Kính
thưa liệt vị tôn đức,
kính
thưa các vị khách quý, các Phật tử.
Chúng
ta vừa trì niệm danh hiệu của đức Quan Thế Âm để cầu cho trai
đàn chẩn tế bình đẳng giải oan này được thành công. Chúng ta đã
nói rằng trai đàn này là để cầu nguyện cho “âm siêu” và “dương
thái”. Tôi muốn bắt đầu buổi pháp thoại hôm nay nói về sự liên
hệ giữa cõi âm và cõi dương. Chúng ta làm thế nào để tiếp xúc
với cõi âm và chúng ta có thể tiếp xúc được hay không? Và những
người ở cõi âm làm thế nào để tiếp xúc với chúng ta trong cõi
dương? Hai cõi này - cõi âm và cõi dương - là hai cõi tách biệt
hay là có dính líu tới nhau?
Cố nhiên chúng ta biết rõ rằng khi mà âm được siêu thì dương
cũng được thái và khi dương được thái thì âm cũng được siêu. Cho
nên chúng ta biết chắc rằng có một liên hệ rất mật thiết giữa
hai cõi. Nhưng trong đầu óc của nhiều người, chúng ta thường
nghĩ rằng cõi âm là cõi nó hoàn toàn khác biệt với cõi dương.
Thường thường, chúng ta nghĩ rằng cõi âm chúng ta không thấy
được, không nghe được, không sờ mó được. Và những gì mà chúng ta
không thấy được, không nghe được, không sờ mó được, có khi chúng
ta nghĩ là không có. Chúng ta hãy tưởng tượng là trong không
gian này, chúng ta biết rằng có những đài truyền hình, những đài
phát thanh, luôn luôn phát ra những chương trình trên các làn
sóng. Và trong không gian đang bao phủ chúng ta, có rất nhiều
tín hiệu của các buổi phát thanh và truyền hình. Chúng ta biết
rằng luôn luôn trong giờ phút này có những chương trình phát
thanh và truyền hình. Những tín hiệu đó nó đầy dẫy trong hư
không, nhưng mà chúng ta không thấy, chúng ta không nghe, chúng
ta không sờ mó được những chương trình đó. Chúng ta cần phải có
một máy thu thanh, máy thu hình để nó có thể nắm được những tín
hiệu đó và nó chuyển dịch những tín hiệu đó ra những đối tượng
mà mắt ta có thể tiếp xúc được và tai của ta có thể tiếp xúc
được. Và những cái ta không thấy, những cái ta không nghe, những
cái ta không sờ mó được, chúng ta không thể nói là chúng nó
không có.
Trong kinh Từ Bi[2],
đức Thế Tôn có dạy rằng chúng ta phải phát khởi lòng từ bi của
chúng ta đối với tất cả các loài, các loài ta thấy được và các
loài ta không thấy được. Không thấy được không có nghĩa là không
có mặt. Ngay những con vi khuẩn nó làm ra bệnh tật của chúng ta,
chúng ta không có thể thấy được. Chúng ta phải cần kính hiển vi
mới có thể thấy được những con vi khuẩn đó. Khi không thấy được
những con vi khuẩn đó, chúng ta không thể nói rằng con vi khuẩn
đó không có.
Chúng ta có sáu giác quan và những giác quan của chúng ta nó có
giới hạn. Chúng ta có thể không nghe được những âm thanh mà con
chó nó nghe được. Chúng ta có thể không thấy được những hình ảnh
mà con chim nó thấy được. Cho nên chúng ta đừng vội vàng nói
rằng những gì những gì tôi không thấy, những gì tôi không nghe,
những gì tôi không có sờ mó được, tức là chúng nó không có. Có
và Không là hai ý niệm, trong đạo Phật chúng ta thực tập để có
thể vượt thoát được hai ý niệm Có và Không. Có hai ý niệm khác
đi đôi với hai ý niệm Có và Không, đó là ý niệm Còn và Mất.
Chúng ta không thể nào hiểu được sự liên hệ giữa cõi âm và cõi
dương nếu chúng ta không nắm được sự thật về vấn đề còn, vấn đề
mất.
Xin quý vị tôn đức, các vị khách quý và các vị đạo hữu hình dung
ra một hạt mưa rơi. Hạt mưa đó có thể rơi xuống trên một tảng đá
hay rơi xuống trên mặt đất. Có thể trong vòng mấy phút thì hạt
mưa rơi xuống trên đất, nó được đất hút vào. Có thể đất hút vào
liền lập tức và ta không thấy hạt mưa đó nữa, hạt mưa vừa có đó,
bây giờ đã trở thành không có đó. Trước đó chúng ta thấy hạt mưa
và bây giờ chúng ta không thấy hạt mưa và chúng ta nói hạt mưa
không còn nữa. Đó là một tri giác sai lầm, đó là một vọng tưởng.
Hạt mưa vẫn còn đó dưới một hình thái khác mà ta không thấy được
thôi, ta không thể nói rằng hạt mưa đó không còn. Còn hạt mưa
kia, nó rơi trên một tảng đá và chỉ trong vòng mười phút, mười
lăm phút, hạt mưa đó nó biến mất, nó biến thành hơi nước, nó trở
thành một phần của đám mây trên trời. Nhưng chúng ta không thấy
hạt mưa đó cho nên chúng ta nói hạt mưa đó không còn nữa.
Người thương của chúng ta cũng vậy, chúng ta nói là không còn
nữa nhưng kỳ thật điều đó là không đúng. Người thương của chúng
ta vẫn còn đó và chúng ta vẫn có thể tiếp xúc được với người ấy
nếu chúng ta có tuệ giác. Hãy tưởng tượng chúng ta nhìn lên
trời, thấy một đám mây mà chúng ta rất ưa thích. Nhưng đám mây
vô thường, cho nên mấy giờ đồng hồ sau, đám mây sẽ biến thành
mưa và chúng ta không còn thấy đám mây ở trên trời nữa. Tại vì
chúng ta đã thương yêu đám mây, chúng ta đã lưu luyến đám mây
cho nên bây giờ đám mây không còn trên trời, chúng ta buồn,
chúng ta than khóc, chúng ta nghĩ rằng đám mây đã chết rồi, đám
mây từ chỗ có đã trở thành không, đã từ chỗ còn đã trở thành
mất. Trong khi chúng ta khóc than thì đám mây vẫn còn đó dưới
dạng của một cơn mưa. Thật ra một đám mây không bao giờ có thể
chết được, chúng ta không có thể nào làm đám mây từ có trở thành
không, không có thể làm cho đám mây từ có trở thành không được.
Đám mây chỉ có thể trở thành mưa thành tuyết, thành mưa đá nhưng
mà đám mây không thể nào từ “có” trở thành “không” được. Trong
khi thương tiếc đám mây, chúng ta khóc, thì đám mây trong hình
thái mới của nó là cơn mưa, gọi chúng ta, nói rằng anh ơi, anh
có biết là em đang còn đây không, anh nhìn xem em đang con đây
dưới một hình thái mới đó là một cơn mưa. Cho nên đám mây trong
hình thái mới của nó đang gọi chúng ta mà chúng ta không nghe
được, chúng ta không thấy được và chúng ta cứ tiếp tục than
khóc, chúng ta cứ nghĩ đám mây thân yêu của chúng ta không còn
nữa. Người thương của chúng ta, người yêu của chúng ta, người
thân của chúng ta cũng thế. Chúng ta không còn thấy hình dáng
quen thuộc của người đó trong giây phút này nữa nhưng mà người
đó không phải là không còn, người đó không phải là đã mất. Giữa
chúng ta với người đó có thể có liên hệ rất là mật thiết và nếu
chúng ta quán chiếu thì chúng ta có thể tiếp tục tiếp xúc với
người đó nói chuyện với người đó, cười với người đó và sống với
người đó trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Cõi âm
nó không có xa xôi gì đâu, cõi âm rất là gần gũi với chúng ta.
Chúng tôi xin hiến tặng quý vị một hình ảnh khác là một hạt bắp,
hạt ngô. Chúng ta gieo hạt ngô xuống đất mềm và chúng ta đợi bảy
hôm hay mười hôm thì hạt ngô đó nứt mầm và trở thành một cây bắp
mới, cây bắp non. Khi cây bắp nó biểu hiện ba cái lá mới và một
thân bắp mỏng manh của nó, chúng ta nhìn không có thấy hạt bắp
hai ba tuần trước nữa. Hạt ngô hai ba tuần trước, bây giờ chúng
ta không thấy. Chúng ta chỉ thấy - thay vì hạt ngô - thì là một
cây bắp con và chúng ta có thể nói rằng hạt bắp đã chết rồi, hạt
bắp không còn nữa. Nhưng chúng ta ai cũng biết rằng hạt bắp
không có thật sự chết, hạt bắp vẫn còn nhưng mà hạt bắp vẫn còn
trong một hình thái mới. Hạt bắp chỉ thay hình đổi dạng, hạt bắp
không chết, hạt bắp không phải là từ “có” mà trở thành “không”.
Nếu chúng ta có trí tuệ, nhìn vào cây bắp non, chúng ta thấy
được hạt bắp vẫn còn trong hình thái mới của nó.
Tổ tiên, cha mẹ, ông bà chúng ta vẫn còn đó. Nếu chúng ta biết
cách nhìn, chúng ta vẫn có thể tiếp xúc được với tổ tiên, ông
bà, cha mẹ và vẫn còn nói chuyện được với tổ tiên ông bà cha mẹ.
Khi chúng ta nhìn vào cơ thể, chúng ta thấy rất rõ là trong mỗi
tế bào của cơ thể, có sự có mặt của tổ tiên, của cha mẹ. Cha mẹ
đã trao truyền cho chúng ta rất nhiều. Cha mẹ ta đã trao truyền
cái gì cho chúng ta? Cha mẹ ta đã trao truyền chính bản thân
của cha mẹ cho chúng ta. Trong mỗi cái tế bào của cơ thể, có sự
có mặt đầy đủ của cha và của mẹ, tất cả những cái gien, những
cái nhiểm thể của cha mẹ trao truyền lại. Chúng ta thấy sự có
mặt của cha mẹ ở trong từng tế bào cơ thể. Thường thường, chúng
ta nghĩ rằng cha ta ở ngoài ta và mẹ ta ở ngoài ta. Nếu chúng ta
giận cha, hay giận mẹ thì chúng ta giận cha ta ở ngoài ta, giận
mẹ ở ngoài ta. Nhưng chúng ta ít khi nghĩ rằng cha ta đang có
mặt trong ta, mẹ ta cũng đang có mặt trong ta, ở nơi mỗi tế bào
cơ thể. Và mỗi khi chúng ta giận cha, tức là chúng ta giận bản
thân của chúng ta. Tại vì chúng ta chỉ là sự tiếp nối của cha và
của mẹ. Cũng như cây bắp chỉ là sự tiếp nối của hạt bắp. Nếu mà
cây bắp nó giận hạt bắp tức là nó tự giận cái bản thân của nó.
Có một thiền sinh tới làng Mai ở bên Pháp và thiền sinh đó bị
bệnh ung thư. Một sư cô khai thị cho thiền sinh đó và chỉ dẫn
cho thiền sinh đó một phương pháp thực tập, thiền sinh này người
Mỹ. Sư cô hỏi rằng này bác, bác nói cho chúng tôi nghe sơ lược
về tổ tiên ông bà, cha mẹ của bác đi. Vị thiền sinh đó tiết lộ
rằng bà ta có một ông nội rất là khỏe mạnh, sống tới chín mươi
lăm tuổi. Sư cô làng Mai mới nói rằng ông nội của bà đang có mặt
trong từng tế bào cơ thể của bà. Ông nội của bà đã trao truyền
cái hình hài rất là vững chắc, rất là khỏe mạnh của ông ta cho
bà, mà tại sao bà không cầu nguyện ông nội đi. Bà cầu nguyện như
thế nào? Ông nội ơi! ông nội đang có mặt trong từng tế bào của
cơ thể cháu, ông nội giúp cháu đi! Phương pháp của sư cô làng
Mai là giúp cho bà tiếp xúc được với ông nội của mình ở trong
từng tế bào cơ thể của bà ta. Bà theo đó thực tập, mỗi ngày đều
ngồi thiền, mỗi ngày đều tiếp xúc với ông nội trong từng tế bào,
và gọi ông nội lên giúp mình, tại vì ông nội ngày xưa có những
tế bào rất là khỏe mạnh. Nếu đánh động được những tế bào khỏe
mạnh của ông nội thì những tế bào đó sẽ biểu hiện, sẽ hoạt động
như thế nào để có thể giúp cho những tế bào bị ung thư nó rút
lui, nó giảm thiểu. Một phép lạ đã xảy ra, mấy tháng sau thì bà
hết bệnh ung thư. Thành ra ông nội của mình, mình đừng tưởng
rằng không còn nữa, ông nội của mình vẫn còn trong từng tế bào
cơ thể của mình. Mình có thể tiếp tục nói chuyện với ông nội,
cầu cứu ông nội mỗi khi mình cần đến ông nội. Ông nội mình có
thể có một hình hài rất là khỏe mạnh, ông nội mình cũng có thể
có những tài ba, những kinh nghiệm rất sâu sắc trong cuộc đời.
Nếu chúng ta biết cách tiếp xúc với ông nội chúng ta thì chúng
ta có thể thừa hưởng được năng lượng về hình hài, cũng như là
năng lượng tinh thần của ông nội ta. Cho nên truyền thống thờ
cúng tổ tiên của người Việt là một truyền thống cần phải bảo
tồn. Tại vì khi mà chúng ta có bàn thờ tổ tiên ở trong nhà,
chúng ta mỗi ngày thắp một cây hương và khấn nguyện thì chúng ta
có cơ hội tiếp xúc với ông bà chúng ta, không phải trên bàn thờ
mà ở ngay trong từng từng tế bào của cơ thể ta. Con cháu đi đâu
thì ông bà đi theo đó, không phải là đi sau lưng mà đi ngay
trong từng tế bào cơ thể. Điều này nó không có vẻ tôn giáo tín
ngưỡng, nó là khoa học, rất là khoa học.
Trong cuộc chiến tranh Việt
Nam từ sáu đến bảy triệu đồng bào chúng ta đã tử vong. Chúng ta
có những chiến sĩ đã tranh đấu rất oai hùng cho nền độc lập quốc
gia, cho tự do của đất nước. Hàng vạn chiến sĩ đã bỏ mình nơi
chiến trường một cách uy hùng như thế. Nhưng cũng có những người
đồng bào chúng ta đã chết trong những hoàn cảnh rất là tối tăm,
rất là oan khuất, bom đạn, ngục tù, tù đày, tra tấn. Vậy nên nỗi
oan khổ đó vẫn còn nơi cõi âm, và nó vẫn còn nơi cõi dương. Nó
nằm ngay ở trong trái tim của chúng ta. Khi chúng ta dồn nén
những oan khổ đó vào đáy lòng thì những oan khổ đó vẫn còn,
không có tiêu tan được. Có khi chúng ta hành xử hơi thô bạo với
những người thương của chúng ta, chúng ta không hiểu tại sao
chúng ta lại nói một câu thô bạo như vậy, hay là có một cử chỉ
thô bạo như vậy đối với người thương. Thật ra động lực nó xui
chúng ta nói những lời thô bạo, hay là có những lời thô bạo là
tại vì chúng ta có những nỗi khổ niềm đau ở trong lòng mà chưa
chuyển hóa được. Vậy nên theo nguyên tắc của tâm lý trị liệu,
nếu chúng ta cho phép những nỗi khổ niềm đau đó đi lên trên mặt
phẳng của ý thức, chúng ta công nhận nó, chúng ta ôm ấp nó,
chúng ta chuyển hóa nó, thì chúng ta mới có thể làm tiêu tan
những nỗi khổ niềm đau đó. Từ đó về sau, chúng ta sẽ không còn
cư xử một cách nặng nề bạo động, thô bạo với những người chung
quanh. Nếu không thì chúng ta có thể trao truyền lại những năng
lượng tiêu cực đó cho con, cho cháu. Một ngày nào đó, con cháu
chúng ta sẽ cư xử một cách không có dễ thương đối với những
người thân của họ, và họ sẽ không biết tại sao. Những nỗi khổ,
niềm đau, những oan ức của chúng ta, chúng ta chưa chuyển hóa
được và chúng ta đã trao truyền lại cho các thế hệ tương lai.
Đại trai đàn chẩn tế giải oan bình đẳng là một cơ hội để chúng
ta thực tập, đưa những oan khổ, những đau đớn đó lên trên mặt
phẳng của ý thức, để công nhận nó, để ôm ấp lấy nó và để chuyển
hóa nó. Đây là một thực tập cụ thể. nếu chúng ta chuyển hóa được
những nỗi khổ niềm đau trong lòng thì những người thân của chúng
ta cũng chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau trong lòng của
họ, dầu những người đó đang còn sống hay là đã khuất. Khi chúng
ta tới với nhau để cầu nguyện là chúng ta đem hết tất cả tâm
thân để mà nhớ tới, để mà tưởng niệm tới những khổ đau, những
oan khuất mà những người thân của chúng ta đã phải gánh chịu
trong suốt bao nhiêu năm của chiến tranh.
Trong Đại trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan ở tại chùa Vĩnh
Nghiêm, thành phố Hồ Chí Minh, cũng như trong đại trai đàn bình
đẳng chẩn tế giải oan thực hiện ở tại chùa Diệu Đế, chúng ta đã
đọc lên những lời khấn nguyện của những người đang sống đối với
những người đã khuất. Và để chuẩn bị cho trai đàn chẩn tế bình
đẳng giải oan ở chùa Non Nước, chúng tôi xin đọc lại những lời
khấn nguyện đó để quý vị thấy được tinh thần và phương pháp thực
tập của chúng ta.
Lời khấn nguyện trong các trai đàn chẩn tế giải oan, đây là
những lời của người sống nói với những người đã chết, những
người ở cõi dương nói với những người ở cõi âm. Và chúng ta biết
rằng âm dương tương tức, ở trong dương có âm và trong âm có
dương. Chúng ta nói với những người thân của chúng ta đã qua
đời, nhưng mà chúng ta cũng nói với chính bản thân của chúng ta.
“Kính thưa liệt vị hương linh. Quý vị là cha của chúng tôi, quý
vị là chồng của chúng tôi, quý vị là anh trai của chúng tôi, quý
vị là em trai của chúng tôi, quý vị là con trai của chúng tôi,
quý vị cũng là mẹ của chúng tôi, quý vị cũng là vợ của chúng
tôi, là chị gái của chúng tôi, là em gái của chúng tôi, quý vị
cũng là con gái của chúng tôi.
Trong cơn binh lửa, trong cảnh tao loạn, quý vị đã bỏ lại hình
hài quý giá của quý vị mà đi, chúng tôi đã đánh mất quý vị. Quý
vị hoặc đã chiến đấu dũng cảm cho đất nước và đã chết một cách
hào hùng không hề thương tiếc thân mạng, chúng tôi rất hãnh diện
về quý vị.
Nhưng quý vị có thể cũng đã bỏ mình trong những hoàn cảnh cực kỳ
bi thương, Nỗi oan khổ không thể nào nói lên được. Trên rừng
sâu, trong biển cả, nơi chốn tù đày, chết vì bom đạn hoặc vì
kiệt sức, hoặc vì bị bức bách, bị hãm hiếp rồi bị sát hại mà
không có phương tiện chống cự lại. Có biết bao nhiêu quý vị đã
ngã quị mà nắm xương tàn không biết đang được chôn vùi ở đâu.
Những tai ương mà đất nước và dân tộc ta phải chịu đựng trong
bao nhiêu năm tranh đấu cho độc lập và cho tự do, chính quý vị
là người phải gánh chịu nhiều nhất.
Chúng tôi những người thân thuộc và đồng bào của quý vị. Hôm nay
tới đây thắp hương tưởng niệm quý vị, hoặc thiết lập bàn thờ cho
quý vị trước hiên nhà. Trong chúng tôi, cũng có những người vẫn
còn tiếp tục gánh chịu oan khổ. Nhưng may thay cơn ác mộng đã
qua, đất nước đã được hòa bình, dân tộc đang có cơ hội xây dựng
kiến thiết trở lại. Nhờ phúc đức tổ tiên, chúng tôi hôm nay mới
có cơ hội đến với nhau một cách chính thức, chắp tay nguyện cầu
Tam Bảo, nhờ Pháp lực gia trì, thỉnh cầu tất cả liệt vị trở về
đoàn tụ. Cùng nhau cầu nguyện để giải trừ nghiệp cũ, mở ra một
vận hội mới, nhìn nhận nhau, ôm lấy nhau, thương lấy nhau như
đồng bào ruột thịt, không còn phân biệt Bắc Nam, gái trai, già
trẻ, chủng tộc, tôn giáo.”
Thích
Nhất Hạnh
[1]
Chép lại theo băng ghi âm, tựa và chú thích của người biên
dịch
[2]
Từ kinh
(zh.
慈經,
pi. mettā-sutta):
Có hình tướng hay không hình tướng
Ở gần ta hoặc ở nơi xa
Đã sinh rồi hoặc sắp sinh ra
Cầu cho tất cả đều an lạc
Kinh
này
cũng được gọi là Từ bi kinh, là một bài kinh văn hệ
Pali,
giúp Phật tử phát huy lòng từ ái. Kinh này được phổ biến rất
rộng rãi ở các nước theo truyền thống
Thượng toạ bộ, được tăng ni tụng niệm hàng
ngày.Toàn văn kinh Từ Bi (bản dịch của HT Thích Thiện Châu -
Sutta-Nipāta,
143-152):
Ai khôn ngoan muốn tìm hạnh phúc
Và ước mong sống với an lành
Phải tài năng, ngay thẳng, công minh
Nghe lời phải, dịu dàng khiêm tốn.
Ưa thanh bần, dễ dàng chịu đựng
Ít bận rộn, vui đời giản dị
Chế ngự giác quan và thận trọng
Không liều lĩnh, chẳng mê tục luỵ.
Không chạy theo điều quấy nhỏ nhoi
Mà thánh hiền có thể chê bai
Đem an vui đến cho muôn loài
Cầu chúng sinh thảy đều an lạc.
Không bỏ sót một hữu tình nào
Kẻ ốm yếu hoặc người khỏe mạnh
Giống lớn to hoặc loại dài cao
Thân trung bình hoặc ngắn, nhỏ, thô.
Có hình tướng hay không hình tướng
Ở gần ta hoặc ở nơi xa
Đã sinh rồi hoặc sắp sinh ra
Cầu cho tất cả đều an lạc
Với ai và bất luận ở đâu
Không lừa dối, chẳng nên khinh dễ
Lúc căm hờn hoặc khi giận dữ
Đừng mưu toan gây khổ cho nhau
Như mẹ hiền thương yêu con một
Dám hi sinh bảo vệ cho con
Với muôn loài ân cần không khác
Lòng ái từ như bể như non
Tung rãi từ tâm khắp vũ trụ
Mở rộng tình thương không giới hạn
Từng trên, phía dưới và khoảng giữa
Không vướng mắc oán thù ghét bỏ
Khi đi, khi đứng hoặc nằm ngồi
Hễ lúc nào tinh thần tỉnh táo
Phát triển luôn dòng chính niệm này
Là đạo sống đẹp cao nhất đời
Đừng để lạc vào nơi mê tối
Đủ giới đức, trí huệ cao vời
Và dứt bỏ lòng tham dục lạc
Được như thế thoát khỏi luân hồi.
(theo
Wikipedia)
|