngôn ngữ đó và đưa người ta đi vào con đường
tinh thần được.
Nói
chúng tôi là là nhà học giả để truyền bá văn hóa Việt Nam thì
cũng không đúng lắm. Khi chúng tôi dạy ở đại học Sorbonne về
ngành bác ngữ học, sử học thì chúng tôi giảng về lịch sử Phật
giáo. Giảng dạy như vậy thì phải nghiên cứu, cho nên nhân cơ hội
đó chúng tôi viết được bộ Việt Nam Phật giáo Sử luận, ký tên là
Nguyễn Lang, Hồi đó tên Nhất Hạnh bị cấm ở Việt Nam thành ra
xuất bản dưới tên giáo sư Nguyễn Lang. Hà nội có in, trong Nam
cũng có in một cuốn. Trong Nam cấm sách của Nhất Hạnh, không cho
in. Thầy Nhất Hạnh đi vận động hòa bình thân cộng. Đó là danh
từ họ gán cho tôi: hòa bình thân cộng.
Mục
đích của mình không phải là một nhà học giả, một sử gia. Nhưng
tôi viết Việt Nam Phật giáo Sử luận bên ngoài giống như là một
sử gia. Sự thật là tại vì mình giảng dạy trong trường nên nhân
cơ hội đó mình viết xuống luôn những nghiên cứu của mình đề đàn
em được thừa hưởng chứ không có mục đích làm nhà học giả, sử gia
gì hết.
Đứng
về các phương diện khác cũng vậy. Thiền mà chúng tôi chia sẻ với
Tây phương có gốc rễ ở Việt Nam, là thiền Tào Khê, rồi thiền
Khương Tăng Hội đến thiền Liễu Quán.
Vào thế kỷ thứ ba chúng ta
có một thiền sư rất lỗi lạc tên là thiền sư Tăng Hội, cha là
người Sogdian (Khương Cư) và mẹ là một cô gái Việt Nam. Khi cha mẹ mất rồi thì
cậu bé Khương Tăng Hội đi vào một ngôi chùa ở Bắc Ninh và tu,
sau trở thành một vị cao tăng vào thượng bán thế kỷ thứ ba. Vị
thiền sư đó dịch Kinh, chú giải Kinh điển ngay tại Giao Châu.
Sau đó ngài qua nước Ngô, thời Tam Quốc, để hành đạo và trở
thành một thiền sư giảng dạy thiền ở Trung quốc sớm hơn tổ Bồ Đề
Đạt Ma tới ba trăm năm. Tôi có viết một cuốn sách nói về thiền
sư Tăng Hội, kêu gọi Phật tử Việt Nam nên thờ tổ Tăng Hội, ngài
là tổ thiền của Việt Nam, đã có những nhà họa sĩ, nghệ sĩ tạc
tượng, vẽ hình tổ Tăng Hội để thờ tại các chùa.
Ở Việt
Nam có Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Nguyên thỉ. Tôi có được
may mắn là sau khi được thọ huấn trong truyền thống Đại thừa tôi
có cơ duyên nghiên cứu trong dòng Phật giáo Nguyên thỉ nên tôi
khám phá ra rằng tổ Tăng Hội ngày xưa đã từng dùng những Kinh
Nguyên thỉ để giảng dạy về thiền với con mắt phóng khoáng của
Đại thừa. Cách giảng dạy của chúng tôi là theo theo sát nguyên
tắc của thiền sư Tăng Hội, sử dụng những Kinh Nguyên thỉ, những
Kinh mà Đức Thế Tôn và các thầy, các sư cô thời đó sử dụng hằng
ngày nhưng với tầm nhìn phóng khoáng của Đại thừa. Vì vậy mỗi
khi tổ chức các khóa tu ở Tây phương thì thiền sinh các tông
phái khác tới rất đông. Họ cảm thấy rất thoải mái vì đó là một
nền Phật giáo phối hợp được thiền Nguyên thỉ với thiền Đại thừa.
Những Kinh căm bản sử dụng trong sự thiền tập có mặt trong các
hệ phái, có trong Tạng Pali, Tạng Hán, Tạng Sanskrit và trong
Tạng Tây tạng. Chúng tôi
đã phiên dịch, giảng dạy, chú giải
những Kinh thực tập thiền căn bản như Kinh Quán niện hơi thở,
Kinh Tứ niệm xứ, Kinh Người biết sống một mình. Những Kinh đó là
những Kinh tuy tôi không nói ra tối hôm nay nhưng tinh thần của
bài nói chuyện hôm nay được căn cứ trên tuệ giác của những Kinh
đó.
Mục
đích của chúng tôi thực sự không phải là truyền bá văn hóa Việt
Nam trên thế giới mà là muốn giúp cho người bớt khổ bằng cách
chia sẻ phương pháp tu tập. Do đó họ biết tới thiền, các phương
pháp tu tập có gốc rễ từ Việt Nam. Nói như vậy để quí vị thấy rõ
mục đích của tôi đi ra ngoại quốc không phải là để truyền bá văn
hóa Việt Nam tại quốc ngoại. Chúng tôi chỉ muốn giúp người thôi
và đó là phó sản của công
việc,
tự nhiên được tiếng là đem văn hóa Viện Nam truyền bá ở quốc
ngoại. Đó là chuyện dĩ nhiên nó tới mà thôi chứ không có chủ ý
như vậy. Khi đi ra ngoại quốc để kêu gọi tôi chỉ xin đi 3 tháng
thôi. Ông giám đốc công an ở Sài gòn hỏi: “ Thầy đi qua đó để
làm gì?. Thầy làm gì cũng được, miễn là đừng kêu gọi hòa bình
thì thôi !.” Tôi nín khe, tại vì mục đích của tôi qua đó là để
kêu gọi chấm dứt chiến tranh. Qua đó thì tôi kêu gọi hòa bình,
làm thế nào để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì vậy họ không
cho tôi về nước nữa. Không thể nói tôi đi ra là để truyền bá văn
hóa Viện Nam ở ngoại quốc. Đi ra là nghĩ chỉ đi có 3 tháng. Ai
dè phải ở luôn đến 40 năm.
Sụ
thật là trong thời gian ở nước ngoài mình phải làm một cái gì đó
với tư cách một ông thầy tu để giúp đỡ. Nếu giúp người Việt chưa
được thì giúp người Tây phương, vậy thôi. Tự nhiên sinh ra
chuyện là mình có chủ đích đem văn hóa Việt Nam ra truyền bá ở
nước ngoài. Việc đó xẩy ra tự nhiên chứ không phải mình có chủ
đích. Xin thưa thiệt với quí vị.
Hỏi:
Kính thưa thiền sư Nhất Hạnh và các vị nhân sĩ trí thức thành
phố Đà nẵng, tôi xin hỏi hai câu:
-
Câu thứ nhất:
Trong chuyến đi này thiền sư đã tới thành phố Đà nẵng có nhận
định gì về sự phát triển của thành phố trong có có Phật giáo tại
thành phố Đà nẵng.
-
Câu thứ hai
: Thiền sư có thể vận động mở thư viện hoặc tu viện taị thành
phố Đà Nẵng cho mọi người trong đó có hàng xuất gia, tại gia kể
cả nhân sĩ trí thức của thành phố Đà Nẵng theo tinh thần Phật
giáo, góp phần xây dựng thành phố có nếp sống văn hóa, văn minh
theo chỉ thị của thành phố Đà Nẵng gồm có “ năm có và ba không
“. Xin hết.
Thiền sư Thích
Nhất Hạnh:
Đà
Nẵng đã đẹp lắm rồi, sạch rồi, xanh rồi, tốt lắm rồi. Đà Nẵng đã phát
triển rất mau và rất tốt. Nhưng mà mình biết được những phát
triển kinh tế, kỹ thuật nó đi song song với sự phát triển những
tệ nạn của xã hội như ma túy, băng đảng, tự tử, mãi dâm thì nên
phòng ngừa trước. Cho nên những công tác đứng về mặt luân lý,
đạo đức cần phải được kế hoạch hóa rất kĩ lưỡng. Các vị nhân sĩ,
thân hào cũng như các thầy, các sư cô cần phải ngồi lại với nhau
để tìm ra những kế hoạch rất cụ thể hầu ngăn chận những tệ nạn
đó đừng cho phát triển sinh sôi nẩy nở với tốc độ như bây giờ.
Đó là điều tôi có thể chia sẻ.
Điều
thứ hai có thể dính líu tới đạo Phật của mình. Đạo Phật tuy lâu
đời nhưng cần phải làm mới lại. Nếu không nó không đủ sức thực
thi được sứ mạng của nó trong hiện tại. Cách chúng ta học Phật,
cách chúng ta thực tập phải được đổi mới lại, phải được làm mới
lại. Cái học của chúng ta còn đang quá lý thuyết. Phật giáo của
chúng ta đa số còn thực tập trên phương diện tín ngưỡng, kính
mộ, cầu nguyện, bái sám. Cái đó rất quan trọng nhưng đạo Phật
không phải chỉ có phần tôn giáo tín ngưỡng. Nếu ta chọc thủng
được cái vỏ tôn giáo tín ngưỡng ta sẽ đi vào trong cái ruột của
đạo Phật. Đó là một nguồn tuệ giác rất lớn tiếng Anh dịch là
Insight. Với tuệ giác đó chúng ta cống hiến cho đất nước,
quê hương một con đường
đi tới văn hóa thực sự, văn minh thực
sự, đi tới sự hài hòa hưng thịnh của một quốc gia.
Trong
quá khứ đời Lý, Trần, các vua đã tu tập. Các vua Lý, Trần đều có
tu tập thiền, thiền công án chứ không phải lễ lạy, bái sám
không. Quí vị cũng biết như chúng tôi thời đại đó là những thời
đại thịnh nhất trong lịch sử Việt Nam, những thời đại có rất
nhiều tình thương và sự hiểu biết. Giữa vua và tôi có sự
liên hệ rất mật thiết, không có sự chia cách.
Nếu
đạo Phật đã đóng được một vai trò như vậy trong quá khứ, làn cho
dân hùng nước mạnh, đánh đuổi quân xâm lăng một cách rất dễ dàng
thì đạo Phật cũng có thể phụng sự đất nước theo đường lối đó
trong hiện tại và trong tương lai.
Muốn
được như vậy thì ta phải hiện đại hóa đạo Phật, phải làm mới,
đổi mới đạo Phật trong cách học hỏi, giảng dạy và thực tập,
nghĩa là chnúg ta phải sử dụng được phần thâm uyên nhất của đạo
Phật vốn là phần tuệ giác. Còn đứng về phương diện sinh hoạt
Phật giáo, chúng ta thấy là bây giớ đa số chúng ta thực tập tín
ngưỡng, bái sám, cúng dường mà thôi. Tuy cái đó rất quan trọng
nhưng nó chưa phải là tất cả của Phật giáo. Chúng ta nên thành
lập những Tòng lâm, đào tạo những người xuất gia mới, những vị
tại gia mới có khả năng hướng dẫn những người thanh niên tu tập
để họ có thể tháo gỡ những khó khăn, bức xúc của họ và trong gia
đình họ. Đó là chuyện rất cần.
Với tư
cách là Đạo tràng Mai thôn chúng tôi nghĩ là chúng tôi có thể
đóng góp một phần nào trong vấn đề này. Nếu các vị hòa thượng,
thượng tọa ở đây, trong trường Trung cấp Phật học hay trong Học
viện Phật giáo thấy rằng để ngăn chận cái đà hư hỏng của thanh
niên, trong đó có thanh niên tăng, ni, thì chúng ta cần nên lập
ra những Tòng Lâm lớn trong đó có
thể có 500 thầy hoặc 1.000 thầy
tu học được đào tạo theo phương pháp này để họ có thể hướng dẫn
tu tập cho quần chúng.
Họ có
thể giúp những gia đình trong thôn xóm hay trong khu phố đã lung
lay được chấn chỉnh lại, giúp cho vợ có thể nói chuyện lại được
với chồng, con nói chuyện được với cha, để người trẻ không đi ra
ngoài tìm sự khuây khỏa rồi rơi vào hầm hố của những băng đảng
ma túy, của những tà dục, của sự tự tử. Đó là sứ mạng của đạo
Phật ngày hôm nay.
Chúng
tôi có thể gửi về một số các vị Giáo thọ để giúp các vị tôn đức
ở đây trong việc đào tạo một thế hệ tăng sinh mới có khả năng
làm được công việc đó. Tôi nghĩ rằng đất nước đang trông chờ sự
vùng mình thoát xác làm sống dậy năng lượng của đạo Phật ngày
xưa trong thời Lý và Trần.
Hỏi:
Kính thưa thiền sư. Từ đầu buổi tới giờ được nghe thiền sư
giảng về thiền. Theo nhận thức tôi hiểu được về thiền, không
biết đúng hay sai, tôi nghĩ rằng thiền chỉ dùng cho những người
có nỗi khổ, bất hạnh hay những người nhàn rỗi mới thiền. Còn
hiện tại những người lao động, học tập, sinh hoạt bình thường
thì cần phải biết nghĩ về quá khứ để biết cần phải làm gì tốt ở
hiện tại và hướng tới tương lai. Người ta nói “ biết ước mơ mới
làm nên sự nghiệp “. Trong thiền thì nói rằng “giải thoát quá
khứ và tạm thời cắt đi những suy nghĩ tương lai” thì đối với
những con người biết lo nghĩ cho cuộc sống xã hội, cho bản thân
về tương lai thì có nên ngồi thiền hay không.
Thiền sư Thích
Nhất Hạnh:Chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều từ quá khứ.
Chúng ta phải xét lại
quá khứ, phải nghiên cứu quá khứ và học hỏi từ quá khứ. Nhưng
điều đó không có nghĩa là để cho bị quá khứ giam hãm. Hai cái đó
hoàn toàn không dính gì tới nhau. Trong khi nghiên cứu, học hỏi
về quá khứ, chúng ta có thể thiết lập thân tâm chúng ta vững
chãi trong giây phút hiện tại. Chính vì chúng ta thiết lập thân
tâm vững chãi trong thế giới hiện tại nên ta mới có khả năng học
hỏi, nghiên cứu về quá khứ. Nếu không chúng ta chỉ mơ tưởng hoặc
bị ám ảnh về quá khứ mà thôi. Đau khổ về quá khứ không giúp gì
hết trong khi nghiên cứu, học hỏi về quá khứ thì có ích lợi rất
nhiều.
Đối
với tương lai cũng vậy. Nếu ta ngồi đó mà lo lắng, sợ hãi, bất
an với tương lai thì chúng ta chỉ làm cho tương lai nó hư thêm
mà thôi. Chúng ta có quyền làm dự án cho tương lai, sắp đặt cho
tương lai. Nhưng làm dự án, sắp đặt cho tương lai không có nghĩa
là bị tương lai làm cho mình hoảng sợ, lo lắng. Hai đó rất khác
nhau. Quí vị cũng biết rằng tương lai được làm bằng chất liệu
hiện tại. Tuơng lai được làm bằng cái gì nữa nếu không phải là
bằng hiện tại. Nếu ta biết xử lý hiện tại bằng tất cả tâm huyết
và khả năng của chúng ta thì đó là ta đã làm tất cả cho tương
lai rồi. Nếu quí vị không an trú trong hiện tại, nếu quí vị
không có khả năng xử lý được hiện tại bằng tất cả tài năng và
tâm huyết của mình mà chỉ lo lắng, sợ hãi, mơ ước về tương
lai thôi thì quí vị sẽ không có tương lai. Chắc chắn là như
vậy. Mơ ước thì không cần phải là 24 giờ đồng hồ mỗi ngày, mơ
ước chỉ là 1 phút là được rồi. Mơ ước không không đủ, phải hạ
thủ công phu, phải đặt nền tảng cho tương lai ngay trong
phút giây hiện tại. Đặt nền tảng cho tương lai trong phút giây
hiện tại không có nghĩa là ngồi đó lo lắng, sợ hãi về tương lai.
Quí vị đừng để bị danh từ làm cho lầm. Nếu mà quí vị không có
khả năng ngồi thiền tức là ngồi trong phút giây hiện tại, quí vị
không đem tâm trở về với thân, quí vị không biết những gì xẩy ra
trong giây phút hiện tại thì quí vị không thể nào xử lý được
phút giây hiện tại.
Thiền
là gì? Thiền không phải là cái quí vị có thể tưởng tượng đâu !
Thiền là phải có mặt trong giây phút hiện tại. Hồi nãy tôi có
đưa ra một hình ảnh là cái thân ở đây mà cái tâm nó phiêu lưu ở
chổ khác. Những lúc đó mình không có mặt, không có mặt cho vợ
mình, chồng mình, anh, em mình, dân tộc mình, tổ quốc mình. Đó
là ngược với thiền. Thiền là đem tâm trở về với thân, nghĩa là
có mặt trong giây phút hiện tại, có mặt để xử lý, bảo quản, lo
lắng để lập kế hoạch. Nếu mình không có mặt ở đó thì ai là người
chăm sóc cho hiện tại ?. Trong hiện tại có những nhu yếu, ví dụ
mình có những đau nhức khó khăn, người thương của mình có những
đau nhức, khó khăn. Nếu mình không có mặt trong giây phút hiện
tại thì làm sao mình có thể giúp được mình và giúp được người
kia.
Cho
nên thiền trướchết là phải có mặt trong giây phút hiện tại. Có
mặt trong giây phút hiện tại có nghĩa là không bị quá khứ giam
hãm, không bị tương lai hút hồn. Nó rất cần. Tất cả chúng ta đều
phải ngồi thiền. Ngồi thiền không phải ngồi đó để mà suy nghĩ
tới những chuyện siêu hình viễn vông. Trong chữ Niệm
tiếng Hán có chữ Kim ở trên và chữ Tâm ở dưới. Tâm
là giây phút hiện tại. Tâm là tim. Tim của mình trở về với giây
phút hiện tại là Niệm, là có mặt. Mình có mặt cho những
người thương của mình, cho đất nước mình, cho quê hương mình.
Nếu
mình bị quá khứ ám ảnh, bị tương lai cuốn hút thì làm sao mình
xử lý được giây phút hiện tại vốn là chất liệu để làm ra tương
lai. Nó đơn giản như vậy. Nó không có gì là khó hiểu hết. Cho
nên nói ngược lại, nếu không ngồi thiền được thì mình không làm
đưọc gì hết. Các nhà chính trị, nhà kinh tế cũng vậy.
Ngồi thiền
trước hết là có mặt, ngồi yên và khi mình tĩnh lặng rồi thì
mình sẽ thấy được sự thật và mình sẽ có những dự án, những hành
động phù hợp với sự thật để có thể giải quyết được những vấn đề
của sự thật.
Pháp
môn hiện pháp lạc trú rất quan trọng: Trở về với giây
phút hiện tại, sống an lạc, hạnh phúc trong giây phút đó để được
nuôi dưỡng, trị liệu và để có cơ hội xử lý những vấn đề của
hiện tại. Nếu xử lý được vấn đề của hiện tại thì ta sẽ có
tương lai.
Hỏi:
Kính thưa thiền sư thật là một hạnh phúc lớn lao cho con được
dự thính hôm nay trực tiếp với thiền sư và được nghe những lời
giảng giải vô cùng thực tế, thấm vào lòng người cũng như kiến
thức kinh nghiệm sống. Con đã từ Canada về đây được hân hạnh thì
đó là một hạnh phúc vô vùng lớn lao rồi. Con xin hỏi một câu xin
được thiền sư giải thích:
- Bữa
nay thiền sư nói về hạnh phúc hiện tại. Thiền sư nói quá khứ là
một nhà tù. Phải quên quá khứ đi. Con cũng đồng ý một phần là
mình lấy quá khứ làm kinh nghiệm cho hạnh phúc hiện tại, Những
điều tốt thì tiếp tục, những đau khổ luyến tiếc thì bỏ qua.
Người ta
cũng đã nói rằng: Ce qui passe c´est passé. Ce qui reste c´est
le souvenir (Cái gì đã qua thì để cho nó qua, cái gì còn lại là
kỷ niệm) .
Thôi
thì đừng luyến tiếc nữa. Sống với hiện tại thì mình cũng cố gắng
sống từng ngày từng giờ
cho cá nhân mình thoải mái hạnh phúc. Như thiền sư nói khi mình
hạnh phúc thì mình tạo hạnh phúc cho những người chung quanh
mình. Trước đây con cũng đã băn khoăn cho cuộc sống cá nhân của
mình. Con là người nghĩ tới tương lai hơi nhiều, tức là mình có
nhiều hoài bão. Khi con nghĩ và chuẩn bị cho tương lai thì con
thấy con hạnh phúc lắm, con nghĩ rằng là con sẽ thành công. Điều
đó đem lại sự tốt đẹp một phần cho cá nhân, một phần cho những
người thương yêu và một phần cho dân tộc thì con thấy con hạnh
phúc lắm. Chứ nếu con nghĩ rằng : Ok , Bây giờ con sống cho
thoải mái bây giờ thì cái đầu con nó bị giới hạn ở cái hiện tại
này. Như thiền sư đã dạy : Chuẩn bị kỹ càng cho tương lai nhưng
đừng quên hiện tại, thưa thiền sư có phải như vậy không ạ. Lo
tương lai nhưng không phải lo hết cho tương lai để tương lai
thành cái nhà tù giam hãm mình lại mà quên cái hiện tại hạnh
phúc mình đang có và có thể mình sẽ tạo cho nó có. Vậy thưa
thiền sư là vẫn đừng hoài niệm quá khứ, nhất là quá khứ đau
buồn, nó chặn đứng
bước tiến trong hiện tại nhưng vẫn chuẩn bị tốt cho tương lai để
mà mình cũng sung sướng có nhiều hy vọng và đừng quên hiện tại.
Con xin hết lời.
Thiền sư Thích
Nhất Hạnh:
Tôi thấy chuyện mơ ước tương lai với chuyện thiết kế cho tương
lai là hai cái có khác nhau, một bên rất thực tế, rất khoa học,
một bên là sự chạy trốn. Có thể là trong hiện tại mình có những
khó khăn, buồn phiền, khổ đau và mình muốn chạy trốn hiện tại
đó. Nghĩ tới tương lai, mơ ước tương lai là một liều thuốc mê,
một liều thuốc thoa dịu. Nó có thể có hiệu quả trong chốc lát để
mình tạm quên. Nhưng nói nó là liều thuốc có thể chữa trị tận
gốc những vấn đề, những khó khăn trong hiện tại thì không được.
Sống trong hiện tại mà có hạnh phúc trong hiện tại chuyện đó tập
mới làm được, phải tập mới làm được. Khi bước những bước chân
thảnh thơi mà bước nào cũng có an lạc, hạnh phúc, chuyện đó phải
tập mới làm được. Trong khi mình nói bước mau đi, mau đi tới chổ
đó rồi mới thật sự có hạnh phúc thì lúc đó mình đang đau khổ
trong giây phút hiện tại và mình lấy tương lai làm viên thuốc an
thần để cho bớt đau khổ trong giây phút hiện tại.
Cho
nên mình phải tự vấn lòng mình. Sống hạnh phúc trong giây phút
hiện tại là chuyện có thể làm được. Nhưng nếu mình không có
pháp môn tu tập thực tế thì mình sống không được đâu ! Khi
trong hiện tại mình có hạnh phúc thì mình biết rằng những giây
phút hạnh phúc trong hiện tại đó là nền tảng cho những giây phút
hạnh phúc trong tương lai. Nếu trong hiện tại mình không có
hạnh phúc thì sức mấy mà mình có được hạnh phúc trong tương lai.
Xin nhớ điều đó dùm tôi: Hiện tại mà không có hạnh phúc thì sức
mấy mà có hạnh phúc trong tương lai.
Tôi
cũng nói với các bạn tu Tịnh độ. Tịnh độ là một cõi an lạc hạnh
phúc. Có những người trong chúng tôi nghĩ rằng cõi đó chỉ có
trong tương lai mà thôi, chỉ có bên phía trời Tây mà thôi. ( Tây
này là Tây phương Cực Lạc Thế giới chứ không phải là Âu châu, Mỹ
châu đâu ). Có những người tu Tịnh độ, nhất là những người mới
bắt đầu tu tin rằng cõi Tịnh độ đó ở trong tưong lai nghĩa là
khi chết rồi thì mình mới về đó. Mình đi về hướng Tây, Tây
phương CựcLạc Thế giới. Nhưng có người tu Tịnh độ lâu rồi thì họ
đi sâu hơn. Họ tìm ra được cái tuệ giác Duy Tâm Tịnh Độ,
nghĩa là Tịnh độ không nằm ở phương Tây hay phương Đông mà nằm ở
ngay trong trái tim mình. Di Đà là Tự Tánh của mình và Tịnh độ
phát sinh ra từ trái tim của mình.
Vì vậy
khi mình tu Thiền mà tu cho đàng hoàng thì cũng giống như tu
Tịnh độ. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi nụ cười, mỗi cái nhìn
đều có thể đem đến hạnh phúc cho mình trong phút giây hiện tại.
Nếu mình làm đuợc như vậy thì Tịnh độ có mặt ngay trong giây
phút hiện tại. Đó là Hiện pháp Tịnh độ, Tịnh độ Hiện tiền. Đó là
mình đạt tới được Thiền Tịnh nhất như. Thiền không khác với Tịnh
nữa. Thiền và Tịnh đi đôi với nhau rất là tuyệt hảo. Một bước
chân, mỗi hơi thở, mỗi nụ cười, mỗi lời nói, mỗi cái nhìn đều
đem mình về Tịnh độ Hiện tiền.
Phương
pháp của chúng tôi là đi như thế nào để mỗi bướcchân đưa mình
vào Tịnh độ, đừng đưa về cõi Ta bà cho khổ. Mỗi khi mình thực
tập thiền đi thành công rồi thì dại gì mình bưóc ra cõi Ta bà
chi nữa. Mình chỉ đi trong cõi Tịnh độ thôi. Tịnh độ bây giờ và
ở đây. Đức Thế Tôn dù ở đâu ngài cũng không hề lìa cõi Tịnh độ
của ngài. Vậy thì cái Tịnh độ đó là cái Tịnh độ có thể có mặt
trong giây phút hiện tại. Nếu mình có thể sống được những giây
phút tịnh độ trong hiện tại thì chắc chắn tương lai Tịnh độ sẽ
có mặt. Còn nếu bây giờ không có Tịnh độ thì chưa chắc. Nếu bây
giờ mình sống những giây phút Tịnh độ, mỗi bước chân, mỗi hơi
thở, mỗi nụ cười đều phát hiện Tịnh độ thì tương lai mình nắm
Tịnh độ trong tay. Còn nếu bây giờ mình cứ đau khổ dài dài, đêm
khổ ngày khổ và cứ tưởng tượng nếu mình chết đi thì mới về Tịnh
độ thì chuyện đó không có chắc. Tôi xin nhắc lại lới nói hồi nãy
: Không có khả năng sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại thì
sức mấy mà có hạnh phúc trong tương lai.
Xin
cám ơn liệt vị.
|