Hơi
thở
chánh
niệm
Xin mời đại chúng thực tập thở vài hơi cho khỏe :
Thở vào tôi biết đây là hơi thở vào,
Thở ra tôi biết đây là hơi thở ra.
Thở vào tôi theo dõi hơi thở vào của tôi từ đầu cho tới cuối,
Thở ra tôi theo dõi hơi thở ra của tôi từ đầu cho tới cuối.
Thở vào tôi có ý thức về sự có mặt của toàn thân tôi,
Thở ra tôi mỉm cười với toàn thân tôi, ý toàn thân, mỉm cười với
toàn thân.
Thở vào tôi làm lắng dịu toàn thân, thở ra tôi buông thư toàn
thân.
Làm lắng dịu những căng thẳng trong toàn thân, buông thư toàn
thân.
Thở vào tôi thấy hơi thở vào của tôi đã bắt đầu sâu thêm,
Thở ra tôi thấy hơi thở ra của tôi đã chậm lại, sâu thêm, chậm
lại.
Thở vào tôi cảm thấy khỏe trong người,
Thở ra tôi cảm thấy nhẹ nhàng trong người.
Thở vào thấy khỏe,
Thở ra thấy nhẹ.
Thở vào tôi cảm thấy thích thú trong khi thở vào,
Thở ra tôi cảm thấy thích thú trong khi thở ra.
Thở vào tôi thấy sự có mặt của cha tôi trong từng tế bào cơ thể
tôi,
Thở ra tôi mỉm cười với cha tôi trong từng tế bào cơ thể tôi.
Thở vào tôi mời cha tôi cùng thở vào một lần với tôi cho vui,
hai cha con cùng thở vào.
Thở ra tôi mời cha tôi cùng thở ra một lần với tôi, hai cha con
cùng thở ra một lần.
Thở vào con thấy trong người khỏe quá, bố có thấy khỏe như con
không?
Thở ra con thấy trong người nhẹ nhàng, bố có thấy nhẹ nhàng như
con không?
Thở vào tôi thấy sự có mặt của mẹ tôi trong từng tế bào cơ thể
tôi,
Thở ra tôi mỉm cười với mẹ tôi trong từng tế bào cơ thể.
Thở vào tôi mời mẹ tôi cùng thở vào một lần với tôi, hai mẹ con
cùng thở vào.
Thở ra tôi mời mẹ tôi cùng thở ra một lần với tôi, hai mẹ con
cùng thở ra.
Thở vào tôi thấy khỏe trong người, mẹ có thấy khỏe như con
không?
Thở ra con thấy nhẹ ở trong người, mẹ có thấy nhẹ như con không?
Cái thấy của đạo Phật về chữ Hiếu
Khi chúng ta thở vào thì cha chúng ta cũng thở vào một lần với
chúng ta. Đây không phải là quán tưởng mà thôi, đây là sự thật.
Tại vì trong ta có cha và có mẹ và ta là sự tiếp nối của cha và
của mẹ. Cũng như khi chúng ta gieo một hạt bắp, hạt ngô xuống
dưới đất. Thì bảy hôm sau chúng ta có thể thấy được một cây bắp
con, một cây ngô con. Tuy rằng chúng ta không thấy hạt bắp nữa
nhưng mà hạt bắp chưa chết, hạt bắp nó thay hình đổi dạng nó
thành ra cây bắp non. Cho nên nếu chúng ta nhìn vào cây bắp non,
chúng ta có thể thấy cái hạt bắp ngày xưa. Chúng ta cũng vậy,
chúng ta nhìn vào thân hình của chúng ta, chúng ta không có thấy
bố, không có thấy mẹ nhưng kỳ thực bố và mẹ đang ở trong ta, ta
là sự tiếp nối của bố, ta là sự tiếp nối của mẹ, giống như là
cây bắp, là sự tiếp nối của hạt bắp. Cho nên khi ta thở vào bố
ta cũng thở vào, mà nếu chúng ta thở vào nhẹ nhàng thì bố ta
cũng được thở vào nhẹ nhàng, chúng ta thở cho bố và chúng ta thở
cho mẹ. Có thể là trong suốt đời của bố, bố chưa bao giờ có cơ
hội ngồi yên và thở những hơi thở nhẹ nhàng, thì hôm nay chúng
ta tu, chúng ta thở cho bố. Bố ơi, bố thở vào với con đi, con
thấy khi con thở vào thân tâm con nhẹ nhàng thì chắc chắn bố
cũng thấy nhẹ nhàng như con trong khi con thở vào. Có thể là mẹ
ta suốt đời tất tả ngược xuôi, chưa bao giờ có cơ hội được ngồi
yên và chưa bao giờ thở được những hơi thở nhẹ nhàng lắng dịu
như ta. Và vì vậy cho nên khi ta thở vào và cảm thấy nhẹ nhàng
lắng dịu thì mẹ ta trong ta cũng cảm thấy nhẹ nhàng lắng dịu. Và
như vậy là ta thở cho mẹ, ta là một đứa con có hiếu.
Có những đứa con nó giận cha, giận mẹ và nó nói là nó không muốn
có gì dính líu tới cha hoặc là mẹ hết. Nhưng mà làm thế nào mà
có thể nghĩ được như thế? Là tại vì ta không thể nào lấy cha ta
ra khỏi ta, ta không thể nào lấy mẹ ta ra khỏi ta được. Vì ta là
sự nối tiếp của cha, ta là sự nối tiếp của mẹ và với sự tu tập
ta có thể nối tiếp cha một cách đẹp đẽ hơn. Với sự tu tập ta có
thể làm cho mẹ ta trong ta đẹp hơn là mẹ ta ở ngoài ta. Với sự
tu tập ta có thể nối tiếp cha ta một cách đẹp đẽ và chúng ta
cũng có thể nối tiếp được mẹ ta một cách đẹp đẽ, đó là cái thấy
của đạo Phật về chữ Hiếu.
Khi mình tu mà mình chuyển hóa được những cái khó khăn, những
cái khổ đau, những cái bức xúc ở trong người thì cha mẹ trong
mình cũng được hưởng cái kết quả đó của sự tu tập. Đó là mình tu
cho cha, cho mẹ, cho tổ tiên, đó là cái thấy đích thực của đạo
Phật về chữ Hiếu.
Ngồi trên một tòa sen
Chúng ta thường tạc tượng Đức Thế Tôn ngồi trên một
Tòa Sen, tại sao lại ngồi trên tòa sen. Tại tòa sen nó biểu
trưng cho sự tươi mát, cho sự tinh khiết cho sự nhẹ nhàng, cho
sự thảnh thơi. Và khi mà ta ngồi mà có sự thảnh thơi, có sự tươi
mát, có sự nhẹ nhàng thì lúc đó ta đang thật sự ngồi trên một
đóa sen chứ không phải là ngồi trên chiếu hoặc là trên bồ đoàn.
Đóa sen đó có thể có mặt bất cứ giờ phút nào nếu ta ngồi thảnh
thơi, nếu ta ngồi tươi mát. Phần lớn chúng ta đều không thể ngồi
được như thế, chúng ta ngồi với những lo âu, thấp thỏm, buồn
bực, căng thẳng. Chúng ta không ngồi trên một đóa sen, chúng ta
ngồi trên một đống lửa. Ngồi yên tức là an tọa, Đức Thế Tôn thầy
của chúng ta là người có khả năng ngồi yên và chúng ta là học
trò của ngài, chúng ta trước hết phải học ngồi yên, chúng ta
phải học ngồi trên một tòa sen và chấm dứt cái chuyện ngồi trên
một đống lửa.
Ngồi thiền trước hết là tập ngồi trên một tòa sen, ngồi như thế
nào mà chúng ta cảm thấy thoải mái, cảm thấy buông thư, cảm thấy
thư thái, cảm thấy tươi mát, cảm thấy an lành. Có thể là chúng
ta phải hạ thủ công phu ngay lập tức để ngay trong ngày hôm nay
chúng ta có thể ngồi yên được ba phút, năm phút hay mười phút.
Tại vì trong ta nó có một cái năng lượng, một cái tập khí, một
cái thói quen nó luôn luôn nó thúc đẩy ta muốn ta dứng dậy, muốn
ta làm cái này, làm cái kia, chúng ta không ngồi yên được. Chúng
ta có sự bất an ở trong con người, chúng ta có sự bất an, có sự
căng thẳng, có sự dồn nén ở trong cơ thể. Và sự bất an đó, sự
dồn nén đó nó thúc đẩy chúng ta, nó không cho phép chúng ta ngồi
yên.
Việc đầu tiên của người tu là làm thế nào để đối phó với cái
năng lượng bất an ở trong con người của mình, trong thân rồi đến
trong tâm, thành ra mình phải học ngồi yên, phải học bằng mọi
giá để ngồi yên. Mà muốn ngồi yên được, theo kinh nghiệm của
riêng tôi thì phải có hạnh phúc, mình ngồi yên mình không cần
làm gì hết và mình có cảm giác hạnh phúc trong khi mình ngồi
yên.
Có một lần ông Nelson Mandela tổng thống nước Nam Phi tới thăm
tổng thống Pháp là François Mitterrand. Thì báo chí phỏng vấn
ông và báo chí hỏi một câu, trong những câu hỏi có một câu như
thế này Thưa tổng thống, ngày xưa ngài đã ở tù trong bao
nhiêu năm, đến khi ngài ra khỏi tù thì ngài được bầu làm Tổng
thống. Chúng tôi biết rằng ngài rất bận rộn, chúng tôi muốn hỏi
là cái gì mà ngài thích làm nhất bây giờ? Thì Tổng thống Nam
Phi Nelson Mandela trả lời rằng Cái mà tôi thích làm nhất là
được ngồi yên. Tại vì từ cái hôm mà tôi được phóng thích cho đến
bây giờ tôi bận rộn quá chừng, tôi không có một giờ phút nào để
nghỉ ngơi, để ngồi yên. Thành ra nếu quý vị hỏi cái gì mà tôi
ước ao nhiều nhất, tôi thích làm nhất là được ngồi yên.
Chúng ta đi xuất gia trước hết là để được ngồi yên. Nhưng mà nếu
chúng ta lăng xăng suốt ngày, lo việc chùa, lo việc học mà không
có giờ ngồi yên thì chúng ta đi xuất gia để làm gì. Cho nên học
ngồi yên là cái cử chỉ đầu tiên của người xuất gia, ngồi yên
nghĩa là ngồi có sự bình yên, có sự an lạc. Vì an nó đưa tới
lạc, an lạc, lạc tức là hạnh phúc.
Khi tôi đọc cái mẩu tin đó ở trong báo thì tôi có mỉm cười, tôi
không chắc là nếu mình cho ông Tổng thống Nam Phi một giờ đồng
hồ và ông có thể ngồi yên được. Tại vì ngồi yên khó lắm chứ
không phải dễ đâu. Ví dụ mình cho ông ba ngày nói Tổng thống Nam
Phi bây giờ cho ông bảy ngày để ông đi chơi, tha hồ ngồi yên.
Tôi không tin rằng ông tổng thống Nam Phi, ông ngồi yên được,
tại vì ông chưa bao giờ học ngồi yên. Và chúng ta những người
xuất gia, việc đầu tiên chúng ta muốn học là học ngồi yên. Và
theo kinh nghiệm của tôi ngồi yên đó là chỉ khi nào mình có hạnh
phúc thì mình mới ngồi yên được. Còn nếu mình còn muốn tìm kiếm,
bương chãi, lướt tới, xông tới để kiếm một cái gì đó thì mình
chưa dừng lại được, mình chưa ngồi yên. Muốn ngồi yên thì phải
dừng lại những cái tìm kiếm, những cái thao thức, những cái
bương chãi của mình. Vì trong ta nó có một cái động lực rất là
mạnh, nó đẩy ta đi tìm cái này, đi tìm cái kia, chúng ta bất an.
Quý vị có mười phút nghỉ ngơi, nhưng mà quý vị có khả năng nghỉ
ngơi trong mười phút hay không, hay là quý vị muốn mở ti vi ra
xem, lấy một cuốn sách ra đọc hay là lấy cái điện thoại di động
để bấm số để nói chuyện?
Khỏa lấp khoảng trống
Trong chúng ta có thể có một cái khoảng trống, một sự trống trải
và khi mà chúng ta ngồi yên chúng ta chịu không có được, chúng
ta muốn kiếm một cái gì đó để mà lấp cho đầy cái khoảng trống ở
trong ta. Cái đó có thể là một cuốn sách, một cuốn tiểu thuyết,
một bản nhạc hoặc giả một cuốn kinh. Có khi chúng ta đọc kinh là
để mà khỏa lấp sự trống trải ở trong trái tim của chúng ta chứ
không phải là thật sự muốn tìm hiểu cái nghĩa lý thậm thâm vi
diệu trong kinh. Chúng ta có thể học kinh với cái tâm niệm tìm
ra những pháp môn tu tập. Nhưng mà có khi chúng ta nghĩ rằng đọc
kinh là chuyện có ích. Thành ra khi mà có sự trống trải chúng ta
đọc kinh và chúng ta dùng kinh để mà khỏa lấp cái sự trống trải
của mình, cái đó không có hại lắm. Nhưng mà chúng ta phải nhận
diện rằng chúng ta đang đi tìm cái sự khỏa lấp những cái trống
trải ở trong con người, nhất là con người của thế kỷ thứ hai
mươi mốt nó có một cái khoảng trống ở trong lòng.
Chúng ta luôn luôn đi tìm kiếm một cái gì đó. Chúng ta đi tìm
kiếm những cái tiện nghi, những cái tiện nghi vật chất. Và chúng
ta nghĩ rằng nếu có những tiện nghi vật chất đầy đủ thì con
người chúng ta sẽ có hạnh phúc. Cái tiện nghi vật chất đó là cái
gì, một căn phòng có máy lạnh, một cái máy để nghe CD, một điện
thoại di động, một xe gắn máy hay một trương mục tiết kiệm ở
trong ngân hàng. Đó là những cái tiện nghi vật chất mà chúng ta
nghĩ rằng nếu không có thì chúng ta không có hạnh phúc. nhưng mà
có biết bao nhiêu người có đầy đủ những cái tiện nghi vật chất
đó nhưng mà họ có hạnh phúc đâu. Và họ đi kiếm, đi tìm những cái
tiện nghi tình cảm. Với cái điện thoại di động đó, với cái địa
chỉ điện thư đó chúng ta có thể liên lạc với người này người
kia, chúng ta muốn khỏa lấp cái sự trống trải ở trong con người
của chúng ta, chúng ta đi ra ngoài, đi ra ngoài bằng những
phương tiện như vậy.
Dầu chúng ta đang ở trong chốn thiền môn, nhưng mà cái tâm của
chúng ta nó không nằm ở trong chốn thiền môn, nó nằm ở ngoài.
Văn minh đã cung cấp cho chúng ta những cái phương tiện để chúng
ta trốn thoát chốn thiền môn, thân ở trong chốn thiền môn nhưng
mà tâm ở ngoài là tại vì chúng ta có những phương tiện vượt
thoát bằng những thứ đó. Cho nên nếu mà chúng ta suốt ngày cứ
nghĩ tới đi tìm những tiện nghi vật chất và những tiện nghi tình
cảm để mà khỏa lấp cái khoảng trống ở trong trái tim chúng ta
thì chúng ta đang không làm cái việc mà Đức Thế Tôn chờ đợi. Sự
trống vắng ở trong lòng là một trong những cái phiền não. Nó
cũng tương đương như những phiền não căn bản khác như là đam mê
thèm khát tức là tham, tâm sở tham.
Tâm sở tham
bây giờ mình dịch là tâm sở đam mê hay là tâm sở thèm khát. Nó
là một lực lượng, nó là một năng lượng đẩy mình đi làm cái này
làm cái kia, mình thiếu thốn những tiện nghi vật chất, mình
thiếu thốn những tiện nghi tình cảm, đều là tham hết.
Sân
tức là sự bực bội, hận thù và khi mà trong con người mình có sự
bực bội, có sự hận thù, có sự giận dữ thì mình không có hạnh
phúc.
Si
là những cái tri giác sai lầm, những cái vọng tưởng, nó là nền
tảng của biết bao nhiêu là khổ đau, hiểu lầm nhau, có cái thấy
rất là sai lạc về chính bản thân mình và về những người khác.
Trong Duy thức học, chúng ta thấy một loạt những cái tâm sở bất
thiện bắt đầu bằng tham sân si mạn nghi kiến. Và chính
cái tâm sở tầm và tứ nhiều khi nó cũng bất thiện,
nó là những Tâm sở bất định. Nhưng mà suốt ngày nếu chúng
ta cứ suy nghĩ quanh co tầm, tứ. Những suy nghĩ đó nó làm cho
xáo trộn tâm tư, nó làm chúng ta thêm buồn thêm giận, thêm lo
lắng. Thì cái sự suy nghĩ đó, hai cái tâm hành tầm và tứ đó nó
dắt ta đi quanh và nó tạo ra không biết bao nhiêu là tâm hành
khác, chúng ta có khả năng điều phục cái tâm hành tầm và
tứ hay không.
Suy nghĩ, cái đầu của mình nó như là cuốn băng cassette, nó cứ
xoay xoay suy nghĩ không có ngưng được. Chúng ta chưa nắm được
cái phương pháp An Ban Thủ Ý, chúng ta chưa nắm được cái
phương pháp đi thiền hành, chúng ta không có chấm dút suy tư của
chúng ta được dầu chúng ta biết rằng những suy tư của chúng ta
là những suy tư không có ích lợi gì hết, trái lại nó có những
tác dụng tai hại.
Học giả và Hành giả
Trong thế giới của chúng ta hiện bây giờ có những người họ lo
lắng quá chừng nhưng mà họ không có khả năng chấm dứt được sự lo
lắng đó. Những lo lắng do sự sợ hãi suy tư mà ra, thì những
người đó là những người chưa học Phật, chưa tu Phật, chưa biết
phương pháp điều phục sự lo lắng và sự suy nghĩ vẩn
vơ những cái tầm, những cái tứ nó đưa tới những lo lắng, những
sợ hãi, những thèm khát. Vậy thì chúng ta là những người học
Phật, những người tu Phật, chúng ta là những người Học Giả
và những người Hành Giả, chúng ta đã nắm được những
phương pháp đó hết chưa? Mỗi khi chúng ta có bất an, chúng ta đã
có phương pháp để đối trị bất an ở trong lòng chưa? Mỗi khi
chúng ta có những căng thẳng, những đau nhức trong thân, chúng
ta có biết phương pháp để tháo gỡ, làm lắng dịu những căng
thẳng, những đau nhức trong thân và trong tâm hay chưa? Mỗi khi
chúng ta có lo lắng, có sầu khổ, chúng ta có biết cách để mà
điều phục những cái tâm hành đó hay chưa? Đó là những cái chúng
ta cần phải học.
Hồi
tôi còn làm học tăng, tôi có được học về sổ tức quán, bất tịnh
quán, nhân duyên quán nhưng mà tôi áp dụng không được. Tại vì
tôi chỉ được tiếp nhận được lý thuyết mà các bậc
giáo
thọ
không có cho mình những pháp môn thực tập cụ thể. Mà chính bản
thân của họ, họ cũng không có kinh nghiệm, cho nên tôi rất là bơ
vơ. Tôi học Duy thức, tôi thuộc Duy thức, tôi hiểu Duy thức
nhưng mà tôi áp dụng không được. Tại vì các vị
giáo
thọ
dạy tôi duy thức, các vị áp dụng không được. Tôi học kinh Pháp
Hoa, kinh Hoa Nghiêm, tôi tiếp thu những tư tưởng uyên áo ở
trong đó nhưng mà tôi áp dụng không được, tại vì các vị
giáo
thọ không có chỉ cho tôi phương pháp áp dụng. Và vì vậy cho nên
tôi khám phá ra rằng nó có một cái gì nó không có đúng trong
cách mình dạy, mình học.
Trong trường Y khoa, chúng ta học về cơ thể con người, chúng ta
học về những biến chứng có thể xãy ra cho những bộ phận cơ
thể con người. Chúng ta tới nhà thương, chúng ta quán sát những
chứng bệnh của các bệnh nhân, chúng ta theo các giáo sư y khoa
để mà học cách các thầy chẩn bệnh, định bệnh và chữa bệnh. Chúng
ta được học trực tiếp từ các giáo sư y khoa của chúng ta rất
nhiều. Trong Phật Học Đường, trong Phật Học Viện, chúng ta học
lý thuyết khá nhiều, nhưng mà các thầy ít khi chỉ cho chúng ta
biết là mỗi khi mà chúng ta có cái lo lắng, cái phiền muộn, cái
giận hờn, cái căng thẳng thì chúng ta phải dùng những phương
pháp nào để đối trị? Trong nhà thương, nếu mà bác sĩ chẩn mạch
được rồi thì cho một viên thuốc hay là chích một ống thuốc thì
sau đó mười lăm phút hay nửa giờ thì ta thấy bệnh tình nó có khá
hơn. Còn chúng ta học rất nhiều lý thuyết nhưng mà đến khi có
những căng thẳng, những lo lắng, những xung đột chúng ta không
giải quyết được.
Tôi đã chứng kiến những cảnh mà thầy trò có khó khăn với nhau,
vị Bổn sư với các vị đệ tử có những khó khăn với nhau mà cả
thầy, cả trò đều bất lực không có giải quyết được. Có khi thấy
trò không nói chuyện được với nhau. Thầy oán trò, oán đệ tử là
không có trách nhiệm và đệ tử oán thầy là không có hiểu mình và
hai thầy trò chết cứng ở trong cái trường hợp đó, không có giải
quyết được. Trong khi đó cả hai đều có học kinh, đều có học Phật
hết. Và cái học của chúng ta để làm cái gì nếu chúng ta nếu
chúng ta không có tháo gỡ được cho nhau?
Ở Huế vừa rồi tôi có tới thăm một ngôi chùa và tôi biết rằng
ngôi chùa này ngày xưa có hai huynh đệ ở với nhau, tại vì vị Bổn
sư có hai đệ tử. Nhưng mà hai đệ tử sống chung không có được,
hai người tranh dành quyền bính cho đến nỗi cuối cùng một vị
phải đi chùa khác để một vị ở đó.
Điều này nó chứng tỏ sự
thất bại của ba thầy trò, nó chứng tỏ sự thất bại của hai huynh
đệ. Và nếu chúng ta không có thành công trong sự tháo gỡ những
xung đột, những khó khăn, những bực bội, những giận hờn
giữa thầy trò, giữa huynh đệ thì làm sao chúng ta giúp tháo gỡ
được cho những người ngoài đời và học của chúng ta vì vậy nó
không có thực tế.
Chúng ta làm thế nào để mỗi khi có sự căng thẳng, có sự giằng
co, có vấn đề mâu thuẩn giữa hai huynh đệ hoặc là hai thày trò.
Chúng ta có thể giải quyết được trong vòng một vài ngày và đừng
để cho nó kéo dài quá một tuần lễ. Nếu chúng ta sống chung với
nhau trong một thiền viện, trong một học viện, thế nào cũng có
khó khăn với nhau như chén bát úp vào cái sàng thế nào nó cũng
đụng nhau. Chính những khó khăn đó mà chúng ta học được, giữa
huynh đệ có những sự bực bội, sự ganh tỵ, sự nghi ngờ với nhau
thì hai người đó phải được trao truyền những pháp môn để tháo gỡ
được, mà nếu họ không tháo gỡ đưọc, phải nhờ tới người thứ ba,
thứ tư hay là một vị
giáo thọ.
Nếu chúng ta không làm được như vậy thì chúng ta sẽ thua cuộc.
Như ông thày thuốc nói rằng bệnh này tôi bó tay thôi. Nhưng mà ở
ngoài, ông thày thuốc chỉ có thể đầu hàng khi mà ông ta dùng tất
cả các biện pháp mà ông ta có thể dùng được. Còn chúng ta ngay
khi vấn đề nó xảy ra còn đang dễ dàng mà chúng ta đã đầu hàng
luôn, chúng ta không có giải quyết được. Thành ra khi thụ huấn,
chúng ta phải học được những pháp môn rất là cụ thể để có thể
giải quyết những khó khăn, những bức xúc, những phiền não ngay
trong đời sống trong hàng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta làm
được như vậy thì khi chúng ta ra đời để giúp người, chúng ta có
đủ kinh nghiệm, cho nên cái học của ta cần phải chỉnh đốn trở
lại.
Trong khi học, chúng ta phải có cơ hội thực tập, mà sự thực tập
này nó phải thực tế, nó phải có khả năng giải quyết những khó
khăn. Ngồi thiền rất tốt nhưng ngồi thiền như thế nào để tháo gỡ
những căng thẳng trong thân và trong tâm, chớ không phải ngồi
thiền là tốt. Ngồi một ngày năm giờ, mười gìờ là tốt, không phải
như vậy. Ăn thua là nơi chất lượng và sự công dụng của ngồi
thiền, tụng kinh, bái sám cũng vậy. Chúng ta làm thế nào để mỗi
giờ thực tập nó đem lại sự chuyển hóa của thân và của tâm mới
được, chớ chúng ta không thể nói rằng ngồi thiền, tụng kinh, bái
sám là tốt, chúng ta cứ làm như vậy thôi mà bao nhiêu năm chúng
ta vẫn không có chuyển hóa được những khó khăn của chúng ta.
Kinh An Ban Thủ Ý - Kinh Tứ Niệm Xứ
Thành ra lớn lên ở viện học Tăng, tôi có sự phản kháng ở trong
lòng và tôi lên đường đi tìm, khi mà tôi khám phá cuốn Kinh
An Ban Thủ Ý tức là Kinh Quán Niệm Hơi Thở, tôi
nghiên cứu rất là kỹ và tôi khám phá ra rằng cuốn Kinh này rất
khoa học. Kinh An Ban Thủ Ý cũng như Kinh Niệm Xứ.
Kinh mà thời của Đức Thế Tôn, Thầy nào, Sư cô nào cũng thuộc
lòng hết và có bốn lãnh vực của sự thực tập. Trước nhất là lãnh
vực của Thân, rồi tới lãnh vực của Thọ, rồi tới
lãnh vực Tâm Hành, cuối cùng là lãnh vực Tri Giác.
Những bài tập của Đức Thế Tôn đưa ra cho mình sử dụng rất là
khoa học, hiện giờ có những nhà Khoa học, những Bác sĩ ở trong
những nhà thương lớn trên thế giới, họ bắt đầu áp dụng bài tập
thở cho bệnh nhân của họ. Nếu chúng ta học Kinh An Ban Thủ Ý
thì chúng ta sẽ thấy rằng bài học đầu tiên là Ý thức Hơi thở
Vào, Ý thức Hơi thở Ra.
Thở vào,
ý thức được thở vào. Thở ra, ý thức được thở ra, hết sức
đơn giản nhưng khi mình làm được thì hiệu quả rất là to lớn, nếu
mình làm được tự nhiên chấm dứt bao nhiêu suy nghĩ vẩn vơ và đưa
Tâm trở về
với Thân. Mình làm Thân-Tâm trở thành
một khối và mình có mặt thật sự trong giây phút hiện tại để thấy
được sự sống mầu nhiệm trong giây phút hiện tại.
Khi mình tập hơi thở thứ hai, mình duy trì cái Niệm Định
đó mới dài lâu được.
Hơi thở thứ ba là Nhận diện toàn thân của mình.
Hơi thở thứ tư là làm Lắng dịu căng thẳng đau nhức trong
thân.
Mỗi khi bài tập như vậy, ta có thể chia thành nhiều bài tập nhỏ
và nếu mình thực tập đúng thì trong vòng ba, năm phút là thấy sự
thay đổi liền trong thân của mình và trong tâm nữa.
Tới bài tập thứ năm và thứ sáu trong Kinh An Ban Thủ Ý là
hai bài tập để chế tác ra chất liệu Hỷ và Lạc cho
người tu, vì Đức Thế Tôn thấy rõ nếu mà tu không có Hỷ và Lạc
thì không có tu lâu được. Tu không có nghĩa là ép xác, khổ hạnh,
tu là phải có niềm vui, có hạnh phúc thì mới tu lâu được. Đây là
bài học kinh nghiệm của Đức Thế Tôn cho nên hai bài tập thứ năm
và thứ sáu của Kinh An Ban Thủ Ý để chế tác Hỷ và Lạc, nếu mình
biết cách thì chế tác rất là mau, trong vòng nửa phút, một phút
là có thể chế tác được niềm vui, hạnh phúc.
Bài tập thứ bẩy và bài tập thứ tám là để Nhận diện ôm ấp buồn
khổ, lo lắng, sầu đau của mình, để làm cho lắng dịu
xuống.
Khi tôi nghiên cứu và thực tập, tôi thấy Kinh An Ban Thủ Ý mầu
nhiệm vô cùng và có cảm tưởng mình là người hạnh phúc nhất trên
đời, là tìm ra được một bảo vật, một pháp bảo. Khi mình nghiên
cứu Kinh An Ban Thủ Ý chung với Kinh Niệm Xứ, hai Kinh bổ túc
với nhau mầu nhiệm.
Duy Tuệ Thị Nghiệp
Trong quá trình thực tập, giãng dạy và hướng dẫn cho Thiền sinh
ở Tây phương, tôi đã học rất nhiều, cái học ở đây không phải cái
học kiến thức. Các Thầy, các Sư cô đã biết rõ chữ học ở
trong Văn Học Phật Giáo không có nghĩa là chất chứa kiến thức,
chữ học trong đạo Phật có nghĩa là thực tập (tiếng Phạn
siksha có nghĩa thực tập). Khi mình còn thực tập thì gọi là
Hữu Học, khi thực tập thành công rồi gọi là Vô Học.
Vậy là chữ Học ở đây có nghĩa là Hành Trì, chứ
không phải chất chứa kiến thức.
Chúng ta ai cũng ưa dùng bốn chữ trong Kinh Bát Đại Nhân Giác là
Duy Tuệ Thị Nghiệp, có nghĩa là sự
nghiệp duy nhất của đời mình là Tuệ Giác. Chữ Tuệ
ở đây không có nghĩa là kiến thức mà mình chất chứa trong khi
ngồi ở lớp học, dầu là kiến thức Phật học .
Các trường Đại học lớn như trường Oxford người ta cấp phát văn
bằng Tiến sĩ Phật học, họ dạy Phật Học rất là khoa học, các Giáo
Sư dạy rất là uyên bác. Nhưng khi mình tiếp nhận văn bằng Tiến
sĩ Phật Học rồi, mình chỉ có thể làm được một việc thôi là đi
dạy lại cho những người khác. Những khi mình gặp khó khăn, phiền
não thì mình chịu thôi! Tại vì cái đó cũng chỉ là kiến thức, dầu
là kiến thức Phật học. Trong khi cái chúng ta cần là Pháp Môn
tu tập, phương pháp tu tập. Cho nên mình biết rằng chữ Học
ở đây không có nghĩa là chứa chất kiến thức và Tuệ ở đây
không có nghĩa là kiến thức, Tuệ ở đây là Tuệ Giác.
Tuệ giác là Ánh Sáng của Trí Tuệ, khi mà có nó
rồi, mình tháo gỡ những khó khăn của mình và của người khác rất
là mau. Nếu không có cái Tuệ Giác đó thì mình đi quanh,
đi quanh, đi quanh không ra khỏi những cái buồn khổ, những cái
lo lắng, những cái sầu đau, những cái sợ hãi. Mà có Tuệ Giác
đó bung ra liền lập tức, cái đó gọi là Tuệ, cái
đó là Prajnã, là Bát Nhã, mà không phải kiến
thức mình thu thập được trong trường dầu là trường Phật
học. Cho
nên mình phải hiểu bốn chữ Duy Tuệ Thị Nghiệp như sự
nghiệp duy nhất đời tôi là Tuệ Giác, tuệ giác không có
nghĩa là bằng cấp, không có nghĩa là kiến thức, dầu là kiến thức
Phật học.
Vua và Nữ Hoàng trên lãnh thổ Năm Uẩn:
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành,
Thức
Ngồi thiền theo kinh nghiệm của tôi trước hết là để cho lắng dịu
cái thân và cái tâm. Ngồi thiền có thể đem lại sự an lạc cho
mình, tại vì không có an thì không có lạc. Trong khi ngồi thiền
mình phải điều phục cái thân, phải làm cho cái thân nó an. Và
muốn làm cho cái thân nó an mình phải biết cách điều phục hơi
thở và hình hài của mình. Vì trong hơi thở cũng như trong
hình hài của mình nó có những căng thẳng, những đau nhức. Và nếu
mình không biết cách làm lắng dịu, buông thư thì không có an
trong thân, không có an trong thân thì khó có an trong tâm.
Cho nên những cái mình phải học trước tiên là phải làm lắng dịu
những căng thẳng trong thân, những đau nhức trong thân.
Rồi tiếp đến mình có những nỗi khổ niềm đau ở trong lòng, mình
phải làm thế nào để nhận diện nó, đừng có đàn áp nó, đừng có ém
nó xuống, mà phải biết cách làm thế nào để nhận diện được nó, ôm
ấp được nó, làm cho nó lắng dịu xuống và cuối cùng chuyển hóa
được nó. Từng bước từng bước mình phải học và mình phải làm cho
được. Và những điều đó trong kinh có đầy đủ hết.
Trong khi ngồi thiền mình chế tác được những năng lượng như
là Niệm, niệm tức là có mặt một cách đích thực thân và
tâm nó ở chung với nhau. Trong đời sống hàng ngày thân của
mình có thể ở đây nhưng mà tâm của mình ở chỗ khác, nó ở quá
khứ hoặc tương lai hoặc là nó đang lo lắng, nó đang bị cuốn hút
bỡi những dự án, những lo nghĩ. Thì trước hết dùng hơi thở đem
tâm trở về thân, có sự đoàn tụ giữa hai. Và khi đó
thì mình thật sự có mặt trong giây phút hiện tại. Có mặt
trong giây phút hiện tại để làm gì? Để mà xử lý, để mà
chăm sóc thân và tâm của mình, thân của mình cần
được chăm sóc, tâm của mình cần được chăm sóc. Mà nếu mình
không có mặt thì cái gì được chăm sóc? Vì vậy niệm trước hết là
có mặt, có mặt thật sự trong giây phút này để chăm sóc thân
và tâm. Và khi mình có mặt với thân để chăm sóc thân gọi là
niệm thân, có một kinh gọi là Kinh Niệm Thân. Và khi
mình chăm sóc cái tâm của mình gọi là Niệm Tâm. Niệm là
như vậy, niệm là có mặt để mà chăm sóc, để mà giải quyết các vấn
đề.
Chúng ta là những ông vua, những bà nữ hoàng và đất đai của
chúng ta là năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, lãnh
thổ chúng ta rất là lớn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhưng mà
chúng ta không phải là những ông hoàng đế, những bà nữ hoàng có
trách nhiệm, chúng ta cứ bỏ lãnh thổ của chúng ta và chúng
ta đi chơi. Chúng ta để cho bao nhiêu là rắc rối, bao nhiêu là
loạn lạc nó xãy ra trong vùng của thân, của thọ, của tâm,
của pháp.
Lãnh thổ của chúng ta, đất nước của chúng ta
không có ai chăm sóc, nó có những phiền não trong thân, nó có
phiền não trong tâm. Cho nên vị hoàng đế, vị nữ hoàng phải trở
về lãnh thổ của mình và bắt đầu chắm sóc, bắt đầu thiết lập lại
trật tự. Mà hơi thở là một dụng cụ rất là mầu nhiệm để giúp
mình thiết lập lại được trật tự trong thân và trong tâm, rất là
hay!
Cho nên tôi xin mời, tôi xin đề nghị quý vị học Kinh An Ban
Thủ Ý, đem áp dụng Kinh An Ban Thủ Ý. Hơi thở của mình nó có
thể thiết lập lại được sự thăng bằng, nó có thể đem lại sự bình
yên cho thân và cho tâm. Nó quản lý, bảo quản được thân và tâm.
Hơi thở có ý thức gọi là an ban thủ ý, an ban có
nghĩa là hơi thở vào hơi thở ra, thủ ý có nghĩa là cái ý
của mình nắm lấy hơi thở.
Ngày mai tôi sẽ nói một ít về phương pháp đi thiền hành, đi
thiền hành là một pháp môn rất là mầu nhiệm, rất là dễ làm, ở
đây chúng ta có những con đường rất đẹp, chúng ta có thể đi
thiền hành với nhau, đi riêng hay là đi chung.
Hỏi
- đáp
Bây giờ nếu có vị nào có câu hỏi có liên hệ tới bài hôm nay
thì xin cứ hỏi. Ai muốn hỏi gì hoặc muốn nói gì thì đưa tay lên,
có người sẽ đem máy nói tới.
Hỏi:
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch
Hòa
thượng, xin Hòa
thượng giải thích thêm về chữ niệm
(tiếng pali là sati) và chữ chánh niệm (samma-sati)
trong kinh nghiệm thực tập của
Hòa thượng.
Sư
ông Nhất Hạnh: Cái đó là hỏi dùm cho các Thầy, các Sư cô đó!
Chữ niệm tiếng Phạn là smarti, tiếng pali là
sati. Trong khi mình viết chữ niệm thì phía trên có chữ kim và ở dưới nó có chữ tâm. Kim tức
là giây phút hiện tại và tâm tức là cái tâm của mình, đem
cái tâm về giây phút hiện tại thì gọi là niệm. Niệm mình
có thể giải thích bằng nhiều cách và tôi ưa nói niệm, trước hết
là thật sự có mặt trong giây phút hiện tại. Mình thật sự có mặt
trong giây phút hiện tại, mình không có đi phiêu lưu về quá khứ,
về tương lai hay ở nơi khác. Mình trở về bây giờ và ở đây để có
được cái chủ quyền về thân, về tâm, cái đó là niệm. Chữ niệm ở
đây mình có thể dịch là nhớ, nhưng mà nhớ này không phải là
nhớ những chuyện quá khứ, những chuyện gì đâu đâu, niệm ở đây có
nghĩa là ý thức, tức là biết được những gì nó đang xãy ra
trong giây phút hiện tại mà mình có thể định nghĩa niệm là như
vậy, khả năng niệm là cái năng lượng nó giúp ta nhận diện được
cái gì đang xãy ra bây giờ và ở đây. Ví dụ như khi mình thở vào
thì cái mà đang xãy ra là hơi thở vào, thì hơi thở vào là đối
tượng của niệm gọi là an ban thủ ý. Khi mình uống nước trà, mình
có mặt thật sự bây giờ và ở đây, mình biết là mình đang uống trà
thì đó là niệm. Khi mình bước đi một bước chân mà mình biết
rằng mình đang bước bước chân thì đó gọi là niệm bước chân. Còn
khi mình uống trà mà mình biết là mình uống trà thì là niệm uống
trà, khi mình cúi xuống mà mình biết là mình cúi xuống thì đó là
niệm cúi xuống, khi mình ngửng lên mà mình biết là mình ngửng
lên thì đó là niệm ngửng lên. Nói tóm lại niệm tức là
khả
năng là năng lượng nó giúp cho biết là cái gì đang xãy ra,
cái gì đang xãy ra, có thể là mình đang thở vào thở ra hoặc bước
một bước hoặc uống một ly trà hoặc gãi trên đầu. Không có niệm
thì mình uống mà mình không biết là mình uống, mình ăn không
biết là mình ăn, mình đi không biết là mình đi, mình thở không
biết là mình thở. Còn khi có niệm thì khi thở biết là mình thở,
khi đi biết là mình đi, khi đi biết là mình đi, khi ăn biết là
mình ăn, khi uống biết là mình uống. Cho nên niệm là cái thực
tập căn bản.
Có một lần có một nhà Triết học tới thăm Đức Thế Tôn rồi ông
nghĩ rằng mình không có nhiều thì giờ, thành ông hỏi một câu để
biết được cương lĩnh của chủ trương Đức Thế Tôn, ông hỏi là
quý ngài có thể cho chúng tôi biết cái tinh túy của cái giáo lý
của các ngài là cái gì? Cái đại cương của giáo lý của các ngài
là cái gì? Thì sau khi ông mở miệng ra ông hỏi câu đó thì ông
biết là ông lỡ lời rồi. Tại vì câu hỏi đó không có thực tế
lắm, dầu cho ông có muốn biết cái tinh túy cái cốt lõi chủ
trương của đạo Phật. Ông mới đặt một câu hỏi khác, là quý vị làm
gì mỗi ngày? what are you doing every day? Câu hỏi đó
rất là hay, quý vị làm gì mỗi ngày? Nó hay hơn câu, cái
tinh ba của giáo lý các ngài là cái gì? Có thể là các ngài nói
nhưng mà các ngài không làm, tôi hỏi là cái gì mà các ngài đã
làm. Thì đức Thế Tôn trả lời rằng cái mà chúng tôi làm mỗi ngày
là chúng tôi cũng đi, cũng đứng, cũng nằm, cũng ngồi, cũng
giặt áo, cũng ăn cơm, cũng thở. Thì nhà triết học đó đáp
lại như thế này, như vậy thì có gì đặc biệt đâu, chúng tôi cũng
làm giống hệt như vậy, chúng tôi cũng đi, cũng đứng, cũng nằm,
cũng ngồi, cũng ăn cơm, cũng mặc áo, cũng rửa bát? Đức Phật nói
có khác, chúng tôi khi đi thì chúng tôi biết là chúng tôi đi,
khi chúng tôi ngồi chúng tôi biết chúng tôi ngồi, khi chúng tôi
ăn cơm thì chúng tôi biết chúng tôi ăn cơm, chúng tôi mặc áo thì
chúng tôi biết chúng tôi mặc áo. Câu trả lời rất là hay, nó
có nghĩa là chúng tôi thực tập Chánh niệm. Và khi mà mình
thật sự có mặt, mình đem tâm của mình trở về với thân và thật sự
có mặt ở trong giây phút hiện tại thì mình nhận diện được tất cả
những gì đang xãy ra trong giây phút hiện tại, mình không có
đang nằm mơ.
Khi mình có niệm rồi thì mình thật sự đang sống cái giây phút
đó. Ví dụ như khi tôi thở mà tôi biết là tôi đang thở, tôi đang
sống sâu sắc cái giây phút thở. Khi tôi đang uống trà mà tôi
biết là tôi đang uống trà thì tôi thật sự đang nếm hương vị
của trà. Tôi sống sâu sắc từng giây phút của đời sống hàng ngày,
niệm nó giúp cho mình như vậy. Mình thật sự có mặt trong
từng giây phút để sống những giây phút đó một cách sâu sắc,
đó là niệm. Nhưng mà mình có thể thất niệm, tức là mình có mặt
nhưng mà sau đó mình lại bay đi về quá khứ hay về tương lai thì
gọi là Thất niệm.
Thành ra phải làm thế nào để duy trì cái niệm đó nó kéo dài. Ví
dụ như bài tập thứ hai thở vào tôi theo dõi hơi thở vào từ
đầu cho tới cuối, có nghĩa là mình duy trì cái niệm về hơi thở
vào trong suốt quá trình của hơi thở vào. Chứ không phải là
mình biết được hơi thở vào rồi thì mình bay đi chỗ khác rồi mình
buông cái đối tượng của niệm tức là hơi thở, mình đi niệm cái
khác. Thì trong niệm nó có mầm của định, khi nào mình ý thức về
một cái gì đó thì cố nhiên mình chú tâm về cái đó, tức là mình
tập trung trên cái đó. Và vì vậy cho nên có thể nói rằng trong
niệm đã bắt đầu có định. Và nếu mà mình duy trì cái niệm cho
vững chãi cho lâu dài thì cái định ở trong đó nó cũng phát
triển. Niệm nó mang định ở trong thân, cũng như là cái trứng gà
nó mang lòng đỏ trứng gà ở trong nó. Và khi mà niệm và định nó
hùng hậu thì cố nhiên sẽ có tuệ, tuệ tức là cái thấy, cái mình
gọi là Duy tuệ thị nghiệp.
Hể có Niệm và có Định hùng hậu thì mình nhìn sâu
hơn, mình thấy sâu hơn. Nếu không có Niệm và có Định
thì mình đi phớt qua cái bề mặt của sự thật thôi. Có Niệm,
có Định mình chọc thủng cái màng của thực tại, mình thấy
được bản chất của thực tại, đó gọi là Tuệ, đó là hoa trái của sự tu tập. Và ba nguồn năng lượng mà người
tu phải chế tác trong đời sống hàng ngày là Niệm, Định,
Tuệ (smrti, samadi,
prajnã)
Người tu mà không chế tác được ba cái đó thì chắc chắn không
phải là người tu. Thành ra trong đời sống hàng ngày dầu cho khi
mình lặt rau hay là rửa bát, hay là nấu cơm hoặc là đi xe đạp
thì mình cũng có cơ hội chế tác niệm, tức là làm cái gì cũng có
chánh niệm và khi duy trì được chánh niệm thì chánh định nó lớn
lên. Mà niệm, định hùng hậu thì thế nào cũng có tuệ, mà có
tuệ thì tháo gỡ được rất mau những phiền não của mình. Cho
nên đó là ba nguồn năng lượng mà người tu phải chế tác trong
đời sống hàng ngày. Khi mà mình nấu cơm mà mình không có thực
tập chánh niệm thì mình nấu cơm như là một người ngoài đời rồi,
tại sao cần phải vô chùa. Tại vô chùa là vì mình biết nấu cơm
trong chánh niệm, vào chùa mình biết giặt áo trong chánh niệm,
không có mất đi một giây phút nào hết.
Cho nên câu chuyện của đức Thế Tôn nói rất hay, chúng tôi cũng
ăn cơm, cũng rửa bát, cũng đứng, cũng nằm, cũng ngồi nhưng mà
chúng tôi làm những cái đó trong chánh niệm,
sự khác
nhau giữa chúng tôi với những người không tu là ở chỗ đó. Và
niệm như vậy theo tinh thần có mặt trong giây phút hiện
tại, sống sâu sắc những giây phút của đời sống hàng ngày. Nuôi
dưỡng định để đạt tới cái thấy sâu sắc gọi là
tuệ, đó gọi là chánh niệm. Còn nếu mà mình để ý tới
những chuyện khác và niệm của mình không đưa
tới định, không đưa tới tuệ, cái đó không phải
là chánh niệm. Chánh niệm tức
là niệm đúng như là kinh niệm
xứ dạy. Còn cái tâm của mình
mà để vào
những chuyện khác, nhớ những chuyện khác thì không phải là chánh
niệm, cái đó gọi là hồi tưởng, là mơ ước, là mộng mơ, cái đó
không phải là chánh niệm.
Hỏi: Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Kính bạch
Hòa thượng,
kính thưa đại chúng. Con rất thích cái câu Hòa
thượng dạy là
phải biết nhận diện và dừng lại. Xin Hòa
thượng từ
bi chỉ cho con cách dừng lại như thế nào để có hiệu quả nhất?
Sư
ông Nhất Hạnh: Dừng lại là một
sự
bắt đầu, dừng
lại, trước hết là dừng lại cái gì? Có cái gì nó đang chạy và
mình muốn cho nó dừng lại, thì đó là cái gì? Cái mà mình
muốn dừng lại là gì? Trước hết đó là cái thất niệm,
tức là sống như một cái máy, đi mà không biết là mình đi, ngồi
không biết là mình ngồi, ăn không biết là ăn, uống không biết là
uống, sống như những con người máy, đó gọi là thất niệm. Và
khác nhau giữa một vị Phật với một chúng sinh là chỗ đó, một
người thì sống thất niệm, một người thì sống chánh niệm.
Và cái mình phải ngưng lại là đừng có sống như một bóng ma, như
một con người máy, sống mà không có biết là mình sống.
Phương pháp để dừng lại nó có nhiều, ví dụ khi mình thở, mình có
thể thở như một cái máy thở, mình đâu biết là mình thở.
Giây phút mà tôi biết là tôi đang thở vào và tôi biết rằng tôi
đang thở
ra, lúc đó mình hết là cái máy rồi, mình là con người
thật sự. Tại vì mình biết cái gì đang thật sự xãy ra, lúc đó nó
có yếu tố niệm ở trong con người của mình, mình rất gần với Đức
Thế Tôn. Khi mình đi những bước chân có chánh niệm, thì mỗi bước
chân giúp mình tiếp xúc với những cái mầu nhiệm của núi đồi, của
cây cối, của đất trời. Khi tiếp xúc như vậy, mình được nuôi
dưỡng, mình hạnh phúc, thì lúc đó là mình đi trong chánh niệm.
Còn nếu mình đi như bị ma đuổi thì lúc đó mình đi như một cái
máy. Cho nên nói rằng sự dừng lại, cái mà mình phải dừng lại đầu
tiên là cái nếp sống hối hả thất niệm, sống như một cái máy. Mà
hầu hết chúng ta đều sống như những cái máy. Và cố nhiên là nhận
diện nó có nghĩa là biết được những cái gì đang xãy ra trong
giây phút hiện tại.
Có những cái nhận diện như là hơi thở, mình thở vào mình biết là
mình thở vào, mình thở ra biết là thở ra, mình nhận diện hơi
thở. Tuy rằng mình vẫn tiếp tục thở, mình không muốn dừng
lại, dừng lại hơi thở thì nguy rồi. Mình chỉ nhận diện hơi
thở thôi nhưng
đã là dừng lại cái thất niệm
rồ, vẫn tiếp tục thở
vào thở ra, vẫn để cho hơi thở tiếp tục vào ra, mình có an lạc,
mình có hạnh phúc nhưng mà trong lúc đó mình chấm dứt sự thất
niệm. Sự thất niệm này là sự thất niệm về hơi thở. Hoặc là mình
đang đi như là bị ma đuổi, đi một cách thất niệm, thì khi có một
tiếng chuông, mình giật mình, mình biết rằng mình đang đi như bị
ma đuổi và mình bắt đầu đi từng bước thảnh thơi có chánh niệm
trở lại. Tuy rằng mình vẫn tiếp tục đi nhưng mà mình đã dừng lại
cái gọi là thất niệm.
Và chuyện này người tu thực tập mỗi giờ mỗi phút trong đời sống
hàng ngày, nếu không thì uổng đời tu của mình mà nó đem lại
rất nhiều niềm vui, tu tập chánh niệm đem lại rất nhiều niềm
vui, rất nhiều hạnh phúc. Và trong khi nói về thiền thì chúng ta
nói về hai cái,
một là samatha, hai là vipassana.
Samatha trước hết là dừng lại, mình dịch là chỉ, chỉ là dừng lại
stop và nghĩa thứ hai của samatha là làm cho nó lắng dịu
lại, trước hết là ngừng nó lại, thứ hai là làm cho nó lắng dịu
xuống. Có nhiều khi mình dừng chưa được nhưng mà mình làm lắng
dịu nó xuống được. Ví dụ như khi sự bực tức bắt đầu trào lên, cố nhiên là làm cho nó dừng lại thì hay rồi nhưng mà
làm sao dừng lại liền được. Mỗi tâm hành có quá trình
phát sinh, tồn tại rồi tiêu diệt của nó. Cho nên khi tâm hành
buồn bực, giận hờn phát khởi thì lập tức mình là người tu
mình phải phát khởi chánh niệm để nhận diện tâm hành đó. Thở
vào tôi biết rằng có sự bực bội trong tôi, thở ra tôi mỉm cười
với sự bực bội trong tôi. Tuy là sự bực bội còn đó nhưng mà
bên cạnh sự bực bội nó có một cái khác, đó là chánh
niệm, tức là đã có sự có mặt của Đức Thế Tôn ở đó rồi. Có chánh
niệm, có chánh định tức là có Đức Thế Tôn đó.
Khi giận mà không biết là mình giận tức là cái giận nó
độc chiếm con người của mình.
Nhưng khi có chánh niệm
thì tuy là cái giận có đó nhưng mà có chánh niệm đó. Tôi thở
vào với biết rằng cái giận có trong tôi, tôi thở ra và biết cái
giận còn trong tôi. Cái giận là một nguồn năng lượng tiêu cực và
chánh niệm là nguồn năng lượng thứ hai mà người tu phát khởi để
nhận diện, để ôm lấy cái giận và từ từ cái năng lượng của chánh
niệm nó đi vào trong cái năng lượng của giận và nó làm lắng dịu
xuống.
Người tu mà không phát khởi năng lượng thứ
hai để nhận diện để ôm ấp, để làm lắng dịu thì không phải
là người tu. Mà cái nguồn năng lượng thứ hai là mình học chế tác
trong mọi động tác của đời sống hàng ngày, đi phải đi trong
chánh niệm, thở phải thở trong chánh niệm, lặt rau, nấu cơm, rửa
bát đều phải làm trong chánh niệm. Lúc đó mình cần một cái, thì
mình chỉ cần động một cái là mình có đầy đủ cái năng lượng đó để
mà quản lý, để mà bảo quản, để mà chăm sóc, để mà làm lắng dịu.
Cho nên chữ chỉ trước hết là nó làm dừng lại.
Mà trong trường hợp mình làm dừng lại không được liền thì mình
phải nhận diện, mình phải ôm ấp rồi mình làm lắng dịu xuống rồi
từ từ mình mới làm ngưng lại được và cái nghĩa thứ ba của chữ
chỉ là tập trung.
Samatha
nó có nghĩa là nhận diện, nó có nghĩa là làm ngưng lại,
nó có nghĩa là làm lắng dịu lại, nó có nghĩa là tập trung về một
khối, chữ samatha là như vậy. Và khi mình thực tập samatha
tức là chỉ được vững rồi, bắt đầu ở trong đó những hạt tuệ
giác nó sinh ra, cái đó gọi là vipassana.
Vipassana
tức là tuệ, tức là quán, danh từ hán việt mà
mình dùng để dịch chữ samatha là chỉ và danh từ dùng để
dịch vipassana là quán, chỉ và quán. Ngưng lại, tập trung làm
lắng dịu để quán chiếu thì đó gọi là chỉ quán, đó là
thiền.
Hiểu thiền như vậy thì trong trong tịnh độ cũng
có thiền, trong Nam Tông cũng có Thiền, trong Thiên
Thai Tông cũng có Thiền, trong Mật Tông cũng có
thiền.
Hỏi:
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Con xin phép nói một lần
nữa, câu hỏi này nó hơi lạc đề, tuy nhiên là con xin phép Hòa
thượng. Trong thời gian về Việt Nam để truyền bá pháp môn chánh
niệm, Hòa
thượng đã tiếp xúc với các Tăng Ni ở miền Nam và tiếp
xúc với Tăng Ni ở miền Trung cũng như tiếp xúc với Tăng Ni ở
miền Bắc, đặc biệt là các Tăng Ni Sinh. Hòa thượng có thể cho
biết cảm tưởng của Hòa thượng về các Tăng Ni Sinh nhất là các
Tăng Ni Sinh trẻ. Có thể các vị Tăng Ni Sinh trẻ này thực tập
chánh niệm pháp môn của Hòa thượng đang truyền bá và có thể thực
tập một cách thành công. Đặc biệt là đối với Tăng Ni Sinh ở miền
Bắc, ở Học viện Hà Nội này, Hòa thượng cảm có thấy dễ thương hay
không và thực tập có kết quả hay không?
Sư
ông Nhất Hạnh: Chưa có thì giờ nhìn kỹ, đâu có biết nói gì
được. Ngày hôm qua tôi có đi vào đền Ngọc Sơn, sau khi đi thăm
Ủy ban tôn giáo chính phủ, có được chừng một giờ đồng hồ rảnh
thành ra đi quanh bờ hồ rồi đi vào đền Ngọc Sơn thì thấy ngoài
các bà cụ, có rất nhiều cô gái trẻ tới cầu xin đốt hương cúng
dường, cầu xin ở trong đó.
Tôi thấy người trẻ bây giờ có rất nhiều vấn đề, cùng với sự phát
triển kinh tế và kỹ thuật, sự tiêu thụ càng lúc càng tăng trưởng
và những tệ nạn xã hội nó càng ngày càng nhiều. Thanh niên Việt
Nam bắt đầu sa vào trong những vòng ma túy, băng đảng, mãi
dâm, tội phạm, tự tử, đã có nhiều thanh niên học sinh tự tử. Bên
Pháp mỗi ngày có khoảng ba mươi lăm thanh niên Pháp tự tử, không phải là vì thiếu ăn, thiếu mặc, nhưng vì họ có
những bức xúc, những tuyệt vọng họ không giải quyết được đối với
gia đình, đối với xã hội, đối với bản thân và đối với người
quen. Có những cảm xúc lớn như là tuyệt vọng, như là hận thù,
rồi họ tìm tới ma túy để mà quên bớt, rồi sống
không có dễ dàng, cho nên nghĩ rằng tự tử là cách hay nhất
để làm ngừng lại, làm dừng lại sự đau khổ.
Ngay kỳ đầu về thăm quê hương tôi đã được nghe nói những tệ
nạn của người Tăng Ni Sinh ở Việt Nam, tôi đã nghe những sư
chú, sư cô đi buôn thuốc phiện và bị bắt ở Sài Gòn, tôi nghe
những sư cô đi vào trong nhà thương để nạo thai và tôi đã tìm
hiểu rất nhiều, tôi thấy rõ ràng là những tệ nạn của giới thanh
niên ngoài đời, nó bắt đầu đi vào trong chùa. Và các vị Tôn Túc
ở trong giáo hội biết, đã ý thức được rất rõ nhưng mà nhiều vị
cảm thấy bất lực, không có giúp được. Có một vị làm Tăng Sự, sau
hai năm làm, thấy thất bại thành từ chức, không có làm gì được
để mà ngăn chặn cái đà hư hỏng. Tuy ở đây quý vị có Học Viện, có
một khung cảnh thanh tịnh, không có tiếp xúc dễ dàng được
với thế giới bên ngoài, không chịu ảnh hưởng với thế giới bên
ngoài nhiều. Nhưng đó chỉ mới là một giải pháp tạm thời thôi, vì
dầu thế nào cũng phải đi ra ngoài đời trở lại, nhất là mỗi tuần
mình được phép về một ngày, một ngày là nhiều lắm, một ngày là
rất nguy hiểm, nửa ngày cũng rất là nguy hiểm, chứ đừng có
nói là một ngày. Thành ra vấn đề nó vẫn còn y nguyên! Tôi
nghĩ là thầy trò phải ngồi với nhau để tìm hướng giải quyết.
Kinh nghiệm của tôi ở Mai Thôn đạo tràng và của các vị chủ
trương tu viện Bát Nhã trên Bảo Lộc cho biết rằng người thanh
niên Tăng Ni có thể có rất nhiều hạnh phúc nếu có được môi
trường tốt. Năm rồi tôi có mời một số các vị Tôn Túc ở Việt Nam
qua để xung vào Hội Đồng Truyền Giới cho các thầy, các sư cô bên
Làng Mai. Các vị Thượng Tọa, các vị Hòa Thượng được mời ở trong
tăng xá của các thầy và chứng kiến được nếp sống của các
thầy, các sư chú ở trong tăng xá ở xóm Thượng. Các vị Thượng Tọa
cũng thấy rằng nếp sống rất là đơn giản, không có phòng nào có
ti vi, không có người nào có điện thoại di động riêng, không có
người nào có trương mục ngân hàng riêng, không có người nào có
xe riêng, dầu là xe gắn máy. Tất cả đều là của chung hết, máy
tính cũng của chung, khi nào được giao cho công việc thì
mình có máy tính. Và chỉ có một địa chỉ điện thư thôi, trong
chùa và bao nhiêu điện thư đều được gửi về địa chỉ đó và sau đó
in ra trao cho từng người, rồi điện thoại cũng vậy, điện thoại
được giao cho những người có trách nhiệm. Sống với nhau ở Mai
Thôn đạo tràng tuy xa thành phố nhưng mà không có nhu yếu đi
phố.
Có tình huynh đệ, có tình thầy trò, chơi với nhau, tu với nhau,
học với nhau, và không có nhu yếu đi tìm những tiện nghi vật
chất riêng hay là những tiện nghi tình cảm riêng. Và làm cái gì
cũng làm chung với nhau, cấu kết với nhau để tổ chức những khóa
tu, những khóa học cho chính mình và cho người khác. Cùng nhau
bàn luận làm thế nào để cho nếp sống của người tu càng ngày càng
đẹp, càng ngày càng vui, càng ngày càng hạnh phúc, bàn luận với
nhau việc đi thiết lập những Đạo Tràng mới để độ cho những
người thanh niên, những người trí thức. Nó có một cảm hứng, có
một lý tưởng, có một tình huynh đệ và mình được nuôi dưỡng bỡi
những cái đó và không có cảm tưởng là mình cần tới những tiện nghi khác. Nếu quý vị có tới thăm các sư em ở chùa Bát Nhã
Bảo Lộc, quý vị thấy đó nếp sống rất là đơn giản nhưng mà các em
rất là hạnh phúc. Riêng về phía các Sư cô ở xóm Bếp Lửa Hồng,
những điều kiện vật chất thật là thiếu thốn, một cái phòng như
vậy mà có tám cái giường đôi tức là mười sáu Sư Cô ở. Nhưng mà
có hạnh phúc nhiều, được học, được tu với nhau và mỗi tuần được
cộng tác với nhau để hướng dẫn cho người cư sĩ một ngày. Chúng
ta cần những Tùng Lâm mà trong đó người xuất gia trẻ được sống
chung với nhau, được nuôi dưỡng tình huynh đệ, được nuôi dưỡng
chí hướng ra độ đời.
Những cô gái đi vào đền Ngọc Sơn để cúng đó, họ có những khó
khăn ở trong lòng của họ, trong đời sống hàng ngày của họ, họ
không biết cách tháo gỡ và họ chỉ biết đi cầu nguyện thôi, họ
có rất là nhiều tiền, họ đổi đồng bạc lớn ra rất nhiều đồng bạc
lẻ và mỗi vị thần như vậy họ phát hai hay là ba đồng. Ở ngoài,
tôi thấy đền Ngọc Sơn là để thờ những bậc vĩ nhân, vĩ nhân như
là Trần Hưng Đạo, nhưng mà khi vào đó rồi thì trở thành những
người rất là tham nhũng vì người nào cũng được hối lộ mỗi ngày.
Tại vì mình muốn giải quyết một vấn đề gì đó, mình phải phát
tiền cho hết tất cả các vị thần ở trong đền. Các bậc vĩ nhân của
mình trở thành những người ăn hối lộ hết. Tôi thấy rất là tội
nghiệp cho các vị được thờ ở trong đền Ngọc Sơn.
Khi chồng của mình đi theo một người đàn bà khác trẻ hơn mình có
nhan sắc hơn mình thì mình không có biết cách nào ngoại trừ là
đi cúng dường, cầu nguyện để cầu cho Đức Bồ Tát dung ruỗi thế
nào để người đàn bà kia buông ông chồng của mình ra. Trong khi
đó thì Giáo Pháp của chúng ta có những phương pháp rất là hay,
giúp cho người đàn bà đó tươi mát trở lại, nói được những lời ái
ngữ hiểu được chồng, giúp được chồng thoát khỏi những khó khăn,
đừng có chua chát, đừng có lên án, đừng có buộc tội để chồng
càng ngày càng ngán mình. Những phương pháp đó không sử dụng
mà chỉ đi cúng như vậy thôi, thành ra ai giúp cho những người
thanh niên, những thiếu nữ đó nếu không phải là các
thầy và các
sư
cô. Mình phải có khả năng tháo gỡ những khó khăn của đời
sống
của
mình đối với thầy, đối với bạn,
đối với bạn đồng môn. Khi nắm vững những pháp môn đó thì
mình có thể chia sẻ được với những người thanh niên ở ngoài đời,
chớ bây giờ cái cách của họ là chỉ đi cúng, đi cầu khẩn mà thôi.
Sứ mạng của các vị xuất gia thấy rất là rõ.
Ở trong gia đình cha không nói chuyện được với con, vợ không nói
chuyện được với chồng, người thanh niên bức xúc quá đi tìm khuây
khỏa bên ngoài và rồi rơi vào vòng ma túy, băng đảng, tội phạm,
tà dâm. Các Thầy, các Sư cô có bổn phận phải làm thế nào để xây
dựng lại gia đình đó ở trong xã hội. Làm sao cho vợ nói chuyện
được với chồng, chồng không đay nghiến vợ, vợ đừng làm khổ
chồng, cha nói chuyện được với con, con nói chuyện được với cha.
Đem lại hạnh phúc trong gia đình thì chúng ta mới đem lại an
lạc, hòa bình, hạnh phúc cho xã hội. Đó là sứ mạng của người tu,
mình tu không phải cung cấp nhu yếu về tín ngưỡng vì đạo Phật
không phải chỉ là nền tôn giáo tín ngưỡng mà đạo Phật là kho Tuệ
Giác rất lớn. Nếu mình nắm được Tuệ Giác đó, mình tháo gỡ cho
người ta dễ lắm.
Cho nên mình là Tăng Ni trẻ mình phải có chí rất lớn, mình phải
trở thành những Đạo Sư. Sau khi tháo gỡ được cho mình, cho tăng
thân mình, mình tháo gỡ cho những người ngoài xã hội, những nhà
chính trị, những nhà kinh doanh,những nhà giáo dục. Họ đang
thiếu hướng đi tâm linh thì mình là người cung cấp hướng đi tâm
linh đó cho xã hội bây giờ. Nhà chính trị, nhà doanh thương, nhà
giáo dục cũng cần tu và chính mình là người cung cấp ánh sáng
đó, chiều hướng tâm linh đó.
Ở Tây phương, chúng tôi đã từng mở khóa tu cho các nhà Dân Biểu
Quốc Hội, các nhà Chính Trị, các nhà Tâm Lý Trị Liệu, các nhà
Doanh Thương, các nhà Bảo Hộ Môi Trường, chúng tôi thấy đạo Phật
có thể cung cấp rất nhiều ánh sáng, rất nhiều tuệ giác cho các
giới. Các người Tăng Ni trẻ tuổi phải có được chí hướng lớn như
vậy, đem đạo Phật ra để làm đẹp cho cuộc đời. Chớ không phải mục
đích học xong để có được mãnh bằng rồi làm chủ một ngôi chùa,
kiếm một chức vụ trong giáo hội, không phải như vậy! Chúng ta
phải có hoài bảo lớn, chúng ta phải thành những vị Bồ Tát, chúng
ta đang còn nhỏ tuổi, chúng ta phải ôm chí cho thật lớn mới
được, mới xứng đáng là học trò của Đức Thế Tôn.
Đừng có ham muốn những cái nho nhỏ, không xứng cho mình đeo
đuổi, phải muốn một cái rất lớn để mình đeo đuổi mới được, hoài
bảo xứng đáng là hoài bảo của người xuất gia trẻ. Sơ Tâm,
trái tim ban đầu, của mình rất đẹp, rất sáng, rất hùng, làm sao
trong đời sống hàng ngày mình phải nuôi được trái tim đó, đừng
cho nó bị soi mòn, đừng đi tìm những tiện nghi nho nhỏ dầu là
tiện nghi tình cảm hay là tiện nghi vật chất.
Tôi có chí rất lớn mà chí càng lớn thì hạnh phúc càng lớn, đó là
kinh nghiệm của tôi. Chí nguyện càng lớn, Hạnh phúc càng lớn./.
|