Lắng nghe
để hiểu, nhìn kỹ để thương
Tào Khê một dòng biếc
Chảy mãi
về phương Đông
Quan Âm bình nước Tĩnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Cành Dương rưới Cam lộ
Làm sống dậy mùa Xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng
Đây
là bài ca ngợi Bồ Tát Quan Thế Âm dịch ra từ chữ Hán. Tào Khê là
một dòng suối tâm linh, một dòng thiền gọi là Thiền Tào Khê.
Dòng Tào Khê này đã nuôi dưỡng dân tộc ta không biết bao nhiêu
là thế hệ. Chúng ta ai cũng cần có một chiều hưóng tâm linh
trong đời sống hằng ngày. Chúng ta sống đời sống kinh tế, văn
hóa, chính trị, tình cảm, nhưng ai trong chúng ta cũng cần có
đời sống tâm linh. Nếu có chiều hướng tâm linh thì ta có thể
tháo gỡ được những khó khăn, bức xúc, tuyệt vọng, những mâu
thuẩn trong lòng. Vì vậy tham dự và thừa hưởng được sự có mặt
của dòng Tào Khê rất quan trọng.
Thiền
đã là một chất liệu nuôi dưỡng dân tộc ta từ lâu. Chúng ta có
thiền sư Khương Tăng Hội xuất hiện vào vào thượng bán thế kỷ thứ
ba. Thiền sư Khương Tăng Hội, cha là người Sogdian, mẹ là người
Việt Nam, đã sinh ra, tu và chứng đạo tại Việt Nam. Thiền sư
thành lập dòng thiền gọi là dòng Thiền Khương Tăng Hội. Sau đó
ông đi sang nước Ngô để truyền bá về thiền trước tổ Bồ Đề Đạt Ma
tới 300 năm. Thay vì thờ tổ Bồ Đề Đạt Ma làm tổ thiền Việt Nam
thì ta phải thờ thiền sư Khương Tăng Hội. Ngài là người Việt,
sinh ở Việt Nam, và dựng nên thiền Việt Nam 300 năm trước khi tổ
Bồ Đề Đạt Ma lập ra thiền Trung Quốc.
Tào
Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Phương Đông của chúng ta đã được nuôi dưỡng rất nhiều bằng dòng
suối tâm linh Tào Khê. Trong thập niên vừa qua chúng tôi đã múc
nước Tào Khê hiến tặng cho những dân tộc Âu châu và Mỹ châu. Họ
đã sử dụng được chất liệu đó của dòng Thiền Việt Nam và chữa trị
được không biết bao nhiêu là chứng bệnh tâm linh của họ. Mảnh
đất Tây phương (Ân châu và Mỹ châu ) rất là chín mùi để tiếp
nhận những hạt giống của Thiền Tào Khê. Thiền Tào Khê đã nuôi
dưỡng dân tộc ta qua không biết bao nhiêu là thế kỷ.
Tào Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước Tĩnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Chúng
ta có những bụi bặm, những phiền não, oan ức, khổ đau. Chính
giọt nước Từ Bi của dòng Tào Khê nơi bình Tịnh Thủy của Đức Bồ
Tát Quan Thế Âm đã có thể tẩy sạch được dấu vết của khổ đau, oan
ức trong lòng chúng ta.
Cành Dương rưới Cam lộ
Làm sống dậy mùa Xuân
Trong
khổ đau tuyệt vọng chúng ta nghĩ rằng chúng ta không có tương
lai. Nhưng với một giọt nước của tình thương, của hiểu biết thì
một cành khô đã trở thành một mùa Xuân
Cành Dương rưới Cam lộ
Làm sống
dậy mùa Xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng
Trong
tín ngưỡng Việt Nam chúng ta tin có những loại cô hồn đi vất
vưỡng khắp nơi, rất đói. Hình ảnh cô hồn là hình ảnh của một
chúng sinh có cái bụng rất lớn, có nghĩa là bao tử rất đói mà
khả năng tiếp nhận thì rất nhỏ. Cô hồn có cổ họng bé bằng cây
kim cho nên không nuốt được thức ăn. Cái đói ở đây không hẳn là
đói cơm, đói áo mà là đói tình thương, đói hiểu biết. Có những
người trong chúng ta nghĩ rằng mình chưa bao giờ được ai hiểu và
thương trên cuộc đời này. Những người đó không có niềm tin nơi
cuộc đời, nơi con người, nơi văn hóa, dân tộc. Họ đi lang thang
để kiếm một chút hiểu, một chút thương nhưng chưa bao giờ kiếm
được. Họ rất là đa nghi. Dầu ta có cái hiểu, caí thương để cống
hiến cho họ nhưng họ cũng không có khả năng tiếp nhận. Khả năng
tiếp nhận của họ nhỏ như một cây kim. Trong đạo Phật có câu thần
chú có thể giúp cho cổ họng của cô hồn trở lại hình thức bình
thường trước đó. Một giọt nước của hiểu và thương đủ để làm cho
một cô hồn no đủ.
Đề
hồ trong cổ họng
Làm lắng
dịu muôn lòng
Cô
hồn không hẳn là những người đã chết. Có thể là rất nhiều người
trong xã hội chúng ta đang là những cô hồn đang đi quanh rong
ruổi. Có những thanh niên thiếu nữ chưa bao giờ có cảm tưởng là
mình được hiểu và được thương. Họ đi như những con ma đói trong
cuộc đời, chưa bao giờ được hiểu và được thương. Khi nhìn họ thì
mình nhìn ra họ là những cô hồn ngay trong cuộc sống, trong xã
hội.Xã hội chúng ta được xây dựng như thế nào mà mỗi ngườì trong
chúng ta tạo ra không biết bao nhiêu là cô hồn sống đang đi vất
vưỡng trong cuộc đời.
Sự
thực tập của chúng ta là làm như thế nào để nhận diện được những
cô hồn sống đó và cung cấp cho họ cái hiểu và cái thương. Làm
cha mẹ, làm thấy giáo, làm nhà doanh thương, nhà chính trị,
chúng ta phải có con mắt để nhận diện được sự có mặt của những
cô hồn đó và giúp cho họ trở thành con người bình thường trở lại
bằng giọt nước Từ Bi của hiểu và thương. Việc đó chúng ta chỉ có
thể làm được khi chúng ta tiếp xúc với dòng Tào Khê.
Chúng
ta thường hình dung Đức Bồ Tát Quan Thế Âm là người đang cầm một
bình Tịnh thủy trong đó có nước Tào Khê, nước của Từ Bi, nước
Cam lộ. Chỉ cần một giọt nước Từ Bi trên cành dương rẩy lên
thì một cành khô trở thành một mùa Xuân. Tình thương cũng vậy.
Tình thương có phép lạ rất lớn. Một khi ta có tình thương để
cung cấp cho những cô hồn thì những cô hồn đó trở thành những
người sống thực sự.
Danh
hiệu của Bồ Tát Quan Thế Âm bằng tiếng Sanskrit là
Avalokitesvara. Avalo có nghĩa là nhìn cho sâu, lắng nghe cho
kỹ. Khi mình nhìn sâu, hiểu sâu thì tự nhiên sẽ phát sinh ra cái
thương. Cái hiểu đưa đến cái thương. Nếu mà cha không hiểu con
thì cha không thể nào thương con được. Nếu vợ mà không hiểu
chồng thì vợ không thể nào thương chồng được. Nếu con không hiểu
cha thì con không thể nào thương cha được. Trong đạo Bụt thì cái
hiểu là nền tảng của cái thương. Avalokita có nghĩa là lắng nghe
cho kỹ, nhìn cho sâu, chúng ta dịch là Quán. Esvara có nghĩa là
tự do, tự tại. Nhờ thực tập quán chiếu cho sâu sắc mà ta đạt tới
cái hiểu. Từ cái hiểu ta có lòng thương mà có lòng thương thì ta
có khả năng tha thứ, bảo hộ, và giúp đỡ. Vì vậy ta trở thành một
con người tự do.
Quan
Thế Âm có nghĩa là Quán Tự Tại ( chữ Esvara có nghĩa là tự tại
). Tự do đó ta đạt được bằng thiền quán, bằng cái nhìn sâu sắc.
Nếu ta quá bận rộn thì làm sao ta có thì giờ để nhìn sâu, để
lắng nghe và để hiểu. Nếu không hiểu được thì làm thế nào để
chúng ta thương được, cho nên cái hiểu đưa tới cái thương. Namo
Avalokitesvaraya là danh hiệu của Đức Bồ Tát xướng tụng bằng
tiếng Phạn. Xin kính mời liệt vị ngồi cho thoải mái để có sự
buông thư trong tâm hồn. Nếu chúng ta thực tập được năm, mười
phút thì những căng thẳng, những đau nhức trong cơ thể sẽ giảm
thiểu.
(Các
thầy, các sư cô xướng tụng bài Tào Khê một dòng biếc và
niệm Namo Avalokitesvaraya)
Hy vọng là quí vị có được mười mấy phút thoải mái, thanh tịnh.
Bí quyết của sự sống là phải có mặt thật sự trong
phút giây hiện tại
Kính
thưa quí vị,
Có nhiều khi chúng ta quá bận rộn, chúng ta không có thì giờ để
thực sự sống. Chúng ta theo đuổi một sự nghiệp, sự nghiệp thương
mại, văn hóa hay giáo dục và chúng ta muốn thành công. Vì vậy
chúng ta muốn đầu tư hết thì giờ và năng lực vào sự nghiệp đó.
Chúng ta không có thì giờ để sống đời sống hằng ngày của chúng
ta.
Thúy
Kiều đã chờ đợi rất lâu để có cơ hội thăm người yêu là Kim
Trọng. Kim Trọng cũng đã chờ đợi rất lâu. Hôm đó gia đình của
Kiều đi về bên ngoại để mừng sinh nhật. Thúy Kiều xin phép ở nhà
một mình. Có lẽ cô nàng thác là bị nhức đầu hay đau bụng gì đó
và không có đi. Nhưng chúng ta biết rất rõ là Thúy Kiều thấy
đây là một cơ hội rất quí hóa để có thể ra gặp người yêu bên kia
bức tường. Hai người đó đã thề thốt, đã trao tặng món quà. Ban
đầu thì nghĩ rằng nếu được gặp nhau và nói những lời yêu thương
gắn bó thì đỡ khổ lắm. Hai ngưòi đã trông đợi giờ phút đó từ
lâu, nghĩ rằng được gặp nhau và được nói với nhau những lời gắn
bó yêu thương thì đã nhẹ lắm rồi. Nhưng trái lại, sau khi được
gặp nhau, được nói với nhau những lời gắn bó yêu thương thì lại
thiếu nhau nhiều hơn trước nữa, càng cảm thấy thiếu thốn hơn
trước nữa. Có lẽ tất cả quí vị ở đây đều đã có kinh nghiệm như
thế rồi.
Ngày
gia đình Kiều đi ăn sinh nhật bên ngoại là một dịp rất tốt
choThúy Kiều. Kiều đã để thì giờ ra làm những món ăn ngon đem
sang tặng Kim Trọng. Sau khi thăm viếng, hỏi han, thề thốt, trao
đổi thì Kiều thấy trời đã về chiều, nếu mình ở lại đây thêm nữa
thì bất tiện. Nếu cả nhà về mà không thấy có mình thì bất tiện
cho nên Kiều về nhà. Tới nhà thì thấy gia đình chưa về. Nếu cứ
ngồi đây đợi thì tiếc nên Thúy Kiều quyết định đi sang nhà Kim
Trọng lần thứ hai. Lần này thì trăng đã lên. Sau một ngày sinh
hoạt với Kiều thì Kim Trọng mệt đừ, tại ngày đó là một ngày sinh
hoạt rất nhiều (intense). Cả ngày hai người sống rất hết lòng.
Sau khi Thúy Kiều về rồi thì Kim Trọng rất mệt mỏi, dựa vào án
thư ngủ. Trong khi Kim Trọng thiu thiu trên án thư thì nghe
trong trạng thái nửa thức nửa ngủ đó tiếng chân của Kiều đi trên
đường sỏi.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn
trông lọt trướng huỳnh hắt hiu
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Anh
chàng đang ngủ gục.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Tiếng gót sen của Thúy Kiều làm thức giấc anh chàng thư sinh.
Trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh anh chàng ngẩn đầu lên và thấy
bóng dáng của Thúy Kiều xuất hiện
Bâng khuâng đỉnh Giáp, non Thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
“
Không biết đây có phải là người yêu thật không ?, hay chỉ là
bóng dáng người yêu trong giấc mơ, trong trạng thái nửa mơ nửa
tỉnh ? “, Kim Trọng tự hỏi mình.” Không biết là Kiều bằng xương
bằng thịt hay Kiều chỉ là một hình bóng trong giấc mơ của mình
?”. Tại vì lâu nay Kim Trọng đã sống nhiều trong giấc mơ, cho
đến nỗi bây giờ con người bằng xương bằng thịt xuất hiện cũng
nghi rằng đó là giấc mơ. “ Này em, em có phải là em thật đó hay
chỉ là một hình bóng trong giấc mơ của anh ?”. Đó là câu hỏi của
Kim Trọng.
Thúy Kiều đã trả lời như thế này:
Nàng rằng khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?
Sự
thật là chúng ta đang có cơ hội gặp nhau. Anh là một thực tại !,
chứ không phải là một hình ảnh trong giấc mơ. Em cũng là một
thực tại !. Nhưng nếu chúng ta không có mặt thực sự trong giây
phút hiện tại để nhận rõ sự có mặt của nhau thì giây phút này
cuối cùng nó cũng chỉ là một giấc mơ mà thôi. Hai câu này khi
tôi đọc tới tôi giật mình. Đây là một tuệ giác rất lớn. Phần lớn
những người trong chúng ta đều sống như những người mê ngủ.
Chúng ta không trân quí được sự có mặt của những gì quí giá
trong giây phút hiện tại.
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao
?”
Có
một hôm tôi đi thiền hành trên Xóm Thượng, Làng Mai, bên Pháp.
Từ túp lều lên thiền đường tôi phải lên lên một cái dốc nhỏ. Khi
qua khỏi lùm cây thì tôi có thể thấy mặt trăng và những ngôi
sao. Hôm đó trăng rằm, ra khỏi lùm cây thì tôi thấy mặt trăng
chiếu vằng vặc. Tôi ngẩn đầu lên, mặt trăng là một nhiệm mầu của
sự sống. Sự có mặt của mặt trăng rất quí giá cho tất cả chúng
ta. Nhìn mặt trăng tôi nhớ lại hai câu này. Mặt trăng đang có
mặt cho mình đó nhưng mình có mặt cho mặt trăng hay không ?.
Chúng ta ở đô thị, ít có cơ hội để thấy được mặt trăng. Nhưng
bây giờ mặt trăng hiện ra đó, ta có biết trân quí hay không, ta
có biết
“có
mặt“
để
thưởng thức, để công nhận sự có mặt của mặt trăng hay không ?.
Đôi ta ở đây là mình và mặt trăng.
Bây
giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”
Nếu
trong phút giây hiện tại mà mình không có mặt thật sự để công
nhận sự có mặt của mặt trăng thì những giây phút trong đời sống
hằng ngày của mình cũng như thế. Đời sống của mình chỉ là một
giấc mơ thôi. Đôi ta có thể là mình và người bạn hôn phối của
mình. Đôi ta có thể là mình và bố hay mẹ của mình. Bố, mẹ mình
ngày mai sẽ không còn nữa và mình phải trân quí sự có mặt của
bố, mẹ, của người yêu, của con trai, con gái mình. Bí quyết của
sự sống là phải có mặt thật sự trong phút giây hiện tại để công
nhận sự có mặt quí giá của những gì ta trân quí, ta yêu thương.
Nếu mình bị chìm đắm trong những buồn đau về quá khứ hay những
lo lắng về tương lai thì mình không có mặt thật sự trong phút
giây hiện tại. Mình không có khả năng công nhận sự có mặt của
những gì quí giá hiện đang có mặt cho mình.
Tuổi trẻ của ta là những gì rất quí giá. Hai con mắt của ta đang
tốt. Chỉ cần mở mắt ra là ta có thể thấy trời xanh mây trắng và
bao nhiêu nhiệm mầu của vũ trụ. Nếu ta không sử dụng hai mắt để
tiếp xúc được với những mầu nhiệm của đời sống thì đến khi hai
mắt lòa không thấy được nữa, ta đánh mất thiên đường, đánh mất
tất cả. Vì vậy có hai mắt là một điều kiện của hạnh phúc và ta
công nhận sự có mặt của hai mắt ta. Ta trân quí những gí mà ta
có thể tiếp xúc được trong giây phút hiện tại.
Tuệ
giác không phải là kiến thức. Những điều mình thu thập được ở
trường học, bằng cách đọc sách là kiến thức chứ không phải là
tuệ giác. Tuệ giác, tiếng Anh là Insight, tiếng Pháp là
la
sagesse ; nó không phải là kiến thức chất chứa. Có nhiều người
chất chứa rất nhiều kiến thức về triết học những họ chỉ có kiến
thức mà không có tuệ giác. Nhiều khi kiến thức che lấp
là
trở lực không cho mình có cơ hội đi thẳng vào vấn đề để tìm ra
chân tướng của thực tại. Cái giúp cho ta thấy và hiểu được thực
tại là tuệ giác. Cái đó không phải là triết học.
Trong đạo Phật có cụm từ Duy Tuệ Thị Nghiệp. Những người tu thì
phải lấy trí tuệ là sự nghiệp duy nhất của đời mình. Bản chất
của đạo Phật là tuệ giác. Chính tuệ giác giúp mình tháo gỡ được
những khổ đau, bức xúc, tuyệt vọng, tham đắm chứ không phải là
kiến thức. Tuệ giác đó chỉ có thể chế tác được bằng quán chiếu
tức là nhìn thật sâu, nghe thật rõ, chứ không phải do học hỏi,
đọc sách nhiều, nghe giảng nhiều. Duy Tuệ Thị Nghiệp có nghĩa là
chỉ có Tuệ Giác mới xứng đáng là sự nghiệp của người tu mà thôi.
Mình là người tu thì điều quan trọng nhất không phải là xây
chùa, lập hội, mà là thiền quán để đạt được trí tuệ đó. Trong
đạo Phật có Tam Vô Lậu Học, tức là Giới-Định-Tuệ, hay Niệm-
Định-Tuệ.
Niệm là khả năng có mặt trong phút giây hiện tại để tiếp xúc
được với những gì đang xẩy ra trong giây phút hiện tại. Định là
sự chuyên chú. Khi có Niệm, có Định thì đạt tới Trí Tuệ, tức là
sự hiểu biết. Nói tới Tuệ giác trong truyện Kiều là cái Tuệ đó
chứ không phải là triết lý đạo Phật trong truyện Kiều. Trong
truyện Kiều thỉnh thoảng cụ Nguyễn Du cũng thuyết pháp. Ví dụ cụ
nói : muôn sự tại trời …, có trời mà cũng có ta…, tu là cội
phúc, tình là giây oan. Cái đó là triết lý. Khi cụ thuyết pháp
như vậy thì không có liên quan đến tuệ giác. Tuệ giác không hiển
lộ ra. Nhưng khi cụ làm thơ thì Tuệ giác của đạo Phật biểu lộ
rất nhiều như hai câu này :
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”
Đó
là Tuệ Giác một dân tộc đã từng thực tập theo đạo Phật, theo
thiền. Nếu mình không có mặt trong giây phút hiện tại, mình
không biết trân quí những gì mình có trong giây phút hiện tại
thì sau này tất cả chỉ là một giấc mơ mà thôi.
ngục tù của quá khứ và của tương lai
Có
những người trong chúng ta không thể nào thoát ra khỏi ngục tù
của quá khứ.
Trong quá khứ có thể ta đã có vài quyền hạn, địa vị nhưng chúng
ta vẫn không hạnh phúc. Với uy quyền đó, địa vị đó chúng ta muốn
thêm quyền lực, thêm địa vị vì thế chúng ta không có khả năng
sống trong giây phút hiện tại. Bây giờ chúng ta mất quyền lực,
địa vị đó thì chúng ta tiếc nuối. Quá khứ trở thành một ngục tù
không cho phép mình sống sâu sắc những giây phút của đời sống
hiện tại.
Tôi
đã từng gặp được những đồng bào sống tha hương. Họ không có khả
năng buông bỏ quá khứ để sống trong hiện tại. Quá khứ đã trở
thành một ngục tù. Họ muốn trở lại quyền hạn, địa vị của họ
trong quá khứ. Mình biết rằng dù họ có khôi phục lại cái đó thì
họ cũng không có hạnh phúc. Trong quá khứ họ đã từng có quyền
hạn, địa vị như thế nhưng họ đã không có khả năng sống trong
giây phút đó. Vì vậy tôi biết rằng dù có khôi phục lại được
quyền hạn, địa vị thì họ cũng chạy về tương lai như thường và họ
sẽ không có được hạnh phúc mà họ trông cầu.
Lại
có những người tuy không bị quá khứ giam hãm nhưng bị tương lai
giam hãm. Chúng ta là những nhà doanh thương, những nhà chính
trị, nhà hành động, chúng ta muốn thành công. Vì vậy chúng ta
đầu tư thì giờ và năng luợng của chúng ta vào tương lai. Tương
lai trở nên một nhà độc tài, nó muốn chiếm hết thì giờ và năng
lượng của mình. Mình không có thì giờ để sống cho mình, nhất là
mình không có thì giờ để sống với người thương và để chăm sóc
cho những ngươì thương của mình.
Frederick là một nhà doanh thương rất tài ba bên Đức. Anh ta
cũng có tinh thần trách nhiệm. Claudia là người vợ rất yêu
chồng. Claudia rất hãnh diện mình là bà chủ của doanh nghiệp đó.
Bà
ta rất hạnh phúc khi tổ chức những buổi tiếp tân cho chồng. Cố
nhiên Frederick có hỏi ý kiến của vợ và Claudia rất hạnh phúc.
Nhưng sau đó một thời gian vì muốn đạt đến thành công lớn của
mình Frederick không có thì giờ cho Claudia và cho hai đứa con.
Frederick có tài ba, có tinh thần trách nhiệm thật đó nhưng
doanh nghiệp của ông là một nhà độc tài, nó muốn chiếm trăm phần
trăm thì giờ và năng lực của ông. Ông không có thì giờ cho chính
mình, cho vợ và cho hai đứa con. Đến nỗi khi Phillip, đứa con
trai lớn, vô nhà thương để mổ tim 7 giờ đồng hồ liên tiếp mà
Frederick cũng không bỏ công việc được để về với con. Chính lúc
Claudia đi mổ tumor thì cũng đi một mình thôi, Frederick cũng
không về được.
Có
những đêm Claudia ngồi khóc với Frederick :” Anh không có thì
giờ cho anh, cho em và cho các con thì làm sao mà sống được.”.
Frederick cứ hứa hẹn:” Hiện bây giờ không có ai trong doanh
nghiệp có thể thay thế được anh. Nếu anh tìm được người thay thế
trong vài ba năm nữa thì anh sẽ có thì giờ cho em và cho các
con.” Và ông cứ khất như thế tháng này sang tháng khác, năm này
sang năm khác.
Claudia buồn chán, cô đơn vô cùng. Tiền bạc thì không thiếu gì
cả nhưng nàng cô đơn vô cùng. Người yêu không có mặt cho mình và
cho các con. Mình làm chồng phải có mặt cho vợ, làm cha phải có
mặt cho con. Để giết thì giờ Claudia ghi tên vào đại học lấy một
bằng tiến sĩ nữa về tâm lý học. Sau khi tốt nghiệp Claudia đi
làm nghề tâm lý trị liệu ( psychotherapist) giúp người và làm
việc xã hội. Nhưng hoạt động đó không lấy đi được niềm cô đơn
của bà vợ mà chồng bị cuốn hút hoàn toàn vào trong sự nghiệp.
Frederick rất thành thật khi nói: “Khi nào anh tìm được người
thay thế thì anh sẽ có thì giờ cho em, cho các con.” Nhưng không
bao giờ tìm được người thay thế. Đến năm 51 tuổi thì Frederick
bị tai nạn xe hơi chết. Cái ước mơ kia, điều hứa hẹn kia không
bao giờ thực hiện được. Chỉ trong ba hôm doanh nghiệp đó tìm
được vị giám đốc mới trong khi mình nghĩ mình là người duy nhất
có thể đảm đang được doanh nghiệp !. Trong chúng ta có rất nhiều
người không thoát ra được cái ngục tù của quá khứ hoặc bị giam
hãm trong ngục tù của tương lai vì vậy họ không có khả năng, cơ
hội để sống được trong điều kiện hiện tại.
uy quyền tâm linh: đoạn đức, trí đức, ân đức.
Ngày
xưa ĐứcPhật có người đệ tử là nhà doanh thuơng, ông tên là Cấp
Cô Độc. Cấp Cô Độc là mỹ hiệu mà dân chúng thành phố Savasti đã
tặng cho ông vì ông lo lắng, chăm sóc những người neo đơn, cùnh
khổ trong thành phố. Cấp Cô Độc nghĩa là cấp dưỡng cho những
người neo đơn, cô độc. Ông là doanh thương nhưng ông có thì giờ,
cơ hội đi nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp. Ông có thì giờ để đưa
các con tới nghe Đức Thế Tôn giảng dạy và thực tập. Ông đã giúp
đỡ cho không biết bao nhiêu người gặp khó khăn trong đó có bạn
bè của ông. Có một thời ông ta sạt nghiệp vì kinh tế khủng
hoảng. Ông sạt nghiệp không còn một đồng, nhưng ông không khổ gì
hết. Ông có quá nhiều bạn bè và biết bao người thương ông. Họ đã
tới gìúp ông khôi phục lại cơ nghiệp rất dễ dàng.
Chính
khi mình có niềm tin, với tình thương thì doanh nghiệp của mình
ngày càng phát triển và lợi nhuận càng ngày càng nhiều. Vì vậy
có thì giờ để sống đời sống tâm linh đạo đức, để thì giờ chăm
sóc thương yêu những người khác, điều đó không làm hại gì đến
doanh nghiệp hay cơ nghiệp của mình dù đó là sự nghiệp chính
trị, kinh tế hay văn hóa.
Báo
Fortune bên Mỹ mỗi năm đưa ra số một trăm doanh nghiệp đứng hàng
đầu và họ khuyên nên đầu tư vào những doanh nghiệp đó. Khi
nghiên cứu về một trăm doanh nghiệp đó thì mình thấy gì ? Mình
thấy có điểm chung là những doanh nghiệp đó luôn luôn chăm sóc
cho nhân viên, lo lắng cho con cái, gia đình họ. Tuy để ra rất
nhiều tiền bạc, thì giờ nhằm chăm sóc, lo lắng cho nhân viên
nhưng họ lại thành công hơn những doanh nghiệp chỉ chuyên môn
làm tiền mà không nghĩ tới khía cạnh thương yêu và đạo đức.
Đạo
Phật không lên án những người muốn làm giàu. Mình có thể làm
giàu được. Khi mình có nhiều tiền và nhiều quyền lực thì mình có
thể làm được nhiều điều giúp cho xã hội. Nếu không có khía cạnh
tâm linh thì tiền bạc, quyền uy đó có thể làm cho mình hư hỏng
và gây ra đau khổ cho mình. Trong đạo Phật cũng có nói tớí uy
quyền. Chúng ta cứ cho uy quyền, tiền bạc là những yếu tố của
hạnh phúc. Ta nghĩ rằng làm thế nào để có nhiều tiền, nhiều uy
quyền, muốn gì được nấy thì đó là hạnh phúc. Nhưng nếu chúng ta
nhìn cho kỹ thì thấy có những người có rất nhiều tiền, nhiều uy
quyền, nhưng đau khổ sâu sắc.
Có ai
nhiều uy quyền bằng tổng thống Bush?. Nhưng nếu quí vị nhìn vào
đời sống của ông thì thấy hạnh phúc không có được bao nhiêu.
Nghĩ đến tình trạng Iraq thì biết. Iraq là một công án, một vấn
đề rất lớn. Với uy quyền, một quân đội và một nền kinh tế lớn
như vậy mà ông Bush cảm thấy rất là bất lực. Đó là tình trạng
nuốt không vào mà khạc cũng không ra. Chúng ta có thể tưởng
tượng ban đêm tổng thống Bush đâu có thể ngủ yên được trong khi
những người trai trẻ Hoa kỳ chết mỗi ngày bên đó. Mình đã gây ra
biết bao nhiêu là chết chóc, tàn phá trong đất nước của họ. Vì
vậy chúng ta phải xét lại vấn đề là có phải uy quyền và tiền bạc
là nền tảng của hạnh phúc đích thực hay không ?.Trong đạo Phật
có câu trả lời rất rõ ràng : Chúng ta phải có một uy quyền tâm
linh, cái đó gọi là đức. Chữ đức có thể dịch là la vertu.
Thứ
nhất là đoạn đức. Đoạn có nghĩa là cắt đứt. Chúng ta có những
hận thù, đam mê, tham đắm, si mê, mà nếu chúng ta không cắt đứt
được thì nó sẽ gây đau khổ cho ta đêm ngày. Tu tập là làm thế
nào để có thể cắt đứt những đâm mê, những hận thù như thế thì
con người mình nhẹ ra và có hạnh phúc. Khi có hạnh phúc thì mình
có thể làm cho nhiều người khác có hạnh phúc. Đó là một uy lực
( pouvoir ) mà ta chỉ có thể đạt bằng sự tu tập mà thôi chứ
không phải bằng những vận động ngoại giao, xã hội hay chính
trị.
Đức
thứ hai là trí đức. Trí đức là cái tuệ (tuệ giác). Tuệ không thể
đạt được bằng cách học hỏi và chứa chất kiến thức. Nó là kinh
nghiệp sống do quán chiếu, nhìn và nghe cho sâu sắc mà có. Một
khi nắm được tuệ giác rồi thì mình có thể tháo gỡ rất dễ dàng
những bức xúc, khó khăn, mâu thuẩn, khổ đau, nghi ngờ trong mình
và giúp những người khác làm được như vậy. Khi mình tu học đến
mức mình có thể tháo gỡ những khó khăn cho mình thì khi những
người khác tới trình bày những khó khăn, đau khổ của họ, mình có
thể giúp cho họ tháo gỡ rất dễ dàng.
Có ví
dụ về một cựu chiến binh Hoa kỳ mà trong đơn vị của anh chỉ còn
một mình anh sống sót thôi. Những người trong đơn vị của anh bị
tiêu diệt hết trong một trận đánh ở Việt Nam. Anh ta hận thù,
hận thù cho đến nỗi anh muốn trả thù dân trong làng. Anh đem tới
một túi sandwiches và anh để thuốc nổ trong những bánh mì
sandwiches đó. Anh thấy có 5 đứa bé trong làng đi ra. Khám phá
ra túi sandwiches tụi nó rất mừng đem ra ăn. Sau đó chúng nó nằm
lăn ra kêu khóc. Anh ta chứng kiến cảnh cha mẹ những đứa bé tìm
cách cứu chữa. Anh biết rất rõ ràng rằng không thể nào cứu được
vì đến nhà thương gần nhất cũng phải mất một ngày.
Sống
sót trở về, hình ảnh 5 đứa bé chết vì thuốc độc của anh ám ảnh
anh ngày đêm, năm này sang năm khác. Một khi nhận ra mình đang
ngồi trong phòng với một số trẻ em Mỹ thì anh ta chịu không nỗi,
phải ra khỏi phòng lập tức nếu không thì anh sợ sẽ điên lên. Anh
không dám nói chuyện đó với bất cứ một ai, ngoại trừ với bà mẹ.
Bà khuyên như thế này :” Này con, những chuyện như thế thường
xẩy ra trong chiến tranh. Nó cũng bình thường thôi, con đừng đau
khổ quá nhiều”. Nhưng câu nói đó không giúp anh ta đưọc. Anh ta
chưa có khả năng nói câu chuyện đó với các nhà tâm lý trị liệu.
Cho đến khi anh ta gặp chúng tôi trong khóa tu dành cho những
cựu chiến binh. Đến ngày thứ năm anh mới có can đảm nói ra
chuyện đó vì anh thấy những người ngồi nghe anh có lòng từ bi
rất lớn, có khả năng tha thứ, chấp nhận, ôm ấp anh. Khi anh nói
ra được rồi thì chúng tôi tháo gỡ cho anh rất mau. Tôi nói như
thế này: “ Này anh, chúng tôi công nhận là anh đã giết 5 đứa bé
trong quá khứ. Đó là một tội ác rất lớn. Nhưng anh có thể thoát
ra khỏi được. Anh có biết là hiện bây giờ có những đứa bé đang
chết hay không ?. Có rất nhiều đứa bé đang chết trong giây phút
hiện tại. Ngay tại nước Mỹ của anh cũng vậy. Có nhiều đứa bé
đang chết, có nhiều đứa bé nghèo bệnh, chỉ cần một viên thuốc
trụ sinh là có thể cứu mạng được. Tại sao anh không đem thân
mạng, đời sống của mình để cứu trợ những người đó. Anh có thể
trong một hay hai ngày cứu 5 đứa bé khác. Nếu anh hành động như
một vị bồ tát thì trong một năm anh có thể cứu 500 em bé. Việc
làm đó sẽ tẩy đi những tội lỗi, những mặc cảm, những đau khổ
trong quá khứ.”.
Khi
tôi mở lối cho John thì tôi dùng cái tuệ mà tôi đã thực tập
được. Khi mình đã phát một tư tưởng không đẹp và mình hối hận
thì mình phải phát ra một tư tưởng đối lập, tư tưởng thương yêu,
chấp nhận, hiểu biết, nâng đỡ thì tự nhiên cái tư tưởng thứ hai
chạy theo bắt kịp và trung hòa hóa cái tư tưởng không đẹp lúc
đầu. Đó gọi là ý nghiệp. Nếu anh dùng thì giờ, tâm lực của anh
đi cứu những đứa trẻ thì tôi tin chắc rằng nội trong vài ba
tháng anh thoát ra khỏi cái địa ngục của anh. Sau mười phút mắt
anh nhìn bắt đầu có hy vọng và anh mỉm cười được.
Tôi
muốn nói đến sự kiện là khi mình có tuệ giác, mình tự tháo gỡ
được những khổ đau, mặc cảm, bức xúc của mình và mình tháo gỡ
được cho những người khác. Có khi họ đi vòng quanh năm này sang
năm khác mà không thoát ra được. Khi mình gỡ cho thì chỉ trong
một hay hai phút họ có thể thoát ra được. Đó gọi là tuệ, là trí
đức, là năng lượng thứ hai mà người tu có thể chế tác ra được.
Đức
thứ ba là ân đức, ân đức là khả năng tha thứ, đùm bọc, thương
yêu. Khi mình tha thứ, thuơng yêu được thì mình có hạnh phúc.
Mình rất nhẹ nhàng, mình ban phát không biết bao nhiêu là ân huệ
cho những người khác. Nếu chúng ta là nhà chính trị, nhà doanh
thương mà ta có được ba đức đó thì những phương tiện ta đang có
như tiền bạc, uy quyền thành ra những lợi khí rất lớn để có thể
giúp dân giúp nưóc, tạo hạnh phúc cho không biết bao nhiêu
người.
Phương pháp đối trị những cơn bão tố cảm xúc
Chúng
ta phải tiếp xúc được với những thanh niên, thiếu nữ đang trong
nguy cơ muốn tự sát.
Khi
một cảm xúc lớn nổi dậy thì mình đau khổ vô cùng. Mình rất tuyệt
vọng, rất căm thù. Có rất nhiều nghĩ rằng cách duy nhất để chấm
dứt khổ đau là tự tử. Trong những khóa tu cho thiền sinh Tây
phương tôi có trao truyền cho pháp môn thực tập để đối phó với
cơn bão trong lòng, những cơn bão có thể đưa mình tới quyết định
tự tử. Chúng tôi nói rằng : cảm xúc nó chỉ là cảm xúc thôi. Cảm
xúc như một cơn bão tố tới, ở lại một thời gian, rồi nó đi. Tại
sao mình phải chết vì một cơn cảm xúc ?. Chúng tôi chỉ dẫn
phương pháp trở về với hơi thở và thực tập thở bụng. Khi mình
nhìn vào một cái cây trong cơn bão thì mình thấy ngọn cây oằn
oại trưóc gió. Mình có cảm tưởng là nó có thể gẫy bất cứ lúc
nào. Nhưng nếu mình đưa mắt nhìn vào thân cây thì mình sẽ có cảm
tưởng khác. Thân cây cắm rễ sâu trong đất và mình thấy nó có thể
đứng vững được.
Con
người cũng vậy.
Khi
cảm xúc ào đến thì nó làm lung lay phần tư duy của chúng ta. Khi
chúng ta bị một cảm xúc lớn thì ta phải tìm cách đưa ý của ta
xuống phía đan điền (dưới rốn) đừng để nó lưu trú trên phần tư
duy. Chúng ta thực tập trong tư thế ngồi, để ý đến sự phồng lên
và xẹp xuống của bụng. Thở vào tôi thấy bụng tôi phồng lên. Thở
ra tôi thấy nó xẹp xuống. Phía trên là cành lá của cây. Phía
dưới là gốc. Chúng ta phải ôm lấy cái gốc trong giờ phút nguy
hiểm của cảm xúc:
Thở vào tôi thấy cái bụng phồng lên
Thở ra tôi thấy cái bụng xẹp xuống
và ta
cố thủ ở đó. Nên nhớ là đây chỉ là một cơn cảm xúc, nó tới, nó ở
lại một thời gian rồi nó đi. Mình dại gì mà chết vì một cơn cảm
xúc. Con người của mình không phải chỉ có cảm xúc. Cảm xúc chỉ
là một phần nhỏ trong con người của mình. Chúng tôi trao truyền
cho thiền sinh khả năng có thể chống cự được với cảm xúc nhờ
chánh niệm và phương pháp thở. Chúng tôi nói rằng : quí vị phải
dạy cho các cháu. Quí vị sẽ cứu được các cháu nếu các cháu biết
được phương pháp này.
Điều kiện hạnh phúc
Giác
Duyên biết trước rằng Thúy Kiều sẽ tự tử ở đây. Ngày xưa Thúy
Kiều với tư cách là phu nhân của Từ Hải đã tặng Giác Duyên một
số vàng. Giác Duyên không dùng số vàng đó để làm chùa mà để dành
thuê hai ngư dân chực sẵn để cứu Kiều. Sau khi cứu được Kiều ni
sư Giác Duyên giúp Kiều xuất gia trở lại để tu hành, trước đó
Kiều đã từng được xuất gia một lần rồi. Khi còn làm con ở nhà
Hoạn Thư thì Kiều đau khổ quá xin được đi xuất gia. Hoạn Thư
thấy trong vườn có một ngôi chùa tên Quan Âm Các, cho Kiều ra
xuất gia ở đó. Lần đầu Kiều xuất gia chỉ với ý nguyện tị nạn mà
thôi chứ không quyết chí tu hành, không được thầy chỉ dẫn, không
có pháp môn tu học. Thời gian ở Quan Âm Các là tị nạn mà thôi.
Sau đó Kiều trốn khỏi Quan Âm Các, phạm giới ăn cắp, mang theo
chuông vàng, khánh bạc của chùa để đi. Khi đến tị nạn ở chùa của
ni sư Giác Duyên thì Kiều cũng nói dối là mình từ Bắc kinh về
trong khi mính ở Quan Âm Các gần đó. Thúy Kiều phạm đến hai
giới: ăn cắp và nói dối. Những điều đó khiến Kiều phải gánh chịu
quả báo sau này.
Sau
khi tự tử Kiều được ni sư Giác Duyên cứu lên và kỳ này Kiều nhất
quyết tu học đàng hoàng. Giai đoạn sau lần tự tử thứ ba có thể
là giai đoạn hạnh phúc nhất của đời Kiều. Tôi nghĩ bốn, năm câu
trong truyện Kiều đủ để cho chúng ta quán chiếu mà thấy được con
đường của dân tộc, quốc gia chúng ta có thể đi trong thời đại
toàn cầu hóa này. Ni sư Giác Duyên chờ Kiều bên bờ sông Tiền
Đường và lập ra một am tranh nhỏ. Khi cứu được Kiều rồi thì ni
sư đem về cho xuất gia trở lại là ni cô và hai chị em đã sống
những ngày rất là an lạc, hạnh phúc. Cụ Nguyễn Du viết như thế
này :
Một nhà chung chạ sớm trưa
Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau.
Nạn xưa quét sạch làu làu
Điều
kiện hạnh phúc thứ nhất: nhận diện và trân quí sự có mặt của
nhau
Nếu
quán chiếu thì chúng ta thấy rằng những điều kiện đang có đủ làm
cho họ hạnh phúc rồi. Một nhà chung chạ sớm trưa là điều kiện
hạnh phúc thứ nhất. Khi minh đoàn tụ với nhau, mình được sống
với những người thương yêu, đó là điều kiện của hạnh phúc như ni
sư Giác Duyên và ni cô Trạc Tuyền, hai chi em cùng tu ở một nơi.
Chúng
ta đang được sống với người thương của chúng ta. Mỗi ngày ta
phải nhận diện, công nhận sự có mặt quí giá của người đó. Buổi
sáng, khi ăn sáng với nhau, chúng ta đừng che mặt người thương
của ta bằng một tờ báo.Chúng ta đặt tờ báo xuống và nhìn người
đối diện, người đó có thể là chồng của ta hay hay vợ con ta, ta
nói một câu: “ Có anh trong nhà anh hạnh phúc lắm.” , hay “ Có
bố, có mẹ còn sống con rất là hạnh phúc”. Chúng ta nhìn nhau một
giây lát rồi nói một câu như vậy tức là trân quí sự có mặt của
nhau. Chúng ta không quá bận rộn để không nhìn thấy nhau. Ta
không sống với nhau như những người trong quán trọ
Y Pha
Nho. Chúng ta là một gia đình, ta đang đang có cơ hội sống với
những người thương. Trước hết ta phải công nhận sự có mặt quí
giá của người thương. Nếu ta không làm việc đó ngày hôm nay thì
ngày mai xa cách, người kia chết, chúng ta khóc.
Tôi
đã từng thấy những người khi người thương chết rồi thì kêu gào
rất thảm thiết. Sự kêu gào đó không hẳn là vì tiếc thương người
chết mà là vì hối hận. Trong khi người đó còn sống mình đã đối
xử tàn tệ, mình không trân quí sự có mặt của người đó cho nên
khi người đó chết rồi mình hối hận rất nhiều. Những người gào
thét nhiều nhất là những người hối hận nhiều nhất. Ban đầu thì
mình tưởng là vì thương tiếc người kia nhưng kỳ thực phần đó rất
là ít. Cái làm cho mình gào thét nhiều nhất là vì mình hối hận,
vì mình không sống với người đó, mình không trân quí sự có mặt
của người đó. Hiện bây giờ những người thân đang còn sống với
mình trong một mái gia đình, đó là điều kiện đầu của hạnh phúc.
Mình phải làm thế nào để công nhận sự có mặt quí giá của họ.
Phải nhìn họ như thế nào để tỏ rằng mình trân quí sự có mặt của
họ. Phải nói những lời như thế nào để tỏ rằng mình trân quí sự
có mặt của họ. Không cần tiền bạc, mình chỉ cần tỏ thái độ. Nhận
thức đó gọi là chánh niệm. Chánh niệm là khả năng trân quí, nhận
diện được những gì mình đang có.
Một nhà sum họp sớm trưa
Gió trăng
mát mặt, muối dưa chay lòng
Điều điều hạnh phúc thứ hai: đời sống đơn giản,
thảnh thơi và sâu sắc.
Trăng
là nguyệt. Đi vào đền Ngọc Sơn mình thấy hai chữ Phong Nguyệt.
Chúng ta tự hỏi là trong túi chúng ta có Phong và Nguyệt hay
không ?. Phong là gió mát, nguyệt là trăng trong. Gió trăng mát
mặt tức là sự thảnh thơi. Nếu có thảnh thơi thì ta có thể tiếp
xúc được với những mầu nhiệm của sự sống như ánh trăng, như cơn
gió mát. Gió trăng mát mặt là những điều kiện hạnh phúc mà hiện
ta đang có. Nhưng nếu quí vị là nhà chính trị, nhà doanh thưong,
nhà giáo dục, kinh tế, mà quí vị bận rộn quá, quí vị không hưởng
được gì những mầu nhiệm của thiên nhiên hết, đó là một sự mất
mát rất lớn. Quí vị không có gió, không có trăng trong túi của
mình. Quí vị có thể có Dollar hay Euro nhưng không có gió, không
có trăng. Câu hỏi là trong túi của mình có gió, có trăng hay
không hay chỉ có những dự án, những credit cards mà thôi. Gió
trăng tượng trưng cho những mầu nhiệm của sự sống trong giây
phút hiện tại mà mình nào cần phải mua đâu. Mình sống bận rộn
cho đến nỗi mình không biết là mặt trăng và cơn gió mát đang ở
đó cho mình. Những ngôi sao, màu trời xanh, màu mây trắng, màu
liễu lục, màu hoa vàng, tiếng chim hót, tiếng thông reo, những
bông hoa đang nở, những cái đó đối với chúng ta không có giá trị
tại vì chúng ta đang bận rộn quá chừng. Một trong những đặc tính
của nền văn hóa mới là sự bận rộn.
Ngày
xưa chúng ta không giàu, không có nhiều phẩm vật để tiêu thụ như
bây giờ nên chúng ta có thì giờ để tiếp xúc với gió, với trăng.
Ngày xưa khi hoa anh đào sắp nở thì ông cụ bảo mình phải viết
thiệp mời ba mươi. bốn mươi người bạn tới để ngâm thơ, để thưởng
thức hoa đào nở rộ. Nếu nếu hoa đào nở chậm một chút vì trời
lạnh thì đem trống ra để thúc cho hoa đào nở gọi là kích cổ thôi
hoa. Ngày xưa có những người có thì giờ bơi những chiếc thuyền
thúng ra hồ sen để gửi những lá trà vào trong bông sen. Buổi
sáng tinh sương hôm sau bơì ra hồ sen để lấy những lá trà đó pha
uống ngay trong sương sớm. Bây giờ chúng ta bận rộn quá. Chúng
ta không làm những chuyện mà ngày xưa ông cha chúng ta làm. Ngày
xưa khi đi ăn giỗ thì tới giờ nào cũng được, tới giờ nào trong
ngày thì cũng có cỗ để ăn. Bây giờ phải tới đúng giờ, nếu không
thì không được. Ngày xưa chúng ta đi bộ la cà, chín giờ sáng
cũng có cỗ, năm giờ chiều cũng có cỗ ăn, ăn xong đi ra hàng rào
bẻ một cái que để xỉa răng rồi tản bộ đi về nhà.
Ngày
xưa chúng ta nghèo hơn mà chúng ta có hạnh phúc. Bây giờ ta giàu
hơn mà ta không có hạnh phúc. Chúng ta không có thì giờ để
thương yêu, để chăm sóc, để sống sâu sắc trong giây phút hiện
tại.
Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng
Hai
sư cô không có tiêu thụ nhiều. Muối dưa tức là sống đơn giản
thôi. Nếu chúng ta không sống đơn giản thì chúng ta phải làm
quần quật cả ngày. Làm quần quật suốt ngày thì đâu có thì giờ để
thương yêu, để sống. Có được một cái Job, một công việc thì muốn
thêm một cái nữa để có đồng ra đồng vào. Có một xe hơi thì nói
một không đủ, phải có hai chiếc mới đủ. Lnòg tham của chúng ta
không có đáy. Chúng ta không khôngcó khả năng sống nếp sống đơn
giản, sống cho đơn giản để có thì giờ để sống cho sâu sắc. Đó là
phương châm của một nền văn hóa mới. Không phải là chúng ta phải
chọn lực giữa sự làm giàu và nếp sống sâu sắc. Trong văn hóa của
chúng ta trong đó có nhiều yếu tố mà ta có thể thừa hưởng được.
Chúng ta không nên đo hạnh phúc bằng những lợi nhuận, bằng sự
phát triển, nói rằng trong quí này phải đạt tới 11%, 12% của sự
phát triển tại vì hạnh phúc được đo bằng những tiêu chuẩn khác.
Chúng
tôi là những người tu. Chúng tôi thực chúng những điều này.
Chúng tôi tới từ những quốc gia, những bối cảnh khác nhau. Có
nhiều người trong chúng tôi đã tốt nghiệp đại học rồi, đã làm
luật sư, làm bác sĩ rồi, nhưng chúng tôi bỏ để đi tu. Tại chúng
tôi muốn có hạnh phúc nhiều hơn nên đi tu. Chúng tôi muốn giúp
được nhiều người hơn nên chúng tôi đi tu. Chúng tôi đã và đang
làm được chuyện đó. Trong chúng tôi không ai có một trương mục
ngân hàng riêng, không ai có tiền, có xe riêng, không ai có điện
thoại cầm tay riêng. Tất cả đều thuộc về chùa hết. Khi sử dụng
thì sử dụng của chùa, không ai có điện thư riêng.
Hai
năm trước nói chuyện trong học viện Hồ Chí Minh chúng tôi có
nhắc điều đó. Chúng tôi nói rằng chúng tôi là cộng sản thứ
thiệt, chính hiệu con nai. Chúng tôi có rất nhiều tình huynh đệ,
rất nhiều nụ cười. Chúng tôi không có những điều kiện mà người
ta nghĩ là thiết yếu cho hạnh phúc nhưng chúng tôi rất hạnh phúc
vì trong đời sống hằng ngày chúng tôi có khả năng xử lý những
khó khăn của con người. Chúng tôi chế tác tình huynh đệ, chúng
tôi cắt đứt những tham đắm, giận hờn. Chúng tôi thực tập thương
yêu, chấp nhận, và chúng tôi có đủ hạnh phúc, có đủ tình thương
yêu, tình huynh đệ, đủ nụ cười, ánh mắt để thương yêu. Vì vậy
chúng tôi có đủ thì giờ tổ chức những khóa tu hướng dẫn những
người ở ngoài đời để họ cũng làm được như chúng tôi.
Có
một thầy ngày xưa làm kiến trúc sư, theo một khóa tu thì bỏ
nghề, đi tu, và nói rằng : “ Ai dè trong đạo Phật người ta cũng
sáng tạo ra không gian để người ta sống.” Kiến trúc sư sáng tạo
ra không gian để người ta sống thoải mái. Ai dè trong đạo Phật
ta cũng làm như vậy mà không cần tới vôi, gạch và xi măng. Tự do
là một không gian rất cần. Khi yêu thương thì mình không nên áp
đặt cái ý, cái cách của mình lên người mình yêu. Mình phải cho
người đó có đủ không gian ở trong trái tim và ở ngoài. Theo đạo
Phật món quà quí giá mà mình có thể tặng cho người thương của
mình là là không gian, là tự do. Vị kiến trúc sư đó đã bỏ nghề
của mình để thành thầy tu vì ông thấy rằng tu cũng là kiến thiết
không gian cho mình và cho những người khác
Một nhà chung chạ sớm trưa
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng
Một
đời sống đơn giản thôi, không cần phải giàu quá. Nó cho mình
nhiều thời gian và không gian để sống, để chăm sóc, thương yêu.
Nếu anh bận rộn thì thì giờ đâu để thương yêu. Nếu anh không có
mặt thì làm sao để thương yêu. Thương yêu trước hết là phải có
mặt cho người mình thương, có phải vậy không ? Có mặt tức là
thân với tâm hợp nhất, có mặt trong giây phút hiện tại. Có một
cô bé 12 tuổi. Ông bố nói với cô : “Ngày mai là sinh nhật của
con. Con muốn gì ? bố mua .” Cô bé không biết nói gì hết, vì bố
mình rất giàu, muốn mua gì cũng có hết, nhưng cái cô thiếu là
sự có mặt của bố. Bố là nhà doanh thương. Bố không có mặt cho bố
nữa chứ đừng nói là có mặt cho gia đình và cho cô. Sau khi suy
nghĩ thì cô nói: “ Con muốn bố !”. Mình có bố mà như không có vì
bố hoàn toàn bị thu hút bởi doanh nghiệp của bố.
Đây
là một tiếng chuông mà chúng ta phải đặt thành câu hỏi. Cái mà
chúng ta cần là tiền hay là hạnh phúc?. Cái chúng ta cần là uy
quyền hay là hạnh phúc?. Cái chúng ta cần là danh hay là hạnh
phúc?. Chúng ta thấy rằng cái chúng ta cần là hạnh phúc. Muốn có
hạnh phúc thì phải có thì giờ để sống, để thương yêu. Muốn có
thì giờ thì phải có một nếp sống đơn giản hơn. Có nếp sống đơn
giản để có thể bảo hộ được môi trường, bảo hộ được trái đất, để
có thể có tương lai cho con cháu mình. Đó là giải pháp, là con
đường duy nhất.
Trong
quá trình phát triển của một đất nước, một dân tộc, ta phải thấy
được điều đó. Chúng ta tiến bộ, nhưng làm thế nào chúng ta có
thể giữ gìn đưọc trái đất này, môi trường này cho con cháu chúng
ta. Chúng ta đừng có đơn giản nghĩ rằng hể có tiền nhiều, quyền
lực nhiều, danh vọng hiều là có hạnh phúc. Câu hỏi đó cần phải
được đặt ra. Cúng ta sống như thế nào để vừa có hạnh phúc vừa có
được tương lai cho con cháu chúng ta. Đó là câu hỏi rất lớn,
đứng về phương diện văn hóa mà nói. Trong viễn tượng toàn cầu
hóa chúng ta phải giải quyết cho được câu hỏi này : Làm thế nào
để đi tới được, đánh bại được nghèo đói, ngu dốt mà chúng ta
cũng có được thì giờ sống cho đàng hoàng, cho sâu sắc để thương
yêu và chăm sóc những người thương của chúng ta. Muối dưa chay
lòng có nghĩa là sống một đời sống lành mạnh nhưng đơn giản
không cần phải có quá nhiều tiền bạc. Tôi xin nhắc lại” một nhà
sum họp sớm trưa “ là trân quí sự có mặt của người thương. “ Gió
trăng mát mặt “ là phải biết sự mầu nhiệm của sự sống trong
phút giây hiện tại. “ Muối dưa chay lòng” là phải sống đơn giản
trở lại, đừng nghĩ rằng phải có nhiều tiền mới có hạnh phúc. Đó
là một nhân sinh quan rất quan trọng. Nó phải nằm trong viễn
tượng về tương lai của chúng ta. Chúng ta có những yếu tố của
tuệ giác như vậy trong nền văn hóa truyền thống. Chúng ta không
cần phải đi tìm ở một ý thức hệ nào xa xôi từ Tây phương đi tới.
Ngay trong nếp sống văn hóa của chúng ta đã có những yếu tố của
tuệ giác. Ngay trong truyện Kiều ta cũng có những yếu tố của tuệ
giác như thế.
Điều
kiện hạnh phúc thứ ba : hiến tặng cho nhau không gian
Bốn bề bát ngát mênh mông.
Chúng
ta có không gian rất nhiều. Nếu sống mà không có tự do, không có
không gian, nhất là không gian trong lòng thì chúng ta làm gì có
hạnh phúc. Trong Kinh có nói đến Đức Phật như một vầng trăng,
một vầng trăng đi qua không gian mênh mông. Nếu vầng trăng đó
đẹp là tại vì chung quanh nó có quá nhiều không gian. Nếu chúng
ta cắm hoa thì theo nghệ thuật cắm hoa ta biết là ta không cần
nhiều hoa. Mỗi bông hoa phải có không gian chung quanh đầy đủ
để có thể tỏa chiếu cái đẹp của mình. Nếu chúng ta cầm một bó
hoa rất đầy cắm vào bình mà không cho nó không gian chung quanh
thì nó không tỏa chiếu được nét đẹp của nó.
Chúng
ta cũng vậy, mỗi người chúng ta là một bông hoa. Chúng ta phải
có không gian chung quanh ta và không gian trong trái tim. Nếu
mình là người yêu thì phải hiến tặng cho người yêu của mình
không gian tức là tự do. Nếu mình áp đặt suy tư của mình, cái
mình muốn lên người yêu của mình thì mình làm cho người yêu chết
dần chết mòn. Vì vậy tặng phẩm tốt nhất mà một người có thể tặng
cho ngườ yêu là tự do, là không gian trong trái tim.
Bốn bề bát ngát mênh mông.
Triều
dâng hôm sớm mây lồng trước sau
Điều kiện hạnh phúc thứ tư : có thì giờ thưởng
thức cái đẹp có sẵn đó của thiên nhiên
Triều
dâng hôm sớm là nhạc. Sáng nào cũng nghe thủy triều, tối nào
cũng nghe thủy triều. Đó là bản nhạc hào hùng của đất trời mà
chúng ta có thì giờ để nghe không ?. Cái đẹp của thiên nhiên có
đó, âm nhạc, hội họa của thiên nhiên có sẵn đó. Chúng ta có thể
thưởng thức được, có thể nhìn ngắm được nếu chúng ta có thì giờ.
Vấn đề là chúng ta có thì giờ không ?. Triều dâng hôm sớm là
nhạc. Mây lồng trước sau là họa. Buổi sáng trước am có rất nhiều
mây. Mây đủ màu sắc. Bức họa đó một giờ đồng hồ sau thì được
thay bằng một bức họa khác. Những đám mây có màu sắc khác. Cứ
ngồi đó mà ngắm. Về nhạc cũng như về họa đã có đầy đủ trong phút
giây hiện tại. Vấn đề là có thì giờ không để thưởng thức âm nhạc
và hội họa đó.
Yếu
tố hạnh phúc thứ năm: chuyển hóa những khổ đau
Nạn xưa trút sạch làu làu
đó
yếu tố hạnh phúc thứ năm của hai chị em tu với nhau. Những oan
khổ, uất ức, đen tối của ngày xưa giờ đã qua rồi. Đất nước ta đã
trải qua bao nhiêu giai đoạn đen tối. Đã có 6, 7 triệu người
chết trong bao nhiêu năm chiến tranh. Có các chiến sĩ đã từng
chết oai hùng cho nền độc lập tự do của đất nước. Nhưng có biết
bao nhiêu người chết một cách oan khuất trong tối tăm. Những nỗi
khổ niềm đau đó chưa bao giờ được nói lên, được công nhận. Trong
chuyến về kỳ này chúng tôi được thủ tướng chánh phủ cho phép mở
ra 3 trai đàn chẩn tế giải oan để cầu nguyện cho 6, 7 triệu đồng
bào đã chết. Chúng tôi vừa mới hoàn tất trai đàn chẩn tế thứ 3
tại Sóc Sơn. Tất cả các Phật tử xuất gia hay tại gia đã tới với
một trái tim rất thuần khiết để đóng góp vào việc kiến tạo trai
đàn và cầu nguyện cho những người đã khuất trong đó có những
người vượt biên bằng đường biển và đã chết ngoài biển.
Trong
trai đàn chẩn tế tổ chức tại Chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn, tôi nhận
ra có rất nhiều người công giáo và những người không phải đạo
Phật cũng tới. Chúng ta đã tới với nhau như những người ruột
thịt. Chúng ta đã cầu nguyện cho tất cả đồng bào của chúng ta
không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, đảng phái. Chúng ta cầu
nguyện cho những người cộng sản và cầu nguyện cho những người
chống cộng, họ đều là đồng bào của chúng ta. Vì vậy trai đàn
được gọi là trai đàn bình đẳng giải oan không phân biệt tôn
giáo, chủng tộc, chính trị. Tôi đã thấy mọi người đến trai đàn
với một trái tim thuần khiết chỉ có mục đích là cầu nguyện cho
người thương đã chết.
Nếu
chúng ta có nỗi khổ niềm đau đè nén tận đáy lòng. Nó vẫn nằm đó
và chúng ta có khi hành xử khắc nghiệt, thô bạo đối với người
thương của chúng ta tại vì những nỗi khổ niềm đau đó chưa được
giải tỏa. Chúng ta đè nén nó bằng những lo lắng, bận rộn cho
tương lai, nhưng nó vẫn còn đó. Theo nguyên tắc của khoa tâm lý
trị liệu thì phải làm sao để những nỗi khổ niềm đau từ chiều sâu
của tiềm thức trồi lên mặt của ý thức. Phải công nhận, ôm ấp,
chuyển hóa nó, nếu không thì nó thúc đẩy mình cư xử một cách bạo
động, không dễ thương với chính những nguời thương yêu của mình.
Có nhiều khi mình la con mắng cháu mà mình không biết tại sao mà
mình bạo động như thế? Tại vì những nỗi khổ niềm đau có tính
cách tập thể đó vẫn còn nằm trong trái tim.
Đại
trai đàn chẩn tế giải oan là một cơ hội để ta thực tập tâm lý
trị liệu tập thể đưa nỗi khổ niềm đau đó lên, công nhận nó, ôm
ấp lấy nó, cầu nguyện và chuyển hóa nó. Như vậy ta sẽ không trao
truyền những nỗi khổ niềm đau đó lại cho con cháu chúng ta. Nếu
không thực tập thì ta sẽ trao truyền lại những nỗi khổ niềm đau
đó, khối nội kết đó cho con cháu chúng ta. Sau này chúng nó có
thể sẽ đối xử với người thân một cách bạo động, thô bạo. Chúng
nó sẽ không hiểu tại sao đã đối xử bạo động như vậy với người
thương ?, là tại vì những nỗi khổ niềm đau đó chưa được chuyển
hóa.
Trong
Trai đàn chẩn tế tại Chùa Vĩnh Nghiêm tôi thấy có nhiều người
tới cầu nguyện hết lòng, không phân biết, kỳ thị và trái tim
rất là thuần khiết, làm Phật sự tinh khiết, không ai làm vì
danh vì lợi. Ai cũng làm vì động cơ của tình thương, thương đồng
bào và người thương của mình. Có rất nhiều người đã khóc. Trai
đàn chẩn tế Vĩnh Nghiêm có cả vạn người đến tham dự. Trong hai
Trai đàn chẩn tế tại Vĩnh Nghiêm và Quốc tự Diệu Đế có trên một
trăm ngàn tên xin được cầu siêu gửi đến bằng internet hay bằng
thư từ rất nhiều. Chúng tôi đã chứng kiến có rất nhiều khóc ở
trong trai đàn chẩn tế vì mình có cơ hội nâng niu, ôm ấp, chuyển
hóa những nỗi khổ niềm đau của mình một cách trực tiếp, chính
thức. Những giọt nước mắt đổ xuống có giá trị trị liệu rất lớn.
Sau khi khóc và cầu nguyện thì tất cả cảm thấy rất nhẹ.
Sau
trai đàn giải oan thì có những trận mưa đổ xuống. Cảm động luôn
đến cả trời đất ! . Trai đàn chẩn tế tại Bà Rịa cũng vậy, sau
ngày trai đàn thì mưa xuống. Tại Trai đàn chẩn tế ở Huế cũng
vậy. Ngay ngày thứ nhất sau khi phóng đăng và phóng sinh thì mưa
xuống. Cảm động luôn đến trời đất !. Chúng tôi cảm thấy rất rõ
là các cô hồn, hương linh của đồng bào đã về đông đủ để dự lễ
đoàn tụ với những người sống.
Tôi
đi từng bước chân rất là chánh niệm. Mỗi bước chân “ Thở vào,
con đã về, con đã tới. Con không đi hoang, đi vòng nữa. Con đã
về với quê hương tâm linh, quê hương tổ quốc. Con đã về cho các
hương linh, con đã về cho 7 triệu người chết trong cuộc chiến.
Con đã về, con đã tới cho 82 triệu đồng bào còn sống. Trong
những đang còn sống với con cũng còn có những người đang đi
vòng, chưa về chưa tới được quê hương tâm linh đích thực của
mình.”.
Từng
bước chân, từng hơi thở, chúng tôi đã cầu nguyện như vậy. Chúng
tôi thấy hiệu lực của sự chuyển hóa rất lớn.
Khi
chúng tôi về quê hương kỳ này thì có một sư cô đã xin cụ Nguyễn
Du một quẻ. Chúng tôi không biết ba trai đàn chẩn tế này có được
thành công hay không ?. Đây là một Phật sự rất khó khăn. Có
những người bên cực tả chống đối. Có những người bên cực hữu
chống đối. Có người nói “Có oan gì đâu mà giải ?”. Kỳ thực là
một cuộc chiến tranh như thế làm sao mà không có oan được. Trong
truyện Kiều, sau 15 năm lưu lạc, khi nghe Kiều nhảy xuống sông
tự tử thì gia đình Kiều lập một trai đàn giải oan cho Kiều ngay
trên bờ sông Tiền Đường, vì họ tưởng rằng Kiều đã chết rồi.
Chiêu hồn thiết vị lễ thường
Giải oan
dựng một đàn tràng bên sông
Chiêu
hồn là gọi hồn về. Thiết vị là lập một bài vị. Lễ thường là theo
truyền thống của mình khi có người chết là mình lập một trai
đàn.
Giải oan lập một đàn tràng bên sông
Chữ
giải oan đó nằm trong kho tàng văn hóa của mình. Bên sông nào ?
Chúng ta lập một trai đàn bên sông Sài Gòn, bên sông Hương và
bên sông Hồng để cầu nguyện cho những đồng bào chúng ta đã chết
trong cuộc chiến tranh này.
Tôi
muốn chia sẻ với quí vị những lời khấn nguyện chúng tôi đọc
trong trai đàn đó.
Nạn xưa trút sạch làu làu
Đất
nước chúng ta đã đi qua một cơn ác mộng. Bây giờ chúng ta có một
vận hội mới. Chúng ta tới với nhau, ôm lấy nhau như những đồng
bào ruột thịt. Không còn kỳ thị Nam Bắc, cộng sản hay không cộng
sản thì chúng ta mới đối phó được với tình trạng bây giờ. Ngày
xưa vua A Dục sau khi đã thống nhất được toàn cõi Ấn độ biết
rằng mình đã gây ra những oan ức, vua bắt đầu tu học. Vua tiếp
nhận 5 giới và 3 qui. Vua đã thực tập trồng cây đào giếng, làm
công việc từ thiện và yểm trợ cho các tông phái ở Ấn độ. Cuối
cùng vua đã thống nhất được lòng người. Chúng ta đã thống nhất
được được đất nước. Chúng ta đang đi trên con đường thống nhất
lòng người. Vì vậy trai đàn chẩn tế là một phương tiện để chúng
ta tới được với nhau trong nghĩa đồng bào ruột thịt để chữa lành
những thương tích. Người Bắc tới gần người Nam. Người Nam tới
gần người Bắc. Người trong nước tới gần người ngoài nước. Người
ngoài nước tới gần người trong nước. Đây là những lời khấn
nguyện của người sống nói với ngươì chết :
Kính thưa liệt vị hương linh
Quý vị là cha chúng tôi, là chồng chúng tôi, là anh trai chúng
tôi, là em trai chúng tôi, là con trai chúng tôi. Quý vị cũng là
mẹ chúng tôi, là vợ chúng tôi, là chị gái chúng tôi, là em gái
chúng tôi, là con gái chúng tôi.
Trong cơn binh lửa, trong cảnh tao loạn, quý vị đã bỏ lại hình
hài quý giá của quý vị mà đi. Chúng tôi đã đánh mất quý vị. Quý
vị hoặc đã chiến đấu một cách dũng cảm cho đất nước và đã chết
hào hùng không hề thương tiếc thân mạng. Chúng tôi rất hãnh diện
về quý vị. Nhưng quý vị cũng có thể đã bỏ mình trong những hoàn
cảnh cực kỳ bi thương. Nỗi oan khổ không thể nào nói lên được.
Trong rừng sâu, trên biển cả, nơi chốn tù đày, chết vì bom đạn
hoặc vì bị kiệt sức, hoặc vì bị bức bách, hãm hiếp rồi bị sát
hại mà không có phương tiện chống cự lại.
Có
biết bao nhiêu quý vị đã ngã quỵ mà nắm xương tàn không biết đã
được chôn vùi ở đâu. Nhnữg tai ương mà đất nước và dân tộc của
chúng ta đã phải gánh chịu trong bao nhiêu năm tranh đấu cho độc
lập, cho tự do thì chính quý vị là người đã phải gánh chịu nhiều
nhất.
Chúng tôi, những người thân thuộc và đồng bào của quý vị, hôm
nay tới đây thắp hương tưởng niệm quý vị hoặc thiết lập bàn thờ
cho quý vị trước hiên nhà. Trong chúng tôi cũng có những người
cũng còn tiếp tục gánh chịu oan khổ. Nhưng may thay cơn ác mộng
đã qua rồi, đất nước đã được hòa bình. Dân tộc đang có cơ hội
kiến thiết trở lại. Nhờ phúc đức tổ tiên chúng tôi hôm nay mới
có cơ hội đến với nhau chính thức. Chắp tay nguyện cầu Tam Bảo
nhờ pháp lực gia trì thỉnh cầu tất cả liệt vị trở về đoàn tụ
cùng nhau, cầu nguyện để giải trừ nghiệp cũ, mở ra một hội mới,
nhìn nhận nhau, ôm lấy nhau, thương lấy nhau như đồng bào ruột
thịt, không còn phân biệt Bắc Nam, trai gái, già trẻ, chủng tộc,
tôn giáo, đảng phái chính trị và ý thức hệ.
Tất cả chúng ta đều là đồng bào của nhau, gặp vận nước rủi ro
trên đường tranh đấu cho độc lập tự do, bị dồn vào thế phải đối
lập nhau. Vì tự vệ mà phải chống đối nhau. Nhưng phúc đức tổ
tiên để lại vẫn còn cho nên hôm nay chúng ta mới được trở về lại
với nhau, nhìn nhận nhau như đứa con một nhà. Mình hứa với nhau
là phải học cho thuộc cái bài học đau thương trong quá khứ.
Nguyện từ nay về sau không để cho đất nước bị chia cắt một lần
nào nữa. Nguyện từ nay về sau khi có khó khăn về nội bộ sẽ không
nhờ một thứ thế lực ngoại bang nào can thiệp. Nguyện từ nay về
sau sẽ không khởi sự một cuộc chiến tranh ý thức hệ nào nữa. Từ
nay về sau sẽ không sử dụng vũ khí bên ngoài để tranh đấu với
nhau nữa. Nguyện từ nay về sau sẽ nổ lực xây dựng một xã hội
thực sự dân chủ để có thể giải quyết mọi bất đồng bằng những
phương thức hòa bình dân chủ mà không phải xử dụng đến những
phương tiện bạo động đến đồng bào.
Lạy chư vị tổ tiên huyết thống và chư vị tổ tiên tâm linh chứng
minh. Trước mặt quý ngài chúng con xin kính cẩn phát nguyện như
thế và chúng con biết rằng một phen đã phát nguyện như thế thì
mọi oan ức, mọi khổ đau sẽ được hoàn toàn giải tỏa và những vết
thương đã hằn sâu trong lòng chúng con sẽ được bắt đầu chữa
lành.
Hôm nay Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan được thành lập.
Mọi nhà đều có thiết lập bàn thờ cầu nguyện. Chúng con ngưỡng
nguyện ơn trên Tam Bảo độ thoát cho tất cả mọi hương linh để tất
cả được nương vào pháp lực vô song mà chuyển hóa siêu thăng.
Chúng tôi và các con cháu nguyện sẽ lên đường để tiếp tục chí
hướng của liệt vị hương linh. Chúng tôi nguyện mang quý vị trong
trái tim để đi về hướng tình huynh đệ và nghĩa đồng bào và luôn
luôn nhớ rằng bầu và bí đều có thể leo chung một giàn, gà một mẹ
đừng bôi mặt đá nhau, và tuệ giác ấy của tổ tiên sẽ soi đường
chỉ lối cho chúng ta bây giờ và mãi mãi.
Cho
đất nước đi lên
Vì
chúng tôi khởi hành vào ngày mồng bốn tết trong chuyến về lần
thứ hai nên ngày mồng một tết chúng tôi xin một quẻ Kiều. Một sư
cô thay mặt tất cả các tăng thân xin một quẻ thì cụ Nguyễn Du
ban cho như thế này ;
Người đâu hiếu nghĩa đủ dường
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây
Chúng
tôi mới tự đoán như thế này:
Người
Việt chúng ta ai cũng có hạt giống của hiếu và của nghĩa. Chính
cái hiếu và cái nghĩa làm nền tảng tinh thần để xây dựng nên đất
nước và dân tộc này. Chúng ta có hiếu và có nghĩa, chúng ta phải
sống như thế nào để mỗi ngày hạt giống hiếu nghĩa được tưới tẩm
cho lớn lên. Khi chúng ta nghi ngờ nhau, giận hờn nhau làm khổ
nhau thì hạt giống hiếu nghĩa trong ta bé lại. Vì vậy sự tu tập
trong đời sống hằng ngày rất là quan trọng. Dòng Tào Khê, nếp
sống tâm linh trong mỗi người chúng ta phải được nuôi dưỡng. Nếu
chúng ta có một nếp sống tâm linh trong đời sống hằng ngày thì
chúng ta sẽ không tự đánh mất chính mình và chúng ta sẽ có cơ
hội để tưới tẩm hạt giống của ân nghĩa, của hiếu để trong ta.
Khi năng lượng của hiếu nghĩa trong ta lớn mạnh thì chúng ta có
thể nhìn nhận nhau như anh em trong một nhà, như đồng bào ruột
thịt. Chúng ta có một súc mạnh rất lớn, có thể chống lại được
bất cứ âm mưu xâm chiếm nào của Bắc phương hay của Tây phương.
Nếu ta thực tập được như thế, tưới tẩm những hạt giống của hiếu
và nghĩa thì ta sẽ đoàn kết thành một khối. Trong tình huynh đệ,
nghĩa đồng bào đó thì những khổ đau oan ức thuộc về quá khứ. Câu
thứ hai nói rất rõ :
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây.
Trong
bao nhiêu năm chúng ta đã gánh chịu cái thân phận của Thúy Kiều.
Thúy Kiều đã từng đi với Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Thúc Sinh, Từ
Hải. Chúng ta ngày xưa bắt buộc phải đi với Tàu, Pháp, Nhật, Mỹ
và chúng ta đã khổ nỗi khổ của Thúy Kiều. Bây giờ cơn ác mộng đã
qua rồi, kiếp đoạn trường của ta chấm dứt vì chúng ta có cơ hội
tưới tẩm hạt giống của hiếu và nghĩa. Cụ Nguyễn Du đã cho một
quẻ đại cát :
Người đâu hiếu nghĩa đủ dường
Này thôi
hết kiếp đoạn trường là đây
Chúng
ta có thể tin vào tương lai của đất nưóc, của dân tộc.
Xin
cám ơn quí vị.
---------------------------------------------
Phát
biểu
của ông
Nguyễn Phú Bình, thứ trưởng bộ ngoại giao, chủ tịch ủy ban người
Việt Nam tại nước ngoài :
Kính
thưa Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai, kính thưa
quí vị,
Chúng
ta đã có một buổi chiều hết sức có ý nghĩa. Ngày hôm nay chúng
tôi rất vui mừng được nhắc lại cách đây hai năm cũng tại địa
điểm này chúng ta đã đưọc đón thiền sư thích Nh1ât Hạnh và tăng
thân LàngMai đến thăm trong chuyến đi lần thứ nhất. Khi đó
chúnmg ta cũng có một cuộc nói chuyện, trao đổi, chủ yếu là lắng
nghe ý kiến của thiền sư về rất nhiều vấn đề mà chúng tôi bây
giờ vẫn còn nhớ. Ngày hôm nay chúng ta cũng lại được nghe một
buổi nói chuyện của thiền sư về văn hóa mà văn hóa cũng gắn liền
với xã hội, đất nước, gắn liền với vận mệnh của dân tộc chúng
ta. Chúng tôi rất xúc động thấy đưọc tấm lòng, sự uyên bác, sự
sâu sắc trong bài pháp thoại của thiền sư, nhưng chúng nghĩ cao
hơn cả là tấm lòng.
Chúng
ta đều nghĩ rằng ở trong mỗi con người, mỗi trái tim của chúng
ta đều có Đức Phật mặc dù chúng ta có thể theo tôn giáo này hay
tôn giáo khác, ta có thể giữ cương vị này hay cương vị khác.
Tôi cho rằng trái tim mỗi người trong chúng ta đều có tâm đức,
sự hướng thiện và chúng ta đều mong muốn có tình huynh đệ, có
tình cảm sâu sắc giữa con người với con người. Chúng tôi nhận
thấy những điều mà thiền sư vùa nêu ra rất tương đồng với những
gì mà chúng ta đang theo đuổi. Chúng ta đang muốn xây dựng một
xã hội vì tất cả những con người, một xã hội mà trong đó chúng
ta bỏ qua tất cả những gì xẩy ra trong quá khứ, với tinh thần
đại đoàn kết dân tộc để chúng ta xây dựng một đất nước mạnh
giàu, để dân tộc chúng ta vươn lên.Chúng ta tận dụng thời gian
làm sao để đuổi kịp các nước khác sau mấy chục năm bị cảnh chiến
tranh, nhưng cũng chỉ vì sự nghiệp giải phóng đất nước.
Hôm
nay ở đây, rất tiếc là chúng ta không có nhiều thời gian. Chắc
là rất nhiều quí vị ở đây cũng có rất nhiều câu hỏi hay muốn
thiền sư nói chuyện thêm về khía cạnh này hay khía cạnh khác cả
những vấn đề về đạo Phật, văn hóa. Một điều mà chúng tôi rất là
cảm động là sau mấy chục năm xa đất nước mà trong con ngưòi,
trong trái tim thiền sư vẫn chứa đầy tâm hồn Việt, văn hóa Việt.
Có lẽ
tất cả chúng ta ở đây không ít thì nhiều đều cũng có đọc vài câu
Kiều. Nhưng có lẽ không nắm được cái sâu sắc như thiền sư đã
phân tích cho chúng ta. Chúng ta thấy truyện Kiều rất là gần gũi
nhưng hôm nay chúng ta cũng thấy rất mới lạ qua sự phân tích,
cách nói của thiền sư về tuệ giác của đạo Phật trong truyện
Kiều. Nhưng chúng ta cũng thấy rất nhiều triết lý và những vấn
đề khác mà thiền sư đề cập đến như tình người. Làm thế nào để
nghĩ đến vấn đề đó trong một xã hội phức tạp, nhất là vào lúc
này, khi chúng ta hội nhập với quốc tế. Có bao nhiều vấn đề mới
mà khi vào đấy chúng ta phải tiến với các nước khác. Trong nước
ta cũng có những cuộc tranh đua, tuy là vì những mục tiêu chính
đáng nhưng cũng khiến cho chúng ta do vì rất là bận bịu như thế
mà thiếu sót, không chiếu cố đến.
Hôm
nay sự phát biểu và phân tích của thiền sư cho chúng ta thấy
rằng chúng ta có thể làm được. Chúng ta vừa gắng sức để xây dựng
một xã hội mới nhưng mà xã hội này không phải chỉ chú trọng đến
vật chất mà còn có văn hóa, tinh thần và trong đó có cả tâm
linh. Buổi nói chuyện ngày hôm nay chúng tôi ghi nhận là chúng
tôi có rất nhiều cảm xúc không thể nào nói hết được.
Có
một điều nữa mà chúng tôi muốn nhắc đến. Đây là lần thứ hai mà
thiền sư và tăng thân Làng Mai về thăm đất nước và có những hoạt
động rất bổ ích, sôi nổi khắp cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Ngoài
những cuộc thăm viếng, những bài giảng ở nhiều địa điểm khác
nhau thì trai đàn chẩn tế được tiến hành ở 3 miền là một hoạt
động rất có ích. Cùng với trung ương và giáo hội Phật giáo Việt
Nam quí vị đã tạo được sự thành công rất lớn trong việc tổ chức
những trai đàn để chữa lành những nỗi đau của đất nước. Hiện nay
chúng ta còn những nỗi đau, những vết thương của chiến tranh mà
chúng ta đang cố gắng, nhà nước cũng đang cố gắng cùng toàn dân
xóa bỏ.
Hôm
nay chúng ta nghe những điều thiền sư vừa nói và nhắc lại những
phát biểu hoặc những nội dung mà thiền sư nêu trong bài khấn
nguyện trong trai đàn tại 3 miền thì chúng tôi cho rằng rất có ý
nghĩa giúp cho đất nước chúng ta vượt qua những khó khăn của quá
khứ trước đây và chúng ta tiến tới một xã hội mà con người đến
với nhau, thương yêu nhau.
Cúng
tôi rất vui mừng thấy rằng sau lần trở về lần trước thi thiền sư
rất mạnh khỏe, thông tuệ, những lời nói của thền sư rất khúc
chiết, đơn giản, nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc. Chúng tôi vẫn thấy
được điều đó. Chúng tôi cũng vui mừng thấy được các vị tăng thân
Làng Mai ngồi đây, không phân biệt quốc tịch nào cả, người gốc
Việt rất nhiều nhưng cũng có nhiều vị từ các quốc tịch khác hôm
nay cùng về đây với đất nước Việt Nam. Chúng tôi nghĩ đây là một
biểu hiện tốt, một biểu hiện rất rõ ràng của sự hội nhập, mở cửa
của đất nước chúng ta.
Chúng
tôi rất mong thiền sư giữ gìn sức khỏe và tiếp tục có những hoạt
động rất hữu ích. Chúng tôi rất mong muốn được đón thiền sư về
thăm Việt Nam vào những dịp khác nữa trong tương lai, rất mong
được đón tất cả quí vị tăng thân Làng Mai không phân biệt quốc
tịch nào về thăm Việt Nam. Chúng tôi coi đây là một gắn kết giữa
trong và ngoài. Thưa thiền sư và quí vị, chúng tôi ở bộ ngoại
giao, thuộc ủy ban người Việt tại nước ngoài làm nhiệm vụ làm
sao gắn kết được đồng bào trong nước và đồng bào ngoài nước.
Chúng tôi thực hiện phương châm của đảng và nhà nước coi người
việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân
tộc, là nguồn lực của dân tộc. Chíng vì vậy mà sự đóng góp qua
lần về nước này của thiền sư và tăng thân Làng Mai cũng như lần
trước là một sự đóng góp thật là to lớn cho sự nghiệp của đất
nước, nhất là sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc và tất cả những
người thuộc những tôn giáo khác nhau.
Quá
khứ có thể có nhiều khúc mắc, có những vấn đề khác như là quốc
tịch khác nhau kể cả những người ra nước ngoài, ra đi vì những
lý do khác nhau nhưng tất cả đều là đồng bào của một dân tộc.
Bây giờ mở rộng hơn nữa là chúng ta có nhiều anh em có những
quốc tịch khác, là nhân dân của nhiều quốc gia khác hôm nay về
với chúng ta trong một làn sóng mà có rất nhiều người nước ngoàì
đến Việt Nam. Hôm nay chúng tôi một lần nữa xin hết sức biết ơn
thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai đã dành thì giờ
quí báu để đến và cho chúng tôi những bài phát biểu, những lơì
lẽ triết lý cũng như tình cảm hết sức quí báu.
Chúng
tôi xin chúc tất cả những người ở đây, với một tinh thần mới,
một tấm lòng mới, cởi mở, hòa đồng với nhau. Chúng ta có thể có
tương lai rất tốt đẹp như thiền sư nói, rất đơn giản, chúng ta
tận dụng những hạnh phúc chúng ta đang có để tạo dựng một hạnh
phúc mới với tinh thần hòa đồng và cởi mở như thiền sư đã nhắc
nhở.
Một
lần nửa xin cám ơn thiền sư và các vị tăng thân Làng Mai. Cám ơn
tất cả các vị đã đến tham dự, lắng nghe và chia sẻ những điều
thiền sư vừa nói với chúng ta. Xin cám ơn.
|