Sáng thứ ba 24/4/2007, Hòa thượng Nhất Hạnh đã có buổi pháp
thoại và chia sẻ với Tăng Ni sinh Trường Trung cấp Phật học
Hà Nội tại chùa Bằng A. Hơn 2000 Phật tử ngồi kín sân chùa
cùng nghe pháp. |
Kính
thưa quí vị tôn túc, quí thầy, quí sư cô, quí Phật tử và quan
khách.
Tăng thân Làng Mai sẽ xướng tụng bài Sở Hữu Thập Phương Thế
Giới Trung bằng tiếng Việt để mở đầu cho buổi pháp thoại
ngày hôm nay.
Khi
nghe chúng ta ngồi cho ngay ngắn, thoải mái. Hãy mở lòng ra để
cho năng lượng của Bồ tát Phổ Hiền đi vào làm lắng dịu những đau
nhức trong thân và tâm của chúng ta. Chúng ta hãy đem tâm trở về
với thân, có mặt thật sự ở đây, trong giờ phút này, buông thư
tất cả những căng thẳng trong châu thân và ngưng tất cả mọi suy
nghĩ, lo toan về ngày mai để có thể có mặt thật sự mà tiếp nhận
năng lượng của Bồ tát. Năng lượng này có thể chuyển hóa những
khổ đau cũng như những tật bệnh trong thân và trong tâm của
chúng ta.
Nếu
chúng ta có một người thân bị bệnh, không tới được hôm nay thì
chúng ta cũng truyền năng lượng này về cho người ấy bằng cách
nghĩ tới hoặc gọi tên người đó. Năng lượng của Bồ tát và tăng
thân sẽ được truyền về ngay lập tức trong giờ này.
Quí
thầy, quí sư cô xướng tụng bài Mười Nguyện Phổ Hiền (Sở
Hữu Thập Phương Thế Giới Trung). Xin mời đại chúng nhiếp tâm
lắng nghe.
Thân tâm an lạc
Có một
lần tôi thuyết pháp bên Đại Hàn cho năm, sáu trăm sư cô. Trong
khi tôi thuyết pháp các sư cô người nào cũng nhìn xuống hết,
không ai dám nhìn lên. Sau chừng mười lăm phút, tôi nói: “Tôi
không thuyết pháp được nữa. Phải nhìn lên thì tôi mới biết tôi
đang nói với ai”. Nhưng các sư cô cũng không nhìn lên được, vì
các sư cô đã thực tập như vậy lâu ngày, thấy đàn ông con trai
thì không được nhìn.
Khi
sang Trung quốc, tôi cũng thuyết pháp cho một chùa ni gần Tây
Hồ.
Chùa đó tu về Tịnh độ. Trước khi thuyết pháp, tôi đưa ra một
điều kiện: “Nếu các sư cô nhìn lên thì tôi nói, nếu các cô cúi
xuống thì tôi sẽ không nói nữa. Tại chùa Nam Hoa của
lục
tổ
Huệ Năng, có một lần tăng thân Làng Mai giao lưu với các thầy
tại Phật học viện chùa, một bên là các sư cô ngồi, một bên là
các thầy người Hoa ngồi. Tôi hỏi chơi: các sư cô không dám
nhìn các thầy, nhưng các thầy có dám nhìn các sư cô không ?”.
Đây
là một câu hỏi hướng về các thầy chùa Nam Hoa. Có một thầy gải
đầu trả lời: “Các thầy nhìn các sư cô được chứ, nhưng khi
nhìn phải quán chiếu các sư cô là những cây củi khô mới được”.
Tôi
thấy câu trả lời đó không ổn.
Bên
Làng Mai, các thầy, các sư cô sinh hoạt với nhau như anh em
trong một nhà. Khi nói chuyện với nhau họ nhìn thẳng vào mắt
người đối diện mà nói, không sao hết. Có giới luật, có uy nghi
rồi thì họ không sợ gì hết. Vì thế tạo được một tình huynh đệ
rất vững chãi giữa các sư cô với nhau, giữa các thầy với nhau và
giữa các thầy các sư cô với nhau.
Bây
giờ, các sư cô phải nhìn lên tôi mới nói chứ nếu cứ cúi xuống
tôi không nói nữa.
Hồi
nãy tôi đi vào thì các sư cô nhìn xuống đất hết, không ai dám
nhìn lên,
dù là
rất muốn. Đó là một phần của truyền thống mà trong thế kỷ thứ 21
mình phải xét lại. Nếu quí vị nhìn lên quí vị sẽ thấy tôi ngồi
rất thoải mái, thảnh thơi. Tôi không lo lắng, vội vã. Tôi rất
thong dong, ngồi ở đây cũng như ngồi ở chùa bên Pháp hay bên
Đức.
Ngồi
yên là hiến tặng cho đời sự an bình
Khi
chúng ta tạc tượng đức Thế Tôn để thờ, chúng ta thường để ngài
ngồi trên một tòa sen. Làm sao mình ngồi mà bông sen không bẹp
dí xuống? Tòa sen mà đức Thế Tôn ngồi tượng trưng cho sự tươi
mát, nhẹ nhàng, tinh khiết, thảnh thơi. Khi mình ngồi yên, thảnh
thơi, tươi mát, hạnh phúc thì giống là mình đang ngồi trên một
tòa sen. Nếu như mình ngồi bồn chồn, lo lắng, sầu khổ, bực bội,
sợ hãi thì mình không ngồi trên tòa sen, mình đang ngồi trên một
đống lửa, mình ngồi không yên.
Trong
khi đó đức Thế Tôn ngồi rất yên, rất tươi mát, rất nhẹ nhàng
trên tòa sen. Mình là đệ tử của đức Như Lai, mình là con trai,
con gái của ngài, mình phải học ngồi như ngài, ngồi yên, ngồi
cho thoải mái, an lạc. Mình phải học ngồi từ bây giờ, trong giây
phút hiện tại. Xin các thầy, các sư cô, các Phật tử ngồi như thế
nào để như ngồi trên một tòa sen, đừng ngồi trên một đống lửa.
Ngồi
yên tiếng Hán Việt là an tọa. Xin mời đại chúng an tọa
nghĩa là xin mời đại chúng ngồi yên. Xin mời đại chúng ngồi
trên tòa sen, đừng ngồi trên đống lửa. Ngồi yên, chỉ một
việc đó thôi thì chúng ta cũng đã có hạnh phúc rồi. Trong khi
tôi ngồi yên thì tôi có sự bình an, sự thảnh thơi tươi mát trong
lòng. Khi ngồi yên như vậy tôi hiến tặng cho quí vị sự tươi mát,
thảnh thơi, thong dong của tôi. Đó là một món quà để hiến tặng
cho quí thầy, quí sư cô, quí Phật tử. Khi quí vị ngồi yên được,
ngồi trên một tòa sen, không lo lắng, sầu khổ, không nghĩ tới
chuyện hôm qua, ngày mai hay tối nay, quí vị hoàn toàn có mặt
thật sự ở đây trong giờ phút này, có nụ cười, có ánh mắt tươi
mát thì quí vị cống hiến cho chúng tôi sự có mặt đẹp đẽ của quí
vị. Cho nên ngồi yên là một tặng phẩm của chúng ta dể dâng lên
Đức Thế Tôn, dâng lên các thầy, các sư cô và các bạn tu của
chúng ta. Ngồi yên là một sự thực tập.
Bất cứ
ở đâu chúng ta cũng có thể ngồi yên được. Dưới một gốc cây, trên
một tảng đá, trên bãi cỏ, ngoài bờ biển, trên một chiếc chiếu
hay trong toa xe lửa chúng ta cũng có thể ngồi yên được. Nếu
ngồi yên được như thế thì chúng ta đã là sự tiếp nối đẹp đẽ của
đức Thích Ca, đức Bổn Sư rồi. Điều đầu tiên mà chúng ta phải
học, phải tập cho được là ngồi yên ( an tọa ). Trong khi chúng
ta an tọa, ngồi yên thì chúng ta không lo lắng, sầu khổ, bồn
chồn, không có sự thúc đẩy đứng dậy làm cái này, cái kia.
Trong
quá khứ chúng ta đã từng bị đói. Cha ông của chúng ta đã từng
trải qua giai đoạn đói cho nên chuyện ngồi yên đối với nhiều
người được nhận xét như là một xa xỉ phẩm. Chúng ta đã từng qua
một trận đói cho nên mỗi khi có một chút thì giờ thì chúng ta
nghĩ cần phải làm một cái gì đó để sản xuất thêm, để chất chứa
thêm sản phẩm, để có một ít tiền dành dụm. Chuyện ngồi không,
không làm gì hết trở thành một xa xỉ phẩm. Chúng ta đã học thói
quen luôn luôn phải làm một cái gì, luôn luôn bận rộn, ngồi yên
thì chịu không nỗi. Hai tay phải luôn luôn làm một cái gì, ngồi
yên như thế này, không làm gì hết đối với nhiều người trong
chúng ta là một điều rất khó.
Trong
khi đó giáo lý đạo Phật dạy chúng ta trước hết là phải học ngồi
yên. Chúng ta có những bất an trong cơ thể, trong lòng, và những
bất an đó làm cho chúng ta không có hạnh phúc. Tu tập trước hết
là phải làm cho thân an rồi sau đó làm cho tâm an.
Có an thì mới có lạc. Lạc tức là hạnh phúc.
Hạnh phúc làm gì có được nếu thân và tâm không an ?. Trong kinh
đức
Thế
Tôn dạy ta thực tập để làm cho thân an trước. Như kinh An
Ban Thủ Ý là kinh dạy về phương pháp thở, có những bài tập
như :
Tôi
đang thở vào và tôi ý thức được sự có mặt của thân thể tôi
Thở
vào tôi thấy được sự có mặt của toàn thân tôi
Thở ra tôi làm lắng dịu những đau nhức trong toàn thân tôi
Trong
kinh Quán Niệm Hơi Thở có cụm từ Nhất thiết thân hành giác.
Nhất thiết thân hành là toàn thân. Thân gọi là thân hành,
tâm gọi là tâm hành. Nhất thiết thân hành giác là ý thức được
sự có mặt của toàn thân. Nhất thiết thân hành tức,
chữ tức phía trên có chữ tự và phía dưới có chữ
tâm có nghĩa là làm lắng dịu lại, làm buông thư. Đó là những
chữ trong kinh An Ban Thủ Ý, dịch ra tiếng Việt là thế này :
Thở
vào tôi ý thức được sự có mặt của toàn thân
Thở ra
tôi buông thư hoặc làm lắng dịu tất cả những căng thẳng trong
toàn thân tôi.
Đó là
bài tập thứ ba và thứ tư trong kinh An Ban Thủ Ý. Mình phải làm
cho thân an trước khi mình có thể làm cho tâm an. Làm cho tâm an
thuộc về bài tập thứ sáu và thứ bảy trong Kinh An Ban Thủ Ý. Tôi
đã dịch Kinh An Ban Thủ Ý từ tiếng Pali sang tiếng Việt, tiếng
Anh, tiếng Pháp. Tôi cũng đã dịch Kinh An Ban Thủ Ý từ tiếng Hán
sang tiếngViệt, tiếng Anh, tiếng Pháp. Tôi đã chú giải, đem ra
cho đại chúng thực tập và tôi đã hướng dẫn thiền sinh Tây phương
thực tập. Kinh An Ban Thủ Ý là một thiền phổ rất mầu nhiệm. Có
những bài tập giúp mình làm cho những căng thẳng trong thân lắng
dịu lại rồi tiếp đó mình làm cho những lo âu, đau nhức trong tâm
lắng dịu lại. Rất là hay ! Nếu quí vị không thực tập thì rất
uổng. Tôi hy vọng quí vị nghiên cứu Kinh An Ban Thủ Ý và bắt đầu
đem áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình.
Có sự
bất an, căng thẳng, đau nhức trong thân. Cuộc đời, sự sống hằng
ngày của chúng ta rất là bận rộn vì vậy mỗi ngày chúng ta chất
chứa sự đau nhức, căng thẳng trong thân. Nếu như sự căng thẳng
đó bị dồn chứa quá nhiều thì nó sẽ sinh ra không biết bao nhiêu
là chứng bệnh. Đức Thế Tôn dạy chúng ta phải làm lắng dịu hình
hài, thân thể chúng ta. Trong tư thế ngồi mình có thể buông thư.
Trong tư thế đi mình cũng có thể buông thư. Trong tư thế đứng
mình cũng có thể buông thư. Đây là chuyện chúng ta phải nắm cho
được và thực tập trong đời sống hằng ngày. Mỗi khi ngồi tôi muốn
ngồi thư thái, tôi không muốn ngồi trên đống lửa. Tôi muốn ngồi
trên tòa sen thôi và tôi đã ngồi được. Có những người đệ tử của
tôi xuất gia hay tại gia cũng ngồi được trên tòa sen như tôi.
Kể cả những người đệ tử tại gia gốc Mỹ châu hay Âu châu cũng làm
được như thế. Tôi rất vui khi có những người đệ tử có khả năng
ngồi trên hoa sen. Họ đã từng ngồi trên đống lửa lâu năm rồi. Họ
thấy ngồi trên đống lửa không có hạnh phúc nên họ cố thực tập để
ngồi được trên hoa sen.
Tôi
mong rằng các thầy, các sư cô, các Phật tử ở đây người nào cũng
có cơ hội hạ thủ công phu, ngồi như thế nào để có an, có lạc.
Lạc là hạnh phúc, an là sự bình yên. Chúng ta sống trong tình
trạng bất an, bất an của cơ thể, của tâm hồn, vì vậy chúng ta có
quá nhiều khổ đau. Chúng ta phải đem yếu tố an cho hình hài và
cho tâm hồn. Ngồi yên không phải là chuyện dễ. Chúng ta phải tập
mới ngồi yên được. Đó là điều kiện căn bản để làm đệ tử đức Như
Lai, tại vì đức Như Lai, thầy của chúng ta là người có khả năng
ngồi yên. Ngồi yên không phải là không làm gì hết. Ngồi
yên là hiến tặng cho đời sự an bình.
Ông
Nelson Mandala là cựu tổng thống nước Nam phi. Trưóc khi làm
tổng thống, ông là tù nhân chính trị suốt mấy chục năm. Sau khi
được phóng thích,
dân
chúng bầu ông lên làm tổng thống. Mấy năm sau đó ông sang thăm
Pháp. Báo chí phỏng vấn ông có hỏi một câu như thế này : “Thưa
tổng thống, chúng tôi biết là ngài rất bận rộn trong chức vị
mới. Vậy trong đời sống hằng ngày ngài ưa làm gì nhất ? Ông trả
lời: “Cái tôi mong mỏi nhất là được ngồi yên, khỏi phải làm gì
hết. Từ ngày tôi được phóng thích từ nhà tù ra tới bây giờ ba,
bốn năm tôi chưa bao giờ có cơ hội được ngồi yên không làm gì
hết. Tôi luôn luôn bận rộn, lo lắng, không có giờ phút nào cho
tôi hết. Cái tôi khao khát, ưa muốn nhiều nhất là được ngồi
yên.” Báo chí đã đăng câu trả lời đó của tổng thống Nelson
Mandala và tôi có đọc. Trong lòng tôi có một dấu hỏi. Ông tổng
thống này muốn ngồi yên, cái đó đúng. Nhưng nếu ông có hai ba
giờ, hai ba ngày, hay một tuần để ngồi yên thì liệu ông có ngồi
yên được không, một khi chưa bao giờ ông được học phương pháp
ngồi yên cả ?
Khi tu
thiền mình học ngồi trước, và ngồi như thế nào để yên được.
Trong thân mình có những căng thẳng, đau nhức, trong tâm mình có
những tư tưởng, những kích thích, sầu khổ làm cho mình không thể
ngồi yên được. Có những chướng ngại tới từ thân hoặc từ tâm
không cho mình ngồi yên được.
Chúng
ta đang ở trong ngôi nhà Phật giáo, chúng ta có nhiều kinh điển,
có nhiều cơ hội thực tập để có thể ngồi yên. Ngồi yên có thể có
nhiều hạnh phúc. Ngày xưa Đức Thế Tôn đã ngồi yên và đã dạy cái
vị đệ tử xuất gia đã ngồi yên. Nói như thế không có nghĩa là Đức
Thế Tôn không làm gì hết. Trong bốn mươi lăm năm hành đạo, ngài
đã hóa độ không biết bao nhiêu người thoát ra khỏi trạng huống
sầu khổ, bế tắc, từ vua quan cho tới hàng thương gia, dân lao
động. Đức Thế Tôn tuy ngồi yên nhưng ngài làm được rất nhiều.
Ngồi yên không có nghĩa là ăn không ngồi rồi, ngồi mát ăn bát
vàng. Ngồi yên là căn bản mà nếu không có thì những hoạt
động của mình không thể có giá trị.
Chúng
ta có những công việc gọi là Phật sự. Chúng ta lăng xăng vì
những cái đó trong khi đó tâm ta không yên, ta không điều phục
được những tâm hành tiêu cực, giận hờn, lo lắng, buồn khổ. Ta
đánh mất ta trong hành động. Những hành động gọi là Phật sự
đó, thật sự chưa phải là Phật sự. Làm chùa, đúc chuông, tô tượng
trong trạng thái lo lắng, sầu khổ, bực bội không có giá trị bao
nhiêu. Nền tảng của Phật sự là sự bình an trong thân và tâm. Mặc
dù mình chưa làm chùa, đúc chuông, tô tượng nhưng ngồi yên được
thì đó đã là Phật sự rồi. Đó là Phật sự căn bản : ngồi yên để
cho người ta thấy được bình an là giáo lý có thể thực hiện được.
ngồi
giữa gió xuân
Trong
kho tàng văn học Phật giáo có danh từ ngồi giữa gió xuân
( tọa xuân phong ). Tọa là ngồi, xuân là
mùa xuân, phong là gió. Tọa xuân phong là ngồi trong gió
mát mùa xuân. Khi mà thầy trò được ngồi với nhau trong tình thầy
trò, huynh đệ được ngồi với nhau trong tình huynh đệ, được nuôi
dưỡng bởi chánh pháp thì mình có hạnh phúc như là mình đang được
ngồi giữa gió mùa xuân. Mình chỉ cần ngồi thôi là mình có thể
hiến tặng sự thảnh thơi, tươi mát, hạnh phúc, an bình của mình
cho những người khác và mình tiếp nhận được sự tươi mát thảnh
thơi của thầy mình, của bạn tu mình. Nội việc ngồi với nhau đã
có thể đem lại rất nhiều hạnh phúc. Ngồi như thế gọi là ngồi
giữa gió xuân. Mong rằng trong giờ phút này tất cả chúng ta đang
ngồi giữa gió xuân, không bồn chồn lao xao, không đi tìm kiếm
một cái gì hết. Chúng ta cứ việc ngồi với nhau như thầy trò, như
huynh đệ, bằng hữu thì đó là một hạnh phúc rất lớn. Có hạnh
phúc
đó rồi thì những công tác của chúng ta sẽ có ý nghĩa.
Trong
kinh có kể, một lần có khoảng năm trăm vị tỳ khưu sau mùa kiết
hạ an cư thì đến thăm
Đức
Thế Tôn
tại thành Xá Vệ. Các vị đó đến thăm ngài vào lúc sáu bảy giờ
tối. Thầy A Nan đưa họ vào ngồi với đức Thế Tôn. Thầy trò ngồi
với nhau không nói gì hết. Đức Thế Tôn không nói gì hết và các
thầy cũng không hỏi câu nào hết. Thầy trò ngồi với nhau như vậy
cho tới khuya. Thầy A Nan nóng ruột. Thầy lúc đó còn trẻ, thầy
rón rén tới gần đức Thế Tôn quì xuống một bên, nói vào tai ngài:
“Bạch Đức
Thế Tôn, bây giờ đã mười một giờ khuya rồi. Ngài có điều gì dạy
bảo các thầy thì xin ngài nói.” Đức Thế Tôn tiếp tục ngồi không
trả lời. Thầy A Nan phải rút lui. Đức Thế Tôn và năm trăm thầy
ngồi yên cho tới một giờ khuya. Thầy A Nan nóng ruột tới nói vào
tai đức Thế Tôn
:
”Bạch
Đức
Thế Tôn, bây giờ đã là một giờ khuya rồi, ngài muốn dạy dỗ gì
các huynh đệ thì xin ngài nói.” Đức Thế Tôn tiếp tục ngồi yên,
các thầy cũng ngồi yên, không ai nói, không ai hỏi gì hết. Cứ
thế mà họ ngồi cho tới năm giờ sáng. Thầy A Nan lập lại lần thứ
ba nữa : “Bạch
Đức
Thế Tôn, bây giờ đã rạng sáng. Ngài có muốn nhắn nhủ gì với các
huynh đệ, xin ngài nói đi.” Lúc bấy giờ đức Thế Tôn mới ngoảnh
sang thầy A Nan mà nói như thế này : “Thầy A Nan, thầy muốn tôi
nói cái gì ?. Thầy trò ngồi như vậy không đủ hạnh phúc sao mà
cần phải nói thêm gì nữa ? ”
Đọc
đoạn kinh đó tôi rất là tâm đắc. Tôi thấy rõ ràng là thầy trò
ngày xưa ngồi rất hạnh phúc với nhau trong tình thầy trò, tình
đạo bạn, tình huynh đệ, trong tinh thần của giáo pháp. Bên Pháp,
bên Đức, bên Mỹ nhiều khi chúng tôi ngồi với nhau không nói gì
hết, ngồi giờ này sang giờ khác. Chúng tôi được nuôi dưỡng rất
nhiều bằng nhũng giây phút như thế. Khi mình biết rằng thầy mình
đang có mặt ở đó, đệ tử, huynh đệ của mình đang có mặt đó và
mình hiến tặng sự có mặt nhẹ nhàng tươi mát, thảnh thơi cho nhau
thì đó là mình nuôi nhau, nuôi nhau bằng sự thực tập. Căn bản
của sự thực tập là mình có thể ngồi yên.
Trong
nền văn hóa mới thế kỷ thứ 21, hầu hết chúng ta không ai có khả
năng ngồi yên. Chúng ta luôn luôn bận rộn, ta không có thì giờ
để ngồi yên, để có mặt cho những người chúng ta thương, để chăm
sóc và thương yên những ngươì mà chúng ta đã nguyện thương yêu.
Mình có thể là một nhà doanh thương tài ba, mình có thể làm ra
được rất nhiều tiền hoặc có một sự nghiệp rất lớn nhưng mình
không có thì giờ cho mình. Mình không có thì giờ để thở như tổng
thống Nam Phi không có thì giờ để ngồi yên. Mình không có mặt,
không hiến tặng sự có mặt tươi mát của mình cho vợ mình, con
mình, chồng mình. Không có thì giờ để sống. Đó là tình trạng của
thế kỷ thứ 21.
Có rất
nhiều nhà lãnh đạo chính trị, lãnh đạo thương mãi, quân sự, kinh
tế thành công trong sự nghiệp của họ, nhưng họ không có thì giờ
để sống, để ngồi yên. Họ không thì giờ để thương yêu, chăm sóc
bản thân và những người trong gia đình họ. Tuy có nhiều tiền,
nhiều quyền lực, nhưng họ không có hạnh phúc.
Khi
mình ngồi yên thì mình có cơ hội hiến tặng sự tươi mát của mình
cho những người mình thương. Buổi sáng trước khi các cháu đi
học, trước khi mình đi làm thì mình phải tổ chức như thế nào để
tất cả những người trong gia đìng có cơ hội ngồi ăn sáng chung,
đừng vội vã, hấp tấp. Chúng ta có mặt với nhau như một đoàn thể,
một gia đình.
Buổi
sáng thường thường chúng ta rất vội vã. Chúng ta vớ tờ báo, giở
ra xem có tin tức gì mới hay không, nhất là thị trường chứng
khoán lên xuống như thế nào. Ta dùng tờ báo đó để che mặt người
thương của chúng ta. Trước mặt ta là người vợ, người con trai,
con gái, là người chồng, nhưng chúng ta không có nhu yếu nhìn
người đó và công nhận sự có mặt quý gíá của người đó. Chúng ta
lo nghĩ đến thị trường chứng khoán lên xuống, tìm kiếm tin tức
dính líu đến sự nghiệp của chúng ta. Chúng ta đưa tờ báo lên che
mặt người thương, ăn qua loa vài miếng để đi làm. Buổi ăn sáng
như vậy là sự phá sản của văn hóa.
Tôi
muốn trong gia đình phải tổ chức như thế nào để buổi sáng mọi
người cùng có mặt trong bữa ăn và mọi người phải có ít nhất là
một, hai hay ba giây nhìn nhau, mỉm cười để công nhận sự có mặt
của người kia tại vì người kia là người thương của mình. Ca dao
của chúng ta có câu :
Núi
cao chi lắm núi ơi
Che khuất mặt trời chẳng thấy người thương
Mình
thương nhau, nhớ nhau, mình ở bên này quả núi, mình thấy rằng
núi là một chướng ngại không cho mình thấy người thương. Thật ra
ngươì thương đang ngồi trước mặt mình mà mình đưa tờ báo ra để
che người thương của mình. Mình không có một trái núi nhưng mình
lấy tờ báo ra che người thương của mình. Ngọn núi đó vốn là tờ
báo hàng ngày. Mình để ý tới tờ báo hơn là người thương. Trong
bữa ăn sáng mình phải có cơ hội nhìn vợ, nhìn con, nhìn chồng và
hỏi Hồi hôm anh có ngủ được không? Hôm qua em có ngủ được
không ? Sáng nay con học môn gì ở trường ? Mình phải nói
một vài câu như vậy. Ngày nay con còn ở với bố mẹ, ngày mai
lớn lên con đi lập gia đình, con đâu còn được ở với bố mẹ.
Nói như câu như thế để trân quí sự có mặt của người kia.
Trong
xã hội hôm nay người nào cũng có thế giới riêng của người đó. Bố
có thế giới riêng của bố, mẹ có thế giới riêng của mẹ, con trai
có thế giới riêng của con trai, con gái có thế giới riêng của
con gái. Tuy mình ở chung dưới một mái gia đình nhưng kỳ thực
mình đang ở trong một thế giới riêng, không có sự truyền thông
giữa cha mẹ, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh em với nhau. Mình
sống với nhau như trong quán trọ, thức dậy, đi học, đi làm, mình
có vũ trụ riêng của mình. Tối về thì mình mệt nhoài, mở ti-vi ra
để khỏa lấp những buồn bực chán nản trong ngày, rồi mình tắt
ti-vi, đi ngủ. Như vậy mình không hưởng được sự có mặt quí giá
của nhau cho đến khi người kia chết.
Mình
đâu cần nói nhiều, mình ngồi chơi cũng được. Trước mặt tôi có
nhiều cây rất đẹp, tôi nghe tiếng chim hót. Ngày hôm nay thật ra
là nóng lắm, nhưng chư thiên đã yểm trợ chúng ta, đã làm cho
trời mát. Chúng ta đang ngồi ở đây với nhau, với tư cách thầy
trò, huynh đệ, bạn bè. Chúng ta đang ngồi trong gió mùa xuân,
đừng lo lắng gì, đừng tiếc nuối quá khứ, đừng lo lắng về tương
lai. Chúng ta hãy có mặt đích thực trong phút giây hiện tại.
Chúng ta hãy ngồi trong gió mùa xuân.
Là
hoa tươi mát
Trong
khi ngồi, mình có thể buông thư những căng thẳng của những cơ
bắp trên mặt. Trên mặt mình có khoảng trên ba trăm cơ bắp. Mỗi
khi mình lo lắng, giận hờn, sợ hãi thì ba trăm cơ bắp căng
thẳng, nhìn vào kính chúng ta thấy sợ luôn, giống như một trái
bom sắp nổ. Nhưng nếu chúng ta biết thở vào một hơi và mỉm cười
thì tự nhiên chúng ta buông thư được hết tất cả những căng thẳng
ở trên mặt. Nụ cười rất là quan trọng. Mình chỉ cần mỉm cười
thôi thì tất cả những bắp thịt ở trên mặt mình sẽ được thư dãn.
Rất là hay ! Cho nên chúng ta phải biết sử dụng nụ cười. Có
những người trong chúng ta không có khả năng cười. Chúng ta đã
đánh mất nụ cười từ lâu rồi. Bây giờ có cố gắng đi nữa thì cái
miệng ta cũng méo xệch, không có sự tươi mát. Phải khôi phục lại
sự tươi mát của mình. Sự tươi mát của mình có thể chữa trị cho
mình và là món quà quí giá để hiến tặng cho người kia. Làng Mai
chúng tôi có một bài tập “ Là hoa tươi mát, là núi vững vàng”
. Đó là một bài hát có thể thực tập trong khi ngồi thiền, đi
thiền. Bài hát đó như thế này :
Quay về nương tựa
Hải
đảo tự thân
Chánh niệm là Bụt
Soi sáng xa gần
Hơi
thở là Pháp
Bảo hộ thân tâm
Năm uẩn là Tăng
Phối hợp tinh cần
Thở
vào thở ra
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu
Không gian thênh thang
Đây là
một thiền phổ mà chúng ta có thể học thuộc. Trước hết là hình
ảnh của một đóa hoa
Là
hoa tươi mát
Mình
ngồi như thế nào để tươi được như một bông hoa. Có người hoa
trong chúng ta đã héo. Chúng ta đã trải qua bao khó khăn, khổ
đau, oan ức. Chúng ta đã héo. Bây giờ chúng ta phải làm sao cho
bông hoa của chúng ta tươi trở lại. Con người vốn là một sinh
vật rất đẹp. Chúng ta thấy con chim rất đẹp, con ngựa rất đẹp,
con nai rất đẹp. Con người cũng rất là đẹp. Khi chúng ta quan
sát một em bé thì ta thấy em bé như là một bông hoa. Cái mặt của
nó là một bông hoa. Hai con mắt của nó là hai bông hoa. Hai bàn
tay của nó rất xinh xắn. Hai bàn chân của nó cũng là bông hoa.
Con người cũng là một loại hoa, hoa trong vườn hoa nhân loại.
Chúng ta sinh ra, lớn lên, tươi mát như một bông hoa. Có những
chàng trai, những thiếu nữ giữ được sự tươi mát của mình cho tới
hai mươi, hăm lăm tuổi. Có người giỏi hơn thì giữ được sự tươi
mát của mình cho đến ba bốn mươi tuổi. Nhưng khi mình gặp những
hoàn cảnh khó khăn, trắc trở, khổ đau thì mình bắt đầu héo. Bông
hoa của mình bị héo. Tu tập là làm thế nào để bông hoa mình tươi
trở lại:
Thở
vào tôi thấy tôi là một bông hoa
Thở ra
tôi cảm thấy tươi mát
Mình
phải phục hồi lại chất hoa trong mình tại vì trong cuộc sống
hằng ngày mình đã đánh mất sự tươi mát của mình. Nếu không có sự
tươi mát thì mình sẽ không có gì để hiến tặng cho người mình
thương. Người mình thương có thể là thầy, là đệ tử, là chồng, là
vợ, là con mình.
Nếu
chúng ta đánh mất sự tươi mát thì chúng ta không có gì nhiều để
hiến tặng cho những người thương. Tu trước hết là để giữ gìn,
bảo tồn sự tươi mát đó. Hai con mắt của ta ngày xưa rất trong,
rất sáng. Con trai hay con gái cũng vậy. Nhưng chúng ta khóc,
chúng ta buồn quá nhiều nên hai con mắt không còn tươi sáng,
không còn là hai bông hoa nữa. Tu như thế nào để giữ hai mắt
luôn luôn là hai bông hoa và nụ cười mình luôn luôn là bông hoa.
Đó là những thực tập mình phải nắm cho được.
Thi sĩ
Nguyễn Bính trong một bài thơ viết vào cuối năm, “Thơ viết
cho chị “ nói như thế này :
Em
không khóc nữa, không than nữa
(Suốt
đời thi sĩ là khóc và than.)
Đây
một bài thơ hận cuối cùng
Đây là
một bài thơ chót mà em khóc, em than. Từ rày về sau em chỉ làm
những bài vui thôi. Đó là cái muốn của thi sĩ, nhưng muốn là một
chuyện mà làm là một chuyện. Thi sĩ cũng biết là mình làm thơ
sầu héo, khóc thương hơi nhiều. Tối ba mươi không về nhà được,
viết thơ cho chị hứa là từ rày về sau không làm những bài thơ
khóc than nữa:
Em
không khóc nữa không than nữa
Đây một bài thơ hận cuối cùng
Không than chắc hẳn hồn tươi lại
Không khóc tha hồ đôi mắt trong
Biết
rất rõ là không than thì hồn mình tươi lại và không khóc thì hai
mắt mình trong trở lại. Đó là sự thật. Nhưng liệu mình có ngưng
được sự than khóc, sự sầu khổ hay không ? Người tu cũng vậy. Tu
xuất gia hay tại gia thì mình phải tươi mới được. Nếu càng tu
càng héo thì mình đã đi con đường sai lầm. Mình chưa nắm được
phương pháp thực tập. Khi thấy người bạn cùng tu với mình hơi
héo thì mình tới hỏi : “Này sư em, sao hôm nay thấy sư em héo
thế, chị có thể giúp gì cho em được không ?”. “ Sư huynh,
sao hôm nay em thấy sư huynh hơi héo, có vấn đề gì không, em có
thể giúp gì cho sư huynh không ?”. Mình phải chăm sóc cho
nhau. Là người xuất gia, mình là một vườn hoa xuất gia. Là người
tại gia, sống trong một gia đình có cha mẹ, anh, chị, em, mình
là một vườn hoa tại gia. Mình phải chăm sóc cho nhau, mỗi người
phải là một bông hoa. Nếu bông hoa kia hơi héo thì mình phải tìm
cách giúp cho bông hoa kia tươi trở lại “ Là hoa tươi mát”
là như thế.
Thở
vào tôi thấy tôi vốn là một loài hoa
Thở ra
tôi cảm thấy tươi mát
Đó là
mình phục hồi chất tươi mát của mình. Nếu không có sự tươi mát
thì mình có gì để hiến tặng cho đời đâu? Cho nên mình phải phục
hồi “hoa tính” của mình trở lại.
Là
núi vững vàng
Thở
vào tôi thấy tôi là một ngọn núi
Thở ra
tôi cảm thấy vững vàng
Tươi
mát là một phẩm chất của sự sống nó có thể làm cho mình hạnh
phúc và đó là một món quà mình tặng cho những người khác, cho
thế gian. Vững chãi cũng là một phẩm chất của sự sống. Con người
hạnh phúc là con người có vững chãi, có sự ổn định. Hình ảnh của
một ngọn núi là hình ảnh của sự vững chãi. Tôi tập ngồi như thế
nào để thế ngồi của tôi vững vàng. Quí vị có tới xô tôi một cái
thì tôi cũng không ngã. Tôi ngồi vững như núi Thái sơn.
Khi
mình thương, mình yêu người nào đó mà người đó không có tính
cách ổn định, vững chãi thì mình sẽ lên xuống, khổ đau với người
đó rất nhiều. Một con người hạnh phúc là một con người có vững
chãi. Nếu người đó không vững chãi thì không thể làm chổ nương
tựa cho mình được. Trước khi cưới người đó mình phải tìm ra sự
thật là người đó có đủ vững chãi để mình nưong tựa hay không.
Đây là lời nhắn cho các cô thiếu nữ trước khi lấy chồng. Người
con trai kia có tính vững chãi hay không ?. Ngưòi đó nay thế
này, mai thế khác, xoay như một chong chóng thì sống với người
đó mình phải lao đao lận đận suốt đời. Tính vững chãi là một yếu
tố rất lớn của hạnh phúc. Nếu người bạn của mình có tính vững
chãi, có tính của núi thì suốt đời mình sẽ được nương tựa. Thầy
của mình, sư anh, sư chị, sư em của mình. nếu họ có tính tươi
mát,
vững
chãi, tức là họ có hạnh phúc và mình có thể nương vào vào họ
được. Yếu tố thứ hai của hạnh phúc là sự vững chãi.
Thở
vào tôi thấy tôi là núi
Thở ra tôi cảm thấy vững vàng
Tu
như thế nào để khôi phục sự tươi mát. Tu như thế nào để càng
ngày càng vững, làm chổ nương tựa được cho bao nhiêu người khác,
điều đó rất quan trọng.
Nước
tĩnh lặng chiếu
Hình
ảnh thứ ba là nước tĩnh lặng chiếu. Nước tĩnh là mặt
nước không bị xáo động. Khi trời lặng gió nhìn xuống hồ mình
thấy mặt nước rất là yên tĩnh. Tất cả mây trời đỉnh núi được
phản chiếu rất trung thực. Mình dùng máy ảnh hướng tới hồ chụp
một tấm hình thì giống hệt như mình chụp ở trên. Khi mặt hồ yên
tĩnh thì nó phản chiếu trung thực những gì chiếu lên nó.
Tâm
của mình cũng vậy. Khi tâm của mình an tĩnh thì mình thấy được
sự thật. Khi tâm mình xáo trộn bất an thì mình có rất nhiều tri
giác sai lầm về chính mình và về người kia. Yếu tố thứ ba của
hạnh phúc là sự an tĩnh của tâm hồn. Muốn cho tâm hồn
được an tĩnh thì mình phải tu, phải biết thực tập hơi thở, bước
chân, phải biết nhân diện và ôm ấp những cái giận, cái buồn, cái
lo của mình để làm cho nó lắng dịu lại. Cho nên yếu tố thứ ba
của hạnh phúc là sự an tĩnh của tâm hồn gọi là nước tĩnh.
Hình
ảnh thứ nhất là một bông hoa tượng trưng cho sự tươi mát. Hình
ảnh thứ hai là một quả núi tượng trưng cho sự vững chãi. Hình
ảnh thứ ba là nước tĩnh tượng trưng cho sự an tĩnh của tâm hồn.
Tu như thế nào để tâm hồn được an tĩnh. Nếu tâm hồn mình không
có an tĩnh thì mình có nhận thức sai lầm, méo mó. Lời nói, hành
động của mình sẽ căn cứ trên những nhận thức sai lầm như thế và
sẽ đem lại khổ đau, đổ vỡ trong mình, giữa mình và người kia.
Cho nên an tĩnh là yếu tố quan trọng. Bình tĩnh, tâm mình không
bị xáo động. Khi tâm mình bị xáo động thì mình phải ngồi lại
điều phục cái tâm, làm sao cho tâm mình lắng lại. Mình không vội
nói, không vội làm gì hết. Nói và làm trong khi tâm mình không
yên tĩnh thì sẽ gây ra bao nhiêu đổ vỡ và khổ đau. Mỗi khi mình
giận, mình buồn, mình lo thì đừng nói gì hết, ngồi xuống thực
tập, hỏi thầy phương pháp nào để làm cho tâm mình lắng xuống
được. Chúng ta có những cách tu như thiền ngồi, thiền thở, thiền
đi, như bái sám. Có nhiều phương pháp để là cho tâm mình lắng
xuống và mình tới chùa thì phải học cho được những phương pháp
đó.
Không gian thênh thang
Yếu tố
thứ tư của hạnh phúc là tự do, thảnh thơi, tượng trưng là
không gian. Trong Kinh có hình ảnh một vầng trăng tròn. Có
một bài kệ nói tới
Đức
Thế Tôn đẹp như một vầng trăng đang đi ngang trên trời xanh.
Vầng trăng đó đẹp vì xung quanh nó có rất nhiều không gian. Nếu
Đức
Thế Tôn đẹp, có hạnh phúc là vì ngài có rất nhiều tự do, có rất
nhiều không gian. Không gian tượng trưng cho tự do. Nếu mình khổ
đau là tại mình không có không gian, không có tự do, không có
không gian trong trái tim và không có không gian xung quanh
mình.
Nếu
chúng ta cắm hoa thì chúng ta phải vâng theo nguyên tắc này. Một
bình hoa đẹp không hẳn là phải có nhiều hoa. Nếu chúng ta đạt
tới nghệ thuật cắm hoa cao thì chúng ta chỉ cần một, hai hay ba
bông hoa thôi. Chúng ta làm thế nào cho mỗi bông hoa có đủ không
gian xung quanh để nó có thể tỏa chiếu cái rạng rỡ, cái tươi mát
của nó. Nếu chúng ta không cho không gian xung quanh thì những
bông hoa đó không đẹp, không tỏa chiếu được cái đẹp của nó. Cắm
hoa là phải biết cho bông hoa khá nhiều không gian.
Khi
mình thương người nào đó thì mình cũng phải hiến tặng cho người
đó không gian. Nếu mình áp đặt người đó những ý kiến, những ước
muốn của mình, mình muốn người kia làm đúng như những gì mình
muốn thì người kia không có không gian để xoay xở. Người kia tù
túng với cảm tưởng như là một con chim ở trong lồng và sẽ chết
dần chết mòn. Mình cứ nghĩ rằng mình thương nguời đó nhưng mình
không hiểu người đó. Mình bắt người đó phải làm theo, nghĩ theo,
nói theo mình và người đó hoàn toàn không có tự do gì hết.
Thương yêu có nghĩa là phải hiến tặng cho người kia rất nhiều
không gian, không gian ở chung quanh và trong lòng người đó.
Nếu
mình là bố, là mẹ mà thật sự thương con của mình, nếu mình là vợ
mà mình thật sự thương yêu chồng của mình thì mình phải biết
rằng một trong những cái mà người thương của mình cần là không
gian. Mình đừng áp đặt, đừng nhốt người yêu của mình vào trong
một cái lồng, cái lồng son gọi là tình yêu. Yêu như vậy có nghĩa
là nhốt người yêu của mình vào trong ngục tù. Người đó không có
không gian.
Muốn
cho người đó không gian thì mình phải hiểu người đó. Ví dụ con
trai hay con gái của mình, mình phải có thì giờ ngồi nói chuyện
với con: “Này con ơi, con lớn rồi. Mẹ biết rằng con có thể tự
mình xoay xở nhưng mẹ rất muốn được nghe con. Con nói cho mẹ
nghe những khó khăn, những ước mơ của con, những bức xúc trong
đời sống hằng ngày, trong học đường hay trong sở làm.
Mẹ
muốn biết lắm.
Mẹ
biết để mẹ có thể hành xử như thế nào để không làm khổ con.”.
Khi
mà mình nói với con trai, con gái của mình như thế thì chúng nó
rất là thoải mái vì mình đã hiến tặng con mình không gian. Con
trai, con gaí của mình có thể tâm sự được với mình, nói về những
khó khăn, khổ đau, bức xúc của đời sống. Mình nói : “ Tội
nghiệp con tôi quá đi, mẹ có thể làm gì cho con bớt khổ hay
không ?”.
Có khi
mình nói những câu, làm những điều gây khổ đau cho con mình mà
mình cứ tưởng là nói như thế, làm như thế là giúp cho con mình
có hạnh phúc. Có nhiều ông bố áp đặt lên con trai, con gái cái ý
của mình là cho nó đau khổ tại vì mình không biết được những nỗi
khổ niềm đau, những khó khăn, bức xúc của con mình. Ông bố đó
phải có thì giờ ngồi nói chuyện với con : “Thế nào con cũng
có những khó khăn bức xúc, những ước mơ không thể thực hiện
đuợc. Nói cho bố nghe đi. Bố muốn nghe, muốn hiểu để yểm trợ cho
con. Bố không muốn áp đặt lên con ý riêng của bố.” Nói như
thế tức là mình hiến tặng tự do cho con mình. Mình sẽ trở thành
người tri kỷ của con mình.
Biết
bao nhiêu người bố mất con, bao nhiêu người mẹ mất con không
phải tại vì không thương nhưng vì mình thương theo kiểu áp đặt,
không hiểu những khó khăn của con. Càng ngày đứa con càng đi xa
mình. Mình sống trong một thế giới khác, con mình sống trong một
thế giới khác. Khi thương mình muốn làm cho người kia có hạnh
phúc mà mình không hiến tặng không gian cho người kia thì người
kia cũng không có hạnh phúc như thường. Mình càng thương thì
người kia càng khổ. Sự thực thì bố nào không muốn thương con, mẹ
nào không muốn thương con, vợ nào mà không muốn thương chồng.
Nhưng vì mình không hiểu được nỗi khổ niềm đau của người kia nên
mình cứ áp đặt lên người kia những ý riêng của mình. Mình không
cho người đó đủ không gian, không khí để thở. Đó là yếu tố hạnh
phúc thứ tư : yếu tố không gian.
Giữa
thầy bổn sư và đệ tử cũng thế. Nếu thương đệ tử thì mình phải
hiểu những khổ đau, khó khăn của đệ tử. Mình đừng tiếp tục nói
rằng: “Con là một đứa đệ tử không có tinh thần trách nhiệm.”
và mình muốn áp đặt lên đệ tử cái ý, cái muốn của mình trong khi
mình không hiểu những khó khăn riêng của đệ tử. Nếu thương thầy
thì mình cũng phải hiểu thầy. Thầy mình có những khó khăn bức
xúc, những ước muốn. Nếu mình không hiểu thầy thì dù có thương
thì mình cũng làm cho thầy khổ. Cho nên phải hiểu thầy mà muốn
hiểu thầy thì phải có thì giờ ngồi với thầy : “Bạch thầy, con
thấy thầy có nhiều Phật sự, lo lắng nhiều quá đi. Thầy có những
khó khăn nào cho con biết. Con có thể giúp gì được cho thầy hay
không ?. Con không muốn nói và làm những điều gây khổ đau cho
thầy. Thật sự con không muốn làm cho thầy khổ nhưng vì con không
hiểu nên con đã phản ứng, đã tẩy chay, đã lạnh lùng với thầy. Vì
thế con hối hận lắm!“. Nếu mình nói như vậy là mình đang
dâng cho thầy tự do, không gian.
Bốn
yếu tố của hạnh phúc xin nhắc lại là :
-
Thứ
nhất là sự tươi mát. Mình có đủ không ? Có đang đánh mất từ từ
hay không ?
-
Yếu
tố thứ hai là sự vững chải. Mình có đủ vững chải để làm chổ
nương cho thầy, cho đệ tử, cho các con của mình hay không?
-
Yếu
tố thứ ba là mình có đủ bình tĩnh, sự lắng lòng, sự yên ổn của
tâm hồn hay không ? Nếu mình không có sự yên tĩnh của tâm hồn
thì mình sẽ nói năng và hành động gây ra đau khổ. Mình phải
tập thế nào để tâm hồn mình an tĩnh được.
-
Thứ
tư là mình phải có không gian rất nhiều trong đời sống hằng
ngày. Mình sẽ hạnh phúc khi mình có không gian trong trái
tim. Mình sẽ làm cho người kia có hạnh phúc nếu mình có thể
hiến tặng được không gian cho người đó.
Bây
giờ tôi mời thầy Pháp Niệm tập cho đại chúng hát bài “Là hoa
tươi mát, là núi vững vàng“, sau đó tôi sẽ tiếp tục. Có thể
tôi sẽ nói về phương pháp thiền đi tại vì sau buổi pháp thoại
này chúng ta sẽ tập đi như thế nào để mỗi bước chân đều có hạnh
phúc, có an lạc, vững chãi, thảnh thơi. Vị nào hơi mỏi chân có
thể tháo chân ra xoa bóp cho máu huyết lưu thông.
Quay về nương tựa
Hải
đảo tự thân
Chánh niệm là Bụt
Soi sáng xa gần
Hơi
thở là Pháp
Bảo hộ thận tâm
Năm uẩn là Tăng
Phối hợp tinh cần
Thở
vào thở ra
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu
Không gian thênh thang
hải
đảo tự thân
Trong
khi ngồi thiền mình có thể tập thở theo bài này. Nếu thở theo
thì sau một bài mình thấy trong người tĩnh lặng hơn, tươi mát
hơn, thoải mái hơn. Mình điều phục thân và tâm của mình quay
về nương tựa hải đảo tự thân là một câu nói của đức Thế Tôn
mấy tháng trước khi ngài qua đời.
Tại
thành Tỳ Xá Ly, đức Thế Tôn bị bệnh nặng. Thầy A Nan nghĩ rằng
đức Thế Tôn không qua được nhưng đức Thế Tôn dùng thiền quán
vượt khỏi cơn bệnh. Ngài biết rằng trong vài tháng nữa, thế nào
cũng qua đời cho nên ngài đi thăm các thầy, các sư cô, các đạo
hữu ở các đạo tràng xung quanh thành phố Tỳ Xá Ly. Ngài dặn dò
những điều chót. Năm đó ngài đã tám mươi tuổi rồi. Ngài thuyết
pháp thật nhiều cho các thầy, các sư cô, các Phật tử. Ngài nói
rằng bản chất, tinh hoa của đạo giải thoát là niệm,
là định, là tuệ. Ngài biết sau khi
mình qua đời rồi thì các đệ tử sẽ bơ vơ, không có thầy, nên ngài
dặn rằng khi cảm thấy bơ vơ thì mình quay về nương tựa trong tâm
của mình. Ngài nói trong mỗi con người mình có một hải đảo rất
an toàn. Mỗi khi mình sầu khổ, lo lắng, bơ vơ, mình hãy theo hơi
thở để trở về nương tựa nơi hải đảo trong tự thân của mình. Hải
đảo đó là niệm- định- tuệ. Khi mình an trú trong
hải đảo niệm-định-tuệ thì giống như mình nương tựa trên thầy của
mình. Thầy mình, đức Thích Ca có đủ ba nguồn năng lượng quí giá
đó là chánh niệm, chánh định và tuệ giác.
Mỗi
người trong chúng ta có một hải đảo. Nếu chúng ta thực tập sử
dụng hơi thở, trở về hải đảo đó thì mình tiếp xúc được với năng
lượng niệm-định-tuệ trong đó. Hải đảo đó rất an toàn:
“Này các vị tì khưu, các vị hãy nương vào hải đảo tự thân của
mình, nương vào niệm-định-tuệ mà đừng nương vào một ai khác,
nương vào Pháp mà đừng nương vào ai khác !”.
Bài thuyết pháp đó giúp cho đệ tử không thấy bơ vơ khi thầy mình
đã nhập niết bàn. Mỗi khi thấy thiếu vắng thì hãy trở về tiếp
xúc với thầy mình ngay trong hải đảo tự thân. Hải đảo tiếng Phạn
là dipa, nương tựa là saranam, tự thân là atta.
Atta dipa saranam là quay về nương tựa hải đảo tự thân.
Vì vậy bài hát này lấy ngay từ trong Kinh. Mỗi khi mình bơ vơ,
hoang mang, nghi ngờ, mình phải lập tức quay về nương tựa nơi
Bụt, nơi Pháp, nơi Tăng ngay trong bản thân của mình.
Quay
về nương tựa hải đảo tự thân, hải đảo đó là một nơi an toàn.
Những đợt sóng đại dưong không với tới được, không làm đắm chìm
hải đảo đó được. Mỗi người có một nơi trú ẩn rất an toàn, đó là
hải đảo tự thân ( atta dipa ). Tự thân tiếng Pali là
atta, atta dipa là hải đảo tự thân. Khi mình nắm vững được hơi
thở, trở về hải đảo đó tiếp tục thực tập thì mình sẽ có sự an
toàn. Những bồn chồn, lo lắng, sợ hãi từ từ lắng dịu xuống. Bài
này là một bài thực tập rất quan trọng. Mỗi khi có sợ hãi, lo
lắng, bơ vơ, thì phải lập tức trở về liền cái cù lao, cái hải
đảo niệm-định-tuệ trong tự thân và an trú ở đó thì
mình sẽ cảm thấy rất vững vàng, an ổn. Quay về nương tựa hải đảo
tự thân, trong hải đảo đó có Bụt, có Pháp và có Tăng.
Chánh niệm là Bụt soi sáng xa gần.
Bụt là
chánh niệm,
có
Bụt soi sáng cho mình, chỉ cho mình biết cái gì nên làm, cái gì
không nên làm, chổ nào nên đi tới, chổ nào không nên đi tới, đó
gọi là soi sáng xa gần.
Hơi
thở là Pháp.
Bài
thuyết pháp kia, cái cassette, cái dĩa kinh kia chưa hẳn là pháp
linh động. Nó là một bài thuyết pháp thật, nhưng hơi thở của
mình để quay về nương tựa hải đảo tự thân, hơi thở làm điều hợp
thân và tâm, đem lại sự an ổn, là một bài pháp linh động
( living Dharma ). Hơi thở là Pháp bảo hộ được thân và tâm. Mỗi
khi thân và tâm được bảo hộ bởi hơi thở chánh niệm thì mình có
sự an toàn. Cho nên những lúc mình thấy bơ vơ, lo sợ, nghi ngờ
thì mình phải bám vào hơi thở, tại vì hơi thở chánh niệm bảo hộ
cho cả thân, cả tâm.
Năm
uẩn là Tăng.
Sắc,
thọ, tưởng, hành và thức phối hợp với nhau trong sự hòa điệu.
Chính hơi thở đó tạo ra sự hòa điệu trong năm uẩn. Mình có sự an
lạc, vững chải ngay trong khi thực tập.
Bài
thực tập này là bài thực tập tam quy. Khi mình nương tựa nơi
Bụt, nơi Pháp, nơi Tăng thì mình không có lý do gì để sợ hãi cả.
Trong hoàn cảnh rất nguy kịch như nghe máy bay có không tặc hay
chiếc thuyền của mình sắp bị chìm thì lập tức mình phải trở về
quy y Tam Bảo trong tự thân. Quay về nương tựa hải đảo tự thân
trong đó có chánh niệm là Bụt có thể soi sáng xa gần, trong đó
có hơi thở là Pháp bảo hộ cả thân và tâm, trong đó có năm uẩn là
Tăng phối hợp tinh cần, tu tập tinh chuyên.
Thở
vào thở ra
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu
Không gian thênh thang
Đây là
một thiền phổ rất mầu nhiệm. Có những lúc tôi bị bệnh rất nặng,
tôi phải trải qua những khó khăn, hiểm nguy, tôi đều quay về
thực tập bài này và luôn luôn tôi vượt thoát những khó khăn đó.
Tôi mong rằng tất cả quí vị học thuộc lòng bài này để mỗi khi có
khó khăn, sợ hãi, bồn chồn lo lắng thì nắm lấy bài này mà thực
tập. Chỉ trong một vài phút sau thì mình có sự vững chãi,
sự thảnh thơi, sự không lo sợ. Rất là quí, đây là
pháp bảo !
Bây
giờ mình bắt
đầu
đi thiền hành với nhau. Tôi xin hướng dẫn quí vị đi như thế nào
để có hạnh phúc. Những bước chân đem lại vững chãi, thảnh thơi,
an lạc, đem lại bông hoa tươi mát, đem lại ngọn núi vững vàng,
đem lại nước tĩnh lặng chiếu và đem lại không gian thênh thang
cho mình.
Mỗi
bước chân đi vào Tịnh Độ
Khi
thở vào chúng ta có thể bước hai bước. Bước thứ nhất ta nói thầm
trong lòng là : con đã về, con đã về. Thở ra, bước hai
bước mình nói : con đã tới, con đã tới.
Con
đã về, con đã về
Con đã tới, con đã tới
Về đâu
? tới đâu? Lâu nay mình đi vòng, đi quanh, mình đi kiếm hạnh
phúc, mình chưa dừng lại được. Đức Thế Tôn dạy rằng sự sống với
tất cả sự mầu nhiệm của nó đang có mặt trong giây phút này, ở
đây. Về đây là về với giây phút hiện tại, với sự sống. Tới ở đây
là tới với giây phút hiện tại. Trong đời sống hằng ngày chúng ta
đi như bị ma đuổi. Chúng ta hấp tấp và ta không thừa hưởng được
sự an lạc của từng bước chân. Chúng ta đi như thế nào mà đi như
trong cõi Tịnh Độ không khác. Chuyện này là chuyện có thể làm
được. Nếu mình có công phu thực tập thì mỗi bước chân đưa mình
vào Tịnh Độ và một trăm bước chân là một trăm bước trong cõi
Tịnh Độ. Chuyện đó có thể làm được. Trong chúng ta có những
người đang làm được như thế. Đức Thế Tôn dạy rằng đừng nuối tiếc
quá khứ, đừng sầu khổ về quá khứ tại vì quá khứ không còn. Đừng
lo lắng, sợ hãi quá cho tương lai, đừng nghĩ quá cho tương lai
tại vì tương lai chưa tới
Đừng tìm về quá khứ
Đừng
tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Đó là
những câu do Bụt, Đức Thế Tôn nói ra
Kẻ
thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Trong giây phút hiện tại
Vững
chãi và thảnh thơi là hai yếu tố hạnh phúc. Làm thế nào sống mà
tiếp xúc được được với tất cả những mầu nhiệm của sự sống trong
phút giây hiện tại. Hiện tại có trời xanh, mây trắng, chim hót,
thông reo, hoa nở. Mình đang sống rất mầu nhiệm, có thầy, có
bạn, có đủ những điều kiện của hạnh phúc. Vậy mà mình cứ âu sầu
về quá khứ hoặc lo lắng, sợ hãi về tương lai tức là mình đánh
mất sự sống. Mình phải quay về với hiện tại ở đây và bây giờ. Đó
là nghĩa của hai chữ đã về, đã tới.
“Bạch Đức Thế Tôn, con đã về với giây phút hiện tại, bây giờ và
ở đây. Bạch Đức Thế Tôn, con đã tới với giây phút hiện tại để có
thể tiếp xúc được với sự sống mầu nhiệm ngay trong giây phút
này.”
Đó gọi là đã về, đã về, đã tới, đã tới. Mình bước như thế nào
để thật sự về, thật sự tới chứ đừng tuyên bố suông. Mỗi bước
chân giúp mình dừng lại, không rong ruổi, không chạy như bị ma
đuổi như trong quá khứ. “Con đã về, con đã tới. Con thưa thật
với đức Thế Tôn. Con không nói dối.”
Con
đã về, con đã về
Con đã
tới, con đã tới
Mình
đem tâm đặt dưới bàn chân mình, đừng để tâm ở trên tiếp tục suy
nghĩ chuyện quá khứ, chuyện tương lai. Đem tâm để xuống gan bàn
chân và ý thức được sự tiếp xúc giữa bàn chân mình với mặt đất.
Mình đi từng bước như mình in ấn trên mặt đất sự vững chãi, sự
thảnh thơi, cái hạnh phúc của mình. Mình không in lên mặt đất sự
sầu khổ, lo lắng. Mỗi bước chân có thể đem lại hạnh phúc, an
lạc. Ngày xưa đức Thế Tôn đã đi như thế trong nhiều quốc gia
thuộc lưu vực sông Hằng. Ngài đã để lại dấu chân của ngài.
Bây
giờ chúng ta tiếp tục sự nghiệp của ngài. Chúng ta bước đi bằng
những bước chân của đức Thế Tôn : vững chãi, thảnh thơi, an lạc.
Chúng ta đi như thế ở Việt nam, ở Lào, ở Nhật, ở Đại hàn, ở
Pháp, ở Đức, ở Mỹ. Chúng ta tiếp tục đem những bước chân an lạc,
thảnh thơi của đức Thế Tôn và in những dấu ấn của an lạc, thảnh
thơi đó trên khắp thế giới. Chúng ta là con của đức Thế Tôn, là
sự tiếp nối của đức Thế Tôn, chúng ta phải đi cho được những
bước chân mà ngày xưa đức Thế Tôn đã đi.
Tôi đi
được. Có nhiều người đệ tử của tôi đi được.
Tôi tin chắc rằng nếu quí vị ở đây thực tập hết lòng thì cũng đi
được. Mỗi bước là đã về, mỗi bước là đã tới, không lo lắng,
không sầu muộn, không tiếc nuối. Mình đi như một con người tự
do, tự do với những luyến tiếc quá khứ, với những lo lắng tương
lai. Mình có mặt thật sự trong giây phút hiện tại để đi từng
bước thảnh thơi, vững chãi.
“Bạch
đức Thế Tôn, con đã về, con đã về. Con đã tới, con đã tới. Con
đã về với giây phút hiện tại. Con đã tới với giây phút hiện tại.
Con đã tiếp xúc được với sự sống mầu nhiệm ở xung quanh con.”
và
mình phải đi được những bước như vậy. Đừng có tuyên bố suông.
Mình nói con đã về thì mình phải về thật sự !
Đã
về, đã về
Đã tới, đã tới
Bây giờ, bây giờ
Ở đây, ở đây.
Bây
giờ và ở đây là địa chỉ của sự sống. Tại vì quá khứ đâu còn nữa.
Quá khứ làm gì có sự sống ! Tương lai thì chưa
tới. Tương lai làm gì có sự sống ! Sự sống chỉ có
mặt trong giây phút hiện tại. Cho nên đã về, đã tới trong địa
chỉ bây giờ và ở đây có nghĩa là tiếp xúc được với sự sống.
Đã
về, đã tới
Bây giờ, ở đây
Vững chãi, thảnh thơi
Vững
chãi là mình an trú được trong giây phút hiện tại. Mình không bị
quá khứ lôi về quá khứ, không bị tương lai níu về tương lai. Đó
là vững chãi, là núi vững vàng.
Vững chải, vững chãi
Thảnh thơi, thảnh thơi
Con
đang đi như một con người tự do. Con đang đi như
Đức
Thế Tôn. Con xứng đáng là đệ tử của ngài. Con đang đi những bước
chân của ngài. Đức Thế Tôn đã truyền lại cho con hai bàn chân
của ngài. Con đang đi bằng hai bàn chân của ngài. Nơi nào con đi
tới chỗ đó có Tịnh Độ.
Đã
về, đã tới
Bây giờ, ở đây
Vững chãi, thảnh thơi
Quay về nương tựa
Quay
về nương tựa nơi hải đảo tự thân. Đây là một cách thực tập đơn
giản nhưng rất sâu sắc. Nếu trong khi chúng ta đi mà chúng ta
thấy an lạc, hạnh phúc thì chúng ta đã thành công. Và nếu mọi
người đều an trú trong giây phút hiện tại, bước được những bước
chân vững chãi và thảnh thơi thì chúng ta tạo ra được một năng
lượng tập thể rất lớn. Nó thấm vào từng người trong chúng ta và
là làm cho cõi này thành ra cõi Tịnh Độ liền lập tức. Trong khi
đi thì chúng ta tuyệt đối không nói, không nói bằng miệng mà
cũng không nói bằng đầu. Chúng ta đừng suy nghĩ, đừng suy
nghĩ tới quá khứ, đừng suy nghĩ tới tương lai, tới công việc
phải làm tối hôm nay hay ngày mai. Dẹp hết những cái đó đi ! Chỉ
an trú trong từng bước chân đã về, đã về, đã tới, đã tới. Nếu
quí vị thành công được thì chất liệu của hoa tươi mát, của núi
vững vàng, của nước tĩnh lặng chiếu và của không gian thênh
thang sẽ từ từ đi vào con người mình và mình sẽ thấy hạnh phúc.
Trong
Trai đàn Chẩn tế Giải oan ở Sóc sơn các thầy, các sư cô, các vị
tôn túc, các Phật tử từ rất nhiều tỉnh đã tới, chúng tôi đã thực
tập thiền hành trong nhiều ngày. Có nhiều người chỉ mới đi thiền
hành lần đầu mà đi rất là vững, rất đẹp. Hôm nay, tôi tin rằng
đại chúng cũng đi được như vậy. Chúng ta đi như thế nào để cho
khung cảnh hai ngàn năm trăm năm ngày xưa của Đức Thế Tôn có mặt
ngày hôm nay, ở Chùa Bằng A
Đã
về, đã tới
Bây giờ, ở đây
Vững chãi, thảnh thơi
Quay về nương tựa
Trước
khi chúng ta đi thiền hành thì chúng ta học thuộc cho được bài
“Đã về, đã tới “.
|