Lắng
nghe hơi thở
Bây giờ xin mời đại chúng lắng nghe hơi thở của mình.
Thở vào tôi biết là tôi đã thở vào, thở ra tôi biết tôi đang thở
ra. Mình lắng nghe hơi thở của mình, thở vào này, thở ra này.
Thở
vào tôi theo dõi hơi thở vào của tôi từ đầu cho tới cuối, thở ra
tôi theo dõi hơi thở ra của tôi từ đầu cho tới cuối.
Thở vào tôi thấy
hơi thở vào của tôi đã sâu hơn một chút, thở ra tôi thấy hơi thở
ra của tôi đã chậm lại một chút.
Thở vào tôi có ý
thức về toàn thân thể tôi, thở vào tôi biết là thân thể tôi có
đó, thở ra tôi làm lắng dịu những căng thẳng trong cơ thể tôi,
tôi làm thư giản các cơ bắp trong cơ thể tôi.
Thở vào tôi bắt đầu
thấy khỏe hơn, thở ra tôi bắt đầu thấy nhẹ nhàng hơn, thở vào
khỏe, thở ra nhẹ.
Thở vào tôi thấy dể
chịu trong khi thở vào, thở ra tôi thấy dể chịu trong khi thở
ra.
Thở vào tôi biết
cái lưng của tôi rất thẳng như lưng của đức Thế Tôn, không cong
như lưng bà ngoại, thở ra tôi mỉm miệng cười giống như nụ cười
trên môi của đức Thế Tôn.
Thở vào tôi thấy
được sự có mặt của cha tôi trong từng tế bào cơ thể tôi, thở ra
tôi mỉm cười với cha tôi trong từng tế bào của cơ thể tôi.
Thở vào tôi mời cha
tôi trong tôi cùng thở vào một lần với tôi, hai cha con cùng thở
vào cho khỏe.
Thở vào con thấy
khỏe quá, ba có thấy khỏe như con không? hai cha con cùng thở
vào và cảm thấy rất khỏe, thở vào thở ra con thấy nhẹ nhàng
trong người quá, ba có thấy nhẹ nhàng như con không ?
Hai cha con cùng
thở ra và cảm thấy nhẹ nhàng.
Thở vào tôi thấy sự
có mặt của mẹ tôi trong từng tế bào của cơ thể tôi.
Thở vào tôi mời mẹ
tôi trong tôi cùng thở vào một lần với tôi, hai mẹ con cùng thở
vào một lúc.
Thở vào con thấy
khỏe quá, má có thấy khỏe như con không? thở ra tôi mời mẹ tôi
cùng thở ra một lần với tôi, hai mẹ con cùng thở ra. Thở ra con
thấy nhẹ nhàng trong người quá, má có thấy nhẹ nhàng như con
không? hai má con cùng thở ra và cảm thấy nhẹ nhàng trong thân
thể. Con cảm ơn ba má đã thở vào, thở ra với con.
Lắng
nghe... để vượt thoát luân hồi
Kính thưa chư vị tôn đức, kính thưa các Phật tử cư sĩ. Mỗi chúng
ta đã từng làm một em bé năm tuổi, em bé trai hay là em bé gái.
Có thể là chúng ta còn giữ được hình ảnh của chúng ta khi năm
tuổi, em bé trai hay là em bé gái. Bây giờ chúng ta lớn rồi,
chúng ta ba mươi tuổi, bốn mươi hay năm mươi hay hơn năm mươi
tuổi rồi. Chúng ta không còn là em bé trai năm tuổi đó nữa,
chúng ta không còn là em bé gái năm tuổi đó nữa. Nhưng mà chúng
ta đừng có tưởng rằng em bé trai hay em bé gái đó đã chết, em bé
đó vẫn đang còn sống ở trong ta. Và em bé đó đang cần sự chú ý
của chúng ta, chúng ta bận rộn quá nhiều trong đời sống hàng
ngày. Và chúng ta có thể chưa có cơ hội trở về để mà gặp em bé
năm xưa đang từng sống ở trong ta. Em bé năm xưa có thể đã từng
bị nhiều thương tích trong lòng. Có những em bé không có đủ
phước đức, không có tiếp nhận được tình thương từ cha từ mẹ, có
những em bé bị lạm dụng, bị hành hạ. Và tuy rằng mới năm hay
sáu tuổi, em bé đó đã có nhiều thương tích trong tim và trong
cái hình hài của mình. Và vì vậy cho nên em bé vẫn đang còn sống
trong ta, em bé rất là trông chờ chúng ta trở về để ôm ấp lấy
nó, để giúp cho nó chữa lành những vết thương ngày xưa.
Chúng ta phải học lắng nghe em bé ở trong ta, em bé măm tuổi
trong ta vẫn còn sống đó, vẫn mang vết thương của ngày xưa và
chưa bao giờ có cơ hội để được công nhận những nỗi khổ niềm
đau ngày xưa.
Niềm đau của em bé chưa bao giờ được ta công nhận, được ta ôm
ấp, được ta chữa trị. Và vì vậy ta vẫn còn những nỗi khổ niềm
đau, mà chúng ta không biết nguồn gốc tại đâu. Tại vì em bé có
những vết thương chưa được chữa lành. Cho nên sự thực tập của ta
là mỗi ngày phải có được năm phút hay là bảy phút để trở về với
em bé, nói rằng tội nghiệp em bé quá, em bé có rất nhiều thương
tích, mà tôi bận rộn quá,
bận rộn không có thì giờ để thở, để ngồi yên. Và vì vậy cho nên
chưa bao giờ có cơ hội trở về để nhận diện sự có mặt của em bé
trong tôi, để ôm lấy nó một cách trìu mến và để giúp cho những
vết thương của em bé đó được chữa lành, tôi hối hận lắm, tôi tệ
bạc lắm, tôi đã đối xử với em bé trong tôi một cách không dể
thương. Và mỗi ngày mình trở về với em bé, công nhận rằng nó còn
sống đó với những vết thương, mình ôm lấy nó một cách rất là
trìu mến và mình giúp cho những vết thương đó từ từ nó chữa
lành, đó là một phương pháp thực tập rất là quan trọng. Có thể
là em bé trong quý vị đã bị thương nhiều. Và từ cái hồi năm tuổi
cho đến giờ chưa có ai, chưa có một vị thầy hay một người bạn
giúp cho quý vị biết phương pháp trở về công nhận sự có mặt của
em bé đó. Nó rất bơ vơ, nó rất cô đơn mà nó bị bỏ rơi tại vì
chúng ta quá bận rộn. Có một vị thầy, có một người bạn tu giúp
cho mình trở về để nhận diện, để ôm lấy em bé bị thương, để
giúp cho những vết thương của em bé chữa lành thì lúc đó chúng
ta mới thật sự có hạnh phúc.
Đức Quan Thế Âm là một người có khả năng lắng nghe. Nhưng lắng
nghe không phải chỉ là lắng nghe người khác, chúng ta phải tự
lắng nghe bản thân của mình, vì cơ thể chúng ta cũng đang có
những thông điệp muốn gỡi cho chúng ta. Và trái tim của chúng
ta, những nỗi khổ niềm đau của chúng ta muốn chúng ta chú ý tới
nó, những nỗi khổ niềm đau đó nó đang muốn truyền thông với
chúng ta nhưng chúng ta vẫn làm lơ. Chúng ta có những buồn khổ,
chúng ta có những thất vọng, chúng ta có những mong ước, chúng
ta có những khó khăn nhưng chúng ta chưa có cơ hội trở về để
lắng nghe những buồn khổ, những đau đớn, những khó khăn đó. Và
vì vậy cho nên chúng ta không lắng nghe chúng ta được và không
có cơ hội để lắng nghe chúng ta.
Và khi đã không thể nào lắng nghe chúng ta được thì làm sao
chúng ta có thể lắng nghe người khác để hiểu được những khổ đau,
những khó khăn những bức xúc, những ước vọng, những tuyệt vọng
của người đó. Khi thương ai thì mình phải biết lắng nghe người
đó. Thương chồng thì mình phải lắng nghe chồng để thấy được
những nỗi khổ niềm đau, những khó khăn, những bức xúc của
chồng. Và có hiểu được thì mới thương được. Nếu muốn thương con
thì mình phải lắng nghe con mình. Vì con mình tuy là còn trẻ
nhưng cũng có những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc,
những ước vọng không đạt được. Và mình là cha, hay là mẹ,
mình phải lắng nghe đứa con của mình. Nhưng trước khi có thể
lắng nghe được cha mình, chồng mình, con mình, vợ mình, bạn bè
mình thì phải học lắng nghe bản thân mình. Và trước hết phải
lắng nghe em bé bị thương trong chúng ta.
Em bé năm tuổi rất dể bị thương tích, rất mong manh, một cái
nạt của người lớn đủ gây thương tích trong lòng em bé, một cái
câu chửi rủa, một câu mắng nhiếc. Ví dụ như mày là cái đồ vô
tích sự, cả đời mày sẽ không làm được gì hết. Khi cha hay
mẹ nói với em bé một câu như vậy thì có một vết thương hằn sâu
vào trong trái tim nó vì trái tim của em bé rất mong manh,
rất nhạy cảm. Khi chúng ta nói mày chết đi cho rồi, cho
khuất mắt tao, thì câu nói đó nó phát xuất từ sự bực mình,
nhưng mình không có biết rằng câu nói đó gây một vết thương rất
lớn nơi trái tim em bé. Làm cha làm mẹ có những lúc chúng ta
bực bội, chúng ta bức xúc và chúng ta trút lên đầu con cái
những bực bội, những bức xúc và gây thương tích trong trái tim
bé bỏng của chúng nó. Và vì vậy cho nên trong chúng ta có nhiều
người đang có một em bé bị thương, có những vết thương rất là
sâu, chưa chữa lành. Và mình không hiểu tại sao mình không có
hạnh phúc, mặc dầu mình đã đi làm, mình đã đi học, đã tốt
nghiệp. Mình có nhà, có lương, có xe đủ hết, tại sao mình có
những nỗi khổ niềm đau không hiểu được nguyên do. Đó là tại vì
em bé năm tuổi trong ta đang bị thương mà chưa có cơ hội chữa
lành.Vì vậy chúng ta phải nghe lời đức Thế Tôn, nghe lời đức bồ
tát Quan Thế Âm trở về để lắng nghe em bé bị thương đó và trước
hết phải ôm lấy nó và ngồi với nó mười phút, mười lăm phút.
Bé ơi ta biết là bé đang còn sống đó, bé bị thương rất nhiều, ta
rất là buồn, ta rất hối hận. Tại vì ta trong bao nhiêu năm đã
quá bận rộn không có cơ hội trở về để chơi với bé, để mà ôm lấy
bé, để mà nâng niu bé để giúp bé chữa lành những vết thương
trong trái tim của bé.
Tất cả chúng ta phải thực tập như vậy mỗi ngày năm phút, bảy
phút. Có những đứa con trai giận ba nó, có những đứa con
gái giận mẹ nó. Tại vì trong thời thơ ấu, ba nó đã gây thương
tích trong lòng, mẹ nó đã gây thương tích trong lòng nó. Và nó
nghĩ rằng khi mà lớn lên nó sẽ không lặp lại những cái lỗi lầm
của ba hay của mẹ. Nhưng nếu cái vết thương của nó không được
chữa lành thì chắc chắn nó sẽ lặp lại những cái lỗi lầm của ba,
của má đối với con của nó, đó là luân hồi. Vì vậy chúng
ta phải cẩn thận lắm để trở về giúp chữa trị những vết thương
nơi em bé.
Có một bài tập tôi xin chia sẻ
với quý vị tối hôm nay:
Thở
vào tôi thấy sự có mặt của em bé năm tuổi bị thương ở trong tôi,
thở ra tôi ôm lấy em bé năm tuổi bị thương ở trong tôi với tất
cả sự trìu mến.
Thở
vào tôi biết rằng em bé năm tuổi trong tôi bị thương là tại vì
hồi đó đã tiếp nhận những bực bội những bức xúc từ cha và từ mẹ.
Thở ra tôi giúp cho những vết thương của em bé đó từ từ lành
được.
Và bài tập này nó đi đôi với một bài tập thứ hai rất là quan
trọng. Và quý vị thử về thực tập coi, đêm nay, nó chỉ cần có năm
phút mười phút mà thôi:
Thở
vào tôi thấy ba tôi là một cậu bé năm tuổi rất mong manh, rất dể
bị thương tích. Và thở ra tôi mỉm cười với em bé năm tuổi ngày
xưa là cha tôi.
Tại vì cha mình ngày đã từng là một em bé trai năm tuổi và cũng
có thể cha mình cũng đã bị thương tích cũng đã bị đối xử một
cách không nhẹ nhàng, đã bị đối xử thô bạo. Và vì vậy cho nên
cha mình ngày xưa cũng đã bị thương. Và nếu mà cha mình không có
được gặp thầy gặp bạn, gặp pháp môn tu học thì cha mình không
có cơ hội trở về để mà chữa trị vết thương trong lòng. Mà nếu
cái vết thương trong lòng không được chữa lành thì mình sẽ lặp
lại những cái lỗi lầm, mình sẽ trút ra, trút xuống những bực
bội, những tức giận của mình lên những đứa con trai hay con gái
năm tuổi của mình. Và vì vậy cho nên trong khi mình thực tập,
thở vào tôi thấy ba tôi là một em bé năm tuổi rất dể bị thương
tích, thở ra tôi mỉm cười với em bé năm tuổi ngày xưa là cha tôi.
Những người con trai giận ba, những người con gái giận ba phải
thực tập bài này. Có những người giận cha cho đến nỗi tuyên bố
rằng ông đó hả, tôi không có muốn có dính líu gì tới ổng hết.
Tôi đã nghe những người thanh niên Tây Phương họ nói về cha của
họ như vậy, họ giận cha cho đến mức là họ không muốn có liên hệ
gì tới cha nữa. Nhưng mà kỳ thực, làm sao mà lấy cha ra khỏi
mình được, mình là sự tiếp nối của cha, cha có mặt trong từng tế
bào của cơ thể mình. Và vì vậy cho nên nói rằng tôi không muốn
có gì dính líu tới ông đó hết, đó là một câu nói ngu si. Tại vì
cha mình đang có mặt trong từng tế bào cơ thể mình và mình chỉ
là sự tiếp nối của cha mà thôi, giận cha tức là giận mình và
giận mình cũng là giận cha. Giận con cũng là giận mình và giận
mình cũng tức là giận con. Giữa hai cha con có một liên hệ rất
là mật thiết, đó là sự tiếp nối. Cũng như là hạt bắp sinh ra
cây bắp, giữa hạt bắp với cây bắp có sự tiếp nối. Nhìn vào cây
bắp mình không có thấy hạt bắp nữa, nhưng mà hạt bắp vẫn còn
sống ở trong cây bắp.
Nhìn
vào con người của mình mình không thấy cha nhưng kỳ thực cha
đang ở trong mình. Và chúng ta có thể nói một cách rất rõ ràng
rằng đứa con là sự tiếp nối của cha, mình giận cha tức là giận
mình, cha giận mình tức là cha tự giận cha, sự thật là như vậy,
đó
là nguyên lý vô ngã trong đạo Phật. Cha và con
không phải là hai ngã riêng biệt, hể cha khổ là
con sẽ khổ và hể con khổ là cha cũng khổ.
Khi một hạt bắp sinh ra cây bắp, nhìn thấy cây bắp, mình không
thấy được hạt bắp nhưng mà kỳ thực hạt bắp vẫn còn trong cây
bắp và mình thấy rằng cây bắp là sự tiếp nối của hạt bắp. Mình
cũng vậy, nhìn vào mình hình như là mình không có thấy cha,
nhưng kỳ thực cha đang ở trong mình và mình là sự tiếp nối của
cha, nó giống hệt như cây bắp là sự nối tiếp của hạt bắp. Cho
nên mình giận cha tức là giận mình, mình không có thể nào lấy
cha ra khỏi mình được. Cho nên có những thanh niên Tây Phương
và cả thanh niên Việt Nam nữa tuyên bố một câu động trời là tôi
không có gì muốn dinh líu tới ông đó nữa hết. Thật sự là mình
không có đường thoát, chỉ có một con đường duy nhất là mình phải
hòa giải với cha ở trong mình. Khi mà mình hòa giải được với cha
ở trong mình thì mình có thể hòa giải được với cha ở ngoài. Tại
vì cha ở ngoài là một phần thôi, cha ở trong mình mình là một
thực tại không thể phủ nhận được.
Vậy thì cái bài thực tập đi như thế này:
Thở vô
tôi thấy cha tôi là một em bé năm tuổi, rất mong manh, rất dể bị
thương tích và thở ra tôi mỉm cười với cha tôi với lòng từ bi.
Tại vì cha mình ngày xưa cũng có thể bị đối xử thô bạo, ông nội
bà nội có thể rầy la, đã trút những cái bực bội lên trên đầu
cha. Và vì những thương tích đó, cha mình chưa có chuyển hóa
được, trị liệu được cho nên cha mình truyền xuống cho mình,
đó là luân hồi.
Đôi khi mình cảm thấy tại sao mình đối xử với con mình một cách
thô bạo như vậy? tại sao mình có thể nói với con mình những câu
nói thô bạo và có những hành động thô bạo đối với con mình như
vậy? mình cũng là người hiền mà. Đó là tại vì cái vết thương của
cha chưa được trị liệu đã được truyền cho mình. Và vì mình chưa
trị liệu được cho nên mình lại trút xuống cho con mình, thành ra
nó đi vòng quanh nó được truyền từ thế hệ này xuống thế hệ khác.
Khi mình thấy cha mẹ mình đối xử với mình một cách thô bạo thì
mình rất tức, mình quyết tâm rằng sau này khi mà có con mình
nhất quyết sẽ đối xử với con một cách dịu dàng mềm mỏng, dịu
hiền, mình nguyện như vậy, mình đã quyết chắc như vậy. Nhưng mà
nếu mình không tu tập, mình không chữa lành được những vết
thương của em bé trong mình thì chắc chắn sau này mình cũng sẽ
đối xử thô bạo với con của mình, con trai của mình và con gái
của mình, đó là chuyện luân hồi.
Cho nên trở về để mà chữa lành thương tích, giúp cho em bé trong
mình chữa lành thương tích, đó là một thực tập rất quan trọng.
Nếu chúng ta chưa có gia đình thì chúng ta phải thực tập, có gia
đình rồi đôi khi không có thì giờ để thực tập nữa. Và chúng ta
sẽ truyền lại những vết thương của chúng ta đã nhận được từ cha
mẹ của chúng ta xuống cho các con, rất là nguy hiểm.
Và khi mà mình thở vào, mình thấy cha mình là một em bé năm tuổi
rất mong manh, rất dể bị thương tích và mình mỉm cười với em
bé năm tuổi đó, thì mình hiểu được cha, cha cũng đã từng là nạn
nhân của sự đối xử không nhẹ nhàng. Và khi mình hiểu được cha
như vậy rồi, mình không còn trách móc, mình không còn giận hờn
cha nữa. Sở dĩ cha đối xử với mình như vậy tại vì cha đã bị đối
xử như vậy và những vết thương trong cha cha chưa có cơ hội chữa
lành. Cho nên cha mới đối xử với mình như vậy và cha là một
người cần đến sự giúp đỡ, cần sự hiểu và thương chứ không cần sự
giúp đỡ của mình.
Và bài thực tập đó tuy là nó đơn giản nhưng mà nó làm cho mình
hết giận cha, thở vào tôi thấy cha tôi là em bé năm tuổi rất
mong manh rất dể bị thương tích, thở ra tôi mỉm cười thương hại,
tôi mỉm cười một cách từ bi đối với cha tôi. Tại vì cha tôi
hồi còn nhỏ cũng là nạn nhân của sự đối xử không có không có nhẹ
nhàng, cha tôi cũng không có tiếp nhận được đủ cái hiểu và cái
thương.
Khi mình thấy đã có thể hiểu được cha, đã thấy cha ngày xưa
khi còn là em bé đã từng là nạn nhân của sự đối xử không có nhẹ
nhàng rồi và cha chưa có cơ hội nào để có thể trở về để giúp em
bé trong cha chữa trị được những vết thương đó. Và vì vậy cho
nên cha đã đối xử với mình như vậy thì mình bắt đầu hiểu, mình
bắt đầu chấp nhận và mình hết giận cha. Và khi đã hết giận cha
rồi thì mình ngồi xuống viết một lá thư tình cho cha, mình nói
ba ơi lâu con giận ba năm này sang năm khác tại vì con chưa
hiểu ba. Bây giờ nhờ pháp môn của đức Thế Tôn giảng dạy con đã
thấy được rồi, con đã hiểu được rồi.
Hồi nhỏ ba có nhiều thương tích và vì ba chưa có cơ hội chữa trị
được những thương tích đó cho nên ba đã truyền lại những cái khổ
đau đó, những vết thương đó cho con. Bây giờ con hiểu ba rồi thì
con không có giận ba nữa, con đã thực tập rồi và con đã chữa
lành được cho em bé trong con, bây giờ con rất thương ba. Và nếu
ba thực tập như con thì ba cũng sẽ chữa lành em bé năm tuổi
trong ba, hai cha con mình cùng thực tập.
Tôi kể cho quý vị nghe về câu chuyện một em bé bên Thụy Sỹ. Đó
là em bé trai mười hai tuổi, rất giận ba nó vì nó hay bị
ba rầy la, nạt nộ, hay chửi mắng. Mỗi khi nó chơi, nó té rách
đầu gối hay là trẹo chân thì thay vì tới an ủi, giúp đỡ, băng bó
cho nó thì cha nó cứ chửi mày là đồ ngu, mày là đồ không có trí
tuệ, chửi cái này rồi chửi cái khác. Nó rất tức chuyện đó. Một
bữa đó ở làng Mai, xóm Hạ, em gái nó chín tuổi đang ngồi võng
chơi với một em bé khác, hai đứa đu võng làm sao mà té. Em gái
té xuống vấp vào một tảng đá, máu me chảy trên trán, thằng nhỏ
đó tự nhiên thấy trong lòng một nỗi giận hờn trào lên, nó tính
chửi em gái nó, nó tính chửi như thế này: mày là đồ ngu, mày là
đồ không có trí tuệ, chơi làm sao cho đến nỗi phải té dập đầu
dập mặt như vậy. Nhưng bữa đó nó không có chửi, vì nó đã qua
làng Mai thực tập liên tiếp trong hai mùa hè rồi. Và ở Mai thôn
đạo tràng bên Pháp thì người lớn thực tập nhưng con nít cũng
thực tập nữa. Mình thực tập thở có ý thức giống như bài tập mà
chúng ta vừa mới bắt đầu bài pháp thoại này, mình tập đi những
bước chân có ý thức, mình tập làm gì cũng có ý thức về điều mình
đang làm. Ví dụ như khi lặt rau thì mình biết là mình đang lặt
rau, rửa rau thì mình biết là mình rửa rau, lái xe thì mình biết
là mình đang lái xe, thở vào thì mình biết là mình đang thở vào,
xới cơm thì mình biết là xới cơm, rửa bát thì biết là rửa bát.
Khi nào cơn buồn xuất hiện thì biết rằng có cơn buồn xuất
hiện, cơn giận xuất hiện thì biết rằng cơn giận đang xuất hiện.
Và vì vậy cho nên nó đã thực tập được hai mùa hè và bữa đó khi
mà em gái nó té chảy máu ở trên trán thì cơn giận đùng đùng
kéo dậy và nó sắp chửi em gái cũng giống như là ba đã từng chửi
nó. Nhưng nó nhận ra được một điều, nếu mình chửi em gái mình
thì cũng giống như là ba đã từng chửi nó thành ra nó không chửi.
Trong khi đó một người bạn chăm sóc băng bó cho em gái nó thì
nó xoay lưng lại thực tập đi thiền hành.
Đi thiền hành tức là đi từng bước chậm rãi và phối hợp hơi thở
với bước chân, đi như thế nào để mỗi bước chân đưa mình về giây
phút hiện tại để mình có thể tiếp xúc được với cái tươi mát
lành mạnh, có giá trị nuôi dưỡng và trị liệu. Và trong khi đi
thiền hành đứa bé khám phá ra được nhiều điều rất kỳ lạ. Mới
mười hai tuổi thôi mà đã tu chứng được rồi, đầu tiên nó thấy là
nó cũng giống hệt như ba nó, nó cũng có hạt giống của sự giận
hờn. Và mỗi khi mà con mình hay em mình làm một cái lỗi lầm gì
thì mình có khuynh hướng muốn chửi người đó, chửi đứa con đó
hay đứa em đó. Thành ra tuy nó giận ba nó nhưng nó hành xử
giống hệt như ba nó. Đó là cái thấy đầu tiên của nó, nhờ tu tập
chánh niệm.
Đi thiền hành một hồi nữa thì nó thấy được cái thứ hai, là
ngày xưa ba nó cũng đã từng là nạn nhân như nó, ngày xưa cũng
đã nhận được những hạt giống như nó. Hể đứa con mình làm một
điều gì sai quấy thay vì giúp đỡ lại chửi mắng. Và trong cái
thấy này nó nhận ra rằng ba nó cũng là nạn nhân như nó. Và khi
thấy rằng ba mình cũng là nạn nhân như mình thì nó bắt đầu hết
giận ba.
Cái thấy thứ ba là nó ước muốn khi về tới Thụy Sỹ thì nó sẽ
mời ba nó cùng thực tập với nó để chuyển hóa những cái hạt
giống đã tiếp nhận được từ ba nó, những hạt giống xấu, hạt
giống của sự bực bội la mắng, nó tiếp nhận từ ba nó và ba nó đã
tiếp nhận từ ông nội của nó. Và trong buổi đi thiền hành chưa
đầy mười phút mà cậu con trai mười hai tuổi đã đạt tới ba
cái thấy rất là rõ ràng. Và từ đó trở về sau mỗi khi em
gái nó chơi đùa bị thương thì nó không la mắng nữa mà nó tới để
giúp đỡ băng bó, an ủi em gái nó.
Tôi nghĩ rằng một em bé trai mười hai tuổi mà thực tập như vậy
cũng là giỏi, mới thực tập mùa hè thứ hai ở tại làng Mai thôi,
thực tập chánh niệm. Cho nên chúng ta người nào cũng có thể
thành công được trong thực tập này, chúng ta phải trở về bản
thân, chúng ta phải nhận diện sự có mặt của em bé bị thương
trong ta, chúng ta phải mỉm cười với nó, chúng ta phải ôm lấy nó
một cách rất là trìu mến, chúng ta phải quán chiếu và giúp cho
những vết thương trong nó từ từ được chữa lành. Và trong sự thực
tập này chúng ta phải quán chiếu em bé ngày xưa của cha mình.
Tại vì cha mình ngày xưa cũng đã từng là một em bé. Và nếu mình
thấy được rằng cha mình hồi năm tuổi cũng là nạn nhân của sự
trao truyền những hạt giống giận hờn bạo động thì mình bắt đầu
hiểu được cha, thấy được cha cũng là nạn nhân và chấp nhận được
và tha thứ cho cha, điều này ai cũng làm được.
lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ,
Những
thiền sinh Tây Phương có vấn đề với cha với mẹ rất là nhiều. Và
khi mà họ tới những khóa tu ở làng Mai tổ chức ở tại khắp nơi ở
Âu Châu và Mỹ châu, họ đều được tiếp nhận phương pháp này và có
rất nhiều người đã thực tập thành công và đã được hòa giải với
cha, hòa giải được với mẹ, rất là hay. Trong những biện pháp,
trong những pháp môn để giúp cho mình hòa giải với cha, hòa
giải với mẹ, có phép lắng nghe của Bồ tát Quan Thế Âm.
Và tôi muốn chia sẻ tối hôm nay với quý vị phương pháp lắng nghe
đó để quý vị cũng có thể làm được như những thiền sinh kia.
Trong chúng ta có hạt giống của hiểu và của thương cũng như có
hạt giống của bực bội, giận hờn, si mê.
Và khi hạt giống của bực bội, giận hờn, si mê được tưới tẫm
thì chúng ta nói lên những lời không có tình không có nghĩa,
chúng ta nói những lời có thể gây ra sự đổ vỡ giữa ta với người
khác, người khác đó có thể là vợ ta, chồng ta, con ta hoặc là
cha ta hay mẹ ta. Và vì vậy cho nên muốn nói những lời ái ngữ,
muốn lắng nghe những nỗi khổ niềm đau của người kia thì chúng
ta phải biết tưới tẫm những hạt giống của hiểu biết và thương
yêu ở trong ta.
Đây là pháp thực tập của bồ tát Quan Thế Âm. Mỗi người trong
chúng ta đều có những nỗi khổ niềm đau, những bức xức, những
khó khăn chưa nói ra được, rất nặng ở trong lòng. Nếu chúng ta
may mắn có một người bạn hay một người chồng hay một người vợ
hay một người yêu có thể hiểu được chúng ta. Và chúng ta đã có
thể tâm sự với người đó về những khó khăn, những bức xúc,
những buồn chán của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta chưa được ai
lắng nghe chúng ta một lần nào cả, thì những đau khổ, buồn
chán, bức xúc, tuyệt vọng đó vẫn còn nguyên vẹn trong chúng
ta. Và vì vậy chúng ta rất cần một người lắng nghe chúng ta, để
chúng ta có thể nói ra được tất cả những gì chất chứa trong lòng
từ lâu nay. Đức Quan Thế Âm là một trong những người có khả năng
lắng nghe đó.
Hiện bây giờ trong xã hội mới, có những người làm nghề gọi là
nghề tâm lý trị liệu. Và một trong những sự thực tập của những
người đó là ngồi lắng nghe chúng ta khi chúng ta có những nỗi
khổ niềm đau, chúng ta có những rối loạn về tâm thần thì những
người bác sĩ tâm lý trị liệu đó, ngồi lắng nghe chúng ta. Tại vì
nếu biết cách lắng nghe thì sau một giờ đồng hồ chúng ta sẽ
thấy khỏe và nhẹ hơn lên. Tôi đã từng mở những khóa tu Phật pháp
cho những nhà tâm lý trị liệu Tây Phương có rất nhiều người thật
sự không có khả năng lắng nghe, vậy mà họ vẫn làm cái nghề đó
như thường. Họ không có khả năng lắng nghe những nỗi khổ niềm
đau của chính họ và họ cũng chưa có khả năng lắng nghe người bạn
hôn phối, hay là con cái, hay là cha mẹ của họ. Vậy thì làm sao
họ lắng nghe người bệnh của họ một cách thành công được. Cho nên
tôi rất nghi ngờ khả năng trị liệu của những người đó.
Và cố nhiên khi mà họ tới học tập cái tâm lý học về Phật giáo,
học tập những phương pháp tu luyện của Phật giáo thì họ sẽ tưới
tẫm những hạt giống tốt, họ có thể ôm ấp và chuyển hóa những hạt
giống xấu. Và họ sẽ có khả năng lắng nghe người bệnh của họ
nhiều hơn. Lắng nghe chữ Hán gọi là đế thính, mà
lắng nghe với tâm từ bi cái đó gọi là bi thính,
rất là quan trọng.
Trước mặt mình là một người có rất nhiều nỗi khổ niềm đau chưa
bao giờ nói ra được, và bây giờ mình đóng vai Đức Quan Thế Âm bồ
tát để lắng nghe người đó. Và mình biết rằng nếu mình nắm
được kỹ thuật lắng nghe, thì mình chỉ cần lắng nghe trong một
giờ đồng hồ là người đó bớt khổ rất nhiều rồi. Nhưng mà lắng
nghe không phải là chuyện dể, tại vì khi người kia nói, người
kia có thể nói bằng một ngôn từ rất khó nghe. Những lời của
người kia nói có thể có tính cách chua chát, trách móc, hờn oán,
lên án,
hoặc buộc tội. Cho nên khi nghe như vậy những hạt giống bực bội
giận hờn của mình có thể bị tưới tẩm. Và khi mà sự bực mình,
sự giận hờn trào lên thì mình mất khả năng lắng nghe của
mình. Mình biết rằng chồng mình có những nỗi khổ niềm đau rất
sâu, rất kín. Mình là người vợ, mình cũng muốn ngồi để lắng
nghe ông ta, để cho ông bớt khổ. Nhưng cái khả năng lắng nghe
của mình có giới hạn, tại trong tâm của mình cũng có hạt giống
của sự bực bội giận hờn, trách móc. Cho nên khi lắng nghe ông
ta nói với giọng chua chát trách móc hờn giận buộc tội, thì
những lời nói đó tưới tẩm những hạt giống bực bội giận hờn trách
móc trong mình. Và khi mà sự trách móc hờn giận trào lên thì
mình không có thể nào ngồi lắng nghe được nữa. Mình trở thành
một bức tường, tuy là mình không có nói gì nhưng người kia có
cảm tưởng đang nói với một bức tường. Vì vậy cho nên muốn lắng
nghe thì phải học theo hạnh của đức bồ tát Quan Thế Âm. Lắng
nghe tức là nghe với tâm từ bi, chỉ với một mục đích thôi là làm
thế nào để người kia có cơ hội nói ra những nỗi khổ niềm đau ở
trong lòng mình để cho người đó bớt khổ. Mình là người vợ, mình
biết rằng chồng mình có những cái nỗi khổ niềm đau lâu nay chất
chứa, mình muốn lắng nghe nhưng mà mình phải học mới có thể lắng
nghe được. Mình là người chồng, mình biết rằng người vợ của mình
cũng có những nỗi khổ niềm đau rất sâu sắc, mình cũng muốn có
một giờ nào đó ngồi lắng nghe vợ, nhưng mà nếu người vợ nói
bằng giọng trách móc hờn giận buộc tội chua chát thì mình cũng
không lắng nghe được. Vì trong khi lắng nghe, sự bực bội, sự
giận hờn của mình bị tưới tẩm. Cho nên trong chúng ta ít người
có khả năng lắng nghe với tâm từ bi. Cho nên xã hội Tây Phương
cũng như xã hội Á châu, trong gia đình không có ai lắng nghe
được ai. Và do đó chúng ta phải đi tìm những nhà tâm lý trị
liệu, chúng ta trả tiền cho họ, để họ ngồi lắng nghe chúng ta.
Đức Quan Thế Âm bồ tát ngài không cần ai trả tiền, vì ngài có
rất nhiều lòng từ bi và ngài biết rằng lắng nghe như vậy là làm
cho người ta bớt khổ rất nhiều.
Trong kinh thiền môn nhật tụng hai ngàn có một đoạn chúng ta gọi
tên đức Quan Thế Âm bồ tát, tôi xin đọc cho quý vị nghe.
“ Lạy đức bồ tát Quan Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh
của bồ tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ, ngài là
trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với
tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập
ngồi nghe với tâm không thành kiến, chúng con xin tập ngồi nghe
mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con xin nguyện tập ngồi
nghe để hiểu, chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể
hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng
con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt
rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi”
Đó là
đoạn kinh nói về hạnh nguyện của đức bồ tát Quan Thế Âm. Chúng
ta đều là đệ tử của đức Quan Thế Âm, chúng ta phải tìm cách học
cho được cái hạnh lắng nghe của ngài, hạnh lắng nghe với tâm từ
bi. Muốn có thể lắng nghe được, chúng ta phải nuôi cái tâm từ bi
trong thời gian lắng nghe.Chúng ta phải thở và nhớ rằng mình
lắng nghe đây không phải với mục đích là để phê bình, để sửa
những lỗi lầm của người kia,
hoặc
để tranh cãi, mà là để giúp cho người kia có một cơ hội nói ra
được những nỗi khổ niềm đau cho bớt khổ. Trong thời gian lắng
nghe nửa giờ đồng hồ hay một giờ đồng hồ, mình phải ngồi và
mình tự nhắc mình như vậy. Và làm sao để cho tâm từ bi có mặt
trong suốt thời gian lắng nghe. Nếu có tâm từ bi trong suốt
một giờ đồng hồ thì mình được che chở và hạt giống của sự bực
bội giận hờn không bị tưới tẫm. Còn nếu mà không duy trì được
cái tâm từ bi, thì trong khi nghe mình sẽ bực bội, vì người kia
có thể chưa biết dùng ái ngữ, người kia có thể nói bằng cái
giọng hờn oán trách móc chua chát, lên án buộc tội. Và như vậy
mình đánh mất khả năng lắng nghe của mình. Cho nên muốn lắng
nghe cho thành công thì mình phải duy trì tâm từ bi trong thời
gian lắng nghe. Và muốn duy trì được tâm từ bi trong thời gian
lắng nghe thì mình phải nhớ là ngồi nghe như vậy, không phải là
để tranh cãi, để phê bình mà để cho người kia một cơ hội nói ra
những cái nỗi khổ niềm đau cho người đó bớt khổ. Cho nên dù
người đó nói những cái gì rất sai lầm, có những tri giác rất
sai lầm, có những nhận xét rất sai lầm, có những thông tin rất
sai lầm thì mình vẫn ngồi yên để lắng nghe. Nếu mình cắt lời,
mình sửa sai người đó trong khi lắng nghe, thì người đó sẽ cãi,
và buổi lắng nghe không còn ý nghĩa nữa.
Cho
nên muốn lắng nghe một người nào đó, mình phải chuẩn bị nhiều
ngày và phải thực tập để có thể nắm được chủ quyền của thân tâm
và nhất là mình phải nuôi cho được tâm từ bi trong suốt thời
gian lắng nghe đó, tức là một giờ hoặc là bốn mươi lăm phút.
Muốn nuôi tâm từ bi thì mình phải nhớ câu nói kia, nhớ lời
nguyện kia, lắng nghe đây là để giúp cho người kia một cơ hội
nói ra được những nỗi khổ niềm đau để cho người kia đỡ khổ, chứ
không phải là để mà tranh cãi để hơn thua, để phê bình. Chỉ cần
nhớ câu nói đó thì dù người kia có trách móc, có nói xiên nói
chua chát hay là có những tri giác rất sai lầm, thì mình vẫn
mỉm cười và mình vẫn lắng nghe được như thường. Và lúc đó mình
đang đóng vai đức bồ tát lắng nghe Quan Thế Âm.
Đức bồ tát lắng nghe
Chúng ta thường gọi đức bồ tát Quan Thế Âm là đức bồ tát đại bi.
Nhưng trong những ngày gần đây thì tại đạo tràng Mai thôn chúng
tôi sử dụng chữ lắng nghe, vì lắng nghe là cái nghề của đức bồ
tát Quan Thế Âm, quán là lắng nghe, thế âm là những tiếng kêu
thương của cuộc đời. Cho nên chúng tôi hay niệm Nam mô đức bồ
tát lắng nghe Quan Thế Âm, ngài chuyên môn về lắng nghe và ngài
lắng nghe được với cái tâm từ bi. Và nếu mình là người niệm đức
Quan Thế Âm thì ít nhiều mình phải học cách lắng nghe của ngài,
phải biết nhìn cuộc đời bằng con mắt từ bi.
Mắt thương nhìn cuộc đời
-từ
nhãn thị chúng sanh-
đó là một câu kinh rút trong phẩm phổ môn của kinh Pháp Hoa. Khi
mà mình biết nhìn bằng con mắt từ bi thì mình cũng biết lắng
nghe bằng lổ tai từ bi. Và khi mình biết nhìn người kia bằng con
mắt từ bi thì người kia cảm nhận được, mình khỏe mà người kia
cũng sẽ khỏe. Và khi mình lắng nghe được với tâm từ bi thì mình
khỏe mà người kia cũng khỏe, rất là hay. Cho nên Mắt thương nhìn
cuộc đời, từ nhãn thị chúng sanh, và từ nhĩ thính chúng sanh tức
là dùng lỗ tai từ bi để lắng nghe chúng sanh. Chuyện đó mình có
thể làm được, tôi cam đoan rằng nếu quý vị thực tập độ chừng ba
ngày là quý vị có thể lắng nghe được những người thân của mình,
người thân đó có thể là cha của mình hay là chồng, là vợ, là con
trai hay con gái của mình. Lâu nay mình nói chuyện với con của
mình không được, mình nói chuyện với cha của mình không được,
lâu nay hai vợ chồng không có nhìn mặt nhau, không nói chuyện
với nhau được. Nhưng nếu thực tập theo phương pháp này thì nội
trong ba ngày hay bốn ngày mình đã có thể lắng nghe nhau được
và mình có thể nói những lời nói dịu dàng được với người kia.
Một khóa tu chúng tôi tổ chức cho thiền sinh Tây Phương thường
thường là sáu ngày và họ ở luôn tại chỗ, ngủ tại chỗ.
Thường thường chúng tôi thuê một trường đại học và mỗi thiền
sinh ở trong trường đại học luôn, ngủ ban đêm rồi buổi sáng thức
dậy lúc bốn giờ rưỡi cùng ngồi thiền với các thầy các sư cô, rồi
ngồi thiền tụng kinh xong đi ăn sáng. Ăn sáng trong im lặng, ăn
trong chánh niệm và hưởng sự có mặt của các thầy các sư cô và
các bạn tu của mình. Ăn im lặng, ăn chậm rãi và ăn như thế nào
để được thảnh thơi hạnh phúc trong khi ăn. Rồi sau đó đi lên
thiền đường để nghe pháp thoại, nghe giảng. Và trong khi nghe
một bài thuyết pháp thì những hạt giống của hiểu và của thương
được tưới tẩm. Nhìn lại mình, mình thấy có những cái vụng dại,
những khuyết điểm.
Nhìn lại người thương của mình, mình thấy người đó đáng thương
đáng giúp hơn là đáng trừng phạt. Cho nên trong suốt sáu ngày
những hạt giống của hiểu và của thương nơi mình được tưới tẩm.
Và vì vậy tới ngày thứ năm là chúng ta có thể sử dụng ái ngữ
được rồi, tức là nói những lời nói dể thương, mình nói như thế
này.
Ví dụ mình là người vợ, mình nói với người chồng như thế này
anh ơi, em biết là trong những năm gần đây anh có rất nhiều khổ
đau bức xúc, em biết chứ không phải là không biết. Nhưng mà em
dại dột em đã không có giúp được anh mà em còn phản ứng, em còn
nói những câu nói em còn có những hành động làm cho tình trạng
tệ hơn, em chịu một phần trách nhiệm trong những khổ đau những
bức xúc, những bực bội của anh, em xin lỗi. Tại vì em chưa được
tiếp xúc với pháp môn của đức Thế Tôn, em không biết lắng nghe,
em không biết nói lời ái ngữ, em đã nói những lời nói buộc tội,
những lời nói chua chát, những lời nói lên án và em đã làm cho
tình trạng tệ hơn, xấu hơn.
Em đã không giúp được anh bớt khổ mà em còn làm cho anh khổ
thêm, em rất hối hận. Vậy thì từ nay trở đi em hứa sẽ không làm
như vậy nữa. Nhưng mà em cần anh nói cho em nghe tất cả những
khó khăn, những khổ đau, những bức xúc, những tuyệt vọng của
anh,để từ rày về sau em sẽ không dại dột nữa. Nếu em không
hiểu thì em sẽ có thể tiếp tực lặp lại những lỗi lầm. Vì vậy cho
nên anh phải giúp em, anh phải nói cho em nghe tất cả những khó
khăn, bực bội, buồn khổ của anh và em nguyện sẽ lắng nghe anh
hết lòng. Nếu anh không giúp em thì ai mà giúp em được nữa. Và
nếu em có những lỗi lần nào, vụng về nào trong quá khứ thì anh
cũng nói cho em nghe đi để từ rày về sau em không dại dột lặp
lại.
Những lời nói như vậy và đó gọi là ái ngữ.
Có những người không thể nói được những câu như vậy vì giận
chồng, giận vợ lâu ngày. Nhưng sau năm ngày tu những hạt giống
hiểu và thương của mình được tưới tẩm thì tự nhiên mình nói được
những câu nói đó, rất là lạ kì. Và điều này áp dụng cho thiền
sinh Tây Phương nhưng cũng áp dụng được cho những thiền sinh Á
châu. Chúng tôi đã mở những khóa tu bên Nhật Bổn, bên Đại Hàn,
bên Trung Quốc, bên Đài Loan và Việt Nam. Và chúng tôi thấy
rằng sau năm ngày tu những hạt giống tình nghĩa hạnh phúc được
tưới tẩm thì mình có thể nói trở lại được những lời dể thương
nhẹ nhàng ái ngữ như vậy.
Tôi còn nhớ một khóa tu ở bên Đức cách đây độ chừng năm năm.
Tới ngày thứ năm tôi mới ra lệnh cho các thiền sinh, nói rằng
quý vị đã tu tập năm ngày, nhiều rồi đó, chỉ còn một ngày thứ
sáu nữa thôi. Vậy thì tôi ra một bài tập cho quý vị là từ bây
giờ cho đến mười hai giờ khuya, nếu quý vị có khó khăn với cha
với mẹ thì quý vị phải giải quyết cho xong trước mười hai giờ
khuya và quý vị phải sử dụng hai phương pháp mà tôi vừa trao
truyền là lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái.
Mình có thể nói được tất cả những khổ đau của mình, những cái gì
mà mình có ở trong lòng nhưng mà mình nói bằng ngôn từ hòa ái,
không có trách móc, không có lên án không có buộc tội để giúp
cho người kia hiểu được mình, cái đó gọi là ái ngữ. Và nếu quý
vị sử dụng được hai pháp môn này, ái ngữ và lắng nghe thì quý
vị sẽ có thể hòa giải được với cha hay mẹ của quý vị. Nếu cha
hay mẹ của quý vị có mặt trong khóa tu thì rất dể vì những vị đó
cũng đã tu tập năm ngày rồi, những hạt giống của tình nghĩa, của
hiểu và thương đã được tưới tẫm. Còn nếu mà cha hay mẹ không có
mặt ở đây quý vị được phép trong khóa tu này sử dụng điện thoại
di động để thực tập ái ngữ và lắng nghe với cha mẹ của quý vị.
Tất nhiên sử dụng điện thoại di động thì nó sẽ khó hơn tại vì
cha mẹ chưa được nghe năm bài thuyết pháp, chưa được thực tập
năm ngày hai mươi bốn giờ đồng hồ một ngày. Nhưng mà sáng hôm
sau thì có bốn người thanh niên, không hẳn là thanh niên, có
người ba mươi lăm tuổi bốn mươi tuổi, họ lên báo cáo rằng hôm
qua trước mười hai giờ khuya họ đã dùng điện thoại di động và họ
đã hòa giải được với cha của họ, rất là hay. Họ nói với tôi rằng
trước khóa tu họ không có ngờ họ có thể nói với cha họ những lời
nói dịu dàng hòa nhã như vậy. Nhưng sau năm ngày tu con người
của họ đổi khác và khi cần điện thoại lên gọi ba họ, tự nhiên họ
nói được những lời có hiểu có thương hòa nhã, những lời như là
tôi mới nói đó. Ba ơi con biết rằng năm bảy năm nay ba bực
lắm, ba buồn lắm, ba có những khó khăn ba có những khổ đau và ba
cũng buồn con lắm. Con biết rằng ba khổ mà con không có giúp
được ba mà con lại làm cho tình trạng nặng nề thêm, con đã
phản ứng, con đã hờn lẫy, con đã nói những câu khiến cho ba bực
mình thêm, ba đau khổ thêm con rất là hối hận. Con đâu muốn làm
cho ba khổ, nhưng tại con dại dột, tại con chưa biết pháp môn tu
tập. Bây giờ con đã biết rồi, con xin ba tha thứ cho con. Ba nói
cho con nghe đi những cái điều khó khăn khổ đau bức xúc trong
lòng ba, để con đừng lặp lại những lời nói những hành động vụng
về của con nữa, ba giúp con đi. Con muốn cho ba có hạnh phúc chứ
con đâu có muốn làm cho ba đau khổ đâu, ba không giúp con thì ai
giúp con nữa.
Và khi nói được như vậy thì trái tim của người kia sẽ mở ra,
cánh cửa trái tim sẽ mở ra và lúc đó mình thực tập lắng nghe,
tội nghiệp ba quá, tội nghiệp em quá, tội nghiệp anh quá vậy mà
em không biết. Và một giờ lắng nghe như vậy có thể làm vơi đi
rất nhiều đau khổ nơi trái tim của người kia. Trong bốn mươi năm
hành đạo ở Tây Phương chúng tôi đã giúp cho vô số những cặp vợ
chồng và cha con, mẹ con ở bên đó hòa giải được với nhau nhờ
phương pháp ái ngữ và lắng nghe mà chúng tôi học được từ đức Bồ
tát Quan Thế Âm.
Ngày hôm nay, ngày mai chúng ta sẽ mở hội Quan Thế Âm. Chúng ta
sẽ dâng hương dâng hoa lên đức Bồ Tát nhưng mà phẩm vật quý giá
nhất mà chúng ta sẽ dâng lên đức Bồ Tát là sự thực tập của
chúng ta. Tối nay chúng ta nên về đốt một cây hương ở trên bàn
thờ của đức Quan Thế Âm và chúng ta nên nguyện rằng “lạy
đức Bồ tát Quan Thế Âm chúng con sẽ học theo hạnh ngài, chúng
con sẽ thực tập lắng nghe và ái ngữ trước hết là đối với bản
thân của chúng con rồi sau đó đối với những người thương của
chúng con trong gia đình, trong đó có cha chúng con có mẹ chúng
con, có con chúng con, có con trai chúng con, có con gái chúng
con, có vợ chúng con, có chồng chúng con.
Chúng
con
nguyện sử dụng phương pháp lắng nghe của ngài, phương pháp ái
ngữ của ngài để lập lại truyền thông và đem lại hạnh phúc trong
gia đình”.
Khi chúng ta lập lại được lời nguyện đó thì chúng ta đã có
một phẩm vật rất quý giá, quý giá hơn bất cứ một thứ hoa hương
nào, để cúng dường lên đức Bồ Tát. Tại vì chúng ta có thể tiếp
nối được chí nguyện của Bồ Tát. Tại vì trong chúng ta có hạt
giống của Bồ tát Quan Thế Âm. Và nếu chúng ta thực tập tưới tẫm
hạt giống đó thì một ngày nào đó chúng ta có thể lắng nghe như
đức Bồ Tát và ta có thể mở miệng ra nói những lời ái ngữ như đức
Bồ Tát. Và như vậy chúng ta là những người đệ tử rất là xứng
đáng của Bồ tát lắng nghe Quan Thế Âm.
Cách đây độ cừng hai mươi năm tôi đi Canada. Và tối hôm đó tôi
thuyết pháp tại tòa thị chính cho vào khoảng bảy trăm đồng bào
Việt Nam định cư tại Canada. Buổi chiều khi ăn cháo nhẹ trước
khi đi tới hội trường, tôi nghe một tin rất buồn làm tôi nuốt
không nổi những thức ăn mà người ta dọn lên trên bàn. Tôi nghe
nói có cậu con trai mười sáu tuổi ngày hôm qua mới vừa mới nhảy
xuống sông tự tử vì hai cha con không có nói chuyện với nhau
được. Và cuối cùng người thiếu niên bất đắc chí đó đã nhảy xuống
sông tự tử. Bức thơ tuyệt mạng để lại nói rằng ba ơi, má ơi con
là đứa con bất hiếu nhưng mà con không thể nào sống được nữa,
con chỉ có cách là chết mà thôi. Tại vì con không có thể nào làm
được cái điều mà ba má muốn con làm.
Trái tim của tôi thổn thức và vì vậy cho nên bữa đó tôi không
ăn uống gì được cả. Và trong khi thuyết pháp tôi có trực tiếp
nói với những người cha đang ngồi trong buổi thuyết pháp. Tôi
nói này các ông, các ông phải cẩn thận lắm, nếu các ông có
những khó khăn với con trai của các ông thì tối nay các ông phải
về làm hòa với nó liền, có thể ngày mai nó tự tử lắm. Nếu các
ông không nói chuyện được với con trai, nếu các ông không nói
chuyện được với con gái thì tôi đề nghị chiều hôm nay các ông về
ôm lấy con trai của mình trong tay một cách trìu mến và nói ba
rất là hối hận ba đã làm cho con khổ. Con có điều gì đau khổ bức
xúc con nói cho ba nghe đi, để ba không tiếp tục làm cho con
khổ như vậy nữa, ba không muốn con khổ, ba không muốn mất con.
Tối nay ông phải về ôm lấy con trai mà nói câu nói đó đi.
Tôi đâu biết rằng trong thính chúng có một người, ông ta không
nói chuyện với con trai đã hai năm. Tôi có nói như thế này:
ông mất con trai ông, nó tự tử thì tôi mất một đứa cháu và đất
nước mất một đứa con. Vì đứa con đó là sự tiếp nối của ông, là
tương lai của đất nước. Tối hôm đó, người cha không nói
chuyện với người con đã mấy năm rồi, ông lái xe về, vừa lái xe
ông vừa khóc. Tại vì mấy năm rồi ông không nói chuyện với đứa
con. Và khi lái xe về tới nhà ông thấy nhà không có bật đèn. Và
nhờ ánh sáng của đèn đường chiếu vào ông thấy rằng con trai
ông đang lủi thủi một mình và tự nhiên ông động mối thương tâm,
ông cương quyết thực hiện điều mà thầy đề nghị trong buổi
giảng. Ông mở cửa và tới ôm đứa con trai của mình. Ban đầu nó
cứng như khúc gỗ, nó rất là ngạc nhiên, nó không cảm thấy được
cái tình thương đó, nhưng mà ông tiếp tục ôm nó thật lâu. Độ
chừng một phút sau nó mềm ra, nó để cho ông ôm. Và hai cha con
ôm nhau như vậy trong vài phút mà không có nói với nhau điều gì
hết.
Và tôi biết rằng tuy ông không có nói nhưng mà cái ôm đó nói
được một cái gì đó, tương tự như lời tôi mới đề nghị : này
con ơi, ba biết rằng hai năm nay con rất là khổ. Ba không giúp
được con mà ba lại còn la hét trách móc làm cho con khổ thêm, ba
hối hận, ba muốn hai cha con mình làm hòa trở lại, ba không muốn
mất con. Tuy là không nói gì hết, chỉ ôm thôi nhưng mà cái
thông điệp tương tự như vậy, cái đó là thiền ôm,
đem hết tất cả trái tim ôm lấy đứa con của mình, truyền cho nó
tất cả sự hối hận của mình, sự dịu dàng của mình và thông điệp
đó thế nào cũng đi vô được đứa con. Ngày hôm sau có một phép
lạ xãy ra là má của cậu con trai rất ngạc nhiên thấy rằng hai
cha con ngồi ăn sáng nói chuyện với nhau, lần đầu tiên trong hai
năm trời, nó giống như là một phép thần thông, rất là hay. Hai
cha con nói chuyện với nhau như là chưa bao giờ giận nhau hết.
Mà chỉ nhờ đêm đó ông đã về ôm lấy đứa con trai ông trong vòng
mấy phút, rất là lạ lùng. Câu chuyện đó chính người cha đã viết
thư kể cho tôi.
Sau khóa tu ở Canada thì tôi mới đi qua Mỹ và mở những khóa tu
cho người Hoa Kỳ và một khóa tu cho người Việt. Ở tiểu bang
California tôi cũng kể chuyện người con trai tự tử ở thành phố
Montreal Canada và tôi cũng nói với thính chúng những câu mà tôi
đã nói ở Canada.
Tôi nói: này các ông, nếu các ông có khó khăn với con trai
của các ông thì tối nay phải về ôm lấy nó, vì tôi không muốn nó
đi tự tử, tôi không muốn các ông mất con. Tại vì đứa con của các
ông là sự nối tiếp của các ông, của dòng họ và là sự nối tiếp
của đất nước của dân tộc. Ông không có quyền đánh mất đứa con
của ông vì cách hành xử thô bạo hay là vụng về của ông. Tối nay
tôi đề nghị ông về ôm lấy đứa con trai của ông đi. Tôi không
biết rằng tối hôm đó có bao nhiêu người cha đã về ôm con. Nhưng
tôi có biết một người sau đó đã báo cáo là đứa con trai của ông
không còn ở nhà nữa để cho ông về ôm, nó đã bỏ nhà đi mất rồi.
Và ông lái xe về ông khóc suốt cả chặng đường vì đứa con trai
đâu còn trong nhà nữa mà về nhà ôm, nó đã bỏ ông đi rồi.
Hồi nhỏ thì ông lấy cái quyền làm cha, ông bảo nó làm cái gì thì
nó làm, phải làm theo thôi. Ông hành xữ theo cái tinh thần Khổng
giáo một cách rất là cứng và đứa con phải tuân theo ông, tuân
theo ý của ông một trăm phần trăm. Nhưng mà đứa con của ông đã
được gửi vào một trường tiểu học Mỹ, một trường trung học Mỹ và
nó đã học được cái tự do tư tưởng. Và vì vậy cho nên khi nó lớn
lên, nó bắt đầu chống lại cái sự độc tài của cha, ép con phải
suy nghĩ như mình, hành xử như mình. Và đến khi ông giận quá,
ông nói con không nghe thì ông la mắng nhiếc nó, ông nói mày
đi đâu thì đi, mày không phải là con của tao nữa, con của tao
không phải như vậy. Và cuối cùng người thanh niên đó đang
học trung học đã bỏ nhà ra đi theo một băng đảng. Và tối hôm đó
sau khi nghe thuyết pháp về ông rất là buồn tại vì ông đâu còn
đứa con ở nhà mà về ôm nữa. Nhưng mà ông còn có phước, ông
quyết nghe lời thầy, ông về ông xin nghỉ sở mười ngày để đi tìm
con. Vì phước phần của ông bà còn đó, cho nên tới ngày thứ tư
ông tìm ra đứa con. Và ông nói với đứa con, con ơi về nhà đi,
ba rất là hối hận, về nhà đi rồi con nói gì là ba nghe theo hết,
ba không muốn mất con. Tại vì con sự nối tiếp của ba,
ba rất là hối hận đã đối xử với con một cách rất tàn nhẫn,
rất thô bạo, con về nhà đi con, ba hứa sẽ không có làm như vậy
nữa. Và may mắn cho ông đứa con chấp nhận trở về.
Con nào mà không muốn thương cha, nhưng mà phải cho nó cái cơ
hội để nó bộc lộ tình thương và cha nào mà không có thương con.
Mà nếu mình không có thì giờ để quán chiếu thì làm sao mình
lắng nghe, mình biểu lộ được cái tình thương đó. Và hai cha con
nhờ vậy mà đã làm hòa được với nhau. Cậu con đó đã học xong đại
học và đã tốt nghiệp bác sĩ. Thành ra hôm nay nói chuyện về lắng
nghe tôi cũng muốn thưa với các ông các bà như vậy. Nếu các ông
các bà có khó khăn với con trai hay con gái của mình đừng có
chần chừ nữa, phải về mà hòa giải với nó phải ôm lấy nó, dù sao
nó cũng là con của mình dù sao nó cũng là sự tiếp nối của mình.
phải hành xử như là một người đệ tử của đức Quan Thế Âm, phải
lắng nghe con của mình, phải hiểu được những bức xúc những khó
khăn của đứa con của mình. tại vì con của mình là sự tiếp nối
của mình, là tương lai của đất nước. Ông không có quyền đánh mất
đứa con đó, bà không có quyền đánh mất đứa con đó.
Áp dụng phương pháp ái ngữ và lắng nghe ông bà có thể tái lập
lại truyền thông và đem lại hạnh phúc giữa mình với các con của
mình. Và nếu mình là người trẻ, mà nếu mình giận cha giận mẹ thì
mình cũng phải biết rằng giận cha tức là giận chính mình, giận
mẹ tức là giận chính mình. Tại vì mình là sự tiếp nối của cha,
mình là sự tiếp nối của mẹ. Mình phải về với cha, mình phải dùng
ái ngữ nói với cha, ba ơi con biết ba có nhiều bức xúc, có nhiều
đau khổ mà con không có giúp được ba, con lại làm cho tình trạng
nó khó khăn hơn, con hối hận hết sức. Ba nói cho con nghe đi
những cái khó khăn, những nỗi khổ niềm đau của ba để con hiểu để
con
đừng
dại dột như vậy. Mình phải biết nói những lời nói như vậy với
cha với mẹ. Và có như vậy mình mới thật sự là một người đệ tử
xứng đáng của đức Bồ Tát Quan Thế Âm.
Xin cảm ơn các vị tôn đức và tất cả các vị đã lắng nghe.
|