PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

. . .  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (. . .  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (. . .  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

 Nghệ thuật sống thiền :


Sống là phải có mặt thật sự trong phút giây hiện tại,
không tự giam mình trong ngục tù của quá khứ và của tương lai

  • Tháng V 2007 - Chân An Tịnh và Chân Giác Lưu phiên tả & biên tập :
    Pháp thoại
    của Sư ông Làng Mai ngày 23 - IV - 2007
    cho đồng bào nười việt tại nước ngoài - Hanoi
    Â
    m thanh MP3 : 
    Phần 1 (17.6MB)  Phần 2 (13MB) 
     

Lắng nghe để hiểu, nhìn kỹ để thương

Tào Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước Tĩnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Cành Dương rưới Cam lộ
Làm sống dậy mùa Xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng

Đây là bài ca ngợi Bồ Tát Quan Thế Âm dịch ra từ chữ Hán. Tào Khê là một dòng suối tâm linh, một dòng thiền gọi là Thiền Tào Khê. Dòng Tào Khê này đã nuôi dưỡng dân tộc ta không biết bao nhiêu là thế hệ. Chúng ta ai cũng cần có một chiều hưóng tâm linh trong đời sống hằng ngày. Chúng ta sống đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, tình cảm, nhưng ai trong chúng ta cũng cần có đời sống tâm linh. Nếu có chiều hướng tâm linh thì ta có thể tháo gỡ được những khó khăn, bức xúc, tuyệt vọng, những mâu thuẩn trong lòng. Vì vậy tham dự và thừa hưởng được sự có mặt của dòng Tào Khê rất quan trọng.

Thiền đã là một chất liệu nuôi dưỡng dân tộc ta từ lâu. Chúng ta có thiền sư Khương Tăng Hội xuất hiện vào vào thượng bán thế kỷ thứ ba. Thiền sư Khương Tăng Hội, cha là người Sogdian, mẹ là người Việt Nam, đã sinh ra, tu và chứng đạo tại Việt Nam. Thiền sư thành lập dòng thiền gọi là dòng Thiền Khương Tăng Hội. Sau đó ông đi sang nước Ngô để truyền bá về thiền trước tổ Bồ Đề Đạt Ma tới 300 năm. Thay vì thờ tổ Bồ Đề Đạt Ma làm tổ thiền Việt Nam thì ta phải thờ thiền sư Khương Tăng Hội. Ngài là người Việt, sinh ở Việt Nam, và dựng nên thiền Việt Nam 300 năm trước khi tổ Bồ Đề Đạt Ma lập ra thiền Trung Quốc.

Tào Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông

Phương Đông của chúng ta đã được nuôi dưỡng rất nhiều bằng dòng suối tâm linh Tào Khê. Trong thập niên vừa qua chúng tôi đã múc nước Tào Khê hiến tặng cho những dân tộc Âu châu và Mỹ châu. Họ đã sử dụng được chất liệu đó của dòng Thiền Việt Nam và chữa trị được không biết bao nhiêu là chứng bệnh tâm linh của họ. Mảnh đất Tây phương (Ân châu và Mỹ châu ) rất là chín mùi để tiếp nhận những hạt giống của Thiền Tào Khê. Thiền Tào Khê đã nuôi dưỡng dân tộc ta qua không biết bao nhiêu là thế kỷ.

Tào Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước Tĩnh
Tẩy sạch dấu phong trần

Chúng ta có những bụi bặm, những phiền não, oan ức, khổ đau. Chính giọt nước Từ Bi của dòng Tào Khê nơi bình Tịnh Thủy của Đức Bồ Tát Quan Thế Âm đã có thể tẩy sạch được dấu vết của khổ đau, oan ức trong lòng chúng ta.

Cành Dương rưới Cam lộ
Làm sống dậy mùa Xuân

Trong khổ đau tuyệt vọng chúng ta nghĩ rằng chúng ta không có tương lai. Nhưng với một giọt nước của tình thương, của hiểu biết thì một cành khô đã trở thành một mùa Xuân

Cành Dương rưới Cam lộ
Làm sống dậy mùa Xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng

Trong tín ngưỡng Việt Nam chúng ta tin có những loại cô hồn đi vất vưỡng khắp nơi, rất đói. Hình ảnh cô hồn là hình ảnh của một chúng sinh có cái bụng rất lớn, có nghĩa là bao tử rất đói mà khả năng tiếp nhận thì rất nhỏ. Cô hồn có cổ họng bé bằng cây kim cho nên không nuốt được thức ăn. Cái đói ở đây không hẳn là đói cơm, đói áo mà là đói tình thương, đói hiểu biết. Có những người trong chúng ta nghĩ rằng mình chưa bao giờ được ai hiểu và thương trên cuộc đời này. Những người đó không có niềm tin nơi cuộc đời, nơi con người, nơi văn hóa, dân tộc. Họ đi lang thang để kiếm một chút hiểu, một chút thương nhưng chưa bao giờ kiếm được. Họ rất là đa nghi. Dầu ta có cái hiểu, caí thương để cống hiến cho họ nhưng họ cũng không có khả năng tiếp nhận. Khả năng tiếp nhận của họ nhỏ như một cây kim. Trong đạo Phật có câu thần chú có thể giúp cho cổ họng của cô hồn trở lại hình thức bình thường trước đó. Một giọt nước của hiểu và thương đủ để làm cho một cô hồn no đủ.

Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng

Cô hồn không hẳn là những người đã chết. Có thể là rất nhiều người trong xã hội chúng ta đang là những cô hồn đang đi quanh rong ruổi. Có những thanh niên thiếu nữ chưa bao giờ có cảm tưởng là mình được hiểu và được thương. Họ đi như những con ma đói trong cuộc đời, chưa bao giờ được hiểu và được thương. Khi nhìn họ thì mình nhìn ra họ là những cô hồn ngay trong cuộc sống, trong xã hội.Xã hội chúng ta được xây dựng như thế nào mà mỗi ngườì trong chúng ta tạo ra không biết bao nhiêu là cô hồn sống đang đi vất vưỡng trong cuộc đời.

Sự thực tập của chúng ta là làm như thế nào để nhận diện được những cô hồn sống đó và cung cấp cho họ cái hiểu và cái thương. Làm cha mẹ, làm thấy giáo, làm nhà doanh thương, nhà chính trị, chúng ta phải có con mắt để nhận diện được sự có mặt của những cô hồn đó và giúp cho họ trở thành con người bình thường trở lại bằng giọt nước Từ Bi của hiểu và thương. Việc đó chúng ta chỉ có thể làm được khi chúng ta tiếp xúc với dòng Tào Khê.

Chúng ta thường hình dung Đức Bồ Tát Quan Thế Âm là người đang cầm một bình Tịnh thủy trong đó có nước Tào Khê, nước của Từ Bi, nước Cam lộ. Chỉ cần một giọt nước Từ Bi  trên  cành dương rẩy lên thì một cành khô trở thành một mùa Xuân. Tình thương cũng vậy. Tình thương có phép lạ rất lớn. Một khi ta có tình thương để cung cấp cho những cô hồn thì những cô hồn đó trở thành những người sống thực sự.

Danh hiệu của Bồ Tát Quan Thế Âm bằng tiếng Sanskrit là Avalokitesvara. Avalo có nghĩa là nhìn cho sâu, lắng nghe cho kỹ. Khi mình nhìn sâu, hiểu sâu thì tự nhiên sẽ phát sinh ra cái thương. Cái hiểu đưa đến cái thương. Nếu mà cha không hiểu con thì cha không thể nào thương con được. Nếu vợ mà không hiểu chồng thì vợ không thể nào thương chồng được. Nếu con không hiểu cha thì con không thể nào thương cha được. Trong đạo Bụt thì cái hiểu là nền tảng của cái thương. Avalokita có nghĩa là lắng nghe cho kỹ, nhìn cho sâu, chúng ta dịch là Quán. Esvara có nghĩa là tự do, tự tại. Nhờ thực tập quán chiếu cho sâu sắc mà ta đạt tới cái hiểu. Từ cái hiểu ta có lòng thương mà có lòng thương thì ta có khả năng tha thứ, bảo hộ, và giúp đỡ. Vì vậy ta trở thành một con người tự do.

Quan Thế Âm có nghĩa là Quán Tự Tại ( chữ Esvara có nghĩa là tự tại ). Tự do đó ta đạt được bằng thiền quán, bằng cái nhìn sâu sắc. Nếu ta quá bận rộn thì làm sao ta có thì giờ để nhìn sâu, để lắng nghe và để hiểu. Nếu không hiểu được thì làm thế nào để chúng ta thương được, cho nên cái hiểu đưa tới cái thương. Namo Avalokitesvaraya là danh hiệu của Đức Bồ Tát xướng tụng bằng tiếng Phạn. Xin kính mời liệt vị ngồi cho thoải mái để có sự buông thư trong tâm hồn. Nếu chúng ta thực tập được năm, mười phút thì những căng thẳng, những đau nhức trong cơ thể sẽ giảm thiểu.

(Các thầy, các sư cô xướng tụng bài Tào Khê một dòng biếc và niệm Namo Avalokitesvaraya)
Hy vọng là quí vị có được mười mấy phút thoải mái, thanh tịnh. 

 

Bí quyết của sự sống là phải có mặt thật sự trong phút giây hiện tại

Kính thưa quí vị,
Có nhiều khi chúng ta quá bận rộn, chúng ta không có thì giờ để thực sự sống. Chúng ta theo đuổi một sự nghiệp, sự nghiệp thương mại, văn hóa hay giáo dục và chúng ta muốn thành công. Vì vậy chúng ta muốn đầu tư hết thì giờ và năng lực vào sự nghiệp đó. Chúng ta không có thì giờ để sống đời sống hằng ngày của chúng ta.

Thúy Kiều đã chờ đợi rất lâu để có cơ hội thăm người yêu là Kim Trọng. Kim Trọng cũng đã chờ đợi rất lâu. Hôm đó gia đình của Kiều đi về bên ngoại để mừng sinh nhật. Thúy Kiều xin phép ở nhà một mình. Có lẽ cô nàng thác là bị nhức đầu hay đau bụng gì đó và không có đi. Nhưng chúng ta biết rất rõ là  Thúy Kiều thấy đây là một cơ hội rất quí hóa để có thể ra gặp người yêu bên kia bức tường. Hai người đó đã thề thốt, đã trao tặng món quà. Ban đầu thì nghĩ rằng nếu được gặp nhau và nói những lời yêu thương gắn bó thì đỡ khổ lắm. Hai ngưòi đã trông đợi giờ phút đó từ lâu, nghĩ rằng được gặp nhau và được nói với nhau những lời gắn bó yêu thương thì đã nhẹ lắm rồi. Nhưng trái lại, sau khi được gặp nhau, được nói với nhau những lời gắn bó yêu thương thì lại thiếu nhau nhiều hơn trước nữa, càng cảm thấy thiếu thốn hơn trước nữa. Có lẽ tất cả quí vị ở đây đều đã có kinh nghiệm như thế rồi. 

Ngày gia đình Kiều đi ăn sinh nhật bên ngoại là một dịp rất tốt choThúy Kiều. Kiều đã để thì giờ ra làm những món ăn ngon đem sang tặng Kim Trọng. Sau khi thăm viếng, hỏi han, thề thốt, trao đổi thì Kiều thấy trời đã về chiều, nếu mình ở lại đây thêm nữa thì bất tiện. Nếu cả nhà về mà không thấy có mình thì bất tiện cho nên Kiều về nhà. Tới nhà thì thấy gia đình chưa về. Nếu cứ ngồi đây đợi thì tiếc nên Thúy Kiều quyết định đi sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. Lần này thì trăng đã lên. Sau một ngày sinh hoạt với Kiều thì Kim Trọng mệt đừ, tại ngày đó là một ngày sinh hoạt rất nhiều (intense). Cả ngày hai người sống rất hết lòng. Sau khi Thúy Kiều về rồi thì Kim Trọng rất mệt mỏi, dựa vào án thư ngủ. Trong khi Kim Trọng thiu thiu trên án thư thì nghe trong trạng thái nửa thức nửa ngủ đó tiếng chân của Kiều đi trên đường sỏi.

Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê

Anh chàng đang ngủ gục.

Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần

Tiếng gót sen của Thúy Kiều làm thức giấc anh chàng thư sinh. Trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh anh chàng ngẩn đầu lên và thấy bóng dáng của Thúy Kiều xuất hiện

Bâng khuâng đỉnh Giáp, non Thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

“ Không biết đây có phải là người yêu thật không ?, hay chỉ là bóng dáng người yêu trong giấc mơ, trong trạng thái nửa mơ nửa tỉnh ? “, Kim Trọng tự hỏi mình.” Không biết là Kiều bằng xương bằng thịt hay Kiều chỉ là một hình bóng trong giấc mơ của mình ?”. Tại vì lâu nay Kim Trọng đã sống nhiều trong giấc mơ, cho đến nỗi bây giờ con người bằng xương bằng thịt xuất hiện cũng nghi rằng đó là giấc mơ. “ Này em, em có phải là em thật đó hay chỉ là một hình bóng trong giấc mơ của anh ?”. Đó là câu hỏi của Kim Trọng.

Thúy Kiều đã trả lời như thế này: 

Nàng rằng khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?

Sự thật là chúng ta đang có cơ hội gặp nhau. Anh là một thực tại !, chứ không phải là một hình ảnh trong giấc mơ. Em cũng là một thực tại !. Nhưng nếu chúng ta không có mặt thực sự trong giây phút hiện tại để nhận rõ sự có mặt của nhau thì giây phút này cuối cùng nó cũng chỉ là một giấc mơ mà thôi. Hai câu này khi tôi đọc tới tôi giật mình. Đây là một tuệ giác rất lớn. Phần lớn những người trong chúng ta đều sống như những người mê ngủ. Chúng ta không trân quí được sự có mặt của những gì quí giá trong giây phút hiện tại.

Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”

Có một hôm tôi đi thiền hành trên Xóm Thượng, Làng Mai, bên Pháp. Từ túp lều lên thiền đường tôi phải lên lên một cái dốc nhỏ. Khi qua khỏi lùm cây thì tôi có thể thấy mặt trăng và những ngôi sao. Hôm đó trăng rằm, ra khỏi lùm cây thì tôi thấy mặt trăng chiếu vằng vặc. Tôi ngẩn đầu lên, mặt trăng là một nhiệm mầu của sự sống. Sự có mặt của mặt trăng rất quí giá  cho tất cả chúng ta. Nhìn mặt trăng tôi nhớ lại hai câu này. Mặt trăng đang có mặt cho mình đó nhưng mình có mặt cho mặt trăng hay không ?. Chúng ta ở đô thị, ít có cơ hội để thấy được mặt trăng. Nhưng bây giờ mặt trăng hiện ra đó, ta có biết trân quí hay không, ta có biết “có mặt“ để thưởng thức, để công nhận sự có mặt của mặt trăng hay không ?. Đôi ta ở đây là mình và mặt trăng.

Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”

Nếu trong phút giây hiện tại mà mình không có mặt thật sự để công nhận sự có mặt của mặt trăng thì những giây phút trong đời sống hằng ngày của mình cũng như thế. Đời sống của mình chỉ là một giấc mơ thôi. Đôi ta có thể là mình và người bạn hôn phối của mình. Đôi ta có thể là mình và bố hay mẹ của mình. Bố, mẹ mình ngày mai sẽ không còn nữa và mình phải trân quí sự có mặt của bố, mẹ, của người yêu, của con trai, con gái mình. Bí quyết của sự sống là phải có mặt thật sự trong phút giây hiện tại để công nhận sự có mặt quí giá của những gì ta trân quí, ta yêu thương. Nếu mình bị chìm đắm trong những buồn đau về quá khứ hay những lo lắng về tương lai thì mình không có mặt thật sự trong phút giây hiện tại. Mình không có khả năng công nhận sự có mặt của những gì quí giá hiện đang có mặt cho mình.

Tuổi trẻ của ta là những gì rất quí giá. Hai con mắt của ta đang tốt. Chỉ cần mở mắt ra là ta có thể thấy trời xanh mây trắng và bao nhiêu nhiệm mầu của vũ trụ. Nếu ta không sử dụng hai mắt để tiếp xúc được với những mầu nhiệm của đời sống thì đến khi hai mắt lòa không thấy được nữa, ta đánh mất thiên đường, đánh mất tất cả. Vì vậy có hai mắt là một điều kiện của hạnh phúc và ta công nhận sự có mặt của hai mắt ta. Ta trân quí những gí mà ta có thể tiếp xúc được trong giây phút hiện tại.

Tuệ giác không phải là kiến thức.  Những điều mình thu thập được ở trường học, bằng cách đọc sách là kiến thức chứ không phải là tuệ giác. Tuệ giác, tiếng Anh là Insight, tiếng Pháp là la sagesse ; nó không phải là kiến thức chất chứa. Có nhiều người chất chứa rất nhiều kiến thức về triết học những họ chỉ có kiến thức mà không có tuệ giác. Nhiều khi kiến thức che lấp là trở lực không cho mình có cơ hội đi thẳng vào vấn đề để tìm ra chân tướng của thực tại. Cái giúp cho ta thấy và hiểu được thực tại là tuệ giác. Cái đó không phải là triết học.

Trong đạo Phật có cụm từ Duy Tuệ Thị Nghiệp. Những người tu thì phải lấy trí tuệ là sự nghiệp duy nhất của đời mình. Bản chất của đạo Phật là tuệ giác. Chính tuệ giác giúp mình tháo gỡ được những khổ đau, bức xúc, tuyệt vọng, tham đắm chứ không phải là kiến thức. Tuệ giác đó chỉ có thể chế tác được bằng quán chiếu tức là nhìn thật sâu, nghe thật rõ, chứ không phải do học hỏi, đọc sách nhiều, nghe giảng nhiều. Duy Tuệ Thị Nghiệp có nghĩa là chỉ có Tuệ Giác mới xứng đáng là sự nghiệp của người tu mà thôi. Mình là người tu thì điều quan trọng nhất không phải là xây chùa, lập hội, mà là thiền quán để đạt được trí tuệ đó. Trong đạo Phật có Tam Vô Lậu Học, tức là Giới-Định-Tuệ, hay Niệm- Định-Tuệ.

Niệm là khả năng có mặt trong phút giây hiện tại để tiếp xúc được với những gì đang xẩy ra trong giây phút hiện tại. Định là sự chuyên chú. Khi có Niệm, có Định thì đạt tới Trí Tuệ, tức là sự hiểu biết. Nói tới Tuệ giác trong truyện Kiều là cái Tuệ đó chứ không phải là triết lý đạo Phật trong truyện Kiều. Trong truyện Kiều thỉnh thoảng cụ Nguyễn Du cũng thuyết pháp. Ví dụ cụ nói : muôn sự tại trời …, có trời mà cũng có ta…, tu là cội phúc, tình là giây oan. Cái đó là triết lý. Khi cụ thuyết pháp như vậy thì không có liên quan đến tuệ giác. Tuệ giác không hiển lộ ra. Nhưng khi cụ làm thơ thì Tuệ giác của đạo Phật biểu lộ rất nhiều như hai câu này :

Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”

Đó là Tuệ Giác một dân tộc đã từng thực tập theo đạo Phật, theo thiền. Nếu mình không có mặt trong giây phút hiện tại, mình không biết trân quí những gì mình có trong giây phút hiện tại thì sau này tất cả chỉ là một giấc mơ mà thôi.

 

ngục tù của quá khứ và của tương lai

Có những người trong chúng ta không thể nào thoát ra khỏi ngục tù của quá khứ. Trong quá khứ có thể ta đã có vài quyền hạn, địa vị nhưng chúng ta vẫn không hạnh phúc. Với uy quyền đó, địa vị đó chúng ta muốn thêm quyền lực, thêm địa vị vì thế chúng ta không có khả năng sống trong giây phút hiện tại. Bây giờ chúng ta mất quyền lực, địa vị đó thì chúng ta tiếc nuối. Quá khứ trở thành một ngục tù không cho phép mình sống sâu sắc những giây phút của đời sống hiện tại.

Tôi đã từng gặp được những đồng bào sống tha hương. Họ không có khả năng buông bỏ quá khứ để sống trong hiện tại. Quá khứ đã trở thành một ngục tù. Họ muốn  trở lại quyền hạn, địa vị của họ trong quá khứ. Mình biết rằng dù họ có khôi phục lại cái đó thì họ cũng không có hạnh phúc. Trong quá khứ họ đã từng có quyền hạn, địa vị như thế nhưng họ đã không có khả năng sống trong giây phút đó. Vì vậy tôi biết rằng dù có khôi phục lại được quyền hạn, địa vị thì họ cũng chạy về tương lai như thường và họ sẽ không có được hạnh phúc mà họ trông cầu.

Lại có những người tuy không bị quá khứ giam hãm nhưng bị tương lai giam hãm. Chúng ta là những nhà doanh thương, những nhà chính trị, nhà hành động, chúng ta muốn thành công. Vì vậy chúng ta đầu tư thì giờ và năng luợng của chúng ta vào tương lai. Tương lai trở nên một nhà độc tài, nó muốn chiếm hết thì giờ và năng lượng của mình. Mình không có thì giờ để sống cho mình, nhất là mình không có thì giờ để sống với người thương và để chăm sóc cho những ngươì thương của mình.

Frederick là một nhà doanh thương rất tài ba bên Đức. Anh ta cũng có tinh thần trách nhiệm. Claudia là người vợ rất yêu chồng. Claudia rất hãnh diện mình là bà chủ của doanh nghiệp đó.

Bà ta rất hạnh phúc khi tổ chức những buổi tiếp tân cho chồng. Cố nhiên Frederick có hỏi ý kiến của vợ và Claudia rất hạnh phúc. Nhưng sau đó một thời gian vì muốn đạt đến thành công lớn của mình Frederick không có thì giờ cho Claudia và cho hai đứa con. Frederick có tài ba, có tinh thần trách nhiệm thật đó nhưng doanh nghiệp của ông là một nhà độc tài, nó muốn chiếm trăm phần trăm thì giờ và năng lực của ông. Ông không có thì giờ cho chính mình, cho vợ và cho hai đứa con. Đến nỗi khi Phillip, đứa con trai lớn, vô nhà thương để mổ tim 7 giờ đồng hồ liên tiếp mà Frederick cũng không bỏ công việc được để về với con. Chính lúc Claudia đi mổ tumor thì cũng đi một mình thôi, Frederick cũng không về được.

Có những đêm Claudia ngồi khóc với Frederick :” Anh không có thì giờ cho anh, cho em và cho các con thì làm sao mà sống được.”. Frederick cứ hứa hẹn:” Hiện bây giờ không có ai trong doanh nghiệp có thể thay thế được anh. Nếu anh tìm được người thay thế trong vài ba năm nữa thì anh sẽ có thì giờ cho em và cho các con.” Và ông cứ khất như thế tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác.

Claudia buồn chán, cô đơn vô cùng. Tiền bạc thì không thiếu gì cả nhưng nàng cô đơn vô cùng. Người yêu không có mặt cho mình và cho các con. Mình làm chồng phải có mặt cho vợ, làm cha phải có mặt cho con. Để giết thì giờ Claudia ghi tên vào đại học lấy một bằng tiến sĩ nữa về tâm lý học. Sau khi tốt nghiệp Claudia đi làm nghề tâm lý trị liệu ( psychotherapist) giúp người và làm việc xã hội. Nhưng hoạt động đó không lấy đi được niềm cô đơn của bà vợ mà chồng bị cuốn hút hoàn toàn vào trong sự nghiệp. Frederick rất thành thật khi nói: “Khi nào anh tìm được người thay thế thì anh sẽ có thì giờ cho em, cho các con.” Nhưng không bao giờ tìm được người thay thế. Đến năm 51 tuổi thì Frederick bị tai nạn xe hơi chết. Cái ước mơ kia, điều hứa hẹn kia không bao giờ thực hiện được. Chỉ trong ba hôm doanh nghiệp đó tìm được vị giám đốc mới trong khi mình nghĩ mình là người duy nhất có thể đảm đang được doanh nghiệp !. Trong chúng ta có rất nhiều người không thoát ra được cái ngục tù của quá khứ hoặc bị giam hãm trong ngục tù của tương lai vì vậy họ không có khả năng, cơ hội để sống được trong điều kiện hiện tại.

 

uy quyền tâm linh: đoạn đức, trí đức, ân đức.

Ngày xưa ĐứcPhật có người đệ tử là nhà doanh thuơng, ông tên là Cấp Cô Độc. Cấp Cô Độc là mỹ hiệu mà dân chúng thành phố Savasti đã tặng cho ông vì ông lo lắng, chăm sóc những người neo đơn, cùnh khổ trong thành phố. Cấp Cô Độc nghĩa là cấp dưỡng cho những người neo đơn, cô độc. Ông là doanh thương nhưng ông có thì giờ, cơ hội đi nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp. Ông có thì giờ để đưa các con  tới nghe Đức Thế Tôn giảng dạy và thực tập. Ông đã giúp đỡ cho không biết bao nhiêu người gặp khó khăn trong đó có bạn bè của ông. Có một thời ông ta sạt nghiệp vì kinh tế khủng hoảng. Ông sạt nghiệp không còn một đồng, nhưng ông không khổ gì hết. Ông có quá nhiều bạn bè và biết bao người thương ông. Họ đã tới gìúp ông khôi phục lại cơ nghiệp rất dễ dàng.

Chính khi mình có niềm tin, với tình thương thì doanh nghiệp của mình ngày càng phát triển và lợi nhuận càng ngày càng nhiều. Vì vậy có thì giờ để sống đời sống tâm linh đạo đức, để thì giờ chăm sóc thương yêu những người khác, điều đó không làm hại gì đến doanh nghiệp hay cơ nghiệp của mình dù đó là sự nghiệp chính trị, kinh tế  hay văn hóa.

Báo Fortune bên Mỹ mỗi năm đưa ra số một trăm doanh nghiệp đứng hàng đầu và họ khuyên nên đầu tư vào những doanh nghiệp đó. Khi nghiên cứu về một trăm doanh nghiệp đó thì mình thấy gì ? Mình thấy có điểm chung là những doanh nghiệp đó luôn luôn chăm sóc cho nhân viên, lo lắng cho con cái, gia đình họ. Tuy để ra rất nhiều tiền bạc, thì giờ nhằm chăm sóc, lo lắng cho nhân viên nhưng họ lại thành công hơn những doanh nghiệp chỉ chuyên môn làm tiền mà không nghĩ tới khía cạnh thương yêu và đạo đức.

Đạo Phật không lên án những người muốn làm giàu. Mình có thể làm giàu được. Khi mình có nhiều tiền và nhiều quyền lực thì mình có thể làm được nhiều điều giúp cho xã hội. Nếu không có khía cạnh tâm linh thì tiền bạc, quyền uy đó có thể làm cho mình hư hỏng và gây ra đau khổ cho mình. Trong đạo Phật cũng có nói tớí uy quyền. Chúng ta cứ cho uy quyền, tiền bạc là những yếu tố của hạnh phúc. Ta nghĩ rằng làm thế nào để có nhiều tiền, nhiều uy quyền, muốn gì được nấy thì đó là hạnh phúc. Nhưng nếu chúng ta nhìn cho kỹ thì thấy có những người có rất nhiều tiền, nhiều uy quyền, nhưng đau khổ sâu sắc. 

Có ai nhiều uy quyền bằng tổng thống Bush?. Nhưng nếu quí vị nhìn vào đời sống của ông thì thấy hạnh phúc không có được bao nhiêu. Nghĩ đến tình trạng  Iraq thì biết. Iraq là một công án, một vấn đề rất lớn. Với uy quyền, một quân đội và một nền kinh tế lớn như vậy mà ông Bush cảm thấy rất là bất lực. Đó là tình trạng nuốt không vào mà khạc cũng không ra. Chúng ta có thể tưởng tượng  ban đêm tổng thống Bush đâu có thể ngủ yên được trong khi những người trai trẻ Hoa kỳ chết mỗi ngày bên đó. Mình đã gây ra biết bao nhiêu là chết chóc, tàn phá trong đất nước của họ. Vì vậy chúng ta phải xét lại vấn đề là có phải uy quyền và tiền bạc là nền tảng của hạnh phúc đích thực hay không ?.Trong đạo Phật có câu trả lời rất rõ ràng : Chúng ta phải có một uy quyền tâm linh, cái đó gọi là đức. Chữ đức có thể dịch là la vertu. 

Thứ nhất là đoạn đức. Đoạn có nghĩa là cắt đứt. Chúng ta có những hận thù, đam mê, tham đắm, si mê, mà nếu chúng ta không cắt đứt được thì nó sẽ gây đau khổ cho ta đêm ngày. Tu tập là làm thế nào để có thể cắt đứt những đâm mê, những hận thù như thế thì con người mình nhẹ ra và có hạnh phúc. Khi có hạnh phúc thì mình có thể làm cho nhiều người khác có hạnh phúc.  Đó là một uy lực ( pouvoir ) mà ta chỉ có thể đạt bằng sự tu tập mà thôi chứ không phải bằng những vận động ngoại giao, xã hội hay chính trị. 

Đức thứ hai là trí đức. Trí đức là cái tuệ (tuệ giác). Tuệ không thể đạt được bằng cách học hỏi và chứa chất kiến thức. Nó là kinh nghiệp sống do quán chiếu, nhìn và nghe cho sâu sắc mà có. Một khi nắm được tuệ giác rồi thì mình có thể tháo gỡ rất dễ dàng những bức xúc, khó khăn, mâu thuẩn, khổ đau, nghi ngờ trong mình và giúp những người khác làm được như vậy. Khi mình tu học đến mức mình có thể tháo gỡ những khó khăn cho mình thì khi những người khác tới trình bày những khó khăn, đau khổ của họ, mình có thể giúp cho họ tháo gỡ rất dễ dàng.

Có ví dụ về một cựu chiến binh Hoa kỳ mà trong đơn vị của anh chỉ còn một mình anh sống sót thôi. Những người trong đơn vị của anh bị tiêu diệt hết trong một trận đánh ở Việt Nam. Anh ta hận thù, hận thù cho đến nỗi anh muốn trả thù dân trong làng. Anh đem tới một túi sandwiches và anh để thuốc nổ trong những bánh mì sandwiches đó. Anh thấy có 5 đứa bé trong làng đi ra. Khám phá ra túi sandwiches tụi nó rất mừng đem ra ăn. Sau đó chúng nó nằm lăn ra kêu khóc. Anh ta chứng kiến cảnh cha mẹ những đứa bé tìm cách cứu chữa. Anh biết rất rõ ràng rằng không thể nào cứu được vì đến nhà thương gần nhất cũng phải mất một ngày.

Sống sót trở về, hình ảnh 5 đứa bé chết vì thuốc độc của anh ám ảnh anh ngày đêm, năm này sang năm khác. Một khi nhận ra mình đang ngồi trong phòng với một số trẻ em Mỹ thì anh ta chịu không nỗi, phải ra khỏi phòng lập tức nếu không thì anh sợ sẽ điên lên. Anh không dám nói chuyện đó với bất cứ một ai, ngoại trừ với bà mẹ. Bà khuyên như thế này :” Này con, những chuyện như thế thường xẩy ra trong chiến tranh. Nó cũng bình thường thôi, con đừng đau khổ quá nhiều”. Nhưng câu nói đó không giúp anh ta đưọc. Anh ta chưa có khả năng nói câu chuyện đó với các nhà tâm lý trị liệu. Cho đến khi anh ta gặp chúng tôi trong khóa tu dành cho những cựu chiến binh. Đến ngày thứ năm anh mới có can đảm nói ra chuyện đó vì anh thấy những người ngồi nghe anh có lòng từ bi rất lớn, có khả năng tha thứ, chấp nhận, ôm ấp anh. Khi anh nói ra được rồi thì chúng tôi tháo gỡ cho anh rất mau. Tôi nói như thế này: “ Này anh, chúng tôi công nhận là anh đã giết 5 đứa bé trong quá khứ. Đó là một tội ác rất lớn. Nhưng anh có thể thoát ra khỏi được. Anh có biết là hiện bây giờ có những đứa bé đang chết hay không ?. Có rất nhiều đứa bé đang chết trong giây phút hiện tại. Ngay tại nước Mỹ của anh cũng vậy. Có nhiều đứa bé đang chết, có nhiều đứa bé nghèo bệnh, chỉ cần một viên thuốc trụ sinh là có thể cứu mạng được. Tại sao anh không đem thân mạng, đời sống của mình để cứu trợ những người đó. Anh có thể trong một hay hai ngày cứu 5 đứa bé khác. Nếu anh hành động như một vị bồ tát thì trong một năm anh có thể cứu 500 em bé. Việc làm đó sẽ tẩy đi những tội lỗi, những mặc cảm, những đau khổ trong quá khứ.”.

Khi tôi mở lối cho John thì tôi dùng cái tuệ mà tôi đã thực tập được. Khi mình đã phát một tư tưởng không đẹp và mình hối hận thì mình phải phát ra một tư tưởng đối lập, tư tưởng thương yêu, chấp nhận, hiểu biết, nâng đỡ thì tự nhiên cái tư tưởng thứ hai chạy theo bắt kịp và trung hòa hóa cái tư tưởng không đẹp lúc đầu. Đó gọi là ý nghiệp. Nếu anh dùng thì giờ, tâm lực của anh đi cứu những đứa trẻ thì tôi tin chắc rằng nội trong vài ba tháng anh thoát ra khỏi cái địa ngục của anh. Sau mười phút mắt anh nhìn bắt đầu có hy vọng và anh mỉm cười được. 

Tôi muốn nói đến sự kiện là khi mình có tuệ giác, mình tự tháo gỡ được những khổ đau, mặc cảm, bức xúc của mình và mình tháo gỡ được cho những người khác. Có khi họ đi vòng quanh năm này sang năm khác mà không thoát ra được. Khi mình gỡ cho thì chỉ trong một hay hai phút họ có thể thoát ra được. Đó gọi là tuệ, là trí đức, là năng lượng thứ hai mà người tu có thể chế tác ra được.

Đức thứ ba là ân đức, ân đức là khả năng tha thứ, đùm bọc, thương yêu. Khi mình tha thứ, thuơng yêu được thì mình có hạnh phúc. Mình rất nhẹ nhàng, mình ban phát không biết bao nhiêu là ân huệ cho những người khác. Nếu chúng ta là nhà chính trị, nhà doanh thương mà ta có được ba đức đó thì những phương tiện ta đang có như tiền bạc, uy quyền thành ra những lợi khí rất lớn để có thể giúp dân giúp nưóc, tạo hạnh phúc cho không biết bao nhiêu người.

 

Phương pháp đối trị những cơn bão tố cảm xúc

Chúng ta phải tiếp xúc được với những thanh niên, thiếu nữ đang trong nguy cơ muốn tự sát. Khi một cảm xúc lớn nổi dậy thì mình đau khổ vô cùng. Mình rất tuyệt vọng, rất căm thù. Có rất nhiều nghĩ rằng cách duy nhất để chấm dứt khổ đau là tự tử. Trong những khóa tu cho thiền sinh Tây phương tôi có trao truyền cho pháp môn thực tập để đối phó với cơn bão trong lòng, những cơn bão có thể đưa mình tới quyết định tự tử. Chúng tôi nói rằng : cảm xúc nó chỉ là cảm xúc thôi. Cảm xúc như một cơn bão tố tới, ở lại một thời gian, rồi nó đi. Tại sao mình phải chết vì một cơn cảm xúc ?. Chúng tôi chỉ dẫn phương pháp trở về với hơi thở và thực tập thở bụng. Khi mình nhìn vào một cái cây trong cơn bão thì mình thấy ngọn cây oằn oại trưóc gió. Mình có cảm tưởng là nó có thể gẫy bất cứ lúc nào. Nhưng nếu mình đưa mắt nhìn vào thân cây thì mình sẽ có cảm tưởng khác. Thân cây cắm rễ sâu trong đất và mình thấy nó có thể đứng vững được.

Con người cũng vậy. Khi cảm xúc ào đến thì nó làm lung lay phần tư duy của chúng ta. Khi chúng ta bị một cảm xúc lớn thì ta phải tìm cách đưa ý của ta xuống phía đan điền (dưới rốn) đừng để nó lưu trú trên phần tư duy. Chúng ta thực tập trong tư thế ngồi, để ý đến sự phồng lên và xẹp xuống của bụng. Thở vào tôi thấy bụng tôi phồng lên. Thở ra tôi thấy nó xẹp xuống. Phía trên là cành lá của cây. Phía dưới là gốc. Chúng ta phải ôm lấy cái gốc trong giờ phút nguy hiểm của cảm xúc:

Thở vào tôi thấy cái bụng phồng lên
Thở ra tôi thấy cái bụng xẹp xuống

và ta cố thủ ở đó. Nên nhớ là đây chỉ là một cơn cảm xúc, nó tới, nó ở lại một thời gian rồi nó đi. Mình dại gì mà chết vì một cơn cảm xúc. Con người của mình không phải chỉ có cảm xúc. Cảm xúc chỉ là một phần nhỏ trong con người của mình. Chúng tôi trao truyền cho thiền sinh khả năng có thể chống cự được với cảm xúc nhờ chánh niệm và phương pháp thở. Chúng tôi nói rằng : quí vị phải dạy cho các cháu. Quí vị sẽ cứu được các cháu nếu các cháu biết được phương pháp này.

 

Điều kiện hạnh phúc

Giác Duyên biết trước rằng Thúy Kiều sẽ tự tử ở đây. Ngày xưa Thúy Kiều với tư cách là phu nhân của Từ Hải đã tặng Giác Duyên một số vàng. Giác Duyên không dùng số vàng đó để làm chùa mà để dành thuê hai ngư dân chực sẵn để cứu Kiều. Sau khi cứu được Kiều ni sư Giác Duyên giúp Kiều xuất gia trở lại để tu hành, trước đó Kiều đã từng được xuất gia một lần rồi. Khi còn làm con ở nhà Hoạn Thư thì Kiều đau khổ quá xin được đi xuất gia. Hoạn Thư thấy trong vườn có một ngôi chùa tên Quan Âm Các, cho Kiều ra xuất gia ở đó. Lần đầu Kiều xuất gia chỉ với ý nguyện tị nạn mà thôi chứ không quyết chí tu hành, không được thầy chỉ dẫn, không có pháp môn tu học. Thời gian ở Quan Âm Các là tị nạn mà thôi. Sau đó Kiều trốn khỏi Quan Âm Các, phạm giới ăn cắp, mang theo chuông vàng, khánh bạc của chùa để đi. Khi đến tị nạn ở chùa của ni sư Giác Duyên thì Kiều cũng nói dối là mình từ Bắc kinh về trong khi mính ở Quan Âm Các gần đó. Thúy Kiều phạm đến hai giới: ăn cắp và nói dối. Những điều đó khiến Kiều phải gánh chịu quả báo sau này.

Sau khi tự tử Kiều được ni sư Giác Duyên cứu lên và kỳ này Kiều nhất quyết tu học đàng hoàng. Giai đoạn sau lần tự tử thứ ba có thể là giai đoạn hạnh phúc nhất của đời Kiều. Tôi nghĩ bốn, năm câu trong truyện Kiều đủ để cho chúng ta quán chiếu mà thấy được con đường của dân tộc, quốc gia chúng ta có thể đi trong thời đại toàn cầu hóa này. Ni sư Giác Duyên chờ Kiều bên bờ sông Tiền Đường và lập ra một am tranh nhỏ. Khi cứu được Kiều rồi thì ni sư đem về cho xuất gia trở lại là ni cô và hai chị em đã sống những ngày rất là an lạc, hạnh phúc. Cụ Nguyễn Du viết như thế này :

Một nhà chung chạ sớm trưa
Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau.
Nạn xưa quét sạch làu làu

Điều kiện hạnh phúc thứ nhất: nhận diện và trân quí sự có mặt của nhau

Nếu quán chiếu thì chúng ta thấy rằng những điều kiện đang có đủ làm cho họ hạnh phúc rồi. Một nhà chung chạ sớm trưa là điều kiện hạnh phúc thứ nhất. Khi minh đoàn tụ với nhau, mình được sống với những người thương yêu, đó là điều kiện của hạnh phúc như ni sư Giác Duyên và ni cô Trạc Tuyền, hai chi em cùng tu ở một nơi.

Chúng ta đang được sống với người thương của chúng ta. Mỗi ngày ta phải nhận diện, công nhận sự có mặt quí giá của người đó. Buổi sáng, khi ăn sáng với nhau, chúng ta đừng che mặt người thương của ta bằng một tờ báo.Chúng ta đặt tờ báo xuống và nhìn người đối diện, người đó có thể là chồng của ta hay hay vợ con ta, ta nói một câu: “ Có anh trong nhà anh hạnh phúc lắm.” , hay “ Có bố, có mẹ còn sống con rất là hạnh phúc”. Chúng ta nhìn nhau một giây lát rồi nói một câu như vậy tức là trân quí sự có mặt của nhau. Chúng ta không quá bận rộn để không nhìn thấy nhau. Ta không sống với nhau như những người trong quán trọ Y Pha Nho. Chúng ta là một gia đình, ta đang đang có cơ hội sống với những người thương. Trước hết ta phải công nhận sự có mặt quí giá của người thương. Nếu ta không làm việc đó ngày hôm nay thì ngày mai xa cách, người kia chết, chúng ta khóc.

Tôi đã từng thấy những người khi người thương chết rồi thì kêu gào rất thảm thiết. Sự kêu gào đó không hẳn là vì tiếc thương người chết mà là vì hối hận. Trong khi người đó còn sống mình đã đối xử tàn tệ, mình không trân quí sự có mặt của người đó cho nên khi người đó chết rồi mình hối hận rất nhiều. Những người gào thét nhiều nhất là những người hối hận nhiều nhất. Ban đầu thì mình tưởng là vì thương tiếc người kia nhưng kỳ thực phần đó rất là ít. Cái làm cho mình gào thét nhiều nhất là vì mình hối hận, vì mình không sống với người đó, mình không trân quí sự có mặt của người đó. Hiện bây giờ những người thân đang còn sống với mình trong một mái gia đình, đó là điều kiện đầu của hạnh phúc. Mình phải làm thế nào để công nhận sự có mặt quí giá của họ. Phải nhìn họ như thế nào để tỏ rằng mình trân quí sự có mặt của họ. Phải nói những lời như thế nào để tỏ rằng mình trân quí sự có mặt của họ. Không cần tiền bạc, mình chỉ cần tỏ thái độ. Nhận thức đó gọi là chánh niệm. Chánh niệm là khả năng trân quí, nhận diện được những gì mình đang có.

Một nhà sum họp sớm trưa
Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng

Điều điều hạnh phúc thứ hai: đời sống đơn giản, thảnh thơi và sâu sắc.

Trăng là nguyệt. Đi vào đền Ngọc Sơn mình thấy hai chữ Phong Nguyệt. Chúng ta tự hỏi là trong túi chúng ta có Phong và Nguyệt hay không ?. Phong là gió mát, nguyệt là trăng trong. Gió trăng mát mặt tức là sự thảnh thơi. Nếu có thảnh thơi thì ta có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống như ánh trăng, như cơn gió mát. Gió trăng mát mặt là những điều kiện hạnh phúc mà hiện ta đang có. Nhưng nếu quí vị là nhà chính trị, nhà doanh thưong, nhà giáo dục, kinh tế, mà quí vị bận rộn quá, quí vị không hưởng được gì những mầu nhiệm của thiên nhiên hết, đó là một sự mất mát rất lớn. Quí vị không có gió, không có trăng trong túi của mình. Quí vị có thể có Dollar hay Euro nhưng không có gió, không có trăng. Câu hỏi là trong túi của mình có gió, có trăng hay không hay chỉ có những dự án, những credit cards mà thôi. Gió trăng tượng trưng cho những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại mà mình nào cần phải mua đâu. Mình sống bận rộn cho đến nỗi mình không biết là mặt trăng và cơn gió mát đang ở đó cho mình. Những ngôi sao, màu trời xanh, màu mây trắng, màu liễu lục, màu hoa vàng, tiếng chim hót, tiếng thông reo, những bông hoa đang nở, những cái đó đối với chúng ta không có giá trị tại vì chúng ta đang bận rộn quá chừng. Một trong những đặc tính của nền văn hóa mới là sự bận rộn. 

Ngày xưa chúng ta không giàu, không có nhiều phẩm vật để tiêu thụ như bây giờ nên chúng ta có thì giờ để tiếp xúc với gió, với trăng. Ngày xưa khi hoa anh đào sắp nở thì ông cụ bảo mình phải viết thiệp mời ba mươi. bốn mươi người bạn tới để ngâm thơ, để thưởng thức hoa đào nở rộ. Nếu nếu hoa đào nở chậm một chút vì trời lạnh thì đem trống ra để thúc cho hoa đào nở gọi là kích cổ thôi hoa. Ngày xưa có những người có thì giờ bơi những chiếc thuyền thúng ra hồ sen để gửi những lá trà vào trong bông sen. Buổi sáng tinh sương hôm sau bơì ra hồ sen để lấy những lá trà đó pha uống ngay trong sương sớm. Bây giờ chúng ta bận rộn quá. Chúng ta không làm những chuyện mà ngày xưa ông cha chúng ta làm. Ngày xưa khi đi ăn giỗ thì tới giờ nào cũng được, tới giờ nào trong ngày thì cũng có cỗ để ăn. Bây giờ phải tới đúng giờ, nếu không thì không được. Ngày xưa chúng ta đi bộ la cà, chín giờ sáng cũng có cỗ, năm giờ chiều cũng có cỗ ăn, ăn xong đi ra hàng rào bẻ một cái que để xỉa răng rồi tản bộ đi về nhà.

Ngày xưa chúng ta nghèo hơn mà chúng ta có hạnh phúc. Bây giờ ta giàu hơn mà ta không có hạnh phúc. Chúng ta không có thì giờ để thương yêu, để chăm sóc, để sống sâu sắc trong giây phút hiện tại.

Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng

Hai sư cô không có tiêu thụ nhiều. Muối dưa tức là sống đơn giản thôi. Nếu chúng ta không sống đơn giản thì chúng ta phải làm quần quật cả ngày. Làm quần quật suốt ngày thì đâu có thì giờ để thương yêu, để sống. Có được một cái Job, một công việc thì muốn thêm một cái nữa để có đồng ra đồng vào. Có một xe hơi thì nói một không đủ, phải có hai chiếc mới đủ. Lnòg tham của chúng ta không có đáy. Chúng ta không khôngcó khả năng sống nếp sống đơn giản, sống cho đơn giản để có thì giờ để sống cho sâu sắc. Đó là phương châm của một nền văn hóa mới. Không phải là chúng ta phải chọn lực giữa sự làm giàu và nếp sống sâu sắc. Trong văn hóa của chúng ta trong đó có nhiều yếu tố mà ta có thể thừa hưởng được. Chúng ta không nên đo hạnh phúc bằng những lợi nhuận, bằng sự phát triển, nói rằng trong quí này phải đạt tới 11%, 12% của sự phát triển tại vì hạnh phúc được đo bằng những tiêu chuẩn khác. 

Chúng tôi là những người tu. Chúng tôi thực chúng những điều này. Chúng tôi tới từ những quốc gia, những bối cảnh khác nhau. Có nhiều người trong chúng tôi đã tốt nghiệp đại học rồi, đã làm luật sư, làm bác sĩ rồi, nhưng chúng tôi bỏ để đi tu. Tại chúng tôi muốn có hạnh phúc nhiều hơn nên đi tu. Chúng tôi muốn giúp được nhiều người hơn nên chúng tôi đi tu. Chúng tôi đã và đang làm được chuyện đó. Trong chúng tôi không ai có một trương mục ngân hàng riêng, không ai có tiền, có xe riêng, không ai có điện thoại cầm tay riêng. Tất cả đều thuộc về chùa hết. Khi sử dụng thì sử dụng của chùa, không ai có điện thư riêng.

Hai năm trước nói chuyện trong học viện Hồ Chí Minh chúng tôi có nhắc điều đó. Chúng tôi nói rằng chúng tôi là cộng sản thứ thiệt, chính hiệu con nai. Chúng tôi có rất nhiều tình huynh đệ, rất nhiều nụ cười. Chúng tôi không có những điều kiện mà người  ta nghĩ là thiết yếu cho hạnh phúc nhưng chúng tôi rất hạnh phúc vì trong đời sống hằng ngày chúng tôi có khả năng xử lý những khó khăn của con người. Chúng tôi chế tác tình huynh đệ, chúng tôi cắt đứt những tham đắm, giận hờn. Chúng tôi thực tập thương yêu, chấp nhận, và chúng tôi có đủ hạnh phúc, có đủ tình thương yêu, tình huynh đệ, đủ nụ cười, ánh mắt để thương yêu. Vì vậy chúng tôi có đủ thì giờ tổ chức những khóa tu hướng dẫn những người ở ngoài đời để họ cũng làm được như chúng tôi.

Có một thầy ngày xưa làm kiến trúc sư, theo một khóa tu thì bỏ nghề, đi tu, và nói rằng : “ Ai dè trong đạo Phật người ta cũng sáng tạo ra không gian để người ta sống.” Kiến trúc sư sáng tạo ra không gian để người ta sống thoải mái. Ai dè trong đạo Phật ta cũng làm như vậy mà không cần tới vôi, gạch và xi măng. Tự do là một không gian rất cần. Khi yêu thương thì mình không nên áp đặt cái ý, cái cách của mình lên người mình yêu. Mình phải cho người đó có đủ không gian ở trong trái tim và ở ngoài. Theo đạo Phật món quà quí giá mà mình có thể tặng cho người thương của mình là là không gian, là tự do. Vị kiến trúc sư đó đã bỏ nghề của mình để thành thầy tu vì ông thấy rằng tu cũng là kiến thiết không gian cho mình và cho những người khác

Một nhà chung chạ sớm trưa
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng

Một đời sống đơn giản thôi, không cần phải giàu quá.  Nó cho mình nhiều thời gian và không gian để sống, để chăm sóc, thương yêu. Nếu anh bận rộn thì thì giờ đâu để thương yêu. Nếu anh không có mặt thì làm sao để thương yêu. Thương yêu trước hết là phải có mặt cho người mình thương, có phải vậy không ? Có mặt tức là thân với tâm hợp nhất, có mặt trong giây phút hiện tại. Có một cô bé 12 tuổi. Ông bố nói với cô : “Ngày mai là sinh nhật của con. Con muốn gì ? bố mua .” Cô bé không biết nói gì hết, vì bố mình rất giàu, muốn  mua gì cũng có hết, nhưng cái cô thiếu là sự có mặt của bố. Bố là nhà doanh thương. Bố không có mặt cho bố nữa chứ đừng nói là có mặt cho gia đình và cho cô. Sau khi suy nghĩ thì cô nói: “ Con muốn bố !”. Mình có bố mà như không có vì bố hoàn toàn bị thu hút bởi doanh nghiệp của bố. 

Đây là một tiếng chuông mà chúng ta phải đặt thành câu hỏi. Cái mà chúng ta cần là tiền hay là hạnh phúc?. Cái chúng ta cần là uy quyền hay là hạnh phúc?. Cái chúng ta cần là danh hay là hạnh phúc?. Chúng ta thấy rằng cái chúng ta cần là hạnh phúc. Muốn có hạnh phúc thì phải có thì giờ để sống, để thương yêu. Muốn có thì giờ thì phải có một nếp sống đơn giản hơn. Có nếp sống đơn giản để có thể bảo hộ được môi trường, bảo hộ được trái đất, để có thể có tương lai cho con cháu mình. Đó là giải pháp, là con đường duy nhất.

Trong quá trình phát triển của một đất nước, một dân tộc, ta phải thấy được điều đó. Chúng ta tiến bộ, nhưng làm thế nào chúng ta có thể giữ gìn đưọc trái đất này, môi trường này cho con cháu chúng ta. Chúng ta đừng có đơn giản nghĩ rằng hể có tiền nhiều, quyền lực nhiều, danh vọng hiều là có hạnh phúc. Câu hỏi đó cần phải được đặt ra. Cúng ta sống như thế nào để vừa có hạnh phúc vừa có được tương lai cho con cháu chúng ta. Đó là câu hỏi rất lớn, đứng về phương diện văn hóa mà nói. Trong viễn tượng toàn cầu hóa chúng ta phải giải quyết cho được câu hỏi này : Làm thế nào để đi tới được, đánh bại được nghèo đói, ngu dốt mà chúng ta cũng có được thì giờ sống cho đàng hoàng, cho sâu sắc để thương yêu và chăm sóc những người thương của chúng ta. Muối dưa chay lòng có nghĩa là sống một đời  sống lành mạnh nhưng đơn giản không cần phải có quá nhiều tiền bạc. Tôi xin nhắc lại” một nhà sum họp sớm trưa “ là trân quí sự có mặt của người thương. “ Gió trăng mát mặt “ là phải biết sự mầu nhiệm  của sự sống trong phút giây hiện tại. “ Muối dưa chay lòng” là phải sống đơn giản trở lại, đừng nghĩ rằng phải có nhiều tiền mới có hạnh phúc. Đó là một nhân sinh quan rất quan trọng. Nó phải nằm trong viễn tượng về tương lai của chúng ta. Chúng ta có những yếu tố của tuệ giác như vậy trong nền văn hóa truyền thống. Chúng ta không cần phải đi tìm ở một ý thức hệ nào xa xôi từ Tây phương đi tới. Ngay trong nếp sống văn hóa của chúng ta đã có những yếu tố của tuệ giác. Ngay trong truyện Kiều ta cũng có những yếu tố của tuệ giác như thế. 

Điều kiện hạnh phúc thứ ba : hiến tặng cho nhau không gian

Bốn bề bát ngát mênh mông. 

Chúng ta có không gian rất nhiều. Nếu sống mà không có tự do, không có không gian, nhất là không gian trong lòng thì chúng ta làm gì có hạnh phúc. Trong Kinh có nói đến Đức Phật như một vầng trăng, một vầng trăng đi qua không gian mênh mông. Nếu vầng trăng đó đẹp là tại vì chung quanh nó có quá nhiều không gian. Nếu chúng ta cắm hoa thì theo nghệ thuật cắm hoa ta biết là ta không cần nhiều hoa. Mỗi bông hoa phải có  không gian chung quanh đầy đủ để có thể tỏa chiếu cái đẹp của mình. Nếu chúng ta cầm một bó hoa rất đầy cắm vào bình mà không cho nó không gian chung quanh thì nó không tỏa chiếu được nét đẹp của nó.

Chúng ta cũng vậy, mỗi người chúng ta là một bông hoa. Chúng ta phải có không gian chung quanh ta và không gian trong trái tim. Nếu mình là người yêu thì  phải hiến tặng cho người yêu của mình không gian tức là tự do. Nếu mình áp đặt suy tư của mình, cái mình muốn lên người yêu của mình thì mình làm cho người yêu chết dần chết mòn. Vì vậy tặng phẩm tốt nhất mà một người có thể tặng cho ngườ yêu là tự do, là không gian trong trái tim.

Bốn bề bát ngát mênh mông.
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau

Điều kiện hạnh phúc thứ tư : có thì giờ thưởng thức cái đẹp có sẵn đó của thiên nhiên 

Triều dâng hôm sớm là nhạc. Sáng nào cũng nghe thủy triều, tối nào cũng nghe thủy triều. Đó là bản nhạc hào hùng của đất trời mà chúng ta có thì giờ để nghe không ?. Cái đẹp của thiên nhiên có đó, âm nhạc, hội họa của thiên nhiên có sẵn đó. Chúng ta có thể thưởng thức được, có thể nhìn ngắm được nếu chúng ta có thì giờ. Vấn đề là chúng ta có thì giờ không ?. Triều dâng hôm sớm là nhạc. Mây lồng trước sau là họa. Buổi sáng trước am có rất nhiều mây. Mây đủ màu sắc. Bức họa đó một giờ đồng hồ sau thì được thay bằng một bức họa khác. Những đám mây có màu sắc khác. Cứ ngồi đó mà ngắm. Về nhạc cũng như về họa đã có đầy đủ trong phút giây hiện tại. Vấn đề là có thì giờ không để thưởng thức âm nhạc và hội họa đó. 

Yếu tố hạnh phúc thứ năm: chuyển hóa những khổ đau

Nạn xưa trút sạch làu làu

đó yếu tố hạnh phúc thứ năm của hai chị em tu với nhau. Những oan khổ, uất ức, đen tối của ngày xưa giờ đã qua rồi. Đất nước ta đã trải qua bao nhiêu giai đoạn đen tối. Đã có 6, 7 triệu người chết trong bao nhiêu năm chiến tranh. Có các chiến sĩ đã từng chết oai hùng cho nền độc lập tự do của đất nước. Nhưng có biết bao nhiêu người chết một cách oan khuất trong tối tăm. Những nỗi khổ niềm đau đó chưa bao giờ được nói lên, được công nhận. Trong chuyến về kỳ này chúng tôi được thủ tướng chánh phủ cho phép mở ra 3 trai đàn chẩn tế giải oan để cầu nguyện cho 6, 7 triệu đồng bào đã chết. Chúng tôi vừa mới hoàn tất trai đàn chẩn tế thứ 3 tại Sóc Sơn. Tất cả các Phật tử xuất gia hay tại gia đã tới với một trái tim rất thuần khiết để đóng góp vào việc kiến tạo trai đàn và cầu nguyện cho những người đã khuất  trong đó có những người vượt biên bằng đường biển và đã chết ngoài biển.

Trong trai đàn chẩn tế tổ chức tại Chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn, tôi nhận ra có rất nhiều người công giáo và những người không phải đạo Phật cũng tới. Chúng ta đã tới với nhau như những người ruột thịt. Chúng ta đã cầu nguyện cho tất cả đồng bào của chúng ta không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, đảng phái. Chúng ta cầu nguyện cho những người cộng sản và cầu nguyện cho những người chống cộng, họ đều là đồng bào của chúng ta. Vì vậy trai đàn được gọi là trai đàn bình đẳng giải oan không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, chính trị. Tôi đã thấy mọi người đến trai đàn với một trái tim thuần khiết chỉ có mục đích là cầu nguyện cho người thương đã chết.

Nếu chúng ta có nỗi khổ niềm đau đè nén tận đáy lòng. Nó vẫn nằm đó và chúng ta có khi hành xử khắc nghiệt, thô bạo đối với người thương của chúng ta tại vì những nỗi khổ niềm đau đó chưa được giải tỏa. Chúng ta đè nén nó bằng những lo lắng, bận rộn cho tương lai, nhưng nó vẫn còn đó. Theo nguyên tắc của khoa tâm lý trị liệu thì phải làm sao để những nỗi khổ niềm đau từ chiều sâu của  tiềm thức trồi lên mặt của ý thức. Phải công nhận, ôm ấp, chuyển hóa nó, nếu không thì nó thúc đẩy mình cư xử một cách bạo động, không dễ thương với chính những nguời thương yêu của mình. Có nhiều khi mình la con mắng cháu mà mình không biết tại sao mà mình bạo động như thế? Tại vì những nỗi khổ niềm đau có tính cách tập thể đó vẫn còn nằm trong trái tim.

Đại trai đàn chẩn tế giải oan là một cơ hội để ta thực tập tâm lý trị liệu tập thể đưa nỗi khổ niềm đau đó lên, công nhận nó, ôm ấp lấy nó, cầu nguyện và chuyển hóa nó. Như vậy ta sẽ không trao truyền những nỗi khổ niềm đau đó lại cho con cháu chúng ta. Nếu không thực tập thì ta sẽ trao truyền lại những nỗi khổ niềm đau đó, khối nội kết đó cho con cháu chúng ta. Sau này chúng nó có thể sẽ đối xử với người thân một cách bạo động, thô bạo. Chúng nó sẽ không hiểu tại sao đã đối xử bạo động như vậy với người thương ?, là tại vì những nỗi khổ niềm đau đó chưa được chuyển hóa.

Trong Trai đàn chẩn tế tại Chùa Vĩnh Nghiêm tôi thấy có nhiều người tới cầu nguyện hết  lòng, không phân biết, kỳ thị và trái tim rất là thuần khiết, làm Phật sự  tinh khiết, không ai làm vì danh vì lợi. Ai cũng làm vì động cơ của tình thương, thương đồng bào và người thương của mình. Có rất nhiều người đã khóc. Trai đàn chẩn tế Vĩnh Nghiêm có cả vạn người đến tham dự. Trong hai Trai đàn chẩn tế tại Vĩnh Nghiêm và Quốc tự Diệu Đế có trên một trăm ngàn tên xin được cầu siêu gửi đến bằng internet hay bằng thư từ rất nhiều. Chúng tôi đã chứng kiến có rất nhiều khóc ở trong trai đàn chẩn tế vì mình có cơ hội nâng niu, ôm ấp, chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau của mình một cách trực tiếp, chính thức. Những giọt nước mắt đổ xuống có giá trị trị liệu rất lớn. Sau khi khóc và cầu nguyện thì tất cả cảm thấy rất nhẹ.

Sau trai đàn giải oan thì có những trận mưa đổ xuống. Cảm động luôn đến cả trời đất ! . Trai đàn chẩn tế tại Bà Rịa cũng vậy, sau ngày trai đàn thì mưa xuống. Tại Trai đàn chẩn tế ở Huế cũng vậy. Ngay ngày thứ nhất sau khi phóng đăng và phóng sinh thì mưa xuống. Cảm động luôn đến trời đất !. Chúng tôi cảm thấy rất rõ là các cô hồn, hương linh của đồng bào đã về đông đủ để dự lễ đoàn tụ với những người sống. 

Tôi đi từng bước chân rất là chánh niệm. Mỗi bước chân “ Thở vào, con đã về, con đã tới. Con không đi hoang, đi vòng nữa. Con đã về với quê hương tâm linh, quê hương tổ quốc. Con đã về cho các hương linh, con đã về cho 7 triệu người chết trong cuộc chiến. Con đã về, con đã tới cho 82 triệu đồng bào còn sống. Trong những đang còn sống với con cũng còn có những người đang đi vòng, chưa về chưa tới được quê hương tâm linh đích thực của mình.”.

Từng bước chân, từng hơi thở, chúng tôi đã cầu nguyện như vậy. Chúng tôi thấy hiệu lực của sự chuyển hóa rất lớn.

Khi chúng tôi về quê hương kỳ này thì có một sư cô đã xin cụ Nguyễn Du một quẻ. Chúng tôi không biết ba trai đàn chẩn tế này có được thành công hay không ?. Đây là một Phật sự rất khó khăn. Có những người bên cực tả chống đối. Có những người bên cực hữu chống đối. Có người nói “Có oan gì đâu mà giải ?”. Kỳ thực là một cuộc chiến tranh như thế làm sao mà không có oan được. Trong truyện Kiều, sau 15 năm lưu lạc, khi nghe Kiều nhảy xuống sông tự tử thì gia đình Kiều lập một trai đàn giải oan cho Kiều ngay trên bờ sông Tiền Đường, vì họ tưởng rằng Kiều đã chết rồi.

Chiêu hồn thiết vị lễ thường
Giải oan dựng một đàn tràng bên sông

Chiêu hồn là gọi hồn về. Thiết vị là lập một bài vị. Lễ thường là theo truyền thống của mình khi có người chết là mình lập một trai đàn. 

Giải oan lập một đàn tràng bên sông

Chữ giải oan đó nằm trong kho tàng văn hóa của mình. Bên sông nào ? Chúng ta lập một trai đàn  bên sông Sài Gòn, bên sông Hương và bên sông Hồng để cầu nguyện cho những đồng bào chúng ta đã chết trong cuộc chiến tranh này.

Tôi muốn chia sẻ với quí vị những lời khấn nguyện chúng tôi đọc trong trai đàn đó.

Nạn xưa trút sạch làu làu

Đất nước chúng ta đã đi qua một cơn ác mộng. Bây giờ chúng ta có một vận hội mới. Chúng ta tới với nhau, ôm lấy nhau như những đồng bào ruột thịt. Không còn kỳ thị Nam Bắc, cộng sản hay không cộng sản thì chúng ta mới đối phó được với tình trạng bây giờ. Ngày xưa vua A Dục sau khi đã thống nhất được toàn cõi Ấn độ biết rằng mình đã gây ra những oan ức, vua bắt đầu tu học. Vua tiếp nhận 5 giới và 3 qui. Vua đã thực tập trồng cây đào giếng, làm công việc từ thiện và yểm trợ cho các tông phái ở Ấn độ. Cuối cùng vua đã thống nhất được lòng người. Chúng ta đã thống nhất được được đất nước. Chúng ta đang đi trên con đường thống nhất lòng người. Vì vậy trai đàn chẩn tế là một phương tiện để chúng ta tới được với nhau trong nghĩa đồng bào ruột thịt để chữa lành những thương tích. Người Bắc tới gần người Nam. Người Nam tới gần người Bắc. Người trong nước tới gần người ngoài nước. Người ngoài nước tới gần người trong nước. Đây là những lời khấn nguyện của người sống nói với ngươì chết :

Kính thưa liệt vị hương linh

Quý vị là cha chúng tôi, là chồng chúng tôi, là anh trai chúng tôi, là em trai chúng tôi, là con trai chúng tôi. Quý vị cũng là mẹ chúng tôi, là vợ chúng tôi, là chị gái chúng tôi, là em gái chúng tôi, là con gái chúng tôi.

Trong cơn binh lửa, trong cảnh tao loạn, quý vị đã bỏ lại hình hài quý giá của quý vị mà đi. Chúng tôi đã đánh mất quý vị. Quý vị hoặc đã chiến đấu một cách dũng cảm cho đất nước và đã chết hào hùng không hề thương tiếc thân mạng. Chúng tôi rất hãnh diện về quý vị. Nhưng quý vị cũng có thể đã bỏ mình trong những hoàn cảnh cực kỳ bi thương. Nỗi oan khổ không thể nào nói lên được. Trong rừng sâu, trên biển cả, nơi chốn tù đày, chết vì bom đạn hoặc vì bị kiệt sức, hoặc vì bị bức bách, hãm hiếp rồi bị sát hại mà không có phương tiện chống cự lại.

Có biết bao nhiêu quý vị đã ngã quỵ mà nắm xương tàn không biết đã được chôn vùi ở đâu. Nhnữg tai ương mà đất nước và dân tộc của chúng ta đã phải gánh chịu trong bao nhiêu năm tranh đấu cho độc lập, cho tự do thì chính quý vị là người đã phải gánh chịu nhiều nhất.

Chúng tôi, những người thân thuộc và đồng bào của quý vị, hôm nay tới đây thắp hương tưởng niệm quý vị hoặc thiết lập bàn thờ cho quý vị trước hiên nhà. Trong chúng tôi cũng có những người cũng còn tiếp tục gánh chịu oan khổ. Nhưng may thay cơn ác mộng đã qua rồi, đất nước đã được hòa bình. Dân tộc đang có cơ hội kiến thiết trở lại. Nhờ phúc đức tổ tiên chúng tôi hôm nay mới có cơ hội đến với nhau chính thức. Chắp tay nguyện cầu Tam Bảo nhờ pháp lực gia trì thỉnh cầu tất cả liệt vị trở về đoàn tụ cùng nhau, cầu nguyện để giải trừ nghiệp cũ, mở ra một hội mới, nhìn nhận nhau, ôm lấy nhau, thương lấy nhau như đồng bào ruột thịt, không còn phân biệt Bắc Nam, trai gái, già trẻ, chủng tộc, tôn giáo, đảng phái chính trị và  ý thức hệ. 

Tất cả chúng ta đều là đồng bào của nhau, gặp vận nước rủi ro trên đường tranh đấu cho độc lập tự do, bị dồn vào thế phải đối lập nhau. Vì tự vệ mà phải chống đối nhau. Nhưng phúc đức tổ tiên để lại vẫn còn cho nên hôm nay chúng ta mới được trở về lại với nhau, nhìn nhận nhau như đứa con một nhà. Mình hứa với nhau là phải học cho thuộc cái bài học đau thương trong quá khứ. Nguyện từ nay về sau không để cho đất nước bị chia cắt một lần nào nữa. Nguyện từ nay về sau khi có khó khăn về nội bộ sẽ không nhờ một thứ thế lực ngoại bang nào can thiệp. Nguyện từ nay về sau sẽ không khởi sự một cuộc chiến tranh ý thức hệ nào nữa. Từ nay về sau sẽ không sử dụng vũ khí bên ngoài để tranh đấu với nhau nữa. Nguyện từ nay về sau sẽ nổ lực xây dựng một xã hội thực sự dân chủ để có thể giải quyết mọi bất đồng bằng những phương thức hòa bình dân chủ mà không phải xử dụng đến những phương tiện bạo động đến đồng bào.

Lạy chư vị tổ tiên huyết thống và chư vị tổ tiên tâm linh chứng minh. Trước mặt quý ngài chúng con xin kính cẩn phát nguyện như thế và chúng con biết rằng một  phen đã phát nguyện như thế thì mọi oan ức, mọi khổ đau sẽ được hoàn toàn giải tỏa và những vết thương đã hằn sâu trong lòng chúng con sẽ được bắt đầu chữa lành.

Hôm nay Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan được thành lập. Mọi nhà đều có thiết lập bàn thờ cầu nguyện. Chúng con ngưỡng nguyện ơn trên Tam Bảo độ thoát cho tất cả mọi hương linh để tất cả được nương vào pháp lực vô song mà chuyển hóa siêu thăng. Chúng tôi và các con cháu nguyện sẽ lên đường để tiếp tục chí hướng của liệt vị hương linh. Chúng tôi nguyện mang quý vị trong trái tim để đi về hướng tình huynh đệ và nghĩa đồng bào và luôn luôn nhớ rằng bầu và bí đều có thể leo chung một giàn, gà một mẹ đừng bôi mặt đá nhau, và tuệ giác ấy của tổ tiên sẽ soi đường chỉ lối cho chúng ta bây giờ và mãi mãi.

 

Cho đất nước đi lên

Vì chúng tôi khởi hành vào ngày mồng bốn tết trong chuyến về lần thứ hai nên ngày mồng một tết chúng tôi xin một quẻ Kiều. Một sư cô thay mặt tất cả các tăng thân xin một quẻ thì cụ Nguyễn Du ban cho như thế này ;

Người đâu hiếu nghĩa đủ dường
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây

Chúng tôi mới tự đoán như thế này:

Người Việt chúng ta ai cũng có hạt giống của hiếu và của nghĩa. Chính cái hiếu và cái nghĩa làm nền tảng tinh thần để xây dựng nên đất nước và dân tộc này. Chúng ta có hiếu và có nghĩa, chúng ta phải sống như thế nào để mỗi ngày hạt giống hiếu nghĩa được tưới tẩm cho lớn lên. Khi chúng ta nghi ngờ nhau, giận hờn nhau làm khổ nhau thì hạt giống hiếu nghĩa trong ta bé lại. Vì vậy sự tu tập trong đời sống hằng ngày rất là quan trọng. Dòng Tào Khê, nếp sống tâm linh trong mỗi người chúng ta phải được nuôi dưỡng. Nếu chúng ta có một nếp sống tâm linh trong đời sống hằng ngày thì chúng ta sẽ không tự đánh mất chính mình và chúng ta sẽ có cơ hội để tưới tẩm hạt giống của ân nghĩa, của hiếu để trong ta. Khi năng lượng của hiếu nghĩa trong ta lớn mạnh thì chúng ta có thể nhìn nhận nhau như anh em trong một nhà, như đồng bào ruột thịt. Chúng ta có một súc mạnh rất lớn, có thể chống lại được bất cứ âm mưu xâm chiếm nào của Bắc phương hay của Tây phương. Nếu ta thực tập được như thế, tưới tẩm những hạt giống của hiếu và nghĩa thì ta sẽ đoàn kết thành một khối. Trong tình huynh đệ, nghĩa đồng bào đó thì những khổ đau oan ức thuộc về quá khứ. Câu thứ hai nói rất rõ :

Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây.

Trong bao nhiêu năm chúng ta đã gánh chịu cái thân phận của Thúy Kiều. Thúy Kiều đã từng đi với Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Thúc Sinh, Từ Hải. Chúng ta ngày xưa bắt buộc phải đi với Tàu, Pháp, Nhật, Mỹ và chúng ta đã khổ nỗi khổ của Thúy Kiều. Bây giờ cơn ác mộng đã qua rồi, kiếp đoạn trường của ta chấm dứt vì chúng ta có cơ hội tưới tẩm hạt giống của hiếu và nghĩa. Cụ Nguyễn Du đã cho một quẻ đại cát :

Người đâu hiếu nghĩa đủ dường
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây

Chúng ta có thể tin vào tương lai của đất nưóc, của dân tộc.

Xin cám ơn quí vị.

 

---------------------------------------------

Phát biểu của ông Nguyễn Phú Bình, thứ trưởng bộ ngoại giao, chủ tịch ủy ban người Việt Nam tại nước ngoài :

Kính thưa Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai, kính thưa quí vị,

Chúng ta đã có một buổi chiều hết sức có ý nghĩa. Ngày hôm nay chúng tôi rất vui mừng được nhắc lại cách đây hai năm cũng tại địa  điểm này chúng ta đã đưọc đón thiền sư thích Nh1ât Hạnh và tăng thân LàngMai đến thăm trong chuyến đi lần thứ nhất. Khi đó chúnmg ta cũng có một cuộc nói chuyện, trao đổi, chủ yếu là lắng nghe ý kiến của thiền sư về rất nhiều vấn đề mà chúng tôi bây giờ vẫn còn nhớ. Ngày hôm nay chúng ta cũng lại được nghe một buổi nói chuyện của thiền sư về văn hóa mà văn hóa cũng gắn liền với xã hội, đất nước, gắn liền với vận mệnh của dân tộc chúng ta. Chúng tôi rất xúc động thấy đưọc tấm lòng, sự uyên bác, sự sâu sắc trong bài pháp thoại của thiền sư, nhưng chúng nghĩ cao hơn cả là tấm lòng.

Chúng ta đều nghĩ rằng ở trong mỗi con người, mỗi trái tim của chúng ta đều có Đức Phật mặc dù chúng ta có thể theo tôn giáo này hay tôn giáo khác, ta có thể giữ cương vị này hay  cương vị khác. Tôi cho rằng trái tim mỗi người trong chúng ta đều có tâm đức, sự hướng thiện và chúng ta đều mong muốn có tình huynh đệ, có tình cảm sâu sắc giữa con người với con người. Chúng tôi nhận thấy những điều mà thiền sư vùa nêu ra rất tương đồng với những gì mà chúng ta đang theo đuổi. Chúng ta đang muốn xây dựng một xã hội vì tất cả những con người, một xã hội mà trong đó chúng ta bỏ qua tất cả những gì xẩy ra trong quá khứ, với tinh thần đại đoàn kết dân tộc để chúng ta xây dựng một đất nước mạnh giàu, để dân tộc chúng ta vươn lên.Chúng ta tận dụng thời gian làm sao để đuổi kịp các nước khác sau mấy chục năm bị cảnh chiến tranh, nhưng cũng chỉ vì sự nghiệp giải phóng đất nước.

Hôm nay ở đây, rất tiếc là chúng ta không có nhiều thời gian. Chắc là rất nhiều quí vị ở đây cũng có rất nhiều câu hỏi hay muốn thiền sư nói chuyện thêm về khía cạnh này hay khía cạnh khác cả những vấn đề về đạo Phật, văn hóa. Một điều mà chúng tôi rất là cảm động là sau mấy chục năm xa đất nước mà trong con ngưòi, trong trái tim thiền sư vẫn chứa đầy tâm hồn Việt, văn hóa Việt.

Có lẽ tất cả chúng ta ở đây không ít thì nhiều đều cũng có đọc vài câu Kiều. Nhưng có lẽ không nắm được cái sâu sắc như thiền sư đã phân tích cho chúng ta. Chúng ta thấy truyện Kiều rất là gần gũi nhưng hôm nay chúng ta cũng thấy rất mới lạ qua sự phân tích, cách nói của thiền sư về tuệ  giác của đạo Phật trong truyện Kiều. Nhưng chúng ta cũng thấy rất nhiều triết lý và những vấn đề khác mà thiền sư đề cập đến như tình người. Làm thế nào để nghĩ đến vấn đề đó trong một xã hội phức tạp, nhất là vào lúc này, khi chúng ta hội nhập với quốc tế. Có bao nhiều vấn đề mới mà khi vào đấy chúng ta phải tiến với các nước khác. Trong nước ta cũng có những cuộc tranh đua, tuy là vì những mục tiêu chính đáng nhưng cũng khiến cho chúng ta do vì rất là bận bịu như thế mà thiếu sót, không chiếu cố đến. 

Hôm nay sự phát biểu và phân tích của thiền sư cho chúng ta thấy rằng chúng ta có thể làm được. Chúng ta vừa gắng sức để xây dựng một xã hội mới nhưng mà xã hội này không phải chỉ chú trọng đến vật chất mà còn có văn hóa, tinh thần và trong đó có cả tâm linh. Buổi nói chuyện ngày hôm nay chúng tôi ghi nhận là chúng tôi có rất nhiều cảm xúc không thể nào nói hết được.

Có một điều nữa mà chúng tôi muốn nhắc đến. Đây là lần thứ hai mà thiền sư và tăng thân Làng Mai về thăm đất nước và có những hoạt động rất bổ ích, sôi nổi khắp cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Ngoài những cuộc thăm viếng, những bài giảng ở nhiều địa điểm khác nhau thì trai đàn chẩn tế được tiến hành ở 3 miền là một hoạt động rất có ích. Cùng với trung ương và giáo hội Phật giáo Việt Nam quí vị đã tạo được sự thành công rất lớn trong việc tổ chức những trai đàn để chữa lành những nỗi đau của đất nước. Hiện nay chúng ta còn những nỗi đau, những vết thương của chiến tranh mà chúng ta đang cố gắng, nhà nước cũng đang cố gắng cùng toàn dân xóa bỏ.

Hôm nay chúng ta nghe những điều thiền sư vừa nói và nhắc lại những phát biểu hoặc những nội dung mà thiền sư nêu trong bài khấn nguyện trong trai đàn tại 3 miền thì chúng tôi cho rằng rất có ý nghĩa giúp cho đất nước chúng ta vượt qua những khó khăn của quá khứ trước đây và chúng ta tiến tới một xã hội mà con người đến với nhau, thương yêu nhau.

Cúng tôi rất vui mừng thấy rằng sau lần trở về lần trước thi thiền sư rất mạnh khỏe, thông tuệ, những lời nói của thền sư rất khúc chiết, đơn giản, nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc. Chúng tôi vẫn thấy được điều đó. Chúng tôi cũng vui mừng thấy được các vị tăng thân Làng Mai ngồi đây, không phân biệt quốc tịch nào cả, người gốc Việt rất nhiều nhưng cũng có nhiều vị từ các quốc tịch khác hôm nay cùng về đây với đất nước Việt Nam. Chúng tôi nghĩ đây là một biểu hiện tốt, một biểu hiện rất rõ ràng của sự hội nhập, mở cửa của đất nước chúng ta.

Chúng tôi rất mong thiền sư giữ gìn sức khỏe và tiếp tục có những hoạt động rất hữu ích. Chúng tôi rất mong muốn được đón thiền sư về thăm Việt Nam vào những dịp khác nữa trong tương lai, rất mong được đón tất cả quí vị tăng thân Làng Mai không phân biệt quốc tịch nào về thăm Việt Nam. Chúng tôi coi đây là một gắn kết giữa trong và ngoài. Thưa  thiền sư và quí vị, chúng tôi ở bộ ngoại giao, thuộc ủy ban người Việt tại nước ngoài làm nhiệm vụ làm sao gắn kết được đồng bào trong nước và đồng bào ngoài nước. Chúng tôi thực hiện phương châm của đảng và nhà nước coi người việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc, là nguồn lực của dân tộc. Chíng vì vậy mà sự đóng góp qua lần về nước này của thiền sư và tăng thân Làng Mai cũng như lần trước là một sự đóng góp thật là to lớn cho sự nghiệp của đất nước, nhất là sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc và tất cả những người thuộc những tôn giáo khác nhau.

Quá khứ có thể có nhiều khúc mắc, có những vấn đề khác như là quốc tịch khác nhau kể cả những người ra nước ngoài, ra đi vì những lý do khác nhau nhưng tất cả đều là đồng bào của một dân tộc. Bây giờ mở rộng hơn nữa là chúng ta có nhiều anh em có những quốc tịch khác, là nhân dân của nhiều quốc gia khác hôm nay về với chúng ta trong một làn sóng mà có rất nhiều người nước ngoàì đến Việt Nam. Hôm nay chúng tôi một lần nữa xin hết sức biết ơn thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai đã dành thì giờ quí báu để đến và cho chúng tôi những bài phát biểu, những lơì lẽ triết lý cũng như tình cảm hết sức quí báu.

Chúng tôi xin chúc tất cả những người ở đây, với một tinh thần mới, một tấm lòng mới, cởi mở, hòa đồng với nhau. Chúng ta có thể có tương lai rất tốt đẹp như thiền sư nói, rất đơn giản, chúng ta tận dụng những hạnh phúc chúng ta đang có để tạo dựng một hạnh phúc mới với tinh thần hòa đồng và cởi mở như thiền sư đã nhắc nhở.

Một lần nửa xin cám ơn thiền sư và các vị tăng thân Làng Mai. Cám ơn tất cả các vị đã đến tham dự, lắng nghe và chia sẻ những điều thiền sư vừa nói với chúng ta. Xin cám ơn.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.