Kính thưa các vị khách quý, kính thưa chư tôn đức và chư Phật
tử.
Chúng tôi rất ý thức là đang được ngồi ở trên mảnh đất linh
thiêng này của tổ đình Trung Hậu, một mảnh đất đã sản xuất ra
biết bao nhiêu vị cao tăng soi đường dẫn lối tâm linh cho
chúng ta. Chúng tôi rất hạnh phúc được góp phần vào sự nghiệp
của liệt vị tổ sư xuất phát từ tổ đình Trung Hậu. Các thầy và
các sư cô trong phái đoàn làng Mai sẽ cử xướng danh hiệu của
đức Bồ Tát Quan Thế Âm bằng tiếng Phạn
Nam
mô Avalokitesvara.
Trước đó các thầy, các sư cô sẽ cử xướng bài Tào Khê.
Ước
hẹn với sự sống trong phút giây hiện tại…
Kính thưa các vị khách quý, kính thưa các vị tôn đức, các thầy
các sư cô và các Phật tử cư sĩ.
Chúng ta thường tạc tượng đức bản sư ngồi trên một đóa sen.
Trên thực tế, làm sao mình ngồi trên một đóa sen được. Ngồi
trên đóa sen thì đóa sen sẽ bẹp dí. Nhưng đóa sen là hình ảnh
của sự tươi mát, thong dong, tinh khiết và thảnh thơi. Đức bản
sư ngồi bất cứ ở đâu, trên một gốc cây, bên bờ sông hoặc giữa
một bãi cỏ thì ngài vẫn ngồi thong dong, an ổn, tươi mát. Vì
vậy các nghệ nhân đã tạc tượng ngài ngồi trên một đóa sen.
Chúng ta là những người đệ tử của ngài, chúng ta gọi ngài là
thầy gốc (bản sư) thì chúng ta phải học cách ngồi của
thầy. Ngồi ở đâu chúng ta cũng phải ngồi cho thảnh thơi, tươi
mát, bình an. Tôi đang tập ngồi như ngài và tôi rất mong quý
vị cũng đang ngồi thảnh thơi như ngài. Chúng ta nên ngồi trên
một tòa sen mà đừng nên ngồi trên một đống lửa.
Có người trong chúng ta không ngồi yên được, chúng ta không
ngồi yên được tại vì chúng ta đang ngồi trên một đống lửa.
Chúng ta có những lo âu, sợ hãi những toan tính, những sầu khổ
và cái đó không cho phép chúng ta ngồi yên như Đức Thế Tôn
trên một tòa sen. Ngồi yên - an tọa - là một nghệ thuật
mà chúng ta phải học mới làm được. Tôi nhớ khi tổng thống Nam
Phi là ông Nelson Mandela viếng thăm cộng hòa Pháp, tổng thống
François Mitterrand
đã tiếp ông và báo chí đã hỏi ông nhiều câu, trong đó có một
câu rất là đặc biệt. Thưa tổng thống, tổng thống cho chúng tôi
biết là tổng thống ưa làm cái gì nhất, thích cái gì nhất. Tổng
thống Mandela đã trả lời như thế này: cái mà tôi thích
nhất, tôi muốn nhất bây giờ là được ngồi yên khỏi phải làm gì
hết. Tại vì ngày tôi được phóng thích ra nhà tù, tiếp nhận cái
chức vụ làm tổng thống tôi chưa bao giờ có cơ hội được ngồi
yên, luôn luôn bận rộn, luôn luôn có những căng thẳng đau
nhức. Khi tôi đọc bản tin đó ở trên nhật báo thì tôi có
suy nghĩ. Tôi nói rằng giả dụ tổng thống Nam Phi có ba ngày
hay là bảy ngày để ông ta có thể ngồi yên thì chưa chắc ông đã
ngồi yên được. Ngồi yên không phải là chuyện dể, ngồi yên phải
thực tập mới được. Đức bản sư Thích Ca Mâu Ni có thể làm được.
Bất cứ ở đâu ngài cũng ngồi yên và ngồi trong một tư thế rất
là thoải mái, rất là thong dong, không lo lắng, không sầu khổ.
Ngài không bao giờ ngồi trên một đống lửa. Nhiều người trong
chúng ta đã quen ngồi trên đống lửa và bất an, chúng ta phải
tập làm thế nào để ngồi như là thầy của chúng ta. Tôi mong
rằng trong giây phút hiện tại tất cả quý vị cũng đang ngồi
trên một tòa sen mà đừng ngồi trên một đống lửa. Ngồi được
trên tòa sen thì tự nhiên có hạnh phúc. Chúng ta hãy dừng lại
những tiếc nuối, những sầu khổ về quá khứ, những lo lắng những
toan tính về tương lai để có thể có mặt đích thức trong giây
phút hiện tại. Nếu chúng ta có thể buông bỏ được những cái đó
thì chúng ta bắt đầu có khả năng ngồi yên. Ngồi yên trong giây
phút hiện tại chúng ta có thể tiếp xúc được với những cái mầu
nhiệm của sự sống đang có mặt trong giây phút hiện tại như là
trời xanh mây trắng, chim hót, thông reo hoa nở và các bạn tu
đang ngồi chung quanh ta và các thầy các sư cô đang ngồi chung
với ta trong pháp hội này.
Đức Thế Tôn có dạy là đừng tìm về quá khứ, đừng lo lắng
tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa đến, kẻ
thức giả an trú vững chãi và thảnh thơi trong giây phút hiện
tại. Chúng ta có ước hẹn với sự sống trong giây phút hiện
tại. Tại vì sự sống chỉ có thể có mặt được trong giây phút
hiện tại, quá khứ đã qua mà tương lai chưa tới, chỉ có giây
phút hiện tại mới có sự sống thôi. Mà nếu chúng ta không có
trở về được, an trú được trong giây phút hiện tại thì chúng ta
đánh mất hẹn ước của chúng ta đối với sự sống. Tôi có viết một
cuốn sách được dịch ra nhiều thứ tiếng mà cái nhan đề của nó
là
Ước
hẹn với sự sống.
Trong đạo Phật chúng ta có nhiều phương pháp để trở về với
giây phút hiện tại mà tiếp xúc với sự sống, trong đó có
phép thở. Mỗi hơi thở, thở vào hay thở ra nó đem cái tâm
của chúng ta trở về với cái thân và tự khắc chúng ta có mặt
được trong giây phút hiện tại. Hoặc là mỗi bước chân trong khi
thực tập đi thiền hành, thiền hành tức là đi từng bước
mà đi thảnh thơi an lạc như là một con người vô sự. Ngày xưa
Đức Thế tôn, thầy của chúng ta đã đi như thế, ngài đi rất
nhiều nước trong lưu vực sông Hằng và đi tới đâu ngài cũng để
lại cái dấu chân thảnh thơi an lạc tới đó. Thầy đi như thế đó
thì học trò, đệ tử cũng phải học để đi được như thế đó. Mỗi
bước chân có ý thức nó đem mình trở về lại với giây phút hiện
tại để cho mình tiếp xúc với sự sống.
Phần lớn chúng ta đi như bị ma đuổi. Chúng ta nóng nảy đi về
tương lai, chúng ta cứ tin rằng hạnh phúc không có thể có mặt
được trong giây phút hiện tại, hạnh phúc họa may chỉ có mặt
trong tương lai. Vì vậy cho nên hầu hết chúng ta đều bương
chải đi về tương lai dẫm lên trên hiện tại mà đi. Về nước sau
bốn mươi năm xa cách, tôi có cảm tưởng là người Việt chúng ta
đang sống một cách hối hả, gấp gáp. Cứ đi vào các thành phố
lớn mà xem cái cách người ta lái xe thì đủ biết là người nào
cũng vội vã, người nào cũng muốn đi cho mau tới. Phóng nhanh,
vượt ẩu, chèn ép, bóp còi inh ỏi. Ngoài đường không có đủ an
ninh cho tất cả mọi người, tai nạn giao thông rất là nhiều.
Tại vì chúng ta sống quá hối hả, chúng ta không biết sống an
lạc hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại.
Ở làng Mai bên Pháp chúng tôi có pháp môn gọi là thiền lái
xe.
Thiền lái xe nghĩa là lái xe trong tư thái thiền. Lái xe mà
không gấp gáp, lái xe để hết tâm ý mình vào trong việc lái xe.
Lái xe như thế nào để có an lạc có hạnh phúc ngay trong khi
lái xe. Khi gặp đèn đỏ thì không bực mình, hoặc là gặp kẹt xe
thì cũng không bực mình, mà biết trở về với hơi thở. Thở
vào tâm tỉnh lặng, thở ra mỉm miệng cười. Mỗi khi tới ngã
tư, mà có đèn đỏ thì ta nhìn đèn đỏ như là một tiếng chuông
chính niệm giúp chúng ta đem tâm trở về với thân, an trú trong
giây phút hiện tại, mỉm cười và thở ra thở vào như thế nào để
có sự thư giản để có sự thanh tịnh trong cái bản thân của
mình. Không cần hối hả muốn cho cái đèn đỏ nó trở thành đèn
xanh. Cái đèn đỏ trở thành ra một vị thiện tri thức, giúp cho
chúng ta dừng lại. Nó giúp cho chúng ta đem tâm trở về với
thân và sống được những giây phút an lạc thoải mái khi chúng
ta ngừng xe lại.
Xin mời đại chúng cùng thở với chúng tôi trong vòng nửa phút
theo tiếng chuông cho thoải mái:
Thở vào tôi biết là sự sống đang có mặt trong tôi và chung
quanh tôi. Thở ra, tôi đang mỉm cười tiếp xúc với sự sống mầu
nhiệm.
Đạo Phật là một kho tuệ giác.
Thực tập theo đạo Phật, chúng ta có những phương pháp để giúp
cho thân và tâm có được sự yên ổn, có được hạnh phúc. Chúng ta
có danh từ an lạc. An có nghĩa là yên ổn và lạc có
nghĩa là hạnh phúc. Chúng ta biết rằng khi mà thân không an và
tâm không an thì hạnh phúc không thể nào có được. Vì vậy cho
nên Đức Thế Tôn đã cống hiến cho chúng ta biết bao nhiêu phép
tu để làm cho cái thân an và tâm an. Những phương pháp như hơi
thở có chính niệm, ngồi thoải mái, đi thiền là những phương
pháp rất hiệu nghiệm có thể đem tâm trở về với thân, có thể
tháo gỡ những căng thẳng, làm lắng dịu những căng thẳng trong
thân và trong tâm. Trong kinh An ban thủ ý, tức
là kinh ở trong đó Phật dạy về mười sáu phương pháp thở, chúng
ta thấy có những bài tập rất hay, có tác dụng làm lắng dịu
những căng thẳng, đau nhức trong thân cũng như làm lắng dịu
những khổ đau, những lo lắng, những sợ hãi ở trong tâm của
mình.
Đạo Phật không phải chỉ là một tôn giáo bái sám cúng dường,
cầu nguyện. Đạo Phật còn là một kho tuệ giác. Nếu chúng
ta chọc thủng được cái vỏ tín ngưỡng tôn giáo thì chúng ta có
thể tiếp xúc được với kho tàng tuệ giác của đạo Phật. Khi có
được kho tàng tuệ giác đạo Phật đó, đem vào áp dụng thì chúng
ta có thể tháo gỡ được những khó khăn trong đời sống hàng
ngày, những khó khăn trong bản thân ta, những lo lắng sầu khổ,
nghi kị, giận hờn tuyệt vọng. Vì vậy cho nên thực tập rất là
quan trọng. Trong Phật giáo chữ học không có
nghĩa như là chữ học ở ngoài đời. Trong đạo Phật chữ học có
nghĩa là thực tập, nó được dịch từ chữ sicsa. Cái học
ở ngoài đời là cái học chất chứa kiến thức. Trong đạo Phật chữ
học nó có nghĩa là thực tập. Những người nào mà thực tập xong
rồi, thành công rồi thì gọi là các
bậc vô học. Ở ngoài đời vô học tức là không có học thức. Trong
văn học Phật giáo vô học có nghĩa là đã thực tập xong
rồi và những người đang còn phải thực tập gọi là hữu học.
Thành ra chúng ta phải để ý lắm về sự khác nhau giữa những
danh từ trong đạo Phật và ngoài đời.
Quá trình thực tập của chúng ta là văn tư và
tu. Lắng nghe, học hỏi đó là văn. Chữ văn đạo trong
Phật tương đương với chữ văn ở ngoài đời. Chúng ta phải học
hỏi giáo pháp xong chúng ta mới đem ra chiêm nghiệm gọi
là tư, chiêm nghiệm làm sao áp dụng vào đời sống hàng
ngày được gọi là tư. Cái thứ ba là tu. tu tức là đem áp dụng
ngay vào trong đời sống hàng ngày. Chữ học trong đạo Phật nó
gồm có ba yếu tố đó là văn tư và tu. Nghe tiếp nhận giáo lý,
chiêm nghiệm và áp dụng ngay vào đời sống hàng ngày, cái đó
gọi là học.
Quay về nương tựa hải đảo tự thân
Có những lúc trong đời sống hàng ngày chúng ta cảm thấy bơ vơ
lạc lỏng, lo lắng sợ hãi không biết làm gì. Chúng ta bị những
tâm tư đó kéo đi. Chúng ta trở thành nạn nhân của những lo
lắng sầu khổ, bực tức nghi kị đó. Nó kéo đi, chúng ta không
làm chủ thân tâm chúng ta được. Trong trạng thái đó, chúng ta
có thể có những lời nói và những hành động đưa tới đổ vỡ. Bên
Pháp, mỗi ngày có chừng ba mươi lăm thanh niên thiếu nữ tự tử,
bên Anh còn nhiều hơn, tôi nói mỗi ngày, ở bên Mỹ còn nhiều
hơn bên Pháp nữa. Tại vì người thanh niên có những khổ đau,
những bức xúc, có những sợ hãi, lo lắng, những tuyệt vọng mà
không biết cách xử lý, không biết cách chuyển hóa. Họ nghĩ
rằng chỉ có chết là mới hết khổ thôi. Vì vậy cho nên những
người trẻ đó đã kết liểu đời mình, rất là tội nghiệp. Trong
đạo Phật có những pháp môn rất là thần diệu để đối phó với
những tâm hành như là lo lắng sợ hãi, ganh tị buồn phiền, bất
an. Là đệ tử của Đức Thế Tôn, chúng ta phải học cho được, phải
nắm cho được những phương pháp đó, đem ra thực tập trong đời
sống hàng ngày.
Trong những phương pháp Đức Thế Tôn dạy, có phương pháp gọi là
quay về nương tựa hải đảo tự thân mà hồi nãy một sư cô
đã dạy cho đại chúng hát.
Hồi đó Đức Thế tôn đã tám mươi tuổi và mùa xuân năm đó ngài ở trong thành phố Vaisali phía
Bắc sông Hằng, một thành phố rất đẹp. Ngài bị ốm nặng tưởng
chết. Thị giả là thầy Anan rất lo lắng cho ngài. Thầy Anan
thấy thầy mình ốm quá nặng, nguy hiểm đến tính mạng cho nên
thầy hay đi ra ngoài rừng khóc. Nếu mà thầy mình mất đi thì
mình không có chỗ nương tựa. Thầy Anan còn trẻ . Nhưng Đức Thế
Tôn đã dùng định lực của ngài để vượt qua cơn bệnh. Ngài biết
rằng ngài chỉ có thể sống thêm được độ chừng ba bốn tháng nữa
thôi. Ngài muốn trở về quê hương để viên tịch. Quê hương ngài
là ở thành Kapilavatthu ở miền Bắc. Trước khi lên đường, ngài
đi thăm các đạo tràng đã được thành lập xung quanh thành phố
Vaisali. Có những đạo tràng có nhiều thầy đang tu tập chung,
nhiều sư cô đang tu tập chung. Ngài ghé thăm các thầy các sư
cô các Phật tử và ngài căn dặn họ những điều cuối cùng mà ngài
muốn căn dặn. Trong những điều căn dặn đó, ngài có dạy pháp
môn quay về nương tựa hải đảo tự thân. Ngài biết rằng
sau khi ngài tịch rồi thì học trò của ngài sẽ cảm thấy bơ vơ
không có nơi nương tựa, cho nên ngài muốn họ có một nơi nương
tựa.
Nơi nương tựa đó là một hòn đảo. Hòn đảo đó nằm ở trong trái
tim mình. Tiếng Pali là Attadipa, Atta là tự thân, dipa là hải
đảo, attadipa là hải đảo tự thân. Thế kỷ thứ tư các thầy dịch
từ tiếng Phạn ra chữ Hán là tự châu. Tự
tức là tự thân, châu tức là hải đảo. “Nhữ đẳng tỳ
khưu đương tự châu”: này các thầy tỳ khưu các vị nên quay
về nương tựa nơi cái hải đảo tự thân của mình.
Khi mà chúng ta đem tâm trở về với thân và chúng ta thực tập
hơi thở có chính niệm thì chúng ta tiếp xúc được với Tam Bảo:
với Bụt với Pháp với Tăng với tất cả tổ tiên tâm linh và huyết
thống của chúng ta ngay trong trái tim của chúng ta. Đó là một
hải đảo an toàn nhất. Mỗi khi chúng ta bơ vơ, mỗi khi chúng ta
lo lắng, chúng ta sợ hãi, chúng ta phải lập tức sử dụng hơi
thở có ý thức, bước chân có ý thức để trở về trong cái hải đảo
tự thân đó. Hải đảo đó nó không có nằm ngoài chúng ta, nó nằm
trong tự thân chúng ta.
Hải đảo là gì? Hải đảo là một nơi mà sóng gió không thể nào
cuốn đi được. Nếu thuyền chúng ta gặp tai nạn mà chúng ta gặp
một hải đảo thì chúng ta có thể nương tựa vào hải đảo. Chúng
ta buộc thuyền vào bến và chúng ta leo lên hải đảo thì sóng
gió sẽ không làm gì được chúng ta. Nhưng hải đảo này nó không
phải là ở ngoài biển mà nó ở trong tâm của chúng ta. Bất cứ ai
trong chúng ta cũng có khi lâm vào tình trạng lo lắng bơ vơ,
lạc lỏng, tuyệt vọng. Những lúc đó mà nếu chúng ta không biết
thực tập thì chúng ta đau khổ. Đau khổ quá chúng ta có thể
nghĩ đến cái chuyện tự tử. Tôi nghe nói rằng số người trẻ ở
Việt
Nam tự tử bắt đầu tăng lên rất là nhiều. Có khi các cháu mới
mười sáu mười bảy tuổi đang học trung học, các cháu rủ nhau ra
bốn đứa, năm đứa nhảy xuống sông tự tử. Tại vì các cháu có
những khó khăn với bố mẹ, với gia đình, rất là tội nghiệp. Nếu
mà các cháu đó đi chùa, được thầy, được sư cô dạy cho phương
pháp quay về nương tựa hải đảo tự thân thì các cháu có thể
vượt thoát được những khủng hoảng đó ở trong tâm. Vì vậy cho
nên chúng ta phải nắm cho được phương pháp này để thực tập cho
chính mình và giúp cho những người thân của mình nhất là những
người trẻ, để họ có thể vượt thắng được những trường hợp nguy
hiểm như thế.
Mỗi khi có bão, nhìn qua cửa sổ chúng ta thấy cây cối trong
vườn lay động rất mạnh. Khi nhìn lên ngọn cây, chúng ta thấy
ngọn cây nghiêng ngả và chúng ta có cảm tưởng rằng cây có thể
gãy bất cứ lúc nào, có thể bay đi bất cứ lúc nào. Nhưng khi
nhìn xuống gốc cây thì chúng ta có cảm giác an toàn hơn, vì
chúng ta biết rằng cây này khá vững, nó có nhiều gốc rễ đâm
sâu xuống lòng đất, cây này có thể đứng vững được trong cơn
bão. Con người của chúng ta cũng vậy, thân với tâm liên hệ với
nhau. Mỗi khi có một cơn bão lo lắng sầu khổ tuyệt vọng
thì chúng ta phải biết cách tự bảo hộ. Nếu chúng ta tiếp tục
tư duy, lo lắng suy nghĩ, tức là chúng ta để tâm chúng ta ở
trên bình diện của óc thì nguy hiểm hơn nhiều. Tại vì càng suy
nghĩ chúng ta càng đau buồn, sợ hãi. Những lúc đó nên ngừng
suy nghĩ và đem tâm đi xuống dưới huyệt đan điền (ngay dưới
rốn), chỗ đó là cái gốc của chúng ta, còn trên này là cái ngọn
cây. Khi chúng ta đem tâm xuống dưới gốc cây và ôm lấy gốc
cây, chúng ta sẽ có cảm tưởng an toàn. Chúng ta thực tập thở
bụng. Thở vào ta thấy bụng phình lên và thở ra ta thấy bụng
xẹp xuống. Quý vị hãy thử để cái tay ở trên bụng mình mà xem
và khi mà mình thở vào thì cái bụng mình nó phồng lên. Tại vì
không khí đi vào phổi và phổi căng lên.
Không khí đi xuống và vì vậy bụng ta phồng lên. Khi thở ra thì
không khí đi ra và bụng xẹp xuống trở lại. Khi có một cảm xúc
lớn như sợ hãi, tuyệt vọng,
lo lắng thì chúng ta phải trở về để thực tập phương pháp thở
bụng. Không có suy nghĩ gì hết, đừng suy nghĩ mà đem hết tâm
tư để ý vào sự phồng lên và xẹp xuống của bụng của mình.
Thở vào bụng tôi đang phồng lên, thở ra bụng tôi đang xẹp
xuống. Và cứ như thế mà thực tập thì có thể là trong năm
phút hay mười phút cơn cảm xúc đi qua và chúng ta sẽ an toàn.
Thở trong chính niệm là một trong những phương pháp quay về
nương tựa hải đảo tự thân.
Nương tựa
trong danh từ Phật học là quy y. Quy y tức là quay về và tìm
nơi trú ẩn, quy tức là quay về, y tức là nương tựa tìm nơi
trú ẩn. Nơi trú ẩn đó không phải ở ngoài, nơi trú ẩn đó
nó nằm ở trong. Cái đó ở trong kinh gọi là Attadipa tức
là hải đảo tự thân. Mỗi người đều có hải đảo đó và mỗi khi gặp
những cuộc khủng hoảng tinh thần chúng ta phải theo hơi
thở theo bước chân trở về với hải đảo đó và tiếp tục thực tập
hơi thở. Hơi thở đó chúng ta có thể thực tập theo cái bài kệ
mà chúng ta mới vừa học sáng nay:
Quay về nương tựa, hải đảo tự thân,
Chánh niệm là Bụt, soi sáng xa gần,
Hơi thở là Pháp, bảo hộ thân tâm,
Năm uẩn là Tăng, phối hợp tinh cần,
Thở vào thở ra,
Là hoa tươi mát,
Là núi vững vàng,
Nước tỉnh lặng chiếu,
Không gian thênh thang.
Thực tập theo bài đó cho đến khi cảm xúc nó ngưng lại thì
chúng ta sẽ thoát. Chúng ta nên nhớ một điều là cảm xúc chỉ
là cảm xúc thôi. Con người chúng ta nó gồm có năm yếu tố là
sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Lãnh thổ của bản thân chúng
ta rất là bao la, sắc thọ tưởng hành thức. Sắc tức là hình hài
của ta, thọ tức là những cảm giác của chúng ta, tưởng tức là
tri giác, hành tức là những tâm tư của chúng ta và thức là
nhận thức của chúng ta. Nó rất lớn và cảm xúc nó chỉ là một
cái tâm hành nhỏ thôi. Cảm xúc mạnh là một cơn bão và một cơn
bão thì lâu lâu nó tới một lần, ở lại một thời gian thôi và
thế nào nó cũng đi. Tại sao mình phải chết vì một cái cảm xúc?
Phải nhớ điều đó và phải thực tập. Nếu quý vị thực tập mỗi
ngày theo bài quay về nương tựa, hải đảo tự thân, thở
theo bụng đó thì nội trong ba tuần nó trở thành thói quen, một
tập khí tốt. Mỗi ngày đều nên thực tập thở như thế và sau đó
mỗi khi có cảm xúc lớn như sợ hãi, tuyệt vọng, bơ vơ thì mình
nhớ trở về hải đảo tự thân của mình. Quý vị sẽ có an toàn,
quý vị sẽ điều phục được những cảm xúc lớn và quý vị sẽ không
bao giờ làm như những chàng thanh niên, những cô thiếu nữ kia
vì không có chịu đựng được cảm xúc cho nên mới phải đi tự tử.
Khi làm được rồi, thoát được cảm xúc rồi thì quý vị an tâm.
Quý vị có niềm tin, nói rằng kỳ sau cảm xúc lớn này trở lại
thì ta đã có phương pháp đối phó rồi. Vì vậy cho nên quý vị có
cái vô úy không lo sợ nữa. Cho nên trong khoảng hai mươi mốt
ngày, mỗi ngày nên thực tập mười lăm, hai mươi phút phương
pháp thở bụng, quay về nương tựa hải đảo tự thân. Bài này có ở
trong sách Nhật tụng thiền môn năm 2000 và sách Nghi
thức tụng niệm đại toàn do nhà xuất bản tôn giáo ấn hành.
chúng ta nên học thuộc và nên thực tập mỗi ngày. Sau hai mươi
mốt ngày thực tập liên tiếp sẽ trở thành một thói quen, mỗi
khi có những cảm xúc lớn như thế chúng ta sẽ nhớ mà ứng dụng.
Còn nếu chúng ta không thực tập, thì khi cảm xúc đến, chúng ta
quên mất, chúng ta không thực tập, trừ trường hợp là có một
người bạn nhắc cho. Này anh này chị, chị đang bị cảm xúc
lớn đó hãy thực tập cái bài kệ quay về nương tựa hải đảo tự
thân đi. Có một người bạn tu cũng đỡ lắm trong trường hợp
mình quên, người bạn tu đó sẽ nhắc nhỡ mình.
Một khi an trú, ẩn náo ở hải đảo tự thân thì mình yên ổn vô
cùng và đừng tưởng là hải đảo đó nằm ở ngoài, nó nằm ngay ở
trong ta. Đức Thế Tôn đã hiến tặng cho chúng ta bài thuyết
pháp đó, hải đảo đó. Tại vì ngài biết rằng sau khi ngài tịch
diệt thì sẽ có một số đệ tử cảm thấy bơ vơ, khóc lóc không nơi
nương tựa, cho nên ngài trao truyền hải đảo cho chúng ta trước
khi ngài qua đời. Đức Thế Tôn rất là từ bi. Khi chúng ta làm
được rồi thì chúng ta phải lập tức trao truyền phương pháp đó
cho những người thân, những chàng trai, cô gái chưa biết
phương pháp đối xử với những cảm xúc, nhất là những cảm xúc
mạnh. Một người đi tự tử là tại vì người đó không có khả năng
đối phó được, xử lý được cảm xúc của mình. Vì vậy cho nên tôi
nghĩ rằng trong tương lai pháp môn này nên được dạy trong các
trường học. Các thầy giáo, cô giáo, các giáo sư nên nắm được
phương pháp này. Phương pháp này tuy là phát xuất từ đạo Phật
nhưng có giá trị phổ biến cho mọi người. Người Công giáo, Tin
Lành, Do Thái, người Cộng sản …bất cứ ai cũng có thể thực tập
được. Khi chúng ta trao được pháp môn này cho những người trẻ,
chúng ta cứu được mạng sống của người đấy, vì người trẻ thế
nào cũng sẽ trãi qua những cơn cảm xúc mạnh. Nếu người đó có
được pháp môn thì người đó có thể thực tập để vượt qua những
cơn cảm xúc như thế. Bây giờ tôi xin mời các thầy, các sư cô,
các đạo hữu cùng nhau hát cái bài đó để mọi người được thuộc.
(Đại chúng cùng hát ):
Quay về nương tựa,
Hải đảo tự thân,
Chính niệm là Bụt,
Soi sáng xa gần,
Hơi thở là Pháp,
Bảo hộ thân tâm,
Năm uẩn là Tăng,
Phối hợp tinh cần,
Thở vào thở ra,
Là hoa tươi mát,
Là núi vững vàng,
Nước tĩnh lặng chiếu,
Không gian thênh thang.
Xin cảm ơn đại chúng, xin nhắc lại là bài kệ đó chúng ta có
thể tìm thấy trong sách Nhật tụng thiền môn năm 2000
hay là Nghi thức tụng niệm đại toàn. Chúng ta nên học
thuộc. Mỗi khi mà chúng ta lâm vào tình trạng khó khăn, khó
xử, không biết làm gì thì chúng ta lập tức nắm lấy cái bài kệ
đó mà thực tập với hơi thở của mình. Ví dụ như trên máy bay mà
mình nghe báo tin là có không tặc và máy bay có thể nổ bất cứ
lúc nào thì cố nhiên mọi người sẽ cuống lên, sẽ lo lắng và hốt
hoảng. Chúng ta có thể chết trong sự hốt hoảng đó. Cái hốt
hoảng đó có thể gây xáo trộn. Có thể là chúng ta không chết
nhưng mà vì chúng ta hốt hoảng cho nên chúng ta vọng động và
gây ra tình trạng xáo động khiến cho an ninh không có. Nếu tôi
ngồi trên máy bay mà nghe báo tin là có không tặc và máy bay
sẽ có thể nổ bằng một trái bom thì điều mà tôi sẽ làm ngay
trong lúc đó là trở về với hơi thở để thực tập theo bài này.
Tôi sẽ làm mẫu mực cho những người khác, những người khác thấy
tôi rất là yên tĩnh, rất là trầm tĩnh họ có thể bắt chước được
tôi, họ trầm tĩnh. Và sự trầm tĩnh nó sẽ giúp cho tình trạng
rất nhiều. Nếu có chết thì tôi sẽ chết trong tâm trạng bình
an. Còn chết trong tình trạng hoảng hốt sợ hãi thì chúng ta sẽ
không có tiếp nối đẹp được.
Chết không phải là sự chấm dứt
Chết trong đạo Phật không phải là sự chấm dứt, chết trong đạo
Phật là một sự thay đổi, thay hình đổi dạng như là nước chè ở
trong cái cốc này của tôi. Nếu quý vị nhìn cho kỹ nước chè ở
trong cái cốc này thì quý vị có thể thấy được cái tiền thân
của nó, cái kiếp trứơc của nó. Kiếp trước của nó là một đám
mây bay trên trời và một lúc nào đó đám mây đã trở thành mưa
và mưa rơi xuống và mình đã có nước để làm chè. Vậy thì đám
mây làm sao mà chết được, đám mây không có thể nào từ có mà
trở thành không, đám mây chỉ có thể trở thành mưa trở thành
tuyết, trở thành nước đá, đám mây không có thể nào trở thành
không được. Vì vậy cho nên mỗi khi uống trà, tôi thường đem
cái tâm của tôi về để uống trà, tôi thấy rõ ràng là tôi đang
uống mây, tôi đang tiếp xúc với mây, tôi thấy mây ở trong nước
trà. Con người chúng ta được làm bằng những yếu tố căn bản mà
ngày xưa gọi là tứ đại.
Tứ đại tức là đất, nước không khí và sức nóng. Trong ta
nếu không có sức nóng thì không thể nào có sự sống, một người
mà không có hơi ấm là người đó chết rồi.
Trong ta có không khí, tại vì dưỡng khí nuôi tế bào trong cơ
thể. Vì vậy khi thở, chúng ta đem dưỡng khí đi vào cơ thể để
nuôi và để lọc. Như vậy có sự giao lưu giữa không khí ở trong
ta và không khí ở ngoài ta.
Khi uống nước thì ta đưa đám mây, đưa nước vào trong cơ thể.
Trong cơ thể chúng ta cũng có nước, mười mấy lít máu ở trong
ta tức là nước và luôn luôn có sự giao lưu giữa nước ở bên
ngoài và nước ở bên trong. Hơi ấm cũng vậy, đất cũng vậy.
Trong ta có chất đất và chúng ta sau khi chết cũng sẽ thành
đất. Mỗi ngày ăn uống, chúng ta đưa đất vào. Đất, nước, lửa,
gió có ở trong ta, có ở ngoài ta và nó có sự giao lưu của bốn
đại ở trong ta và ở ngoài ta. Đức Thế Tôn dạy mỗi khi mà chúng
ta đi đứng nằm ngồi, chúng ta phải ý thức được về bốn đại đó ở
trong ta, ở ngoài ta và thấy được sự giao lưu giữa ta và thế
gian chung quanh ta. Chúng ta phải làm thế nào để thấy được sự
liên hệ mật thiết giữa ta với môi trường.
Tu tập góp phần xây dựng xã hội
Trong kinh Kim Cương chúng ta được học rằng con người được làm
bằng những yếu tố không phải là người. Chúng ta biết rằng con
người là một sinh vật xuất hiện trên trái đất rất là trể so
với các cái sinh vật khác. Ở trên trái đất, con người là sinh
vật mới xuất hiện rất là trể. Nhưng con người có một khối óc
và con người đã chi phối, làm thay đổi bộ mặt của trái đất rất
nhiều. Chúng ta có hạt giống của thương yêu của hiểu biết của
tha thứ của bao dung của hạnh phúc nhưng chúng ta không có cơ
hội tưới tẩm những hạt giống đó nhiều trong đời sống hàng
ngày. Trái lại chúng ta tưới tẩm những hạt giống của sự tham
lam, giận dữ, buồn phiền, cạnh tranh ở trong ta. Cho nên chúng
ta đã tàn phá môi trường sinh sống. Chúng ta đã làm ô nhiễm
sông hồ biển cả, chúng ta đã làm ô nhiễm không khí, chúng ta
đã làm ô nhiễm đất và chúng ta đã gây ra sự tiêu diệt của
nhiều chủng loài ở trên trái đất này. Có những đám mây khi mưa
xuống thì chúng ta không thể nào uống được. Những đám mây đó
đầy bụi bặm, nó những chất độc hóa học, mưa axít. Có biết bao
nhiêu khu rừng ở trên thế giới đã bị tàn phá bởi những cơn mưa
có chất axít. Chúng ta đã lạm dụng khai thác, phá hủy nhiều
khu rừng. Đất nước chúng ta xinh đẹp, màu xanh rất nhiều,
nhưng màu xanh đó tới đầu thế kỷ 21 còn lại rất ít. Chúng ta
khai thác thiên nhiên quá nhiều, lạm dụng quá nhiều và chính
chúng ta đã gây ra những thiên tai như lụt lội, bão tố.
Chúng ta làm cho trái đất càng ngày càng khó ở và con cháu
chúng ta sau này sẽ phải khổ đau tại vì ngày hôm nay chúng ta
ham hố tiêu thụ quá nhiều. Chúng ta sống hối hả, chúng ta cứ
nghĩ rằng càng có nhiều tiền thì càng hạnh phúc, càng tiêu thụ
nhiều thì càng hạnh phúc. Trong khi đó thì chúng ta rất là khổ
đau vì những tâm hành của chúng ta: lo lắng ganh tị, sợ hãi.
Có những cặp vợ chồng, có những gia đình mà trong đó mà cha mẹ
không có nói chuyện với nhau được, cha không có nói chuyện
được với con, mẹ không có nói chuyện được với con. Chúng ta
không có hạnh phúc trong gia đình, chúng ta nói với nhau những
lời không có dịu dàng, không có tình nghĩa, chúng ta làm khổ
nhau. Người trẻ cảm thấy không có niềm tin ở hạnh phúc gia
đình, người trẻ đi tìm khuây khỏa bên ngoài và lọt vào cái bẫy
sập của ma túy, của bạo động, của băng đảng, của mãi dâm. Cùng
với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, kinh tế thì những tệ nạn
xã hội xuất hiện rất nhiều trong xã hội chúng ta.
Lãnh đạo nhà nước có ý rất hay khi thành lập những ấp văn hóa,
những thôn văn hóa, những khu phố văn hóa nhầm xây dựng những
thôn ấp không có những tệ nạn xã hội như là ma túy, mãi dâm,
bạo động, tội phạm, tham nhũng. Nhưng liệu chúng ta có đủ
phương tiện để mà thành công trong sự thành lập những cái khu
phố, những cái thôn ấp văn hóa đó hay không? Chúng ta ngăn
ngừa sự phát triển của những tệ nạn xã hội đó được không hay
là chúng ta đang bất lực? Những phương pháp mà nhà nước sử
dụng trước hết là kiểm soát và trừng phạt. Nhưng kiểm soát và
trừng phạt không đủ để mà tạo nên những khu phố, những thôn ấp
văn hóa. Chúng ta phải cần tới sự tu tập, chúng ta cần phải tu
tập như thế nào mà chúng ta giúp được cho vợ có thể nói chuyện
lại được với chồng, cha có thể nói chuyện lại được với con và
đem lại hạnh phúc trong gia đình. Đó là bổn phận của chúng ta,
những người con Phật, những người xuất gia và những người tại
gia. Chúng ta phải đóng góp vào sự nghiệp xây dựng xã hội,
đất nước bằng cách tu tập của chúng ta.
Quyền lực và hạnh phúc
Chúng ta đừng có nghĩ rằng chỉ có tiền bạc, chỉ có danh vọng,
chỉ có địa vị xã hội mới đem lại hạnh phúc mà thôi. Trên bước
đường hoằng hóa, tôi đã gặp biết bao nhiêu người có tiền rất
nhiều có uy thế rất là nhiều, có quyền năng rất là nhiều.
Nhưng mà những người đó phần lớn đều không có hạnh phúc. Tôi
đã gặp những người tỷ phú rất là cô đơn, rất là tuyệt vọng và
có những người tự tử.
Vì vậy chúng ta đừng có quá tin rằng khi nào chúng ta chỉ có
hạnh phúc khi nào chúng ta có nhiều tiền và nhiều quyền lực.
Quyền lực thì có ai nhiều bằng tổng thống George W Bush của
Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có một nền kinh tế hùng mạnh. Hoa kỳ có một
quân đội rất là hùng mạnh và vũ khí rất tối tân. Tổng thống
Hoa Kỳ là người có quyền lực nhiều nhất ở trên thế giới. Nhưng
mà nhìn cho kỹ thì thấy rằng con người của tổng thống Bush
hiện bây giờ không phải là con người có hạnh phúc. Chúng ta
hãy nhìn cuộc
chiến tranh Iraq. Nước Mỹ hiện bây giờ đang bị kẹt vào Iraq,
rút quân ra cũng không được mà tiếp tục đánh cũng không được.
Khạc không ra mà nuốt cũng không vào. Tôi nghĩ rằng
tổng thống Bush không thể nào ngủ ngon được. Làm sao mà ngủ
ngon trong khi ngày nào, đêm nào cũng có những thanh niên Hoa
Kỳ đang chết ở bên đó. Làm sao ngủ ngon được khi thấy rằng vì
sự can thiệp của mình mà hiện bây giờ có sự chia rẽ trầm trọng
giữa những người Iraq với nhau và sắp có nội chiến. Vì vậy cho
nên có uy quyền mà lạm dụng cái uy quyền đó thì gây khổ đau
cho chính bản thân mình, cho chính đất nước mình và cho đất
nước người khác. Cho nên cần phải tu, cần phải thực tập mới
được. Chúng ta làm cha, chúng ta có uy quyền của người cha.
Nếu chúng ta lạm dụng uy quyền người cha thì chúng ta gây khổ
đau cho những đứa con của chúng ta. Chúng ta làm thầy, chúng
ta lạm dụng uy quyền của vị thầy, chúng ta làm khổ cho chúng
ta và làm khổ cho đệ tử chúng ta. Uy quyền cũng như tiền bạc
có thể bị lạm dụng và gây khổ đau. Vì vậy cho nên mỗi người
phải có một chiều hướng tâm linh, một chiều hướng đạo đức và
đó là vấn đề tu tập. Khi chúng tôi mở ra những khóa tu tập cho
người Âu châu và người Mỹ châu thì có rất nhiều giới tới tham
dự, trong đó có các giới doanh thương, các
dân biểu quốc hội, các giới y sĩ, giáo chức... Chúng tôi có mở
một khóa tu cho những người cảnh sát ở bên Hoa Kỳ. Lý do là vì
trong một khóa tu của chúng tôi ở Hoa Kỳ có một đại
úy
cảnh sát tới tham dự và vị này cảm thấy rất hào hứng khi tiếp
nhận được pháp môn tu. Vị này khi mới đi làm cảnh sát thì có
lý tưởng rất là đẹp, muốn đem lại an ninh hòa bình cho dân.
Nhưng đi vào nghề cảnh sát thì mới thấy rõ rằng thực hiện lý
tưởng đó rất là khó. Tại vì chính ngay những người cảnh sát
trong đội của mình và thượng cấp của mình không có an lạc,
không có hạnh phúc. Làm sao một người không có an, không có
lạc mà có thể đem lại an lạc cho những người khác? Những cuộc
nghiên cứu thống kê cho biết rằng số lượng người cảnh sát Hoa
Kỳ dùng súng của mình để tự tử nó nhiều hơn số cảnh sát bị bắn
bởi những người trong băng đảng, những tội phạm. Tại vì đời
sống của những người cảnh sát đó rất là bất an, rất nhiều sợ
hãi, bực bội. Quý vị cứ tưởng tượng đi, nếu mình là người cảnh
sát mà mình bị du côn băng đảng tội phạm nó bắn thì không nói
gì, nhưng mà ở đây mình tự bắn mình bằng súng của chính mình.
Thì phải biết rằng trong họ có biết bao nhiêu là căng thẳng,
bất an. Cho nên trong khóa đó chúng ta cũng giảng dạy cho
những người cảnh sát biết phương pháp thở vào thở ra, đi những
bước khoan thai chậm rãi làm lắng dịu những căng thẳng trong
thân và trong tâm của họ.
Vị đại
úy
cảnh sát tới tu với chúng tôi cảm thấy rằng những pháp môn tu
của đạo Phật rất là lợi lạc, đem lại sự thư giản an lạc cho
bản thân. Cho nên vị đó đã yêu cầu chúng tôi mở một khóa tu
dành riêng cho những người cảnh sát Hoa Kỳ ở tiểu bang
Wisconsin. Chúng tôi cũng có mở một khoá tu cho dân biểu quốc
hội Hoa Kỳ. Và trước khi mở khóa tu chúng tôi tìm hiểu đời
sống của một dân biểu quốc hội Hoa Kỳ thì chúng tôi biết rằng
trong đời sống hàng ngày của một người dân biểu quốc hội cũng
có rất là nhiều căng thẳng, có rất là nhiều khó khăn bức xúc.
Vì vậy chúng tôi đã trao truyền cho họ những phương pháp thực
tập để giúp họ tháo gỡ những căng thẳng, khó khăn đó. Họ đã
thực tập hết lòng, tại vì trong đời sống mà thiếu một chiều
hướng tâm linh thì sẽ không biết cách tháo gỡ khó khăn trong
nội tâm của mình, trong nội thân của mình. Các nhà chính trị
các nhà doanh thương, các nhà giáo chức, tất cả đều có những
sự căng thẳng, bức xúc, những cái băn khoăn lo lắng của mình.
Vì vậy họ đều cần có một chiều hướng tâm linh. Khi đến với đạo
Phật, chúng ta có thể tiếp nhận được những giáo lý, những
phương pháp tu tập để giúp cho chúng ta đứng vững được và tháo
gỡ được những khó khăn đó.
Quý vị có thể tưởng tượng được có những dân biểu quốc hội Hoa
Kỳ đang thực tập đi từng bước thảnh thơi. Có một dân biểu Hoa
Kỳ mấy tháng sau khi kết thúc khóa thực tập của chúng tôi tổ
chức tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã viết thư báo tin lâu nay từ
văn phòng của ông đi tới phòng bỏ phiếu, thì ông luôn luôn áp
dụng phương pháp thiền hành của thầy dạy, tức là mỗi bước chân
ý thức không suy nghĩ, để hết tâm trạng vào gan bàn chân và
bước những bước thảnh thơi. Việc này giúp cho ông ta rất
nhiều, ngưng được sự suy nghĩ sự tính toán, đi được từng bước
thảnh thơi, tâm trí ông có cơ hội nghỉ ngơi và bớt căng thẳng.
Ông có thể suy nghĩ minh mẫn hơn và có thể thiết kế được dể
dàng hơn những chương trình trong tương lai.
Chúng tôi đã tùng mở những các khóa tu tập cho các giới doanh
thương. Một khóa ở bên Đức, một khóa ở bên Pháp, một khóa ở
bên Mỹ. Các nhà doanh thương luôn luôn nghĩ tới tương lai,
nghĩ tới sự thành công của mình. Vì vậy cho nên đêm ngày cứ lo
lắng làm thế nào để cho mình thành công trong sự nghiệp doanh
thương của mình. Không có thì giờ để sống cho bản thân, không
có thì giờ để thương yêu và chăm sóc những người thương trong
gia đình mình. Vì vậy cho nên họ cần một phép tu để có thể
tháo gỡ được những khó khăn của họ.
Có một thương gia tên là Federic, người Đức, ông ta thành công
trong doanh nghiệp của mình. Nhưng doanh nghiệp của ông ta nó
giống như một nhà độc tài, nó chiếm hữu tất cả thì giờ và
năng lượng của ông ta. Tại vì ông ta cũng muốn thành công như
bất cứ một nhà doanh nghiệp nào khác. Ông ta không có thì giờ
để thở giống như ông tổng thống Nam Phi, không có thì giờ để
chăm sóc cho gia đình.
Ngày
bà vợ của ông tên là Claudia đưa con trai là Philip vào nhà
thương để giải phẩu tim thì ông không về được với con. Cuộc
giải phẩu kéo dài bảy giờ đồng hồ trong bao nhiêu là lo lắng
của người vợ. Vậy mà Federic không về được và ngay đến khi
Claudia, vợ ông vào bệnh viện để mổ bướu thì Federic cũng
không về được. Nhiều đêm Claudia khóc nói rằng anh không có
thì giờ cho em và cho các con, thì Federic nói rằng em và các
con phải đợi. Tại vì hiện giờ trong doanh nghiệp không có ai
có thể thay thế được anh. Anh sẽ sắp đặt để một ngày nào đó
anh có thì giờ cho em và cho con. Và Claudia rất là cô đơn,
rất là buồn tủi. Nhà thì không thiếu gì tiền bạc nhưng mà vẫn
khổ đau như thường. Claudia mới nghĩ tới đi học để lấy thêm
một cái bằng tiến sĩ nữa về tâm lý học, làm nhà tâm lý trị
liệu giúp cho những người có bệnh tâm thần, nghĩ rằng khi mình
làm công việc từ thiện đó thì sẽ khuây khỏa nhưng cuối cùng
cũng không khuây khỏa được. Mình có chồng như là không có
chồng, các con có cha cũng như là không có cha. Tại vì người
kia hoàn toàn bị thu hút bởi doanh nghiệp.
Quý vị tưởng tượng buổi ăn sáng mọi người hấp tấp vội vã ăn
sáng để những đứa con đi học và để người chồng đi làm việc thì
ông chồng thay vì có thì giờ nhìn vợ, nhìn con thì đưa tờ báo
lên để xem thử thị trường chứng khoán đang
lên hay xuống như thế nào. Tờ báo che lấp người thân của mình.
Chúng ta có câu ca dao: Núi cao chi lắm núi ơi. Che khuất
mặt trời chẳng thấy người thương. Cái này không phải là
cái núi che lấp người thương mà là tờ báo. Tờ báo đó chính là
ngọn núi che khuất những người thương của mình. Khi nào anh
chọn được người thay thế thì anh sẽ có thì giờ cho em và cho
các con. Lời hứa đó không bao giờ thực hiện được. Tại vì
vào năm năm mươi mốt tuổi thì Federic lâm vào một tai nạn xe
hơi và chết. Claudia đã đến khóc với chúng tôi, kể lại câu
chuyện đó và Claudia nói rằng chỉ trong vòng ba hôm là người
ta tìm ra được một vị giám đốc mới chứ không như ông ta nghĩ
rằng mình là người duy nhất có thể điều khiển được doanh
nghiệp.
Ở thành phố Hồ Chí Minh tôi có hướng dẫn một ngày tu cho giới
doanh nhân ở thành phố và vùng phụ cận. Có vào khoảng sáu bảy
trăm vị doanh nhân tới để tu học một ngày với chúng tôi. Chúng
tôi có kể câu chuyện này cho họ nghe và các doanh nhân ngày
hôm đó đã thực tập thở để trở về giây phút hiện tại, chăm sóc
tự thân, tập đi từng bước thanh thản mà an trú trong giây phút
hiện tại.
Hiện pháp lạc trú : An trú trong giây phút hiện
tại.
Ngày xưa có một doanh nhân đệ tử của Đức Phật tên là Cấp Cô
Độc. Ông ta thành công lắm trong doanh nghiệp của mình nhưng
ông ta không đến nỗi bị cuốn hút vào tương lai như là Federic.
Ông có thì giờ đi nghe Phật thuyết pháp mỗi ngày rằm, mỗi ngày
mùng một. Ông đưa các con và vợ tới nghe Phật thuyết pháp và
cả gia đình tu tập theo đạo Phật. Gia đình đó là một gia đình
doanh thương có hạnh phúc. Ông là người đã cúng dường cho Đức
Thế tôn một sở đất mà ông mua được của thái tử Kỳ Đà để làm tu
viện Cấp Cô Độc. Ông rất hạnh phúc mỗi khi tiếp xúc được với
Phật với Pháp và với Tăng. Mỗi khi nói tới Phật là ông sáng
mắt ra. Có một hôm ông đem năm trăm vị thương gia bạn tới hầu
thăm Đức Thế Tôn. Trước hết họ tới thăm thầy Xá Lợi Phất. Tại
vì cư sĩ Cấp Cô Độc là một người rất là thân với thầy Xá Lợi
Phất. Cư sĩ Cấp Cô Độc tên thật là Sudatta và cái tên
Anathapindika là Cấp Cô Độc là cái mỹ danh mà dân trong nước
tặng cho ông ta vì ông ta để thì giờ ra lo lắng cứu trợ cho
những người neo đơn tật bệnh nghèo khổ. Cấp Cô Độc có nghĩa là
cấp dưỡng cho người neo đơn, cô độc ở trong xã hội. Ông ta
được dân trong nước rất là thương và tặng cho ông cái mỹ hiệu
Cấp Cô Độc. Ông là một người đệ tử thân tín của Đức Thế Tôn.
Đạo Phật không có cấm người ta làm giàu, nhưng nếu giàu có, có
uy quyền mà không có đạo đức thì có thể lạm dụng uy quyền đó,
tiền bạc đó để gây khổ đau cho mình và cho những người khác.
Cấp Cô Độc không phải là một người như thế. Ông có rất nhiều
lòng từ bi và có đạo tâm rất lớn. Vì vậy cho nên đời sống rất
là hạnh phúc và gia đình cũng hạnh phúc lắm. Hôm đó thầy Xá
Lợi Phất mới đưa năm trăm vị thương gia tới để gặp Đức Thế
Tôn. Đức Thế Tôn có cho một bài thuyết pháp, mà bài thuyết
pháp này là nói riêng cho những doanh nhân. Ngài nói rằng là
không có cần phải nghĩ rằng trong tương lai mình mới có hạnh
phúc, mình có thể có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại,
đừng đánh mất mình trong tương lai. Trong bài thuyết pháp đó
nó có một cái cụm từ là hiện pháp lạc trú. Hiện pháp
lạc trú là sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Đức
Thế Tôn đã dạy cho các doanh nhân phương pháp sống có hạnh
phúc trong giây phút hiện tại mà đừng có đánh mất mình trong
tương lai. Tiếng Hán là hiện pháp lạc trú, tiếng Việt
là sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Tại vì
trong giây phút hiện tại mình đã có đủ những điều kiện để có
hạnh phúc rồi, không có cần phải nhiều điều kiện khác nữa.
Trong bài thuyết pháp đó, Đức Thế Tôn dạy nếu quý vị biết thực
tập tam quy và năm giới là quý vị có thể sống hạnh phúc được
ngay trong giây phút hiện tại. Cụm từ hiện pháp lạc trú đã
được Đức Thế Tôn lặp lại tới năm lần trong kinh đó. Tôi đã
dịch kinh đó với tựa đề Kinh người áo trắng. Người
áo trắng tức là người cư sĩ tại gia. Nếu quý vị muốn đọc kinh
đó thì quý vị thỉnh về cuốn sách Để có một tương lai do
nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn ấn hành, trong đó có bài kinh đó.
Tôi đã chú thích, diển giải về kinh đó phương pháp sống an lạc
hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại để có một tương lai.
Tôi là một người có niềm tin rất sâu sắc nơi Đức Thế Tôn và
nơi giáo pháp của ngài. Cho nên tôi quyết áp dụng những phương
pháp mà Đức Thế Tôn dạy. Ngồi trên xe hơi, ngồi trên xe lửa,
tôi thực tập quay về với hơi thở và an trú trong giây phút
hiện tại. Đi đâu tôi cũng bước từng bước chân thảnh thơi không
bao giờ gấp gáp, tôi thực tập hết lòng phương pháp hiện
pháp lạc trú. Tôi không gấp gáp, tôi không phóng tâm
về tương lai, tôi không bị quá khứ giam hãm. Tôi tiếp xúc được
trong sự sống hàng ngày với những mầu nhiệm của sự sống. Những
mầu nhiệm đó nó nuôi dưỡng tôi, nó chữa trị cho tôi và tôi là
một người có hạnh phúc. Tuy là tôi đi chậm từng bước thảnh
thơi nhưng mà tôi đi rất nhiều nước, tôi đi đã trên bốn mươi
nước. Vì vậy không có nghĩa là đi nhanh là mình đi xa đâu.
Ngày xưa Đức Thế Tôn đi bộ thôi, ngài không bao giờ đi máy
bay, hay xe hơi hay xe buýt. Ngài đã lưu lại dấu chân của ngài
trong lưu vực sông Hằng mười mấy nước. Tôi đã tìm cách để tiếp
nối sự nghiệp của ngài. Tôi đã đi nhiều nước trên thế giới và
tới đâu tôi cũng đặt những bước chân nhẹ nhàng thảnh thơi an
lạc. Tôi đã khuyên mọi người cùng làm như thế.
Tôi mong rằng quý vị trong đại chúng hôm này thấy được rằng
chúng ta không cần phải hối hả, chúng ta đừng bị cái tập khí,
cái thói quen đi như bị ma đuổi nó thúc đậy. Chúng ta hãy nắm
lấy phương pháp thực tập hơi thở và bước chân để sống
chậm lại một chút nhưng chúng ta có thể sống được những giây
phút thật sâu sắc của đời sống hàng ngày. Chúng ta phải có thì
giờ, có mặt trong giây phút hiện tại để chăm sóc cho bản thân,
bản tâm, để có thì giờ mà chăm sóc và thương yêu những người
trong gia đình, những người trong cộng đồng chúng ta. Nếu
chúng ta hối hả theo mọi người thì chúng ta sẽ không làm được
việc đó. Tôi xin tiếp tục câu chuyện này trong bài pháp thoại
ngày mai tám giờ rưởi. Xin cảm ơn quý vị đã lắng nghe.
|