Trước
khi bắt đầu buổi Pháp thoại, các Thầy, các Sư cô sẽ xướng tụng
bài Tào Khê Thủy Nhất Bái Hướng Đông Lưu bằng tiếng Việt. Sau đó
các Thầy, các Sư cô sẽ xướng tụng danh hiệu Đức Bồ Tát Quan Thế
Âm bằng tiếng Phạn Namo Avalokitesvara.
Bài
Tào Khê Thủy bằng chữ Hán hồi mới đi tu tôi rất là thích và tôi
đã có chủ tâm dịch ra tiếng Việt nhưng mà mấy chục năm sau mới
dịch ra được.
Tào
Khê thủy nhất bái hướng Đông lưu,
Quan Âm bình nỗi trừ tai cựu,
dịch
là : Tào Khê một dòng biếc, chảy mãi về phương Đông,
Tào
Khê là một con suối, nó tượng trưng cho Thiền, có một dòng Thiền
gọi là Thiền Tào Khê mà chúng ta là con cháu của dòng Thiền đó.
Trong
ca dao Việt
Nam có bài
Đêm
qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Hai
câu chót bài ca dao đó cũng có nói đến Tào Khê.
Đá
mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào
Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.
Dòng
Tào Khê là một dòng Thiền, nó đã từng nuôi cho dân tộc chúng ta
trong bao nhiêu thế kỷ. Chúng ta sống không phải chỉ bằng cơm,
bằng áo mà chúng ta sống bằng tinh thần Đạo Đức. Dòng
suối Tào Khê cung cấp cho chúng ta những giọt nước thanh lương
nhiệm mầu, giúp chúng ta cởi bỏ những khổ đau, nhũng bức xúc,
những buồn chán, những giận hờn. Vì vậy cho nên dòng Tào Khê là
một phấn gia sản của nền văn hóa Việt Nam. Chúng ta phải có bổn
phận phải khai thông suối nguồn để cho dòng Tào Khê tiếp tục
chảy và cung cấp cho chúng ta nguồn đạo đức tâm linh đó,
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.
Tào
Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy
sạch dấu phong trần
Cành Dương rưới Cam Lộ
Làm
sống dậy mùa Xuân
Đề
hồ trong cổ họng
Làm
lắng dịu muôn lòng
Nam
mô Bồ Tát Cam lộ vị
Chúng
ta rất cần đến cái Hiểu và cái Thương. Sống ở đời mà không ai
hiểu mình cũng rất là khổ, sống ở đời mà không có tình thương
cũng rất là khổ. Có nhiều người đói cơm, đói gạo nhưng rất nhiều
người trong chúng ta đói tình thương, đói sự hiểu biết. Chúng ta
cứ than rằng không ai hiểu mình, không ai thương được mình,
nhưng nếu uống được dòng nước của Tào Khê, chúng ta sẽ thấy mát
dịu trong cổ họng. Chúng ta tiếp nhận tình thương và sự hiểu
biết và chúng ta cũng có thể ban phát tình thương và sự hiểu
biết cho những người chung quanh, trong đó có người thân của
chúng ta.
Tào
Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Đó là
gia sản tinh thần của nền văn hóa phương Đông.
Quan Âm bình nước tịnh,
nước trong tịnh bình của Quan Âm tẩy sạch dấu phong trần.
Chúng ta có những khổ đau, những bức xúc, những hồi hộp, những
lo sợ. Có rất nhiều bụi bặm nó bám vào trong cuộc đời, tất cả
những bụi bặm đó, chỉ cần một giọt nước của suối Tào Khê là có
thể rửa sạch.
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy
sạch dấu phong trần
Cành Dương rưới Cam Lộ
Làm
sống dậy mùa Xuân
Chỉ
cần một gịọt nước trên cành dương liễu của Đức Quan Thế Âm thôi
cũng làm sống dậy một mùa Xuân. Một cành cây khô nếu có
một giọt nước Cam Lồ của Hiểu và Thuơng thì nó sẽ trở thành cây
tươi, Sái khô mộc duy tác dương xuân, vẫy vào cây chết,
cây khô mà có thể làm ra được mùa Xuân.
Đề
hồ trong cổ họng
Làm
lắng dịu muôn lòng
Trong
đạo Phật có nói đến các loài quỷ đói, cái cổ của nó nhỏ bằng cây
kim và cái bụng nó rất là lớn, đói thì rất đói nhưng mà ăn không
được tại cái cổ họng của nó chỉ bằng cây kim và khi thí thực cô
hồn, chúng ta phải đọc thần chú để làm cổ họng của cô hồn nó trở
lại kích thước bình thường thì những cô hồn đó mới có thể ăn
cháo, ăn cơm được. Xã hội chúng ta có những người trẻ sống như
cô hồn, rất là đói, ngưòi trẻ đó không đói cơm, đói gạo mà đói
Tình Thương. Họ tin rằng cha mẹ không thương họ, họ tin rằng
trong cuộc đời này không có ai Hiểu và Thương họ. Những người
thanh niên thiếu nữ đó đích thực là những loài quỷ đói, rất là
đói Tình Thương, đói sự Hiểu Biết. Họ lang thang trong cuộc đời,
họ sa vào hầm hố của ma túy, băng đảng, tội phạm, họ đi tự tử
rất nhiều. Ngay trên nước Pháp, mỗi ngày có tới 35 thanh niên
thiếu nữ đi tự tử, họ không tin vào cha, họ không tin vào mẹ, họ
nghĩ cha không thương, mẹ không thương, trong cuộc đời không có
ai thương hết cho nên họ đi tự tử. Quỷ đói không cần tìm ở đâu
xa xôi, nhìn chung quanh chúng ta thấy có nhiều quỷ đói, chúng
ta phải dùng nước Cam Lồ của dòng Tào Khê mà tưới cho những
người đó, hiến tặng cho họ cái hiểu và cái thương.
Nam
mô Bồ Tát Cam Lộ Vị.
Các vị
thầy và các sư cô sẽ niệm danh hiệu Đức Bồ Tát bằng tiếng Phạn,
Namo Avalokitesvara, Nam Mô Bồ Tát Quan Thế Âm là tiếng
Việt.
Avalokita
nghĩa là từ trên nhìn xuống và nhìn cho thật sâu, nhìn để có thể
hiểu được, để có thể thương được, để có thể tha thứ được, để có
thể chấp nhận được và khi nhìn kỹ, thấy hiểu rồi, thấy thương
rồi thì tự nhiên mình thoát ra khỏi những giận hờn, những trách
móc, những buồn chán, những tuyệt vọng, mình trở thành con người
tự do.
Chữ Avalokita
có nghĩa là quán, Esvara có nghĩa là tự tại.
Đức Quan Thế Âm cũng có tên là Quán Tự Tại. Ngày xưa,
trước thời thầy Huyền Trang dịch là Quan Thế Âm, đến thời thầy
Huyền Trang dịch là Quán Tự Tại, Namo Avalokitesvara, tức
là Nam Mô Quán Tự Tại Bồ Tát.
Trong khi các thầy,
các sư cô xướng tụng danh hiệu Đức Quan Thế Âm thì các thầy, các
sư cô để hết tâm vào hình dáng của Bồ Tát để tiếp xúc được chất
liệu Hiểu và Thương của Đức Quan Thế Âm. Chất liệu Hiểu và
Thương có sẵn trong mỗi chúng ta, chúng ta có hạt giống của Hiểu
và Thương nhưng chúng ta không biết cách làm cho hạt giống đó
sinh chồi nẩy lộc được, nếu chúng ta được một giọt nước cam lồ
của Đức Quan Thế Âm nhỏ vào thì cái Hiểu và Thương của chúng ta
sẽ lớn lên và chúng ta có thể cung cấp Hiểu và Thương cho những
người thiếu Hiểu và Thương đó, trong đó có con cháu chúng ta, có
cha mẹ chúng ta, có bà con chúng ta, có đồng bào chúng ta.
Khi các thầy và các
sư cô xướng tụng danh hiệu Đức Quan Thế Âm, xin quí vị ngồi cho
thật thẳng, ngồi cho thoải mái và buông thư thân tâm. Mình chỉ
để ý hơi thở của mình thôi. Trong cơ thể của mình có những đau
nhức, những căng thẳng dồn chứa từ lâu, nếu mình để cho năng
lượng của Đức Bồ Tát và của Tam Bảo đi vào thì năng lượng đó sẽ
ôm ấp, sẽ chuyển hóa, sẽ làm lắng dịu những căng thẳng, những
đau nhức trong thân.
Nếu chúng ta có
những nỗi khổ niềm đau, những uất ức, những hờn giận, tủi nhục
mà chưa nói ra được thì hãy mở trái tim ra để cho năng lượng Đức
Bồ Tát đi vào, năng lượng đó sẽ ôm ấp, sẽ làm lắng dịu những nỗi
khổ niềm đau của chúng ta.
Nếu chúng ta chú
tâm và buông thư thì trong vòng năm phút, bảy phút những nỗi khổ
niềm đau của chúng ta chìm xuống rất là mau, trong thân cũng như
trong tâm.
Nếu quí vị có những
người thân đang bị bệnh hay có nhũng cơn lo lắng, sợ hãi, buồn
phiền rất là lớn đêm nay không tới đây được, quí vị cũng có thể
gửi năng lượng này về cho người đó bằng cách là nghĩ tới người
đó hoặc gọi tên người đó một cách thầm lặng thì năng lượng của
Đức Bồ tát của tăng thân sẽ được chuyển về ngay lập tức đêm nay
và người đó khuya nay sẽ thấy nhẹ nhàng trong tâm và trong thân
rất là mau.
Các
thầy, các sư cô Làng Mai xướng tụng bài Tào Khê Thủy Nhất Bái
Hướng Đông Lưu bằng tiếng Việt.
Tào
Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy
sạch dấu phong trần
Cành Dương rưới Cam Lộ
Làm
sống dậy mùa Xuân
Đề
hồ trong cổ họng
Làm
lắng dịu muôn lòng
Nam
mô Bồ Tát Cam lộ vị
Tiếp
theo các Thầy, các Sư Cô Làng Mai niệm danh hiệu Đức Quan Thế Âm
bằng tiếng Phạn: Namo Avalokitesvara.
Kho tàng Tâm Lý
Học Phật Giáo
Kính thưa chư vị
Tôn túc, thưa quý Thầy, quí Sư cô và các đạo hữu.
Tôi đi khỏi 40 năm
và trong thời gian 40 năm đó có nhiều chuyện xảy ra trên quê
hương, có khoảng 40 triệu người trẻ đã đưọc sinh ra trong khi
tôi đi vắng. Khi tôi về thì phần lớn những người nghe tôi là
những người trẻ đó, tôi chưa từng gặp họ nhưng tôi đã từng gặp
phụ huynh của họ và khi nhìn vào những người trẻ tôi thấy được
phụ huynh của họ và tôi không cảm thấy xa lạ.
Bốn mươi năm là rất
lâu, được về quê hương cùng ngồi với nhau, nghe pháp thoại, dự
pháp đàm, thực tập với nhau đó là hạnh phúc rất là lớn. Trong 40
năm qua chúng tôi đã giảng dạy, hướng dẫn cho người Tây phương
tu học và trong 40 năm qua chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều
kinh nghiệm. Ở Tây Phương, Phật Tử, Thiền Sinh tới chùa họ không
có mang hoa, mang nhang đèn, trái cây để cúng như ở Việt Nam, họ
không tới với mục đích để để bái sám, lễ lạy, cầu nguyện, tại vì
họ đã có tôn giáo của họ rồi, họ có Do Thái Giáo, họ có Thiên
Chúa Giáo, họ có Hồi Giáo. Khi họ đến chùa là để đi tìm những
pháp môn tu tập, để tháo gỡ những khó khăn, những buồn phiền,
những giận hờn mà họ không thể nào tháo gỡ được, vì trong truyền
thống của họ không có những biện pháp cụ thể.
Trong khi đó thì
trong đạo Phật có những pháp môn, những phưong pháp rất là cụ
thể giúp cho mình tháo gỡ được những khó khăn trong lòng. Khi
mình có những khổ đau, những giận hờn, những bức xúc thì mình
khổ, khi mình khổ thì mình làm cho những người thương của mình
khổ cũng bị khổ lây. Và khi hai người làm khổ nhau thì sự truyền
thông nó trở thành khó khăn, hai người không còn nói chuyện được
với nhau nữa, chỉ nói những chuyện thông thường thôi chớ không
nói được chuyện tâm tình như ngày xưa nữa. Chồng không nói
chuyện đưọc với vợ, vợ không nói chuyện với chồng. Trong cách
nói năng họ không sử dụng được những ngôn từ hòa ái, mà họ chỉ
sử dụng những ngôn từ có tính cách chua chát, chê bai, buộc tội,
lên án, phàn nàn, trách móc… Một bên thì nghe không có được, một
bên thì nói với giọng trách móc, lên án.Vì vậy giữa cha và mẹ
không có sự truyền thông, giữa cha và con cũng không có sự
truyền thông, và nhiều khi hai ba năm cha con không nói chuyện
với nhau được.
Người Tây phương
khi gặp những trường hợp như vậy, họ đi tìm những nhà tâm lý trị
liệu, bác sĩ tâm lý trị liệu. Ngày xưa họ tới mấy ông Cha, mấy
ông Mục sư nhưng ngày nay họ tới những nhà tâm lý trị liệu. Bây
giờ nghề tâm lý trị liệu rất thịnh hành ở Tây phương, tôi nghĩ
Việt Nam cũng vậy. Trong gia đình không có ai nói chuyện được
với ai, không có ai lắng nghe được ai, cha với con cũng vậy, mẹ
với con cũng vậy, vợ với chồng cũng vậy, cho nên phải đi tới nhà
tâm lý trị liệu để cho người đó nghe và người đó có bổn phận
phải ngồi yên và lắng nghe mình, và mình phải trả tiền và trả
tiền rất đắc.
Trong thời gian ở
hải ngoại, chúng tôi có mở những khóa tu tập cho giới tâm lý trị
liệu tại vì trong đạo Phật có một kho tàng tâm lý học rất là sâu
gọi là văn học ABHIDHAMMA. Tâm lý học trong đạo Phật có
truyền thống 2500 năm. Còn nền Tâm lý học Tây phương có chừng
200 năm thôi. Vì vậy các nhà Tâm lý trị liệu Tây phương có thể
học rất nhiều trong kho tàng Tâm Lý Học Phật Giáo. Chúng ta có
văn học ABHIDHAMMA, chúng ta có Duy Biểu học, Duy Thức
học, giảng dạy rất sâu về cách vận hành của tâm thức và đưa ra
những phương pháp tháo gỡ những khó khăn ở trong tâm của mình.
Tôi nhận thấy rằng
có nhiều nhà tâm lý trị liệu họ có quá nhiều đau khổ, họ không
lắng nghe những người khác được, họ không lắng nghe chồng của
họ, vợ của họ hoặc là con của họ được, và vì vậy cho nên khi
mình bị vấn đề, mình tới cho người đó lắng nghe thì chưa chắc
người đó đã thực sự lắng nghe mình? Trong khi đó thì ở trong đạo
Phật có Đức Quan Thế Âm, vị Bồ Tát chuyên lắng nghe, lắng nghe
với lòng Từ Bi. Nếu chúng ta được Bồ Tát ngồi lắng nghe chúng ta
nửa giờ hay một giờ, chúng ta bớt khổ nhiều lắm. Nếu chúng ta
học được theo cách của Bồ Tát Quan Thế Âm, ngồi lắng nghe người
thân trong gia đình, ngồi lắng nghe được một giờ, lắng nghe mẹ,
lắng nghe cha, lắng nghe con, lắng nghe chị, lắng nghe em thì
chúng ta giúp cho người thân bớt khổ rất nhiều.
Trong
những khóa tu tổ chức cho người Tây phương, chúng tôi giảng dạy
những cái đó. Họ tới không phải là để cúng dường, bái sám hay
cầu nguyện, họ tới để học hỏi pháp môn tu tập. Đứng về phương
diện Phật Học thì các trường Đại học Tây phương họ cung cấp Phật
Học rất là nhiều, họ có thể cấp phát bằng Tiến sĩ Phật Học được
nhưng mà cái đó là kiến thức Phật Pháp thôi chớ không phải là
pháp môn tu tập. Người Tây phương tới với chúng tôi không phải
là họ muốn học Phật Học, muốn học Phật Học thì họ học tại trường
Đại Học được rồi,
họ tới tại vì họ muốn có phương pháp tu tập cụ thể để giúp họ
tháo gỡ những khó khăn, những bức xúc ở trong lòng. Vì vậy cho
nên những khóa tu của chúng tôi rất đông người tham dự, hầu hết
là người Tây phương, đồng bào chúng ta bên đó ít lắm, mỗi khóa
tu như vậy, số đồng bào tới tham dự chưa tới hai, ba phần trăm.
Chúng tôi đã từng mở khóa tu cho giới tâm lý trị liệu, cho giới
giáo chức, cho giới bảo hộ môi trường, cho giới cựu chiến binh,
cho giới cảnh sát, công an, cho giới dân biểu quốc hội, cho giới
doanh thương. Tất cả những người đó tới là vì họ có những khổ
đau, những bế tắc, họ tới để học những phương pháp tháo gỡ và
trong những thời gian cung cấp những khóa tu đó, chúng tôi học
hỏi rất nhiều.
Trước khi mở khóa
tu Doanh thương mình phải hiểu những khổ đau của giới doanh
thương mình mới có thể dạy cho họ được. Dầu cho mình giỏi Phật
pháp cách mấy, dầu cho mình biết nhiều phương phát tu tập cách
mấy thì mình cũng phải hiểu được nỗi khổ niềm đau, những khó
khăn, những bức xúc của họ, mình mới đưa ra đưọc những phương
pháp tu tập thích hợp. Giống như ông thày thuốc, khi bệnh nhân
tới thì ông ta phải lắng nghe, bắt mạch trước để hiểu được tỳ
tạng, kinh mạch nó bế tắc ở chổ nào ? Thì chúng tôi cũng vậy,
trước khi mở một khóa tu cho giới doanh nhân, chúng tôi phải
nghiên cứu về những khổ đau, những khó khăn, những bế tắc của
giới doanh nhân. Trước khi mở khóa tu cho giới cảnh sát cũng
phải tìm hiểu về họ. Quí vị có thể tưởng tượng, người cảnh sát
Hoa Kỳ, họ thực tập ngồi thiền, họ thực tập ăn cơm trong chánh
niệm, họ thực tập thở trong chánh niệm, họ thực tập đi thiền
hành, họ nghe pháp thoại rất là giỏi.
Trong phái đoàn của
chúng tôi về Việt Nam kỳ này có một vị Đại úy cảnh sát Hoa kỳ đã
tu với chúng tôi mười mấy năm và đã mở lớp dạy thiền cho vô số
người cảnh sát Hoa kỳ. Con số cảnh sát Hoa Kỳ bức xúc, tự tử khá
đông, tại vì đời sống của người cảnh sát rất là căng thẳng, và
lâu lâu cảnh sát cũng bị băng đảng, tội phạm sát hại.
Nhưng số
cảnh sát Hoa Kỳ bị băng đảng và tội phạm bắn chết ít hơn số
người cảnh sát Hoa Kỳ tự tử bằng súng của mình.
Tại vì đời sống họ rất là nhiều căng thẳng, cho nên khóa tu mở
cho họ rất là khó và cuối cùng họ cũng thành công, họ tu tập
được, họ đem lại sự bình an trong thân, trong tâm đem lại sự
bình an trong gia đình họ, trong sở làm của họ và vị đại úy đó
hiện bây giờ đang có mặt trong giáo đoàn của chúng tôi, giúp
chúng tôi mở khóa tu cho những người cảnh sát, cho giới chánh
án, cho giới luật sư, những người lo về an ninh cho xã hội và vị
này đã được mời đi tổ chức hằng trăm khóa tu, cho giới cảnh sát
và cho các giới khác. Tạì vì vị này biết nói cái ngôn ngữ của
giới cảng sát, công an, vì vậy cho nên hướng dẫn rất là dễ dàng.
Ở Tây phưong khi
chúng tôi mở một khóa tu, có hàng ngàn ngưới Tây phương tới tham
dự. Một khóa tu như vậy có thể tổ chức năm ngày, bảy ngày hay
hai mươi mốt ngày. Khi mình tới khóa tu mình ở luôn tại đó trong
suốt thời gian của khóa tu, ăn ngủ tại chỗ thì mới thành công
được. Có người đem cả gia đình tới tu học. Những nguời tới khóa
tu là những người trẻ và trí thức, ông bà cụ thường ít tới.
Chúng tôi đã giúp cho không biết bao nhiêu cặp vợ chồng, cha
con, mẹ con hòa giải được với nhau hạnh phúc, truyền thông lại
được với nhau, đem lại hạnh phúc cho gia đình nhờ những pháp môn
tu tập. Chúng tôi không cung cấp sự cúng bái, lễ lạy tại vì bên
Tây phương họ không đòi những cái đó, họ chỉ đòi pháp môn tu tập
thôi. Và khi chúng tôi thành công đưọc với giới trí thức và trẻ
tuổi ở Tây phương thì chúng tôi nghĩ rằng những pháp môn đã sử
dụng cho giới trí thức và trẻ tuổi ở Âu châu và Mỹ châu thành
công được thì ở Việt Nam giới trí thức và trẻ tuổi Việt nam cũng
sẽ hâm mộ và nếu áp dụng thì cũng sẽ đem lại kết quả cũng tương
đương như ở Tây phương.
Cách đây mấy tuần
lễ, chúng tôi có tổ chức một ngày tu cho giới doanh nhân ở tại
thành phố Hồ chí Minh và các vùng phụ cận thì các doanh nhân
Việt Nam cũng đã tập ngồi thiền, tập đi thiền hành. Lần đầu tiên
trong đời, nghe pháp thoại, dự pháp đàm, ăn cơm trong chánh
niệm, tìm cách đưa vào đời sống bận rộn hằng ngày một chiều
hướng tâm linh, đạo đức để cho nhẹ bớt sự căng thẳng trong đời
sống của họ.
Kỳ trước về quê
hương để thăm viếng, để hoằng pháp chúng tôi có ba tháng, ngày
nào cũng được gặp đồng bào, gặp Chư Tôn Đức, các Thày, các Sư cô
để thực tập chung, để ngồi thiền, để nghe pháp thoại, để đi
thiền hành chung, để đi khất thực chung và ba tháng nó không có
nghĩa gì hết, nó đi qua cái vèo. Và kỳ này cũng vậy, chưa được
ba tháng thì sau đó chúng tôi phải đi Hồng kông và sau đó phải
đi Thái Lan để mở khóa tu ở Thái Lan trước khi trở về Pháp.
Ngồi giữa gió xuân
Hồi nãy tôi có nói
rằng là trong buổi tập họp như thế này, nhìn xuống quí vị, tôi
thấy phần lớn là những người trẻ, những người đã sinh ra trong
thời gian tôi vắng mặt tại quê hương, những người 40, 42 tuổi
trở xuống và khi tôi nhìn mặt những người đó, tôi có cảm tưởng
họ rất là quen với tôi, tại vì ngày xưa tôi đã từng gặp gỡ ba
má, chú thiếm, cô dì của họ, thấy họ tôi không có thấy cảm tưởng
thân tình như là ngày xưa không có khác, tuy tôi già đi tới bốn
mươi mấy tuổi. Ở trong Văn học Phật giáo có danh từ « Tọa
Xuân Phong ».
Tọa là ngồi, Xuân
là mùa Xuân, Phong là gió. Ngồi trong gió mùa Xuân. Mà tôi dịch
là ngồi giữa gió Xuân. Khi nào huynh đệ được ngồi với nhau trong
không khí Chánh pháp thì chúng ta có hạnh phúc, giống như chúng
ta đang ngồi trong gió mùa Xuân. Và chỉ cần ngồi như vậy thôi
mình cũng đủ có hạnh phúc, không cần phải nói nhiều. Bốn mươi
năm đi xa đưọc về ngồi với quí vị như vậy là hạnh phúc rất lớn
và mình phải hiến tặng sự tươi mát của mình cho những người khác
và mình phải hưởng sự tươi mát của những người khác.
Trong Kinh có kể
câu chuyện, một hôm có 500 Thầy sau khi mãn khóa An Cư Kiết Hạ
tới thăm Đức Thế Tôn, họ tới lúc 6 giờ rưỡi chiều và Đức Thế Tôn
ra ngồi với họ, gần 500 Thầy mà thầy trò không có nói gì hết,
ngồi tới 11 giờ khuya, Đại đức Anan lúc đó mới đứng dậy đi nhè
nhẹ tới gần Đức Thế Tôn, ngồi xuống bên ngài và nói nhỏ vào tai
ngài Bạch Thế Tôn, bây giờ đã 11 giờ khuya rồi, ngài
có gì dạy chư huynh đệ thì ngài dạy đi? Đức Thế Tôn im lặng
và ngài tiếp tục ngồi và các vị ngồi tới 1 giờ khuya và ngài
Anan cũng nóng ruột. Thầy mới tới lại lần thứ hai. Bạch Đức
Thế Tôn, bây giờ là 1 giờ khuya rồi, ngài có dạy gì cho huynh đệ
thì ngài dạy đi? Và Đức Thế Tôn cũng ngồi im ru. Và Thầy
Anan không dám nói nữa. Đức Thế Tôn với các Thầy ngồi cho tới 5
giờ sáng, ngồi im thôi, không nói gì hết, lúc đó Thầy Anan mới
thưa lần chót, ngài tới quỳ bên Đức Thế Tôn, ngài thưa Bạch
Đức Thế Tôn bây giờ là tảng sáng rồi, Đức Thế Tôn có dạy gì cho
huynh đệ thì ngài dạy đi, lúc đó Đức Thế Tôn mới quay lại
thầy Anan, ngài nhìn thầy Anan và nói như thế này thầy Anan,
thầy muốn tôi nói cái gì, thầy trò được ngồi với nhau như vầy là
hạnh phúc nhiều rồi, đâu cần phải nói gì. Tôi đọc đoạn Kinh
đó, tôi rất là ấn tượng và tôi hiểu được ba chữ Tọa Xuân
Phong. Khi mà thày trò được ngồi với nhau trong tình thày
trò. Huynh đệ được ngồi với nhau trong tình huynh đệ, đâu cần
phải nói gì nhiều. Mình phải thật sự có mặt, có mặt cho những
người kia và người kia cũng thật sự có mặt cho mình, mình được
nuôi dưỡng bởi tình thày trò, mình được nuôi dưỡng bởi tình
huynh đệ.
Trong gia đình Phật
tử có bài hát Kính Mến Thầy, có một câu hát rất là buồn cười.
Nam Mô A Di Đà Phật, hôm nay thầy về đây, chúng con xin kính
chào thầy, trong giờ phút vui này, chúng con biết làm gì đây ?
Luống cuống không biết làm gì hết, chạy tùm lum, chạy lăng
xăng. Sự thực là khi thầy về, mình ngồi xuống, ngồi chơi
với thầy, đó là cách hay nhất. Học theo Kinh đó, Đức Thế Tôn
ngồi bên các thầy rất là hạnh phúc, đâu cần phải nói gì nhiều.
Vậy bài kia mình sửa lại một chút cho nó hay. Nam Mô A Di Đà
Phật, hôm nay thầy về đây, chúng con xin kính chào thầy, trong
giờ phút vui này, chúng con quyết lòng ngồi đây với thầy,
không có lăng xăng.
Ở trong thiền viện,
buổi sáng nào, buổi khuya nào thầy trò cũng được ngồi chung và
không cần ai nói với ai câu nào hết. Trong những bữa cơm thầy
trò ngồi ăn cơm im lặng từ đầu đến cuối nhưng mà hạnh phúc rất
lớn. Quí vị biết rằng khi mình ăn cơm mà mình nói chuyện tùm lum
thì mình không có tôn trọng thức ăn và mình không có hưởng được
cái tình huynh đệ, tình thầy trò. Cho nên mình ăn cơm im lặng
không phải nuôi dưỡng chỉ bởi thức ăn mà còn bằng tình huynh đệ,
tình thầy trò, rất là hay. Trong chùa có được không khí đó, mỗi
ngày có thì giờ ngồi chung với nhau, thầy trò, huynh đệ ngồi
chung với nhau không cần nói gì hết và có được những bữa cơm ăn
im lặng với nhau để thấy sự có mặt với nhau rất là quý giá.
Tại nhà cũng vậy,
mình nên tổ chức bữa cơm gia đình như thế nào để mà mình thấy sự
có mặt quý giá của cha, của mẹ, của đứa con, của anh chị, của em
mình. Bây giờ chúng ta quá bận rộn, thành ra có nhiều gia đình
không được ăn cơm chung nữa, đi học về giờ khác, đi làm về giờ
khác, và mỗi người ăn riêng thì rất là buồn. Cho nên tôi xin đề
nghị chúng ta phải tổ chức như thế nào để ít nhất mỗi ngày trong
gia đình có được buổi ăn chung, tất cả mọi người đều có mặt và
trong buổi ăn chúng ta bắt chước Đức Thế Tôn, ngồi ăn im lặng
năm phút, năm phút đầu nhìn nhau cười hạnh phúc, cha mình đang
còn đó, mẹ mình đang ngồi đó, các con còn đang mạnh khỏe đó,
chưa đi lấy chồng, chưa đi cưới vợ, chưa đi ở riêng và hạnh phúc
có thể có được ngay trong giây phút hiện tại. Trong buổi ăn cơm
gia đình im lặng trong năm phút, trong bẩy phút đầu là chuyện
mình có thể làm được, mình chỉ cần nhìn nhau cười thôi, mình
công nhận sự có mặt của người kia và mình hiến tặng người kia
với sự tươi mát của mình.
Làm lắng dịu thân tâm
Hồi nãy tôi có nói
chuyện những người thiền sinh Tây phương họ tới để họ học những
pháp môn tu tập, những pháp môn tu tập đó giúp cho họ đưọc gì ?
Trước hết là để làm lắng dịu những cái căng thẳng, những đau
nhức trong thân của mình. Đời sống ngày hôm nay rất là bận rộn,
chúng ta có nhiều máy móc, chúng ta có nhiều tiện nghi nhưng mà
chúng ta bận rộn hơn ngày xưa rất là nhiều, chúng ta có máy bay,
chúng ta có xe hơi, chúng ta có điện thoại, chúng ta có điện
thư… Đáng lý chúng ta có thể tiết kiệm được nhiều thì giờ, có
nhiều thì giờ để ngồi với nhau, chơi với nhau, sống với nhau
nhưng sự thực ngược lại là chúng ta bận rộn hơn ngày xưa nhiều
lắm. Và người nào cũng sống trong hoàn cảnh rất là căng thẳng,
chúng ta có quá nhiều việc phải làm, chúng ta có quá nhiều cái
hẹn phải gặp, và vì vậy cho nên trong thân thể của chúng ta có
nhiều sự căng thẳng, có nhiều sự đau nhức và chúng ta không biết
cách buông thư, làm thư giãn, làm lắng dịu và chúng ta cứ dồn
chứa những căng thẳng đó, những đau nhức đó ngày này sang ngày
khác, một ngày nào đó chúng ta ngã bệnh là tại vì có quá nhiều
sự căng thẳng ở trong thân.
Các nhà khoa học
cho chúng ta biết rằng khi mà sự căng thẳng trong thân nó dồn
chứa quá nhiều nó sẽ sinh đủ thứ bệnh. Và vì vậy cho nên Đức Thế
Tôn ngày xưa đã dạy cho chúng ta những phương pháp thực tập
buông thư và thở để làm lắng dịu thân tâm, để lấy đi
sự căng thẳng đó. Nếu quí vị có nghiên cứu Kinh An Ban Thủ Ý,
tức là Kinh Quán niệm Hơi Thở thì quí vị thấy trong kinh đó Đức
Thế Tôn đã dạy chúng ta những phương pháp thở, những phương pháp
buông thư để làm lắng dịu thân tâm, để làm dịu bớt những căng
thẳng ở trong thân cũng như là trong tâm, những đau nhức ở trong
thân cũng như là trong tâm.
Thí dụ như bài
tập :
-
Thở vào
tôi nhận diện thân thể tôi, tôi nhận diện toàn thân tôi.
-
Thở ra
tôi làm lắng dịu sự căng thẳng trong thân tôi.
Những Kinh mà Đức
Thế Tôn thuyết ra cách đây 2500 năm nó vẫn còn có tính hiện đại.
Khi chúng ta có nỗi khổ, niềm đau nó trào lên thì Đức Thế Tôn
dạy chúng ta tập thở, biết chế tác năng lượng để nhận diện ôm ấp
để làm lắng dịu những nỗi khổ niềm đau đó. Đó là bài tập thứ sáu
và thứ bảy ở trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở. Khi tôi nghiên cứu
Kinh đó và đem ra áp dụng, tôi thấy lời dạy, phương pháp của Đức
Thế Tôn đưa ra cho chúng ta cách đây 2500 năm vẫn còn có tính
hiện đại. Và quí vị biết không, có nhiều vị Bác sĩ ở các dưỡng
đường, ở các bệnh viện lớn ở Tây phương, họ đang áp dụng Kinh An
Ban Thủ Ý để trị bệnh cho bệnh nhân. Có mội vị Bác sĩ tên là
Benson đã nghiên cứu trong vòng ba mươi năm về phương pháp làm
thư giãn những căng thẳng ở trong thân và trong một cuốn
sách báo cáo về sự nghiên cứu, về kinh nghiệm của ông, ông nói
rằng, khi những căng thẳng đó dồn nén quá nhiều nó sinh ra rất
nhiều chứng bệnh và với sự căng thẳng đó, thuốc men nhiều khi
không có trị được, nếu mình biết thực tập những phương pháp làm
lắng dịu sự căng thẳng trong thân, làm lắng dịu sự căng thẳng
trong tâm. Nếu
khi mình làm cho sự căng thẳng trong thân thể đó nó dừng lại
được, nó có sự buông thư thì cơ thể mình nó có cơ hội nó có thể
tạo yếu tố chữa lành bệnh được những chứng bệnh trong cơ thể mà
không phải thuốc men, rất là hay.
Khi
bệnh, chúng ta chỉ trông cậy vào thuốc mà chúng ta không trông
cậy vào sự nghỉ ngơi, nghỉ ngơi để làm dịu bớt căng thẳng, trong
khi đó sự nghỉ ngơi và sự làm dịu bớt sự căng thẳng là phương
pháp trị liệu rất là hay, tại vì cơ thể chúng ta có khả năng tự
trị được những chứng bệnh ở trong cơ thể.
Khi mà
chúng ta xắt rau mà bị đứt tay, chúng ta chỉ cần rửa vết thương
cho sạch, vết thương tự động nó đâm da non, nó tự chữa lành, có
nghĩa là cơ thể ta có khả năng tự trị liệu được nhưng mà mình
phải cho phép nó, nếu mà mình can thiệp vào quá nhiều thì vết
thương nó sẽ không có lành, để cho nó nghỉ đừng can thiệp vào.
Những con thú ở trong rừng, mỗi khi bị thương nặng, nó vẫn biết
cách đi tìm một chỗ rất vắng nằm xuống, tại cha ông nó có kinh
nghiệm, đã trao truyền cái kinh nghiệm đó, tại vì con thú trong
rừng đâu có thuốc men, có bác sĩ, cho nên nó biết rằng khi bị
thương nặng, phương pháp duy nhất để chữa lành là đi tìm chỗ rất
là vắng, nằm xuống, không có nghĩ chuyện đi tìm con mồi, chạy
theo con cái hay con đực gì hết. Rất quan trọng là nằm xuống và
nằm cho nhiều ngày, tự nhiên trong cơ thể, nó có khả năng
chữa trị được vết thương và sau ba, bốn ngày, nó đứng dậy
được, nó lành bình.
Ngày
xưa con người cũng biết làm như vậy, nhưng mà con người bây giờ
không biết nghỉ ngơi nữa, con người đày đọa tấm thân của mình
quá nhiều. Mà dù con người có được ba, bốn ngày nghỉ, một tuần
lễ nghỉ ngơi cũng không biết cách nghỉ, không biết cách buông
thư, không biết cách làm lắng dịu cái thân và cái tâm của mình.
Chúng ta chỉ trông cậy vào thuốc men thôi, thuốc men có cái độc
của nó. Nếu chúng ta biết nghỉ ngơi, nếu chúng ta biết buông thư
toàn thân thì chúng ta rất ít cần tới thuốc, chỉ cần sử dụng ít
thôi cũng đủ.
Ở miền
Đông Bắc Mỹ châu có Bác sĩ tên là John Carbazine, ông ta mở ra
một viện ở trong bệnh viện của trường Đại học Havard. Viện
của ông chuyên môn giúp cho người ta giảm thiểu sự căng thẳng
trong thân, ông sử dụng những phương pháp dạy ở trong đạo Phật.
Bác sĩ John Carbazine đã từng theo một khóa tu của tôi tổ
chức tại tiểu bang Massachusetts, ông ta rất thành công trong
việc chữa trị bệnh các bệnh nhân, dùng đến phương pháp buông thư
và làm giảm thiểu sự căng thẳng trong cơ thể. Có bệnh nhân mà
bác sĩ khác chạy rồi, gởi tới ông, ông cho thực tập theo phương
buông thư của Kinh An Ban Thủ Ý và cuối cùng ông chữa được
những người như vậy.
Tôi kể
những chuyện này để quí
thầy, quí
sư cô, quí Phật tử biết là
những điều Đức Thế tôn dạy trong hằng chục thế kỷ nay nó vẫn còn
giá trị, rất là hiện đại. Kinh An Ban Thủ Ý, Kinh Niệm Xứ là
những
kinh ngày xưa các Thầy, các Sư cô học thuộc lòng. Kinh An
Ban Thủ Ý dạy về Thở và Kinh Niệm Xứ là dạy về Chánh Niệm, thực
tập Tứ Niệm Xứ. Hai Kinh đó là hai Kinh gối đầu giường của quí
Thầy và quí Sư cô ngày xưa, ai cũng học thuộc lòng hết như quí
vị học thuộc lòng
chú Đại Bi hay là
kinh Di Đà bây giờ vậy. Tôi
đã dịch và chú giải
kinh Quán Niệm Hơi Thở,
kinh Niệm Xứ từ
tiếng Pali sang tiếng Việt, tiếng Anh, từ tiếng Hán ra tiếng
Việt, tiếng Anh và trong khóa tu thường thường tôi đem những
phương pháp đó ra để hướng dẫn cho thiền sinh tu tập. Nếu mình
có những đau nhức và căng thẳng trong cơ thể mình có thể áp dụng
phương pháp Phật dạy để làm giảm thiểu sự căng thẳng, đau nhức
đó và khi mình có những căng thẳng và đau nhức trong lòng tức là
ngững lo lắng, những sợ hãi, những hồi hộp, những bức xúc, những
tuyệt vọng, mình cũng có thể học được trong
kinh đó, phương pháp
thế nào để ôm ấp, để làm lắng dịu nỗi khổ niềm đau đó. Nếu mình
không biết cách thì những nỗi khổ niềm đau đó nó thúc đẩy mình
nói và làm những điều gây đổ vỡ trong lòng mình, trong gia đình
mình, trong xã hội mình, có khi thúc đẩy mình tạo ra những tội
ác, như là giết người hay là tự tử.
Tôi để
ra rất nhiều thì giờ để dịch Kinh, để giảng dạy và để hướng dẫn
thực tập. Nếu quí vị qua bên Đạo tràng Mai thôn, quí vị sẽ không
thấy chùa to Phật lớn như ở đây, tại chúng tôi không có thì giờ
làm chùa to Phật lớn, chúng tôi chỉ tạm có đủ thì giờ để mở
những khóa tu giúp cho người ta tu tập mà thôi, nước nào cũng
đòi hỏi chúng tôi phải tới để mở những khóa tu, có biết là bao
nhiêu nước bên đó. Trong những khóa tu chúng tôi tổ chức ngay
tại Mai thôn đạo tràng hay tổ chức ngay tại thành phố lớn ở Âu
châu, ở Mỹ châu, ở Úc châu, các thiền sinh tới để học những
cái đó và họ thực tập ngay tại chổ, nó không phải là những khóa
giáo lý, đó là những khóa tu học và thầy trò, huynh đệ thực tập
với nhau suốt trong thời gian của khóa tu và mình có thể thấy
được sự chuyển hóa của từng người trong quá trình của khóa tu,
thường thường trong khóa tu vợ hòa giải được với chồng, cha hoà
giải được với con và có khi họ hoà giải được những người không
tới được khóa tu nữa.
Có một
lần ở một khóa tu cho người Đức ở miền Bắc nước Đức, ở thành phố
Oberlethe tới ngày thứ năm của khóa tu, tôi nói các thiền sinh,
các vị đã tu vào ngày thứ năm, bây giờ các vị hãy áp dụng vào
những điều gì đã tập và đã học để hòa giải với người thân của
quí vị đi, tại vì trong năm ngày, ngày nào cũng được ngồi
thiền,
ngày nào cũng được tập
thở, ngày nào cũng được đi nhũng bước
chân thảnh thơi, ngày nào cũng nghe được
pháp thoại, những bài
giảng nó tưới những hạt giống hiểu, thương , chấp nhận, tha thứ.
Vì vậy cho nên tới ngày thứ năm là có khả năng lắng nghe với
lòng từ bi, tới ngày thứ năm là có thể sử dụng ngôn từ dễ
thương, ái ngữ đối với người kia, thực tập luôn năm ngày năm
đêm, cho nên đến ngày thứ năm tôi mới nói quí vị đã thực tập
trong năm ngày rồi lắng nghe với tâm từ bi, nói năng với giọng
ái ngữ, tưới tẫm những hạt giống của tình nghĩa, của tha thứ,
của thương yêu thì tôi hẹn với quí vị tới 12 giờ khuya đêm nay
là phải hòa giải cho được với người mà quí vị lâu nay có khó
khăn, người đó có thể là chồng của mình, hay là cha của mình,
hay là mẹ của mình, hay là chị của mình, hay là vợ của mình. Nếu
người đó có trong khóa tu thì quá dễ, tại vì người kia cũng đã
tu được năm ngày rồi, đã thay đổi nhiều rồi. Còn nếu người đó
không có tới khóa tu được thì quí vị được phép sử dụng đìện
thoại di động để thực tập với người đó, quí vị nên biết rằng
trong khóa tu không có được sử dụng điện thoại, nó phân tâm của
mình, phải để dành hết thì giờ cho khóa tu. Trước khi đi khóa tu
phải nói với gia đình là tôi có khóa tu đừng gọi tôi, khi nào có
chuyện hết sức cấp bách mới được, gọi vào văn phòng thôi.
Sáng
hôm sau thì có bốn ông Đức tuổi chừng ba mươi, bốn mươi lên báo
cáo là trước 12 gìờ khuya, họ đã điện thoại về cho ba của họ và
với phương pháp ái ngữ và lắng nghe đó họ hòa giải được với cha,
họ rất là ngạc nhiên là tại trước khóa tu họ không có khả năng
nói được với cha những lời nhẹ nhàng như vậy và họ không có lắng
nghe được cha và bây giờ sau năm ngày thôi, họ lắng nghe được
cha và họ nói được lời nhẹ nhàng, những lời đó họ học được ở
trong khóa tu.
Nghe với tâm từ bi, Nói với lời hòa ái
Có một bà người Thiên Chúa Giáo
sống ở
Hoa Thịnh Đốn và bà muốn tự tử, tại vì bà khổ quá đi. Bà là
ngưới trí thức, có bằng Tiến sĩ mà ông cũng là ngưới trí thức,
ông cũng có bằng Tiến sĩ và ba đứa con học Đại học. Gia đình của
họ không là một gia đình có hạnh phúc tại vì ông có quá nhiều
căng thẳng, quá nhiều bực tức, quá nhiều giận hờn và ông hay
chưởi mắng, la rầy, quát tháo, buộc tội, lên án cho nên bà rất
là chán và các đứa con không dám gần ba, họ tìm cách lánh xa. Và
khi mà vợ con tìm cách lánh xa, tại vì sợ thôi, ông giống như
trái bom, đụng vô có thể nổ tan xác bất cứ lúc nào thành ra
không ai dám gần. Khi nổi giận ông có thể đạp đổ bàn ăn vừa mới
dọn lên, ghê vậy đó, tại vì đó là con người dồn chứa sự bực tức,
sự giận hờn từ lâu ngày mà không biết tu, ở đời có những người
như vậy. Bà ta chưa tự tử được vì có một bà bạn đã từng thực tập
thiền
với
thầy
Nhất Hạnh. Bà bạn Phật tử này có bữa nói với bà Thiên chúa : này
chị này, Thầy em giảng bài rất là hay, làm thế nào để gỡ
trái bom ra, em muốn chị nghe cuốn băng cassette này, tại vì em
thấy anh ở nhà là một trái bom nhưng mà mình không có thất vọng,
mình có thể học Phật pháp để mình gỡ trái bom cho ông ta,
nhưng bà Thiên chúa giáo đó bà không có chịu nghe, bà nói,
tôi là người Catholique, tôi nghe những thứ này thì tội, cố
chấp như vậy đó! Đến
một
bữa, bà Công giáo thật sự muốn tự tử,
điện thoại cho bà bạn và nói tối nay em sẽ tự tử nói cho chị
biết ! Bà Phật tử nói rằng tự tử thì được rồi nhưng mà
chị phải tới thăm em
rồi tự tử sau!
Bà này dùng phương
tiện quyền xảo, khéo léo! Thì khi mà bà Thiên chúa giáo tới, bà
nói như thế này: chị, chị cứ nói đi nói lại em là
người bạn duy nhất trên đời của chị, em nghi cái chuyện này
không có đúng? Tại vì bạn thân duy nhất trong đời mình mà yêu
cầu mình có một chuyện thôi mà mình không có làm thì đâu có gọi
là bạn thân nhất trên đời được? Em chỉ yêu cầu chị nghe cuốn
băng giảng của Thầy em thôi mà chị không có nghe mà chị cứ nói
em là người bạn thân nhất đời của chị ? Bà Thiên chúa giáo
đó nghĩ trong bụng, thôi mình chịu khó nghe cho xong để trả nợ
quỷ thần rồi mình chết sau cũng được : đâu, băng cassette đâu
đưa tôi nghe cho ? Bà Phật tử mới đem cassette ra, rồi bà
Phật tử để bà Thiên chúa giáo một mình trong phòng khách, bà rút
lui để cho bà này thoải mái.
Trong
băng giảng đó, tôi nói về phương pháp gỡ bom, sử dụng phương
pháp lắng nghe với lòng từ bi và sử dụng lời nói ái ngữ để giúp
cho người khác có thể nói ra được nỗi khổ niềm đau của họ mà
lâu nay chưa nói ra được. Mà hai phương pháp đó là hai phương
pháp của Đức Quan Âm, Lắng Nghe với Tâm Từ Bi, Nói với lời dịu
dàng, không buộc tội, không lên án, chỉ nói cho người kia hiểu
mà thôi.
Theo
nguyên tắc mình có bổn phận nói cho người kia nghe tất cả những
khổ đau, những khó khăn, bức xúc của mình, mình đừng dùng
ngôn từ lên án buộc tội, chua chát, trách móc, cái đó gọi là
Ái Ngữ, mình nói với giọng hòa ái để khiến cho người kia
hiểu được mình mà không còn trách móc, hờn giận mình, đó là ái
ngữ. Còn lắng nghe với tâm từ bi nghĩa là Bi Thính, nghĩa
là trong khi mình nghe, mình chỉ có một mục đích duy nhất là nghe cho người kia có cơ hội nói ra được nỗi khổ niềm đau mà
người đó chưa bao giờ có thể nói ra được, vì vậy dầu cho người
kia nói với giọng lên án, buộc tội, trách móc, chua chát mình
vẫn có thể lắng nghe được, tại vì mình có lòng từ bi thì mình
nhắc mình : có nhiều tri giác sai lầm quá, có nhiều giận hờn,
buộc tội quá nhưng tại vì đang muốn giúp cho người kia bớt khổ
cho nên mình cứ nghe thôi, mai mốt mình có cơ hội mình sẽ giúp
cho người này những thông tin để người này có thể điều chỉnh
nhận thức của họ. Bây giờ vấn đề là mình lắng nghe,
mặc kệ có nói lời sai lầm, có nói những điều không đúng sự thật,
có nói những điều lên án buộc tội, trách móc thì mình vẫn nghe
thôi, mình bắt chước Đức Quan Thế Âm, nghe với trái tim Bồ Tát,
nghe với tình thương, mà khi để một chút tình thương trong
trái
tim
rồi mình sẽ được tình thương đó che chở. Còn nếu ở đây
không có tình thương thì những lời nói của người kia có chua
chát, buộc tội nó sẽ tưới những hạt giống bực bội cũa mình và
sau năm phút mình hết lắng nghe được cho nên Từ Bi là chất liệu nó che chở cho mình, nó làm cho mình có khả năng lắng
nghe, còn nếu trong khi nghe mình không giữ được Từ Bi, những
hạt giống bực bội, tức tối của mình bị tưới tẩm trong khi nghe
và mình đánh mất khả năng lắng nghe của mình.
Bà
Thiên Chúa
giáo đó là một bà thông minh, trong khi bà nghe cuốn băng
như vậy, bà thấy rõ được là bà chịu trách nhiệm một phần nào
trong tình trạng khó khăn của bà tại vì lâu nay bà đã nói năng
rất chua chát với ông, bà đã trách móc, đã hờn oán, đã giận dỗi,
bà không có khả năng nói được câu nói êm dịu ngọt ngào như ngày
xưa được nữa, và bà thấy rõ được sự thật là nếu tình
trạng nó đi tới như vậy, đó không phải hoàn toàn là lỗi ở ông mà
bà có một phần nào đó, bà đã phản ứng, bà đã cũng giận hờn và
cũng trách móc, cũng lên án, bà cũng buộc tội không khác gì ông.
Sau
khi nghe hết cuốn băng rồi tự nhiên bà có niềm hy vọng nó
trào lên, trước đó chỉ muốn chết thôi, khi nghe cuốn băng đó mầm hy vọng nảy sanh, nó lớn lên và bà có ý muốn trở về gỡ
bom cho ông chồng bằng phương pháp là ái ngữ và lắng nghe. Khi
bà Phật tử ra bà ta nói như vầy : này chị, cám ơn chị cho em
nghe cuốn băng này, thế nào em về em cũng thực tập thành công
được, em sẽ giúp nhà em. Bà Phật tử nói chưa được đâu chị
ơi, chị về làm liền thì hư bột, hư đường hết ! Tại vì chị còn
yếu lắm, chị chưa có khả năng lắng nghe đâu, nếu anh nói vài câu
xóc óc, có vẻ lên án buộc tội thì chị đánh mất khả năng lắng
nghe của chị liền, thành ra chị hãy từ từ. Thầy của em tháng
tới sẽ qua Mỹ, sẽ mở hai khóa tu ở trong vùng Hoa Thịnh Đốn, một
khóa bằng tiếng Anh, một khóa bằng tiếng Việt, nếu chị muốn, chị
ghi tên vào khóa đó và chị tu sáu ngày thì may ra chị mới có khả
năng về giúp anh, gỡ trái bom trong anh.
Bà
Thiên Chúa
giáo
đồng ý và trong khóa tu đó bà tu hết mình, bà tu còn giỏi hơn
người Phật Tử lâu năm tại vì đối với bà, đây là vấn đề sống
chết, còn đối với các vị Phật Tử thì tình trạng đâu có đến
nổi gì tệ lắm, không phải là vấn đề sống chết thành ra tu sơ sơ
thôi. Trong khóa tu đó, người mà tu tinh tấn nhất là bà Thiên
Chúa, mấy bà Phật Tử thua xa.
Ngày
mãn khóa tu, bà rất là trầm tĩnh, bà trở về buổi chiều tối đó,
bà đi những bước chân rất là thanh thản, nhẹ nhàng và bà cuối
cùng bà tới ngồi gần bên ông, bà áp dụng phương pháp ái ngữ, bà
nói như thế này ông ơi, tôi biết rằng sáu bảy năm nay ông khổ
nhiều lắm, ông bị bức xúc, ông bị khó khăn, ông bị thất chí rất
là nhiều, tôi đã không có giúp được ông mà tôi còn dại dột làm
cho tình trạng tệ hơn, tôi rất là hối hận, tôi đâu muốn làm cho
ông khổ đâu, thật ra tôi muốn cho ông hạnh phúc để tôi được nhờ
nhưng tại vì tôi không hiểu được nỗi khổ niềm đau của ông, những
khó khăn, những bức xúc của ông cho nên tôi đã phản ứng một cách
dại dột, tôi đã chua chát, đã cay cú, tôi đã cằn nhằn ông rất là
nhiều, bây giờ tôi hối hận lắm, bây giờ tôi muốn làm lại cho
cuộc đời của mình, ông phải giúp tôi, ông nói cho tôi nghe
những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc trong lòng của ông
để tôi có thể hiểu được và để tôi không lập lại những vụng
về, những dại dột mà tôi đã từng làm, ông ơi, ông giúp
tôi đi!
Khi bà
ta nói như vậy thì ông bắt đầu khóc, giống như một đứa con
nít vậy đó, từ lâu nay, năm sáu năm nay bà chưa bao giờ nói với
ông bằng cái giọng dễ thương dịu dàng như vậy. Sáu ngày tu tập
mà nó thay đổi rất nhiều, về nói được những lời nói ái ngữ. Khi
bà thấy ông khóc như vậy, bà hy vọng rất nhiều, bà thấy cánh cửa
trái tim ông hé ra rồi, bà nói tội nghiệp tôi mà ông, ông giúp
tôi đi, ông nói cho tôi nghe những khó khăn, những khổ đau,
những bức xúc của ông để tôi không có dại dột làm như trong quá
khứ và bà đã áp dụng đúng như những điều bà đã học trong khóa
tu. Tối hôm đó ông nói cho bà nghe rất nhiều, cố nhiên là có
những điều bà thấy ông nói sai, hiểu sai nhưng bà nhứt định
không động tới, bà nói những cái tri giác sai lầm của ông này từ
từ sau này mình sẽ giúp ông chữa, bây giờ vấn đề là phải lắng
nghe thôi, thành ra bà không cắt lời ông, bà không có sửa lưng
ông, bà lắng nghe, bà nói : tội nghiệp ông quá, vậy mà tôi
không biết ! Tội nghiệp ông quá, vậy tôi không biết ! Chỉ
nói mấy câu như vậy thôi.
Và đêm
đó là đêm có tính cách trị liệu cho hai vợ chồng, bà này thành
công rất là vinh quang tại vì bà thuyết phục ông ghi tên dự khóa
tu thứ hai, và ông ghi tên dự khóa tu thứ hai, ông tu rất là
đàng hoàng, bây giờ ông có đạo hữu rồi mà, bà là đạo hữu của
ông, người bạn đi trên đường đạo gọi là đạo hữu hay là pháp lữ
cũng vậy. Pháp lữ là người bạn trong đạo Pháp.
Thường
thường vào ngày chót có buổi Thiền trà để các thiền sinh họ từ
biệt với nhau. Thiền trà như vậy thường có khoảng 20- 25 người
ngồi tròn thì hai ông bà ngồi trong thiền trà, thông thường
người ta ngồi từ đầu đến chót uống trà ăn bánh ngọt và
chia sẻ hạnh phúc, những kinh nghiệm mình đã đạt được trong
khoá tu, ông mới mở lời, ông mới nói như thế này: thưa các
bạn thiền sinh, tôi xin giới thiệu với các bạn một vị Bồ tát của
đời tôi, người này đã làm tất cả mọi cái để xây dựng cho tôi mà
tôi đã đối xử người này một cách tệ bạc. Nhờ có khóa tu này tôi
tỉnh ngộ ra và tôi trân quí sự có mặt của người này rất là
nhiều, đó chính là một vị Bồ tát. Ông giới thiệu bà một
cách trang trọng như vậy, cũng đủ biết là hai vợ chồng họ tuy là
người
Thiên Chúa giáo nhưng họ tu rất đàng hoàng và rất là thành
công.
Chúng
tôi đâu có biết chuyện đó, chúng tôi không biết gì đang xẩy ra,
tưởng rằng họ cũng là những người thiền sinh thường thôi nhưng
mà sau đó chừng mười ngày, họ đem ba đứa con đang là sinh viên
trường Đại Học tới dự một ngày tu và sau ngày tu đó, họ tới
chúng tôi và kể lại câu chuyện từ đầu tới cuối về sự thành công
của họ trong tu học. Bà chỉ tu có sáu ngày thôi, bà thành công
và giúp lại ông và ông cũng chỉ tu sáu ngày thôi mà giúp được
các con trở về.
Giọt
nước của Hiểu và Thương
Tôi
nghĩ rằng nếu họ là những người Thiên
Chúa giáo mà họ thành công
được thì tại sao mình là người Phật Tử lâu năm mà mình không
thành công được? Cho nên quí vị có những khó khăn ở trong gia
đình, nếu giữa vợ chồng có những khó khăn, không có sự truyền
thông, nếu giữa cha con, mẹ con, anh em mà không sự truyền
thông. Tại sao mình không sử dụng phương pháp của Đức Thế Tôn
dạy để tháo gỡ, để tái lập lại truyền thông, để đem lại hòa khí
hạnh phúc trong gia đình mình. Chúng ta cần những phương pháp
thực tập rất là cụ thể, dĩ nhiên chúng ta tới lễ chùa bái sám,
cúng dường để đọc kinh, chúng ta cũng có thể xoa dịu một ít khó
khăn nhưng mà chúng ta không giải quyết tận gốc, vì vậy chúng
ta phải học thêm, chúng ta phải tìm hiểu phương pháp rất là cụ
thể của Đức Thế Tôn đã dạy trong Kinh, tại vì chính những thiền
sinh Tây Phương, họ tới khóa tu là để học hỏi những cái đó.
Cái hay của pháp môn Lắng Nghe là dầu người kia có dùng ngôn
từ chua chát, cay đắng, trách móc, buộc tội mà mình vẫn ngồi
nghe được, là tại mình có từ bi, trong khi nghe mình phải thở,
mình phải tự nhắc mình rằng nghe như vậy với mục đích duy nhất
thôi là để cho người kia có cơ hội nói ra được những nỗi khổ
niềm đau chưa bao giờ nói ra được, mình đang đóng vai của Bồ Tát
Quan Thế Âm, mình là người đàn ông mình làm Đức Quan Thế Âm,
mình là người đàn bà mình làm Đức Quan Thế Âm, mình là người con
trai mình là Đức Quan Thế Âm để lắng nghe ba, lắng nghe má, mình
là người con gái mình làm Đức Quan Thế Âm để lắng nghe cha, lắng
nghe mẹ. Chúng ta đều có thể làm đưọc, chúng ta cứ niệm Nam Mô
Quan Thế Âm Bồ Tát mà chúng
ta không chịu học cách của Ngài.
Và khi
mình thấy người kia nói một cách sai lầm, những tri giác rất là
sai lầm, chúng ta không có cắt đứt lời người đó, chúng ta nói:
tội nghiệp quá, tri giác sai lầm quá ! nhưng mình phải
lắng nghe, vẫn tiếp tục lắng nghe, mai mốt có cơ hội mình sẽ
hiến cho nguời kia một vài thông tin để người kia có thể
điều chỉnh lại tri giác của người đó, không có gấp ! Khi nào
ba bốn ngày nữa, khi nào có dịp vui thì mình nói cho người kia
biết một vài điều: này anh ơi, cái chuyện anh nói trước sự
thật nó như vầy như vầy nè, mình cho người kia vài cái thông
tin về sự thật, một vài bằng cớ là sự thật nó không có xẩy
ra như vậy, đó là tri giác sai lầm của ảnh nhưng mà đừng nên
cho nhiều thông tin quá, mỗi ngày cho chút xíu thôi, tại vì một
người không thể chấp nhận quá nhiều thông tin, không thể chấp
nhận mình sai lầm nhiều như vậy, mình sai ít ít thì chấp nhận
được, mình sai quá nhiều thì không chấp nhận được, tại vì người
nào cũng có tự ái, cho nên dầu thấy người kia có nhiều tri giác
sai lầm, mình cũng từ từ cung cấp thông tin đó, đừng cung cấp số
lượng quá nhiều một lúc. Đời còn dài mà, cho nên mỗi tuần mình
cho vài thông tin thôi, cuối cùng người kia điều chỉnh tri giác
sai lầm đó và có khả năng hiểu và thương, mình tặng cho họ giọt
nước Cam Lồ Quan Thế Âm, giọt nước của Hiểu và của Thương.
Tôi
nhớ một khóa tu ở Macao tổ chức cho người Hoa, một khóa tu ở
Hồng Kông cũng tổ chức cho người Hoa có rất nhiều người Công
Giáo tham dự khóa tu. Người Hồng Kông, người Macao bỏ đạo Phật
theo đạo Thiên Chúa Giáo rất là đông, người Đại Hàn cũng vậy.
Những khóa tu mà chúng tôi mở cho những người Đại Hàn ít ra năm
mươi phần trăm là người công giáo. Và có một điều rất là lạ, là
tới cuối khóa tu tất cả đều quy y theo Phật trở lại, điều này đã
xảy ra tại Hán Thành, đã xảy ra tại Hồng Kông và Macao, họ nói :
đạo Phật này mới là đạo Phật của tôi ! Và cái buổi truyền
Tam Quy, Ngũ Giới vào ngày chót họ xin quy y trở lại hết, tại họ
có dòng máu Phật tử lâu đời rồi, khi gặp được Chánh pháp, gặp
được Tăng thân, gặp được pháp môn tu tập rất là khoa học, họ trở
về rất là mau. Thành ra khi quí vị thấy có nhiều người bỏ theo
đạo Thiên Chúa, quí vị đừng nóng ruột, nếu mình tu tập cho đàng
hoàng, mình giúp cho họ những phương pháp tu tập để họ có thể
chuyển hóa đuợc, họ sẽ trở về rất là mau. Khóa tu ở Macao, trong
buổi ăn cơm cuối cùng đó, có nhiều bà lên báo cáo : bạch Thầy
con làm hòa với chồng con rồi, con chỉ dùng điện thoại di
động thôi ! Tôi rất là hãnh diện về những người học trò như vậy,
chỉ cần đìện thoại di động thôi mà làm hòa được với chồng, làm
hòa được với cha. Phương pháp của Đức Thế Tôn rất là vi diệu !
Tôi
nói nhiều rồi, bây giờ quí vị muốn hỏi câu gì thì hỏi, cũng đã
gần 9 giờ khuya rồi. Ai có câu hỏi thì giơ tay lên sẽ có cái máy
nói nó đi tới !
Hỏi
và Trả lời
Hỏi :
Con có đứa con mới 14 tuổi muốn đi xuất gia theo Sư Ông thì phải
làm sao?
Thầy
Nhất Hạnh : Bây giờ bà tiếp xúc với một trong các thầy ở đây,
hỏi thể thức nó ra làm sao? Hiện giờ có rất nhiều người trẻ
muốn đi xuất gia để đi theo con đường Đức Thế Tôn. Tại tu viện
Bát Nhã ở Bảo Lộc, có rất nhiều thanh niên và thiếu nữ muốn xuất
gia, có nhiều người học xong Đại học rồi, đã làm Kiến trúc sư,
Dược sư hay là Bác sĩ rồi mà cũng đi xuất gia, tại vì đi xuất
gia có thể làm được
nhiều
lợi cho đời. Bà nên tiếp xúc với các
thầy, các
sư cô ở đây. Có thể là cháu sẽ lên trên tu
viện Bát Nhã, thực tập mấy tháng theo phương pháp của Làng Mai
và sẽ gặp rất nhiều người trẻ đang tu ở trên đó. Tu viện Bát Nhã
tiếp nhận thanh niên thiếu nữ từ 15 đến 25 tuổi, sẽ được đào tạo
để sau này có thể mở những khóa tu như là các
thầy, các
sư cô
đang mở.
Hỏi : (phút
thứ
44:44,
âm thanh nhỏ không nghe được) :
Xin thầy kể về kinh
nghiệm mấy mươi năm hành đạo của thầy ở Âu Châu và Mỹ Châu ?
Thầy
Nhất Hạnh : Âu Châu và Mỹ Châu là địa bàn của Cơ Đốc Giáo, Do
Thái Giáo bên đó không có sẵn Phật Tử để mình thuyết pháp,
hầu hết những người đến với mình đều có gốc Thiên Chúa Giáo hoặc
Do Thái Giáo hoặc tôn giáo khác nhưng phương pháp của chúng
tôi, đường lối của chúng tôi không muốn cho họ bỏ đạo của họ,
không muốn họ
mất
gốc rễ.
Ngày
xưa các Giáo Sĩ của Thiên Chúa Giáo qua Việt Nam, họ không làm
như vậy, họ muốn mình bỏ đạo Thờ Ông Bà của mình để theo Cơ
Đốc Giáo và chúng tôi thấy như vậy là tội, làm cho người ta mất
gốc rất là tội, cho nên đối với những người Do Thái và Cơ Đốc
tới chúng tôi tu, chúng tôi khuyên họ đừng bỏ đạo gốc, khi mà
thực tập được đạo Phật và tháo gỡ những khó khăn, khổ đau, bức
xúc rồi có thể trở về giúp cho những người
trong
truyền thống của họ.
Lập trường của chúng tôi là bao dung.
Tôi đã
từng viết cuốn sách để đối thoại với Thiên chúa giáo mà hai cuốn
bán rất chạy là cuốn Living Buddha, Living Christ tức là
Bụt ngàn đời, Chúa ngàn đời và cuốn
Going Home: Jesus and Buddha as Brothers,
Bụt và
Chúa là hai anh em, hai cuốn sách đó bán rất chạy, nó đi rất sâu
vào quần chúng Tây Phương, đi vào những nhà tu kín. Tuy tôi là
người đạo Phật nhưng tôi đã nghiên cứu tôn giáo khác, tôi đã
nghiên cứu Thánh kinh, đã nghiên cứu kinh Coran, đã nghiên cứu
những vị Do thái giáo, vì vậy trong khi tôi viết những cuốn sách
đó, tôi đã thiết lập đối thoại giữa Phật giáo với tôn giáo đó.
Ban đầu độc giả họ tò mò, họ muốn biết ông thầy tu Phật Giáo
nghĩ gì về đạo của họ cho nên họ mua nhưng khi mua về rồi
thì họ có cơ hội đọc để hiểu được Phật Giáo là cái gì? Tại vì
trước đó phần lớn họ có quan điểm mơ hồ về Phật giáo lắm, họ đọc
cuốn sách đó thì thấy tác giả có công nhận những điểm hay, những
điểm đúng với sự thật của Cơ Đốc Giáo nhưng đồng thời cũng giới
thiệu Phật giáo để người ta thấy được cái hiểu đứng đắn về
nền đạo đức Đông Phương đó. Khi đọc xong cuốn sách đó rồi, họ bỏ
được quan niệm sai lạc về Phật Giáo và có khi họ thấy được tôn
giáo của họ sâu sắc hơn, tại vì mình nghiên cứu Thánh Kinh và Cơ
Đốc Giáo dưới cái nhìn của Thiền và mình có thể thấy những điều
sâu xa mà chính người của họ chưa thấy được. Cho nên có nhiều
ông Cha, nhiều bà Sơ cám ơn tôi đã viết cuốn sách đó tại cuốn
sách đó đã giúp họ tháo gỡ được những khó khăn, giúp họ đào sâu
hơn vào truyền thống của họ. Có cái nhìn rộng hơn, cởi mở hơn
đối với các tôn giáo khác và ngay chính tôn giáo của chính
họ.
Sở dĩ
chúng ta có chiến tranh nhiều là vì có những hiểu lầm, có
những mâu thuẩn đối với tôn giáo này hay với tôn giáo khác.
Mục đích của tôi viết sách Đối thoại giữa Phật Giáo và Thiên
Chúa Giáo là muốn lấy ra bớt những cái hiểu lầm. Và khi những
người Phật Tử, những người Do Thái Giáo, những người Thiên Chúa
Giáo mà ngồi xuống để thực tập như người anh em trong một nhà
thì không khí rất là huynh đệ, rất là đầm ấm. Chứng tỏ đạo Phật
là đạo rất là mở rộng, không có kỳ thị, không có loại trừ,
ôm lấy hết mọi người, ôm lấy hết mọi nền văn hóa. Và vì vậy cho
nên người ta thấy đạo Phật rất đẹp, càng ngày càng nhiều người
Tây phương đi tìm tới đạo Phật. Mình không chỉ trích, không
lên án những truyền thống khác, trái lại mình mở rộng hai vòng
tay mình ôm lấy, cuối cùng họ thấy rằng đạo Phật có cái nhìn rất
là thoải mái, rất là rộng mở, rất là bao dung, rất là cao cả và
càng ngày người ta tới đạo
Phật càng đông.
Có một
điều này nữa là đạo Phật có thể dễ dàng đi đôi với khoa học và
các nhà khoa học đã tìm thấy rất nhiều cảm hứng trong giáo lý
đạo Phật để đi trên con đường khám phá của họ. Cho nên thế kỷ 21
này là thế kỷ mà trong đó nhà Khoa Học với nhà Phật
Học có thể nắm tay nhau cùng đi rất là thân ái. Bây giờ đây
mãnh đất Tây phưong sẵn sàng tiếp nhận những hạt giống Phật
giáo. Chúng tôi rất tiếc chưa đủ Giáo Thọ xuất gia và tại gia,
chúng tôi có chừng ba, bốn trăm Giáo Thọ xuất gia và tại gia
thôi, không đủ cung cấp cho Âu Châu và Mỹ Châu, vì vậy quí vị
phát tâm đi tu học được rèn luyện mấy năm để trở thành Giáo Thọ
mà đem hạt giống Phật Giáo truyền bá Âu Châu và Mỹ Châu thì công
đức sẽ vô lượng, những người trẻ giúp đời rất là nhiều nếu đi
trên đường này. Hiện giờ trên Tu viện Bảo Lộc chúng tôi đào tạo
bốn, năm trăm vị xuất gia trong chiều hướng đó để sau này họ trở
thành
các
vị Giáo Thọ mở những khóa tu trong nước và hiện có những
vị Giáo Thọ mở những khóa tu ở đất nước Thái Lan, Hồng kông
v.v..v.v...
Có một
lần tôi giảng dạy bên Đại hàn và nhân dịp khi tôi qua, họ mở một
cuộc hội thảo giữa Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, đó là buổi hội
thảo đầu tiên trong lịch sử giao lưu giữa hai tôn giáo. Chúng
tôi, một số quí vị xuất gia bên Phật giáo và bên kia có một số
vị Linh mục, các Bà Sơ tới tham dự có nêu ra vấn đề hôn nhân dị
giáo, có những chàng trai Phật tử yêu những cô gái Thiên Chúa
Giáo hoặc những chàng trai Công Giáo yêu những cô gái Phật Tử và
hai bên gia đình, bên nào cũng chống hết và có nhiều cặp thanh
niên thiếu nữ đau khổ vô cùng vì gia đình họ không cho phép họ
cưới nhau khi họ yêu nhau.
Ở Việt
Nam cũng có tình trạng đó. Tôi có đưa ra một biện pháp để giải
quyết, tôi nói nếu chúng ta cần một trăm năm để giải pháp này
chấp nhận thì cũng đáng là tại vì thanh niên chúng ta từng đau
khổ cả ngàn năm nay rồi là tại vì hai tôn giáo khác nhau, hai
tôn giáo không có dung hợp với nhau được. Giải pháp tôi đưa ra
cho hai người cưới nhau với điều kiện là người này đi nhà thờ
của người kia mỗi chủ nhật và người kia phải đi chùa của người
này vào mỗi ngày rằm ! Thay vì mình có một gốc rễ tâm linh thì
mình có hai gốc rễ tâm linh, tại vì tôi từng thấy người Cơ Đốc
Giáo thực tập đạo Phật rất là hạnh phúc và coi Đức Phật như một
bậc Thầy, bậc Bổn sư.
Quí vị
có biết trong tăng đoàn Làng Mai có mặt đêm nay có một vị cựu
Linh Mục Công Giáo sau
khi tới đạo Phật, thấy những Pháp
Môn tu tập của đạo Phật rất hay nên đã tu theo Phật Giáo,
trong khi đó vị này vẫn còn thương Chúa Jesus rất là nhiều, có
thể là thương hơn trước nữa là khác, nhưng tại sao thương Chúa
Jesus mà lại mặc áo thầy tu Phật Giáo, tại vì đạo Phật có những
pháp môn rất là cụ thể. Bên Cơ đốc giáo cũng nói về Tình thương,
cũng nói về sự hy sinh nhưng mà không có những phương pháp cụ
thể, như là phương pháp thở, phương pháp đi, phương pháp tọa
thiền, phương pháp điều phục cơn giận, cơn buồn cho nên vị này
trái tim vẫn còn ấp ủ ở Đức Ky Tô nhưng mà đã thấy những pháp
môn cụ thể và tu theo đạo Phật và hiện nay là một vị Tỳ Kheo,
sắp sửa làm Giáo Thọ Phật Giáo rồi, thầy đó tên là Chân Pháp Đệ,
người Mỹ.
Tôi có
người đệ tử là
Mục sư, hành đạo tại tiểu bang Texas, vị này bị
bệnh ung thư, nhưng sau khi theo pháp môn đạo Phật thì bệnh
đó giảm rất mau, nó gần như là lành hẵn, vì vậy vị đó rất là hâm
mộ và vị đó qua Làng Mai thọ trì Ba Quy và Năm Giới.
Vị
đó về nhà thờ của mình cũng giảng dạy về Thiền, sau đó vị đó thọ
mười bốn giới Tiếp Hiện và cuối cùng được truyền đăng Giáo Thọ
Phật Giáo nhưng mà chức tước bên kia vẫn là Mục Sư. Vị đó viết
lá thơ lên Bề Trên nói như vầy: nếu tôi được cho phép thì tôi
vừa là Mục sư vừa là GiáoTthọ Phật Giáo, còn nếu như bề trên
không cho phép thì tôi xin từ chức Mục Sư, tôi chỉ làm Giáo Thọ
Phật Giáo thôi. May cho vị này quá, Bề Trên chấp nhận vì vậy
chủ nhật buổi sáng thì giảng Kinh Thánh, buổi chiều hướng dẫn
Thiền tập cho con chiên rất là hay. Thành ra không có sự giằng
co, không có sự mâu thuẩn. Khi mình có tuệ giác rồi, mình có thể
ôm ấp được nhau, mình có thể phối hợp cái hay của truyền thống
này với cái hay của truyền thống khác mà không phải cần có chiến
tranh mới được, điều này rất là quan trọng.
Hy
vọng câu trả lời của tôi đáp ứng một phần nào câu hỏi thắc mắc
của quí vị ./.
|