PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

...  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (...  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (...  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

 Nghệ thuật sống thiền :


Ước hẹn với sự sống

 

  • Tháng VIII 2007 - Chân Tịnh Ý biên tập :
    Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 5. 05.2007  tại chùa Trung Hậu, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc.
    Â
    m thanh MP3 : Phần 1 (14.3MB) Phần 2 (12.9MB)
     

Kính thưa các vị khách quý, kính thưa chư tôn đức và chư Phật tử.

Chúng tôi rất ý thức là đang được ngồi ở trên mảnh đất linh thiêng này của tổ đình Trung Hậu, một mảnh đất đã sản xuất ra biết bao nhiêu vị cao tăng soi đường dẫn lối tâm linh cho chúng ta. Chúng tôi rất hạnh phúc được góp phần vào sự nghiệp của liệt vị tổ sư xuất phát từ tổ đình Trung Hậu. Các thầy và các sư cô trong phái đoàn làng Mai sẽ cử xướng danh hiệu của đức Bồ Tát Quan Thế Âm bằng tiếng Phạn Nam mô Avalokitesvara. Trước đó các  thầy, các sư cô sẽ cử xướng bài Tào Khê.

 

Ước hẹn với sự sống trong phút giây hiện tại…

Kính thưa các vị khách quý, kính thưa các vị tôn đức, các thầy các sư cô và các Phật tử cư sĩ.

Chúng ta thường tạc tượng đức bản sư ngồi trên một đóa sen. Trên thực tế, làm sao mình ngồi trên một đóa sen được. Ngồi trên đóa sen thì đóa sen sẽ bẹp dí. Nhưng đóa sen là hình ảnh của sự tươi mát, thong dong, tinh khiết và thảnh thơi. Đức bản sư ngồi bất cứ ở đâu, trên một gốc cây, bên bờ sông hoặc giữa một bãi cỏ thì ngài vẫn ngồi thong dong, an ổn, tươi mát. Vì vậy các nghệ nhân đã tạc tượng ngài ngồi trên một đóa sen. Chúng ta là những người đệ tử của ngài, chúng ta gọi ngài là thầy gốc (bản sư) thì chúng ta phải học cách ngồi của thầy. Ngồi ở đâu chúng ta cũng phải ngồi cho thảnh thơi, tươi mát, bình an. Tôi đang tập ngồi như ngài và tôi rất mong quý vị cũng đang ngồi thảnh thơi như ngài. Chúng ta nên ngồi trên một tòa sen mà đừng nên ngồi trên một đống lửa.

Có người trong chúng ta không ngồi yên được, chúng ta không ngồi yên được tại vì chúng ta đang ngồi trên một đống lửa. Chúng ta có những lo âu, sợ hãi những toan tính, những sầu khổ và cái đó không cho phép chúng ta ngồi yên như Đức Thế Tôn trên một tòa sen. Ngồi yên - an tọa - là một nghệ thuật mà chúng ta phải học mới làm được. Tôi nhớ khi tổng thống Nam Phi là ông Nelson Mandela viếng thăm cộng hòa Pháp, tổng thống François Mitterrand đã tiếp ông và báo chí đã hỏi ông nhiều câu, trong đó có một câu rất là đặc biệt. Thưa tổng thống, tổng thống cho chúng tôi biết là tổng thống ưa làm cái gì nhất, thích cái gì nhất. Tổng thống Mandela đã trả lời như thế này: cái mà tôi thích nhất, tôi muốn nhất bây giờ là được ngồi yên khỏi phải làm gì hết. Tại vì ngày tôi được phóng thích ra nhà tù, tiếp nhận cái chức vụ làm tổng thống tôi chưa bao giờ có cơ hội được ngồi yên, luôn luôn bận rộn, luôn luôn có những căng thẳng đau nhức.  Khi  tôi đọc bản tin đó ở trên nhật báo thì tôi có suy nghĩ. Tôi nói rằng giả dụ tổng thống Nam Phi có ba ngày hay là bảy ngày để ông ta có thể ngồi yên thì chưa chắc ông đã ngồi yên được. Ngồi yên không phải là chuyện dể, ngồi yên phải thực tập mới được. Đức bản sư Thích Ca Mâu Ni có thể làm được. Bất cứ ở đâu ngài cũng ngồi yên và ngồi trong một tư thế rất là thoải mái, rất là thong dong, không lo lắng, không sầu khổ. Ngài không bao giờ ngồi trên một đống lửa. Nhiều người trong chúng ta đã quen ngồi trên đống lửa và bất an, chúng ta phải tập làm thế nào để ngồi như là thầy của chúng ta. Tôi mong rằng trong giây phút hiện tại tất cả quý vị cũng đang ngồi trên một tòa sen mà đừng ngồi trên một đống lửa.  Ngồi được trên tòa sen thì tự nhiên có hạnh phúc. Chúng ta hãy dừng lại những tiếc nuối, những sầu khổ về quá khứ, những lo lắng những toan tính về tương lai để có thể có mặt đích thức trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta có thể buông bỏ được những cái đó thì chúng ta bắt đầu có khả năng ngồi yên. Ngồi yên trong giây phút hiện tại chúng ta có thể tiếp xúc được với những cái mầu nhiệm của sự sống đang có mặt trong giây phút hiện tại như là trời xanh mây trắng, chim hót, thông reo hoa nở và các bạn tu đang ngồi chung quanh ta và các thầy các sư cô đang ngồi chung với ta trong pháp hội này.

Đức Thế Tôn có dạy là đừng tìm về quá khứ, đừng lo lắng tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa đến, kẻ thức giả an trú vững chãi và thảnh thơi trong giây phút hiện tại. Chúng ta có ước hẹn với sự sống trong giây phút hiện tại. Tại vì sự sống chỉ có thể có mặt được trong giây phút hiện tại, quá khứ đã qua mà tương lai chưa tới, chỉ có giây phút hiện tại mới có sự sống thôi. Mà nếu chúng ta không có trở về được, an trú được trong giây phút hiện tại thì chúng ta đánh mất hẹn ước của chúng ta đối với sự sống. Tôi có viết một cuốn sách được dịch ra nhiều thứ tiếng mà cái nhan đề của nó là Ước hẹn với sự sống.

Trong đạo Phật chúng ta có nhiều phương pháp để trở về với giây phút hiện tại mà tiếp xúc với sự sống, trong đó có phép thở. Mỗi hơi thở, thở vào hay thở ra nó đem cái tâm của chúng ta trở về với cái thân và tự khắc chúng ta có mặt được trong giây phút hiện tại. Hoặc là mỗi bước chân trong khi thực tập đi thiền hành, thiền hành tức là đi từng bước mà đi thảnh thơi an lạc như là một con người vô sự. Ngày xưa Đức Thế tôn, thầy của chúng ta đã đi như thế, ngài đi rất nhiều nước trong lưu vực sông Hằng và đi tới đâu ngài cũng để lại cái dấu chân thảnh thơi an lạc tới đó. Thầy đi như thế đó thì học trò, đệ tử cũng phải học để đi được như thế đó. Mỗi bước chân có ý thức nó đem mình trở về lại với giây phút hiện tại để cho mình tiếp xúc với sự sống.

Phần lớn chúng ta đi như bị ma đuổi. Chúng ta nóng nảy đi về tương lai, chúng ta cứ tin rằng hạnh phúc không có thể có mặt được trong giây phút hiện tại, hạnh phúc họa may chỉ có mặt trong tương lai. Vì vậy cho nên hầu hết chúng ta đều bương chải đi về tương lai dẫm lên trên hiện tại mà đi. Về nước sau bốn mươi năm xa cách, tôi có cảm tưởng là người Việt chúng ta đang sống một cách hối hả, gấp gáp. Cứ đi vào các thành phố lớn mà xem cái cách người ta lái xe thì đủ biết là người nào cũng vội vã, người nào cũng muốn đi cho mau tới. Phóng nhanh, vượt ẩu, chèn ép, bóp còi inh ỏi.  Ngoài đường không có đủ an ninh cho tất cả mọi người, tai nạn giao thông rất là nhiều. Tại vì chúng ta sống quá hối hả, chúng ta không biết sống an lạc hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại.

Ở làng Mai bên Pháp chúng tôi có pháp môn gọi là thiền lái xe.

Thiền lái xe nghĩa là lái xe trong tư thái thiền. Lái xe mà không gấp gáp, lái xe để hết tâm ý mình vào trong việc lái xe. Lái xe như thế nào để có an lạc có hạnh phúc ngay trong khi lái xe. Khi gặp đèn đỏ thì không bực mình, hoặc là gặp kẹt xe thì cũng không  bực mình, mà biết trở về với hơi thở. Thở vào tâm tỉnh lặng, thở ra mỉm miệng cười. Mỗi khi tới ngã tư, mà có đèn đỏ thì ta nhìn đèn đỏ như là một tiếng chuông chính niệm giúp chúng ta đem tâm trở về với thân, an trú trong giây phút hiện tại, mỉm cười và thở ra thở vào như thế nào để có sự thư giản để có sự thanh tịnh trong cái bản thân của mình. Không cần hối hả muốn cho cái đèn đỏ nó trở thành đèn xanh. Cái đèn đỏ trở thành ra một vị thiện tri thức, giúp cho chúng ta dừng lại. Nó giúp cho chúng ta đem tâm trở về với thân và sống được những giây phút an lạc thoải mái khi chúng ta ngừng xe lại.

 Xin mời đại chúng cùng thở với chúng tôi trong vòng nửa phút theo tiếng chuông cho thoải mái:

Thở vào tôi biết là sự sống đang có mặt trong tôi và chung quanh tôi. Thở ra, tôi đang mỉm cười tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm.

 

Đạo Phật là một kho tuệ giác.

Thực tập theo đạo Phật, chúng ta có những phương pháp để giúp cho thân và tâm có được sự yên ổn, có được hạnh phúc. Chúng ta có danh từ an lạc. An có nghĩa là yên ổn và lạc có nghĩa là hạnh phúc. Chúng ta biết rằng khi mà thân không an và tâm không an thì hạnh phúc không thể nào có được. Vì vậy cho nên Đức Thế Tôn đã cống hiến cho chúng ta biết bao nhiêu phép tu để làm cho cái thân an và tâm an. Những phương pháp như hơi thở có chính niệm, ngồi thoải mái, đi thiền là những phương pháp rất hiệu nghiệm có thể đem tâm trở về với thân, có thể tháo gỡ những căng thẳng, làm lắng dịu những căng thẳng trong thân và trong tâm. Trong kinh An ban thủ ý, tức là kinh ở trong đó Phật dạy về mười sáu phương pháp thở, chúng ta thấy có những bài tập rất hay, có tác dụng làm lắng dịu những căng thẳng, đau nhức trong thân cũng như làm lắng dịu những khổ đau, những lo lắng, những sợ hãi ở trong tâm của mình.

 Đạo Phật không phải chỉ là một tôn giáo bái sám cúng dường, cầu nguyện. Đạo Phật còn là một kho tuệ giác. Nếu chúng ta chọc thủng được cái vỏ tín ngưỡng tôn giáo thì chúng ta có thể tiếp xúc được với kho tàng tuệ giác của đạo Phật. Khi có được kho tàng tuệ giác đạo Phật đó, đem vào áp dụng thì chúng ta có thể tháo gỡ được những khó khăn trong đời sống hàng ngày, những khó khăn trong bản thân ta, những lo lắng sầu khổ, nghi kị, giận hờn tuyệt vọng. Vì vậy cho nên thực tập rất là quan trọng. Trong Phật giáo chữ học  không có nghĩa như là chữ học ở ngoài đời. Trong đạo Phật chữ học có nghĩa là thực tập, nó được dịch từ chữ  sicsa. Cái học ở ngoài đời là cái học chất chứa kiến thức. Trong đạo Phật chữ học nó có nghĩa là thực tập. Những người nào mà thực tập xong rồi, thành công rồi thì gọi là các bậc vô học. Ở ngoài đời vô học tức là không có học thức. Trong văn học Phật giáo vô học có nghĩa là đã thực tập xong rồi và những người đang còn phải thực tập gọi là hữu học. Thành ra chúng ta phải để ý lắm về sự khác nhau giữa những danh từ trong đạo Phật và ngoài đời.

 Quá trình thực tập của chúng ta là văn tư   tu. Lắng nghe, học hỏi đó là văn. Chữ văn đạo trong Phật tương đương với chữ văn ở ngoài đời. Chúng ta phải học hỏi giáo pháp xong chúng ta mới đem ra chiêm nghiệm gọi là tư, chiêm nghiệm làm sao áp dụng vào đời sống hàng ngày được gọi là tư. Cái thứ ba là tu. tu tức là đem áp dụng ngay vào trong đời sống hàng ngày. Chữ học trong đạo Phật nó gồm có ba yếu tố đó là văn tư và tu. Nghe tiếp nhận giáo lý, chiêm nghiệm và áp dụng ngay vào đời sống hàng ngày, cái đó gọi là học.

 

Quay về nương tựa hải đảo tự thân

Có những lúc trong đời sống hàng ngày chúng ta cảm thấy bơ vơ lạc lỏng, lo lắng sợ hãi không biết làm gì. Chúng ta bị những tâm tư đó kéo đi. Chúng ta trở thành nạn nhân của những lo lắng sầu khổ, bực tức nghi kị đó. Nó kéo đi, chúng ta không làm chủ thân tâm chúng ta được. Trong trạng thái đó, chúng ta có thể có những lời nói và những hành động đưa tới đổ vỡ. Bên Pháp, mỗi ngày có chừng ba mươi lăm thanh niên thiếu nữ tự tử, bên Anh còn nhiều hơn, tôi nói mỗi ngày, ở bên Mỹ còn nhiều hơn bên Pháp nữa. Tại vì người thanh niên có những khổ đau, những bức xúc, có những sợ hãi, lo lắng, những tuyệt vọng mà không biết cách xử lý, không  biết cách chuyển hóa. Họ nghĩ rằng chỉ có chết là mới hết khổ thôi. Vì vậy cho nên những người trẻ đó đã kết liểu đời mình, rất là tội nghiệp. Trong đạo Phật có những pháp môn rất là thần diệu để đối phó với những tâm hành như là lo lắng sợ hãi, ganh tị buồn phiền, bất an. Là đệ tử của Đức Thế Tôn, chúng ta phải học cho được, phải nắm cho được những phương pháp đó, đem ra thực tập trong đời sống hàng ngày.

Trong những phương pháp Đức Thế Tôn dạy, có phương pháp gọi là quay về nương tựa hải đảo tự thân mà hồi nãy một sư cô đã dạy cho đại chúng hát.

Hồi đó Đức Thế tôn đã tám mươi tuổi và mùa xuân năm đó ngài ở trong thành phố Vaisali phía Bắc sông Hằng, một thành phố rất đẹp. Ngài bị ốm nặng tưởng chết. Thị giả là thầy Anan rất lo lắng cho ngài. Thầy Anan thấy thầy mình ốm quá nặng, nguy hiểm đến tính mạng cho nên thầy hay đi ra ngoài rừng khóc. Nếu mà thầy mình mất đi thì mình không có chỗ nương tựa. Thầy Anan còn trẻ . Nhưng Đức Thế Tôn đã dùng định lực của ngài để vượt qua cơn bệnh. Ngài biết rằng ngài chỉ có thể sống thêm được độ chừng ba bốn tháng nữa thôi. Ngài muốn trở về quê hương để viên tịch. Quê hương ngài là ở thành Kapilavatthu ở miền Bắc. Trước khi lên đường, ngài đi thăm các đạo tràng đã được thành lập xung quanh thành phố Vaisali. Có những đạo tràng có nhiều thầy đang tu tập chung, nhiều sư cô đang tu tập chung. Ngài ghé thăm các thầy các sư cô các Phật tử và ngài căn dặn họ những điều cuối cùng mà ngài muốn căn dặn. Trong những điều căn dặn đó, ngài có dạy pháp môn quay về nương tựa hải đảo tự thân. Ngài biết rằng sau khi ngài tịch rồi thì học trò của ngài sẽ cảm thấy bơ vơ không có nơi nương tựa, cho nên ngài muốn họ có một nơi nương tựa.

Nơi nương tựa đó là một hòn đảo. Hòn đảo đó nằm ở trong trái tim mình. Tiếng Pali là Attadipa, Atta là tự thân, dipa là hải đảo, attadipa là hải đảo tự thân. Thế kỷ thứ tư các thầy dịch từ tiếng Phạn ra chữ Hán là tự châu. Tự tức là tự thân, châu tức là hải đảo. “Nhữ đẳng tỳ khưu đương tự châu”: này các thầy tỳ khưu các vị nên quay về nương tựa nơi cái hải đảo tự thân của mình.

Khi mà chúng ta đem tâm trở về với thân và chúng ta thực tập hơi thở có chính niệm thì chúng ta tiếp xúc được với Tam Bảo: với Bụt với Pháp với Tăng với tất cả tổ tiên tâm linh và huyết thống của chúng ta ngay trong trái tim của chúng ta. Đó là một hải đảo an toàn nhất. Mỗi khi chúng ta bơ vơ, mỗi khi chúng ta lo lắng, chúng ta sợ hãi, chúng ta phải lập tức sử dụng hơi thở có ý thức, bước chân có ý thức để trở về trong cái hải đảo tự thân đó. Hải đảo đó nó không có nằm ngoài chúng ta, nó nằm trong tự thân chúng ta.

Hải đảo là gì? Hải đảo là một nơi mà sóng gió không thể nào cuốn đi được. Nếu thuyền chúng ta gặp tai nạn mà chúng ta gặp một hải đảo thì chúng ta có thể nương tựa vào hải đảo. Chúng ta buộc thuyền vào bến và chúng ta leo lên hải đảo thì sóng gió sẽ không làm gì được chúng ta. Nhưng hải đảo này nó không phải là ở ngoài biển mà nó ở trong tâm của chúng ta. Bất cứ ai trong chúng ta cũng có khi lâm vào tình trạng lo lắng bơ vơ, lạc lỏng, tuyệt vọng. Những lúc đó mà nếu chúng ta không biết thực tập thì chúng ta đau khổ. Đau khổ quá chúng ta có thể nghĩ đến cái chuyện tự tử. Tôi nghe nói rằng số người trẻ ở Việt Nam tự tử bắt đầu tăng lên rất là nhiều. Có khi các cháu mới mười sáu mười bảy tuổi đang học trung học, các cháu rủ nhau ra bốn đứa, năm đứa nhảy xuống sông tự tử. Tại vì các cháu có những khó khăn với bố mẹ, với gia đình, rất là tội nghiệp. Nếu mà các cháu đó đi chùa, được thầy, được sư cô dạy cho phương pháp quay về nương tựa hải đảo tự thân thì các cháu có thể vượt thoát được những khủng hoảng đó ở trong tâm. Vì vậy cho nên chúng ta phải nắm cho được phương pháp này để thực tập cho chính mình và giúp cho những người thân của mình nhất là những người trẻ, để họ có thể vượt thắng được những trường hợp nguy hiểm như thế.

Mỗi khi có bão, nhìn qua cửa sổ chúng ta thấy cây cối trong vườn lay động rất mạnh. Khi nhìn lên ngọn cây, chúng ta thấy ngọn cây nghiêng ngả và chúng ta có cảm tưởng rằng cây có thể gãy bất cứ lúc nào, có thể bay đi bất cứ lúc nào. Nhưng khi nhìn xuống gốc cây thì chúng ta có cảm giác an toàn hơn, vì chúng ta biết rằng cây này khá vững, nó có nhiều gốc rễ đâm sâu xuống lòng đất, cây này có thể đứng vững được trong cơn bão. Con người của chúng ta cũng vậy, thân với tâm liên hệ với nhau. Mỗi khi có một cơn bão lo lắng sầu khổ tuyệt vọng thì chúng ta phải biết cách tự bảo hộ. Nếu chúng ta tiếp tục tư duy, lo lắng suy nghĩ, tức là chúng ta để tâm chúng ta ở trên bình diện của óc thì nguy hiểm hơn nhiều. Tại vì càng suy nghĩ chúng ta càng đau buồn, sợ hãi. Những lúc đó nên ngừng suy nghĩ và đem tâm đi xuống dưới huyệt đan điền (ngay dưới rốn), chỗ đó là cái gốc của chúng ta, còn trên này là cái ngọn cây. Khi chúng ta đem tâm xuống dưới gốc cây và ôm lấy gốc cây, chúng ta sẽ có cảm tưởng an toàn. Chúng ta thực tập thở bụng. Thở vào ta thấy bụng phình lên và thở ra ta thấy bụng xẹp xuống. Quý vị hãy thử để cái tay ở trên bụng mình mà xem và khi mà mình thở vào thì cái bụng mình nó phồng lên. Tại vì không khí đi vào phổi và phổi căng lên. Không khí đi xuống và vì vậy bụng ta phồng lên. Khi thở ra thì không khí đi ra và bụng xẹp xuống trở lại. Khi có một cảm xúc lớn như sợ hãi, tuyệt vọng, lo lắng thì chúng ta phải trở về để thực tập phương pháp thở bụng. Không có suy nghĩ gì hết, đừng suy nghĩ mà đem hết tâm tư để ý vào sự phồng lên và xẹp xuống của bụng của mình. Thở vào bụng tôi đang phồng lên, thở ra bụng tôi đang xẹp xuống. Và cứ như thế mà thực tập thì có thể là trong năm phút hay mười phút cơn cảm xúc đi qua và chúng ta sẽ an toàn. Thở trong chính niệm là một trong những phương pháp quay về nương tựa hải đảo tự thân.

Nương tựa trong danh từ Phật học là quy y. Quy y tức là quay về và tìm nơi trú ẩn, quy tức là quay về, y tức là nương tựa tìm nơi trú ẩn. Nơi trú ẩn đó không phải ở ngoài,  nơi trú ẩn đó nó nằm ở trong. Cái đó ở trong kinh gọi là Attadipa tức là hải đảo tự thân. Mỗi người đều có hải đảo đó và mỗi khi gặp những  cuộc khủng hoảng tinh thần chúng ta phải theo hơi thở theo bước chân trở về với hải đảo đó và tiếp tục thực tập hơi thở. Hơi thở đó chúng ta có thể thực tập theo cái bài kệ mà chúng ta mới vừa học sáng nay:

Quay về nương tựa, hải đảo tự thân,
Chánh niệm là Bụt, soi sáng xa gần,
Hơi thở là Pháp, bảo hộ thân tâm,
Năm uẩn là Tăng, phối hợp tinh cần,
Thở vào thở ra,
Là hoa tươi mát,
Là núi vững vàng,
Nước tỉnh lặng chiếu,
Không gian thênh thang.

Thực tập theo bài đó cho đến khi cảm xúc nó ngưng lại thì chúng ta sẽ thoát.  Chúng ta nên nhớ một điều là cảm xúc chỉ là cảm xúc thôi. Con người chúng ta nó gồm có năm yếu tố là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Lãnh thổ của bản thân chúng ta rất là bao la, sắc thọ tưởng hành thức. Sắc tức là hình hài của ta, thọ tức là những cảm giác của chúng ta, tưởng tức là tri giác, hành tức là những tâm tư của chúng ta và thức là nhận thức của chúng ta. Nó rất lớn và cảm xúc nó chỉ là một cái tâm hành nhỏ thôi. Cảm xúc mạnh là một cơn bão và một  cơn bão thì lâu lâu nó tới một lần, ở lại một thời gian thôi và thế nào nó cũng đi. Tại sao mình phải chết vì một cái cảm xúc? Phải nhớ điều đó và phải thực tập. Nếu quý vị thực tập mỗi ngày theo bài quay về nương tựa, hải đảo tự thân, thở theo bụng đó thì nội trong ba tuần nó trở thành thói quen, một tập khí tốt. Mỗi ngày đều nên thực tập thở như thế và sau đó mỗi khi có cảm xúc lớn như sợ hãi, tuyệt vọng, bơ vơ thì mình nhớ  trở về hải đảo tự thân của mình. Quý vị sẽ có an toàn, quý vị sẽ điều phục được những cảm xúc lớn và quý vị sẽ không bao giờ làm như những chàng thanh niên, những cô thiếu nữ kia vì không có chịu đựng được cảm xúc cho nên mới phải đi tự tử. Khi làm được rồi, thoát được cảm xúc rồi thì quý vị an tâm. Quý vị có niềm tin, nói rằng kỳ sau cảm xúc lớn này trở lại thì ta đã có phương pháp đối phó rồi. Vì vậy cho nên quý vị có cái vô úy không lo sợ nữa. Cho nên trong khoảng hai mươi mốt ngày, mỗi ngày nên thực tập mười lăm,  hai mươi phút phương pháp thở bụng, quay về nương tựa hải đảo tự thân. Bài này có ở trong sách Nhật tụng thiền môn năm 2000 và sách Nghi thức tụng niệm đại toàn do nhà xuất bản tôn giáo ấn hành. chúng ta nên học thuộc và nên thực tập mỗi ngày. Sau hai mươi mốt ngày thực tập liên tiếp sẽ trở thành một thói quen, mỗi khi có những cảm xúc lớn như thế chúng ta sẽ nhớ mà ứng dụng. Còn nếu chúng ta không thực tập, thì khi cảm xúc đến, chúng ta quên mất, chúng ta không thực tập, trừ trường hợp là có một người bạn nhắc cho. Này anh này chị, chị đang bị cảm xúc lớn đó hãy thực tập cái bài kệ quay về nương tựa hải đảo tự thân đi. Có một người bạn tu cũng đỡ lắm trong trường hợp mình quên, người bạn tu đó sẽ nhắc nhỡ mình.

Một khi an trú, ẩn náo ở hải đảo tự thân thì mình yên ổn vô cùng và đừng tưởng là  hải đảo đó nằm ở ngoài, nó nằm ngay ở trong ta. Đức Thế Tôn đã hiến tặng cho chúng ta bài thuyết pháp đó, hải đảo đó. Tại vì ngài biết rằng sau khi ngài tịch diệt thì sẽ có một số đệ tử cảm thấy bơ vơ, khóc lóc không nơi nương tựa, cho nên ngài trao truyền hải đảo cho chúng ta trước khi ngài qua đời. Đức Thế Tôn rất là từ bi. Khi chúng ta làm được rồi thì chúng ta phải lập tức trao truyền phương pháp đó cho những người thân, những chàng trai, cô gái chưa biết phương pháp đối xử với những cảm xúc, nhất là những cảm xúc mạnh. Một người đi tự tử là tại vì người đó không có khả năng đối phó được, xử lý được cảm xúc của mình. Vì vậy cho nên tôi nghĩ rằng trong tương lai pháp môn này nên được dạy trong các trường học. Các thầy giáo, cô giáo, các giáo sư nên nắm được phương pháp này.  Phương pháp này tuy là phát xuất từ đạo Phật nhưng có giá trị phổ biến cho mọi người. Người Công giáo, Tin Lành, Do Thái, người Cộng sản …bất cứ ai cũng có thể thực tập được. Khi chúng ta trao được pháp môn này cho những người trẻ, chúng ta cứu được mạng sống của người đấy, vì người trẻ thế nào cũng sẽ trãi qua những cơn cảm xúc mạnh. Nếu người đó có được pháp môn thì người đó có thể thực tập để vượt qua những cơn cảm xúc như thế. Bây giờ tôi xin mời các thầy, các sư cô, các đạo hữu cùng nhau hát cái bài đó để mọi người được thuộc.

(Đại chúng cùng hát ):

Quay về nương tựa,
Hải đảo tự thân,
Chính niệm là Bụt,
Soi sáng xa gần,
Hơi thở là Pháp,
Bảo hộ thân tâm,
Năm uẩn là Tăng,
Phối hợp tinh cần,
Thở vào thở ra,
Là hoa tươi mát,
Là núi vững vàng,
Nước tĩnh lặng chiếu,
Không gian thênh thang.

Xin cảm ơn đại chúng, xin nhắc lại là bài kệ đó chúng ta có thể tìm thấy trong sách Nhật tụng thiền môn năm 2000 hay là Nghi thức tụng niệm đại toàn. Chúng ta nên học thuộc. Mỗi khi mà chúng ta lâm vào tình trạng khó khăn, khó xử, không biết làm gì thì chúng ta lập tức nắm lấy cái bài kệ đó mà thực tập với hơi thở của mình. Ví dụ như trên máy bay mà mình nghe báo tin là có không tặc và máy bay có thể nổ bất cứ lúc nào thì cố nhiên mọi người sẽ cuống lên, sẽ lo lắng và hốt hoảng. Chúng ta có thể chết trong sự hốt hoảng đó. Cái hốt hoảng đó có thể gây xáo trộn. Có thể là chúng ta không chết nhưng mà  vì chúng ta hốt hoảng cho nên chúng ta vọng động và gây ra tình trạng xáo động khiến cho an ninh không có. Nếu tôi ngồi trên máy bay mà nghe báo tin là có không tặc và máy bay sẽ có thể nổ bằng một trái bom thì điều mà tôi sẽ làm ngay trong lúc đó là trở về với hơi thở để thực tập theo bài này. Tôi sẽ làm mẫu mực cho những người khác, những người khác thấy tôi rất là yên tĩnh, rất là trầm tĩnh họ có thể bắt chước được tôi, họ trầm tĩnh. Và  sự trầm tĩnh nó sẽ giúp cho tình trạng rất nhiều. Nếu có chết thì tôi sẽ chết trong tâm trạng bình an. Còn chết trong tình trạng hoảng hốt sợ hãi thì chúng ta sẽ không có tiếp nối đẹp được.

 

Chết không phải là sự chấm dứt

Chết trong đạo Phật không phải là sự chấm dứt, chết trong đạo Phật là một sự thay đổi, thay hình đổi dạng như là nước chè ở trong cái cốc này của tôi. Nếu quý vị nhìn cho kỹ nước chè ở trong cái cốc này thì quý vị có thể thấy được cái tiền thân của nó, cái kiếp trứơc của nó. Kiếp trước của nó là một đám mây bay trên trời và một lúc nào đó đám mây đã trở thành mưa và mưa rơi xuống và mình đã có nước để làm chè. Vậy thì đám mây làm sao mà chết được, đám mây không có thể nào từ có mà trở thành không, đám mây chỉ có thể trở thành mưa trở thành tuyết, trở thành nước đá, đám mây không có thể nào trở thành không được. Vì vậy cho nên mỗi khi uống trà, tôi thường đem cái tâm của tôi về để uống trà, tôi thấy rõ ràng là tôi đang uống mây, tôi đang tiếp xúc với mây, tôi thấy mây ở trong nước trà. Con người chúng ta được làm bằng những yếu tố căn bản mà ngày xưa gọi là tứ đại.

Tứ đại tức là đất, nước không khí và sức nóng. Trong ta nếu không có sức nóng thì không thể nào có sự sống, một người mà không có hơi ấm là người đó chết rồi.

Trong ta có không khí, tại vì dưỡng khí nuôi tế bào trong cơ thể. Vì vậy khi thở,  chúng ta đem dưỡng khí đi vào cơ thể để nuôi và để lọc. Như vậy có sự giao lưu giữa không khí ở trong ta và không khí ở ngoài ta.

Khi uống nước thì ta đưa đám mây, đưa nước vào trong cơ thể. Trong cơ thể chúng ta cũng có nước, mười mấy lít máu ở trong ta tức là nước và luôn luôn có sự giao lưu giữa nước ở bên ngoài và nước ở bên trong. Hơi ấm cũng vậy, đất cũng vậy. Trong ta có chất đất và chúng ta sau khi chết cũng sẽ thành đất. Mỗi ngày ăn uống, chúng ta đưa đất vào. Đất, nước, lửa, gió có ở trong ta, có ở ngoài ta và nó có sự giao lưu của bốn đại ở trong ta và ở ngoài ta. Đức Thế Tôn dạy mỗi khi mà chúng ta đi đứng nằm ngồi, chúng ta phải ý thức được về bốn đại đó ở trong ta, ở ngoài ta và thấy được sự giao lưu giữa ta và thế gian chung quanh ta. Chúng ta phải làm thế nào để thấy được sự liên hệ mật thiết giữa ta với  môi trường.

 

Tu tập góp phần xây dựng xã hội

Trong kinh Kim Cương chúng ta được học rằng con người được làm bằng những yếu tố không phải là người. Chúng ta biết rằng con người là một sinh vật xuất hiện trên trái đất rất là trể so với các cái sinh vật khác. Ở trên trái đất, con người là sinh vật mới xuất hiện rất là trể. Nhưng con người có một khối óc và con người đã chi phối, làm thay đổi bộ mặt của trái đất rất nhiều. Chúng ta có hạt giống của thương yêu của hiểu biết của tha thứ của bao dung của hạnh phúc nhưng chúng ta không có cơ hội tưới tẩm những hạt giống đó nhiều trong đời sống hàng ngày. Trái lại chúng ta tưới tẩm những hạt giống của sự tham lam, giận dữ, buồn phiền, cạnh tranh ở trong ta. Cho nên chúng ta đã tàn phá môi trường sinh sống. Chúng ta đã làm ô nhiễm sông hồ biển cả, chúng ta đã làm ô nhiễm không khí, chúng ta đã làm ô nhiễm đất và chúng ta đã gây ra sự tiêu diệt của nhiều chủng loài ở trên trái đất này. Có những đám mây khi mưa xuống thì chúng ta không thể nào uống được. Những đám mây đó đầy bụi bặm, nó những chất độc hóa học, mưa axít. Có biết bao nhiêu khu rừng ở trên thế giới đã bị tàn phá bởi những cơn mưa có chất  axít. Chúng ta đã lạm dụng khai thác, phá hủy nhiều khu rừng. Đất nước chúng ta xinh đẹp, màu xanh rất nhiều, nhưng  màu xanh đó tới đầu thế kỷ 21 còn lại rất ít. Chúng ta khai thác thiên nhiên quá nhiều, lạm dụng quá nhiều và chính chúng ta đã gây ra những thiên tai như lụt lội, bão tố.

Chúng ta làm cho trái đất càng ngày càng khó ở và con cháu chúng ta sau này sẽ phải khổ đau tại vì ngày hôm nay chúng ta ham hố tiêu thụ quá nhiều. Chúng ta sống hối hả, chúng ta cứ nghĩ rằng càng có nhiều tiền thì càng hạnh phúc, càng tiêu thụ nhiều thì càng hạnh phúc. Trong khi đó thì chúng ta rất là khổ đau vì những tâm hành của chúng ta: lo lắng ganh tị, sợ hãi.

Có những cặp vợ chồng, có những gia đình mà trong đó mà cha mẹ không có nói chuyện với nhau được, cha không có nói chuyện được với con, mẹ không có nói chuyện được với con. Chúng ta không có hạnh phúc trong gia đình, chúng ta nói với nhau những lời không có dịu dàng, không có tình nghĩa, chúng ta làm khổ nhau. Người trẻ cảm thấy không có niềm tin ở hạnh phúc gia đình, người trẻ đi tìm khuây khỏa bên ngoài và lọt vào cái bẫy sập của ma túy, của bạo động, của băng đảng, của mãi dâm. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, kinh tế thì những tệ nạn xã hội xuất hiện rất nhiều trong xã hội chúng ta.

Lãnh đạo nhà nước có ý rất hay khi thành lập những ấp văn hóa, những thôn văn hóa, những khu phố văn hóa nhầm xây dựng những thôn ấp không có những tệ nạn xã hội như là ma túy, mãi dâm, bạo động, tội phạm, tham nhũng. Nhưng liệu chúng ta có đủ phương tiện để mà thành công trong sự thành lập những cái khu phố, những cái thôn ấp văn hóa đó hay không? Chúng ta ngăn ngừa sự phát triển của những tệ nạn xã hội đó được không hay là chúng ta đang bất lực?  Những phương pháp mà nhà nước sử dụng trước hết là kiểm soát và trừng phạt. Nhưng kiểm soát và trừng phạt không đủ để mà tạo nên những khu phố, những thôn ấp văn hóa. Chúng ta phải cần tới sự tu tập, chúng ta cần phải tu tập như thế nào mà chúng ta giúp được cho vợ có thể nói chuyện lại được với chồng, cha có thể nói chuyện lại được với con và đem lại hạnh phúc trong gia đình. Đó là bổn phận của chúng ta, những người con Phật, những người xuất gia và những người tại gia. Chúng ta phải đóng góp vào sự nghiệp xây dựng  xã hội, đất nước bằng cách tu tập của chúng ta.

 

Quyền lực và hạnh phúc

Chúng ta đừng có nghĩ rằng chỉ có tiền bạc, chỉ có danh vọng, chỉ có địa vị xã hội mới đem lại hạnh phúc mà thôi. Trên bước đường hoằng hóa, tôi đã gặp biết bao nhiêu người có tiền rất nhiều có uy thế rất là nhiều, có quyền năng rất là nhiều. Nhưng mà những người đó phần lớn đều không có hạnh phúc. Tôi đã gặp những người tỷ phú rất là cô đơn, rất là tuyệt vọng và có những người tự tử.

Vì vậy chúng ta đừng có quá tin rằng khi nào chúng ta chỉ có hạnh phúc khi nào chúng ta có nhiều tiền và nhiều quyền lực. Quyền lực thì có ai nhiều bằng tổng thống George W Bush của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có một nền kinh tế hùng mạnh. Hoa kỳ có một quân đội rất là hùng mạnh và vũ khí rất tối tân. Tổng thống Hoa Kỳ là người có quyền lực nhiều nhất ở trên thế giới. Nhưng mà nhìn cho kỹ thì thấy rằng con người của tổng thống Bush hiện bây giờ không phải là con người có hạnh phúc. Chúng ta hãy nhìn cuộc chiến tranh Iraq. Nước Mỹ hiện bây giờ đang bị kẹt vào Iraq, rút quân ra cũng không được mà tiếp tục đánh cũng không được. Khạc không ra mà nuốt cũng không vào. Tôi nghĩ rằng tổng thống Bush không thể nào ngủ ngon được. Làm sao mà ngủ ngon trong khi ngày nào, đêm nào cũng có những thanh niên Hoa Kỳ đang chết ở bên đó. Làm sao ngủ ngon được khi thấy rằng vì sự can thiệp của mình mà hiện bây giờ có sự chia rẽ trầm trọng giữa những người Iraq với nhau và sắp có nội chiến. Vì vậy cho nên có uy quyền mà lạm dụng cái uy quyền đó thì gây khổ đau cho chính bản thân mình, cho chính đất nước mình và cho đất nước người khác. Cho nên cần phải tu, cần phải thực tập mới được. Chúng ta làm cha, chúng ta có uy quyền của người cha. Nếu chúng ta lạm dụng uy quyền người cha thì chúng ta gây khổ đau cho những đứa con của chúng ta. Chúng ta làm thầy, chúng ta lạm dụng uy quyền của vị thầy, chúng ta làm khổ cho chúng ta và làm khổ cho đệ tử chúng ta. Uy quyền cũng như  tiền bạc có thể bị lạm dụng và gây khổ đau. Vì vậy cho nên mỗi người phải có một chiều hướng tâm linh, một chiều hướng đạo đức và đó là vấn đề tu tập. Khi chúng tôi mở ra những khóa tu tập cho người Âu châu và người Mỹ châu thì có rất nhiều giới tới tham dự, trong đó có các giới doanh thương, các dân biểu quốc hội, các giới y sĩ, giáo chức... Chúng tôi có mở một khóa tu cho những người cảnh sát ở bên Hoa Kỳ. Lý do là vì trong một khóa tu của chúng tôi ở Hoa Kỳ có một đại úy cảnh sát tới tham dự và vị này cảm thấy rất  hào hứng khi tiếp nhận được pháp môn tu. Vị này khi mới đi làm cảnh sát thì có lý tưởng rất là đẹp, muốn đem lại an ninh hòa bình cho dân. Nhưng đi vào nghề cảnh sát thì mới thấy rõ rằng thực hiện lý tưởng đó rất là khó. Tại vì chính ngay những người cảnh sát trong đội của mình và thượng cấp của mình không có an lạc, không có hạnh phúc. Làm sao một người không có an, không có lạc mà có thể đem lại an lạc cho những người khác? Những cuộc nghiên cứu thống kê cho biết rằng số lượng người cảnh sát Hoa Kỳ dùng súng của mình để tự tử nó nhiều hơn số cảnh sát bị bắn bởi những người trong băng đảng, những tội phạm. Tại vì đời sống của những người cảnh sát đó rất là bất an, rất nhiều sợ hãi, bực bội. Quý vị cứ tưởng tượng đi, nếu mình là người cảnh sát mà mình bị du côn băng đảng tội phạm nó bắn thì không nói gì, nhưng mà ở đây mình tự bắn mình bằng  súng của chính mình. Thì phải biết rằng trong họ có biết bao nhiêu là căng thẳng, bất an. Cho nên trong khóa đó chúng ta cũng giảng dạy cho những người cảnh sát biết phương pháp thở vào thở ra, đi những bước khoan thai chậm rãi làm lắng dịu những căng thẳng trong thân và trong tâm của họ.

            Vị đại úy cảnh sát tới tu với chúng tôi cảm thấy rằng những pháp môn tu của đạo Phật rất là lợi lạc, đem lại sự thư giản an lạc cho bản thân. Cho nên vị đó đã yêu cầu chúng tôi mở một khóa tu dành riêng cho những người cảnh sát Hoa Kỳ ở tiểu bang Wisconsin. Chúng tôi cũng có mở một khoá tu cho dân biểu quốc hội Hoa Kỳ. Và trước khi mở khóa tu chúng tôi tìm hiểu đời sống của một dân biểu quốc hội Hoa Kỳ thì chúng tôi biết rằng  trong đời sống hàng ngày của một người dân biểu quốc hội cũng  có rất là nhiều căng thẳng, có rất là nhiều khó khăn bức xúc. Vì vậy chúng tôi đã trao truyền cho họ những  phương pháp thực tập để giúp họ tháo gỡ những căng thẳng, khó khăn đó. Họ đã thực tập hết lòng, tại vì trong đời sống mà thiếu một  chiều hướng tâm linh thì sẽ không biết cách tháo gỡ khó khăn trong nội tâm của mình, trong nội thân của mình. Các nhà chính trị các nhà doanh thương, các nhà giáo chức, tất cả đều có những sự căng thẳng, bức xúc, những cái băn khoăn lo lắng của mình. Vì vậy họ đều cần có một chiều hướng tâm linh. Khi đến với đạo Phật, chúng ta có thể tiếp nhận được những giáo lý, những phương pháp tu tập để giúp cho chúng ta đứng vững được và tháo gỡ được những khó khăn đó.

Quý vị có thể tưởng tượng được có những dân biểu quốc hội Hoa Kỳ đang thực tập đi từng bước thảnh thơi. Có một dân biểu Hoa Kỳ mấy tháng sau khi kết thúc khóa thực tập của chúng tôi tổ chức tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã viết thư báo tin lâu nay từ văn phòng của ông đi tới phòng bỏ phiếu, thì ông luôn luôn áp dụng phương pháp thiền hành của thầy dạy, tức là mỗi bước chân ý thức không suy nghĩ, để hết tâm trạng vào gan bàn chân và bước những bước thảnh thơi. Việc này giúp cho ông ta rất nhiều, ngưng được sự suy nghĩ sự tính toán, đi được từng bước thảnh thơi, tâm trí ông có cơ hội nghỉ ngơi và bớt căng thẳng. Ông có thể suy nghĩ minh mẫn hơn và có thể thiết kế được dể dàng hơn những  chương trình trong tương lai.

Chúng tôi đã tùng mở những các khóa tu tập cho các giới doanh thương. Một khóa ở bên Đức, một khóa ở bên Pháp, một khóa ở bên Mỹ. Các nhà doanh thương luôn luôn nghĩ tới tương lai, nghĩ tới sự thành công của mình. Vì vậy cho nên đêm ngày cứ lo lắng làm thế nào để cho mình thành công trong sự nghiệp doanh thương của mình. Không có thì giờ để sống cho bản thân, không có thì giờ để thương yêu và chăm sóc những người thương trong gia đình mình. Vì vậy cho nên họ cần một phép tu để có thể tháo gỡ được những khó khăn của họ.

Có một thương gia tên là Federic, người Đức, ông ta thành công trong  doanh nghiệp của mình. Nhưng doanh nghiệp của ông ta nó giống như một nhà độc tài, nó  chiếm hữu tất cả thì giờ và năng lượng của ông ta. Tại vì ông ta cũng muốn thành công như bất cứ một nhà doanh nghiệp nào khác. Ông ta không có thì giờ để thở giống như ông tổng thống Nam Phi, không có thì giờ để chăm sóc cho gia đình. Ngày bà vợ của ông tên là Claudia đưa con trai là Philip vào nhà thương để giải phẩu tim thì ông không về được với con. Cuộc giải phẩu kéo dài bảy giờ đồng hồ trong bao nhiêu là lo lắng của người vợ. Vậy mà Federic không về được và ngay đến khi Claudia, vợ ông vào bệnh viện để mổ bướu thì Federic cũng không về được. Nhiều đêm Claudia khóc nói rằng anh không có thì giờ cho em và cho các con, thì Federic nói rằng em và các con phải đợi. Tại vì hiện giờ trong doanh nghiệp không có ai có thể thay thế được anh. Anh sẽ sắp đặt để một ngày nào đó anh có thì giờ cho em và cho con. Và Claudia rất là cô đơn, rất là buồn tủi. Nhà thì không thiếu gì tiền bạc nhưng mà vẫn khổ đau như thường. Claudia mới nghĩ tới đi học để lấy thêm một cái bằng tiến sĩ nữa về tâm lý học, làm nhà tâm lý trị liệu giúp cho những người có bệnh tâm thần, nghĩ rằng khi mình làm công việc từ thiện đó thì sẽ khuây khỏa nhưng cuối cùng cũng không khuây khỏa được. Mình có chồng như là không có chồng, các con có cha cũng như là không có cha. Tại vì người kia hoàn toàn bị thu hút bởi  doanh nghiệp.

Quý vị tưởng tượng buổi ăn sáng mọi người hấp tấp vội vã ăn sáng để những đứa con đi học và để người chồng đi làm việc thì ông chồng thay vì có thì giờ nhìn vợ, nhìn con thì đưa tờ báo lên để xem thử thị trường chứng khoán đang lên hay xuống như thế nào. Tờ báo che lấp người thân của mình. Chúng ta có câu ca dao: Núi cao chi lắm núi ơi. Che khuất mặt trời chẳng thấy người thương. Cái này không phải là cái núi che lấp người thương mà là tờ báo.  Tờ báo đó chính là ngọn núi che khuất những người thương của mình. Khi nào anh chọn được người thay thế thì anh sẽ có thì giờ cho em và cho các con. Lời hứa đó không bao giờ thực hiện được. Tại vì vào năm năm mươi mốt tuổi thì Federic lâm vào một  tai nạn xe hơi và chết. Claudia đã đến khóc với chúng tôi, kể lại câu chuyện đó và Claudia nói rằng chỉ trong vòng ba hôm là người ta tìm ra được một vị giám đốc mới chứ không như ông ta nghĩ rằng mình là người duy nhất có thể điều khiển được doanh nghiệp.

Ở thành phố Hồ Chí Minh tôi có hướng dẫn một ngày tu cho giới doanh nhân ở thành phố và vùng phụ cận. Có vào khoảng sáu bảy trăm vị doanh nhân tới để tu học một ngày với chúng tôi. Chúng tôi có kể câu chuyện này cho họ nghe và các doanh nhân ngày hôm đó đã thực tập thở để trở về giây phút hiện tại, chăm sóc tự thân, tập đi từng bước thanh thản mà an trú trong giây phút hiện tại.

 

Hiện pháp lạc trú : An trú trong giây phút hiện tại.

Ngày xưa có một doanh nhân đệ tử của Đức Phật tên là Cấp Cô Độc. Ông ta thành công lắm trong doanh nghiệp của mình nhưng ông ta không đến nỗi bị cuốn hút vào tương lai như là Federic. Ông có thì giờ đi nghe Phật thuyết pháp mỗi ngày rằm, mỗi ngày mùng một. Ông đưa các con và vợ tới nghe Phật thuyết pháp và cả gia đình tu tập theo đạo Phật. Gia đình đó là một gia đình doanh thương có hạnh phúc. Ông là người đã cúng dường cho Đức Thế tôn một sở đất mà ông mua được của thái tử Kỳ Đà để làm tu viện Cấp Cô Độc. Ông rất hạnh phúc mỗi khi tiếp xúc được với Phật với Pháp và với Tăng. Mỗi khi nói tới Phật là ông sáng mắt ra. Có một hôm ông đem năm trăm vị thương gia bạn tới hầu thăm Đức Thế Tôn. Trước hết họ tới thăm thầy Xá Lợi Phất. Tại vì cư sĩ Cấp Cô Độc là một người rất là thân với thầy Xá Lợi Phất. Cư sĩ Cấp Cô Độc tên thật là Sudatta và cái tên Anathapindika là Cấp Cô Độc là cái mỹ danh mà dân trong nước tặng cho ông ta vì ông ta để thì giờ ra lo lắng cứu trợ cho những người neo đơn tật bệnh nghèo khổ. Cấp Cô Độc có nghĩa là cấp dưỡng cho người neo đơn, cô độc ở trong xã hội. Ông ta được dân trong nước rất là thương và tặng cho ông cái mỹ hiệu Cấp Cô Độc. Ông là một người đệ tử thân tín của Đức Thế Tôn.

Đạo Phật không có cấm người ta làm giàu, nhưng nếu giàu có, có uy quyền mà không có đạo đức thì có thể lạm dụng uy quyền đó, tiền bạc đó để gây khổ đau cho mình và cho những người khác. Cấp Cô Độc không phải là một người như thế. Ông có rất nhiều lòng từ bi và có đạo tâm rất lớn. Vì vậy cho nên đời sống rất là hạnh phúc và gia đình cũng hạnh phúc lắm. Hôm đó thầy Xá Lợi Phất mới đưa năm trăm vị thương gia tới để gặp Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn có cho một bài thuyết pháp, mà bài thuyết pháp này là nói riêng cho những doanh nhân. Ngài nói rằng là không có cần phải nghĩ rằng trong tương lai mình mới có hạnh phúc, mình có thể có hạnh phúc ngay trong  giây phút hiện tại, đừng đánh mất mình trong tương lai. Trong bài thuyết pháp đó nó có một cái cụm từ là hiện pháp lạc trú. Hiện pháp lạc trú là sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Đức Thế Tôn đã dạy cho các doanh nhân phương pháp sống có hạnh phúc trong giây phút hiện tại mà đừng có đánh mất mình trong tương lai. Tiếng Hán là hiện pháp lạc trú, tiếng Việt là sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Tại vì trong giây phút hiện tại mình đã có đủ những điều kiện để có hạnh phúc rồi, không có cần phải nhiều điều kiện khác nữa. Trong bài thuyết pháp đó, Đức Thế Tôn dạy nếu quý vị biết thực tập tam quy và năm giới là quý vị có thể sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại. Cụm từ hiện pháp lạc trú đã được Đức Thế Tôn lặp lại tới năm lần trong kinh đó. Tôi đã dịch kinh đó với  tựa đề Kinh người áo trắng. Người áo trắng tức là người cư sĩ tại gia. Nếu quý vị muốn đọc kinh đó thì quý vị thỉnh về cuốn sách Để có một tương lai do nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn ấn hành, trong đó có bài kinh đó. Tôi đã chú thích, diển giải về kinh đó phương pháp sống an lạc hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại để có một tương lai.

Tôi là một người có niềm tin rất sâu sắc nơi Đức Thế Tôn và nơi giáo pháp của ngài. Cho nên tôi quyết áp dụng những phương pháp mà Đức Thế Tôn dạy. Ngồi trên xe hơi, ngồi trên xe lửa, tôi thực tập quay về với hơi thở và an trú trong giây phút hiện tại. Đi đâu tôi cũng bước từng bước chân thảnh thơi không bao giờ gấp gáp, tôi thực tập hết lòng  phương pháp hiện pháp lạc trú. Tôi không gấp gáp, tôi không  phóng tâm về tương lai, tôi không bị quá khứ giam hãm. Tôi tiếp xúc được trong sự sống hàng ngày với những mầu nhiệm của sự sống. Những mầu nhiệm đó nó nuôi dưỡng tôi, nó chữa trị cho tôi và tôi là một người có hạnh phúc. Tuy là tôi đi chậm từng bước thảnh thơi nhưng mà tôi đi rất nhiều nước, tôi đi đã trên bốn mươi nước. Vì vậy không có nghĩa là đi nhanh là mình đi xa đâu. Ngày xưa Đức Thế Tôn đi bộ thôi, ngài không bao giờ đi máy bay, hay xe hơi hay xe buýt. Ngài đã lưu lại dấu chân của ngài trong lưu vực sông Hằng mười mấy nước. Tôi đã tìm cách để tiếp nối sự nghiệp của ngài. Tôi đã đi nhiều nước trên thế giới và tới đâu tôi cũng đặt những bước chân nhẹ nhàng thảnh thơi an lạc. Tôi đã khuyên mọi người cùng làm như thế.

 Tôi mong rằng quý vị trong đại chúng hôm này thấy được rằng chúng ta không cần phải hối hả, chúng ta đừng bị cái tập khí, cái thói quen đi như bị ma đuổi nó thúc đậy. Chúng ta hãy nắm lấy  phương pháp thực tập hơi thở và bước chân để sống chậm lại một chút nhưng chúng ta có thể sống được những giây phút thật sâu sắc của đời sống hàng ngày. Chúng ta phải có thì giờ, có mặt trong giây phút hiện tại để chăm sóc cho bản thân, bản tâm, để có thì giờ mà chăm sóc và thương yêu những người trong gia đình, những người trong cộng đồng chúng ta. Nếu chúng ta hối hả theo mọi người thì chúng ta sẽ không làm được việc đó. Tôi xin tiếp tục câu chuyện này trong bài pháp thoại ngày mai tám giờ rưởi. Xin cảm ơn quý vị đã lắng nghe.

 

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.