PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

...  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (...  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (...  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

 Nghệ thuật sống thiền :


Chánh niệm, năng lượng chuyển hóa
tuyệt vọng, khổ đau thành niềm tin và hạnh phúc

 

  • Tháng IX 2007 - Chân Giác Lưu & Chân An Tịnh biên tập :
    Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 2.05.2007 tại Câu lạc bộ giao lưu kinh tế - Hà Nội
    Â
    m thanh MP3 : Phần 1 (16.5MB) Phần 2 (15MB) 

Lắng dịu thân tâm

Kính thưa các vị thiện tri thức, kính thưa các vị khách quí,

Trong thiền môn mỗi khi nghe tiếng chuông chúng tôi chấm dứt mọi nói năng, mọi suy nghĩ và trở về với hơi thở, thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười, để cho tâm hợp nhất với thân, để mình có mặt thật sự trong giây phút hiện tại, vì giây phút hiện tại là giây phút mà mình có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống. Trong buổi giao lưu này thỉnh thoảng chúng ta sẽ nghe một tiếng chuông. Khi nghe chuông thì chúng ta ngừng nói, ngừng nghe, ngừng suy nghĩ.  Chúng ta trở về với hơi thở, thở vào và thở ra thật thoải mái 3 lần để đem lại sự thoải mái, nhẹ nhàng và an lạc cho thân tâm.

Tiếng Việt có danh từ an lạc, có thể dịch ra tiếng Anh là peace and happiness. Chúng ta biết rằng nếu không có an thì không thể nào có được lạc. Hạnh phúc sẽ không có được nếu chúng ta không có an. An tức là sự bình yên, sự bình yên  trong cơ thể cũng như sự bình yên trong tâm hồn. Chúng ta biết trong cơ thể có những căng thẳng, đau nhức. Những căng thẳng, đau nhức đó được dồn chứa mỗi ngày. Trên căn đó nhiều cơn bệnh có thể phát sinh. Làm thế nào để thân an là một phép thực tập. Làm thế nào để lấy đi sự căng thẳng đau nhức trong thân.

Trong giáo lý đạo Phật có những phương pháp rất cụ thể giúp chúng ta có thể làm được chuyện đó. Nếu làm lắng dịu được những căng thẳng đau nhức trong thân thì chúng ta cũng có thể làm được như vậy đối với những căng thẳng đau nhức trong tâm. Trong tâm có những khối lo lắng, giận hờn, sợ hãi, tuyệt vọng, bực bội. Chính những năng lượng đó làm cho ta bất an. Khi bất an thì không có lạc. Đạo Phật là một hệ thống dạy cho ta phương pháp làm thế nào đối trị được sự bất an trong thân và trong tâm. Điều này cần đến sự thực tập nhiều hơn là lý luận. Trong văn học Phật giáo chữ học có một nghĩa rất đặc biệt. Chữ học trong đó không có nghĩa là chất chứa những kiến thức do đọc sách hay ngồi trong lớp học. Học ở đây có nghĩa là rèn luyện, thực tập. Chữ học này tiếng Pháp là entrainement, formation, tiếng Anh là training có nghĩa là mình phải thực tập, rèn luyện. Chúng ta biết trong luận ngữ có câu : học nhi thời tập chi bất duyệt lạc hồ. Học đồng thời phải áp dụng những điều mình học, cái đó đem lại nhiều hạnh phúc.

Trong đạo Phật có danh từ “ vô học “ và “ hữu học ”. Hữu học là mình còn phải thực tập phải tu luyện. Còn thành công rồi thì không cần phải luyện tập nữa, trạng thái đó gọi là vô học. Vô học là thực tập thành công rồi. Còn trong ngôn ngữ thế gian “ vô học ” là không có cơ hội học hỏi. Chữ học được dịch từ tiếng Phạn là sisha, có nghĩa là rèn luyện, là thực tập ( entrainement, training ). Trong đạo Phật danh từ tuệ dùng trong bộ ba Niệm, Định, Tuệ không phải là kiến thức mà chúng ta chất chứa nhờ sự học hỏi trong trường hay trong sách. Tuệ này là một cái thấy do thực nghiệm. Chúng ta phải trực tiếp thực chứng thì mới gọi là tuệ. Ví dụ có một người chưa biết trái sầu riêng là trái gì người đó có thể nghe những người khác giảng giải trái sầu riêng giống như thế này, múi sầu riêng màu vàng như múi mít nhưng không phải là mít. Chúng ta nói bao nhiêu thì người kia chỉ có thể chất chứa một số ý niệm về trái sầu riêng nhưng người đó không có kinh nghiệm trực tiếp về múi sầu riêng. Cách hay nhất là chúng ta hiến tặng người đó một múi sầu riêng, bỏ vào miệng thì người đó có kinh nghiệm trực tiếp về múi sầu riêng. Đó gọi là tuệ ( experience directe ). Chữ tuệ trong đạo Phật có nghĩa một cái thấy có khả năng tháo gỡ những khó khăn trong đời sống hằng ngày của mình, những bức xúc, lo lắng, ưu phiền, mâu thuẩn trong con người của mình và tháo gỡ  được cho những người mình thương. Chỉ khi nào mình có tuệ thì mình mới có khả năng tháo gỡ. Còn nếu mình chất chứa kiến thức, dù là kiến thức Phật học, thì cũng là vô ích.

Ở Tây phương có những trường đại học có thể cấp phát văn bằng Phật học và dạy rất khoa học. Nhưng những văn bằng đó chỉ chứng tỏ rằng mình đã học nhiều năm về văn học Phật giáo chứ không có nghĩa là ta đã có cơ hội thực tập, rèn luyện. Nó khác với một tu viện, một Phật học viện. Khi có bằng tiến sĩ Phật học thì ta có thể đi dạy được. Nhưng có thể khi ta có những nỗi khổ niềm đau thì ta không thể tháo gỡ được vì ta chỉ có những kiến thức về Phật học mà không có tuệ giác Phật học. Hai cái đó khác nhau.

 

Chế tác năng lượng chính niệm

Trong ta có những năng lượng  giúp hế tác ra anlạc. Trong ta cũng có năng lượng ngăn cản không cho chúng ta có an và có lạc. Vì vậy sự thực tập giúp ta có khả năng nhận diện những năng lượng đó khi chúng phát khởi trong thân cũng như trong tâm. Năng lượng giúp ta có thể nhận diện được những năng lương tích cực hay tiêu cực trong thân và trong tâm gọi là năng lượng chính niệm, tiếng Phạn là smirti, tiếng Pali là satti, tiếng Việt là niệm hay chính niệm. Nó là năng lượng giúp ta nhận diện những gì đang xẩy ra trong giây phút hiện tại. Thí dụ như khi thở vào mà tôi ý thức là tôi đang thở vào thì đó là thở trong chính niệm. Khi tôi uống trà mà tâm tôi có mặt, tôi biết là tôi đang uống trà thì đó gọi là uống trà trong chính niệm. Khi tôi bước đi một bước mà tôi ý thức được bước chân đó thì gọi là bước đi trong chính niệm. Phần lớn trong chúng ta khi uống trà thì ta không biết là ta đang uống trà vì đầu của chúng ta bị lôi kéo bởi quá khứ hoặc tương lai, bởi những dự án, khổ đau, buồn bực của chúng ta.. Tâm không có mặt với thân nên mình không nhận biết những gì đang thật sự xẩy ra trong giây phút hiện tại. Đem tâm về với thân để tâm có thể nhận diện được tất cả những gì đang xẩy ra trong thân và trong tâm đó gọi là thực tập chính niệm.

Trong Nho giáo Luận ngữ cũng có dạy chuyện này. Khi tâm không có mặt thì nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe, ăn mà không biết mùi vị ( Tâm bất tại thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị ).  Trong sách Luận ngữ cũng có nói về chính niệm. Căn bản của sự thực tập Phật giáo là luôn luôn đem tâm trở về với thân để cho thân-tâm hợp-nhất. Khi thân-tâm hợp-nhất thì ta thật sự có mặt trong phút giây hiện tại. Nếu ta thật sự có mặt trong giây phút hiện tại thì ta có khả năng tiếp xúc với những mầu nhiệm, tươi mát, những gì có thể nuôi dưỡng mình trong giờ phút hiện tại. Nếu ta thật sự có mặt trong giờ phút hiện tại thì chúng ta cũng có cơ hội nhận diện những gì tiêu cực đang xẩy ra để có thể ôm ấp, làm lắng dịu và chuyển hóa chúng trong đó có giận, buồn, lo, và sợ. Chính niệm là loại năng lượng giúp cho ta trở về trong giây phút hiện tại và biết được những gì đang xẩy ra trong giây phút hiện tại. Đó là sự thực tập căn bản trong đạo Phật. Niệm đưa tới Định, Định đưa tới Tuệ. Tuệ là trí tuệ có khả năng tháo gỡ những khó khăn, bức xúc, lo lắng, buồn khổ của ta và giúp ta tháo gỡ được cho những người khác.

 

nhận diện và chuyển hóa

Có một năng lượng rất mạnh trong mỗi chúng ta ngăn cản không cho chúng ta được anlạc. Chúng ta phải nhận diện nó. Tên của nó tiếng Phạn là vasana, tiếng Việt là tập khí. Tập khí là thói quen. Chúng ta có những thói quen đã được huân tập lâu ngày. Có những thói quen tốt và những thói quen xấu. Chính những thói quen xấu đó ngăn không cho chúng ta có an và có lạc. Chúng ta phải sử dụng năng lượng của chính niệm để nhận diện tập khí đó, thói quen đó mỗi khi nó vừa xuất hiện. Chúng ta có dư thông minh để hiểu rằng nói một câu như thế là có thể gây đổ vỡ, làm một cử chỉ như thế thì có thể gây đổ vỡ. Chúng ta biết như thế. Nhưng khi hoàn cảnh xẩy ra thì ta vẫn nói câu đó, vẫn làm điều đó và gây ra sự đổ vỡ trong lòng chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong sự liên hệ giữa ta và người khác.

Cái gì thúc đẩy chúng ta nói câu đó, làm việc đó trong khi ta biết rằng nói câu đó là tan vỡ, làm việc đó là tan vỡ. Năng lượng đẩy chúng ta nói và làm việc đó là tập khí ( vasana ). Khi chúng ta đã nói rồi, làm rồi, gây ra tan vỡ rồi thì chúng ta không giận người kia nữa, ta quay lại giận mình. Tại sao mình biết như thế, mình biết rất rõ là nói một câu như thế, hành động như thế gây đổ vỡ, vậy mà mình vẫn  nói, vẫn làm ? Mình trở lại giận mình, mình bức tóc, đập ngực, xấu hổ với chính mình và tự hứa rằng từ nay về sau sẽ không nói nhũng câu như thế, không làm những việc như thế. Mình có thể lạy tổ tiên, lạy Phật, lạy các vị bồ tát và hứa là từ  nay về sau  con sẽ không dại dột nói những câu, làm những việc như thế nữa. Ấy vậy mà lần sau, hai, ba tháng sau, khi mà hoàn cảnh đưa tới thì mình vẫn ngựa theo lối cũ, mình vẫn nói, vẫn làm lại như thường, để mình lại đau khổ, bức tóc, đập ngực như thường. Đó là tại vì mình chưa điều phục được năng lượng ghê gớm đó, tập khí ghê gớm đó trong con người của mình.

Chắc tất cả quí vị trong hội trường này cũng đã có một ít kinh nghiệm về việc này. Ngày xưa  Tuệ Trung Thưong Sĩ Trần Quốc Tung, anh ruột của tướng Trần Hưng Đạo là một thiền sư cư sĩ. Ông đã  học Phật, đã tu tập rất vững và ông đã để lại rất nhiều bài kệ, bài thơ, bài văn nói về sự chứng đạt của ông. Chắc chắn là quí vị đã đọc ” Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục ” trong đó có câu nói về tập khí bằng hình ảnh thi ca rất hay, đó là câu “ phóng trước liên ti phược hổ nhi ”, dịch ra tiếng Việt là “ liệng sợi tơ sen trói mãnh hổ ”. Mãnh hổ là con thú hoang rất khó điều phục mà mình chỉ cần liệng sợi tơ sen thôi có thể trói được nó. Chúng ta biết, khi bẻ cọng sen thành hai và nâng một nửa lên thì nửa kia nó cũng theo lên vì hai cọng còn dính vào nhau bởi những sợi tơ sen. Trong Kiều có câu “ dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng ”. Sợi tơ sen rất mỏng manh, rất nhẹ, nhưng nếu biết dùng thì mình có thể trói một con mãnh hổ. Con mãnh hổ đây là tập khí, là thói quen ghê gớm đó. Nó là con ngựa hoang, con voi hoang mà chúng ta phải điều phục cho được nếu chúng ta không muốn gây tan vỡ trong lòng ta và người khác, nhất là những người ta thương yêu. Ở Thái lan người ta điều phục những con voi bằng những xích sắt và những vồ bằng sắt. Ba, bốn tuần sau con voi có thể bắt đầu thuần phục. Nhưng muốn điều phục con voi hoang tập khí chúng ta không cần phải dùng những phương tiện bạo động như thế. Đức Phật đã cho chúng ta nhũng phương pháp bất bạo động, rất nhẹ nhàng để giúp chúng ta điều phục những tập khí đó, những thói quen đó. Phương pháp đó gọi là nhận diện đơn thuần ( simple recognition, la reconnaissance simple ). Khi chúng ta thấy năng lượng của tập khí bắt đầu ló đầu ra thì lập tức hành động liền. Chúng ta trở về với hơi thở, chế tác năng lượng chính niệm và năng lượng đó sẽ làm công việc nhận diện đơn thuần.

Thở vào tôi biết rằng tập khí trong tôi bắt đầu xuất hiện
Thở ra tôi mỉm cười với tập khí trong tôi

Rất là nhẹ nhàng ! Đúng là một sợi tơ sen. Khi tập khí ở một mình, chiếm cứ được thân tâm thì nó tác hại được. Nhưng khi có năng lượng của chính niệm, tức là năng lượng mình làm phát khởi ra để nhận diện tập khí đó thì chúng ta lại ở vào trong một hoàn cảnh khác. Thí dụ nắm tay trái của tôi là tập khí. Năng lượng của tập khí tức là năng lượng của thói quen thúc đẩy tôi nói và làm những điều gây đổ vỡ xuất hiện. Nếu tôi không làm gì hết, tôi không phải là người có tu tập, thì nó sẽ hoành hành, sẽ xúi tôi làm những điều gây đổ vỡ. Nhưng tôi là một người có thực tập -tu có nghĩa là có thực tập- nên tôi biết phải làm gì. Tôi trở về với hơi thở, thở vào, thở ra có chính niệm, hoặc tôi đi thiền từng bước chân có chính niệm thì tôi chế tác ra một năng lượng thứ hai gọi là niệm ( smirti ). Năng lượng thứ hai này có mặt để nhận diện năng lượng đầu.

Thở vào tôi nhận diện năng lượng tập khí bắt dầu trổi dậy trong tôi
Thở ra tôi mỉm cười với thói quen tập khí trong tôi

Đó gọi là nhận diện đơn thuần. Khi tập khí được nhận diện thì nó mất đi rất nhiều năng lượng chính nó. Nó không còn đủ sức để thúc đẩy mình nói và làm những điều mình không muốn nói và không muốn làm. Đây là một phương pháp thực tập bất bạo động rất là hữu hiệu nhưng chúng ta phải có công phu hằng ngày mới được. Nếu công phu yếu thì mỗi khi tập khí đó nổi lên ta quên thực tập để cho nó hoành hành. Cho nên trong đời sống hằng ngày ta phải thực tập. Tập thở trong chính niệm, đi trong chính niệm, uống trà trong chính niệm, ăn cơm trong chính niệm. Hạt giống chính niệm trong ta trở thành quan trọng. Mỗi khi cần đến nó, ta chỉ động một cái là nó phát khởi và nó giúp chúng ta làm công việc nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa tập khí đó.

Trong văn hóa Phật giáo có Kinh gọi là Kinh An Ban Thủ Ý, có nghĩa là Kinh dạy về phương pháp thở để chế tác chính niệm. Khi viết chữ niệm bằng Hán tự thì thấy rằng ở trên có chữ kim tức là giây phút hiện tại và ở dưới là chữ tâm có nghĩa là tâm của chúng ta. Đem cái tâm của ta về với giây phút hiện tại gọi là niệm. Trong đời sống hằng ngày tâm của ta rong ruổi, đi về quá khứ, tiếc nuối quá khứ, sầu khổ vì quá khứ. Nó không có mặt trong giây phút hiện tại. Có nhiều người trong chúng ta bị quá khứ giam hãm, không có khả năng sống được sâu sắc những giây phút trong đời sống hằng ngày. Rất tội nghiệp. Có những người trong chúng ta bị tương lai lôi kéo, lo lắng, sợ hãi, bất an về tưong lai. Tương lai trở thành một ngục tù. Vì vậy tâm ta bị kẹt vào quá khứ, tương lai, trong những dự án, lo lắng, sầu khổ. Tâm không có đó cho thân. Khi đem tâm trở về với thân thì ta thiết lập được thân tâm trong giây phút hiện tại. Chúng ta thoát ra khỏi sự kềm chế của quá khứ và tương lai. Trạng thái đó gọi là thân tâm nhất như, thân và tâm hợp nhất. Chính niệm là năng lượng giúp ta thực hiện được cái gọi là thân tâm nhất như, thân tâm hợp nhất. Kinh Quán Niệm Hơi Thở trình bày 16 phương pháp thực tập thở giúp ta tháo gỡ những bất an trong thân và trong tâm, rất hay, và giúp cho ta có được tuệ giác, có thể tháo gỡ những khoắc khoải, những tuyệt vọng, những bức xúc trong tâm của chúng ta.

 

Phiền não tức Bồ đề

Trong những khóa tu 7 ngày, 21 ngày tổ chúc cho thiền sinh ỏ Âu châu, Mỹ châu chúng tôi luôn luôn trao truyền phương pháp thở trong chính niệm, đi trong chính niệm, ăn cơm trong chính niệm, lái xe trong chính niệm giúp cho thiền sinh biết chế tác năng lượng đó. Khi có năng lượng đó rồi thì ta có khả năng nhận diện những gì xẩy ra trong giây phút hiện tại, nhất là những tâm hành tiêu cực, nhưn giận, buồn, lo. Chính niệm có rất nhiều công năng. Công năng thứ nhất là nhận diện : ” À, ta biết là ngươi đang có mặt đó. Không sao! Ta sẽ chăm sóc cho ngươi ”. Công năng thứ hai là có thể ôm lấy năng lượng của sầu khổ, lo lắng, giận hờn. Nó không cần phải vật lộn hoặc tranh đấu hay đàn áp. Phương pháp của Đạo Phật là bất bạo động căn cứ trên cái thấy gọi là Bất Nhị ( Non-dualistic ). Chính niệm là mình, nhưng giận, buồn, tập khí cũng là một phần của mình. Nếu mình đàn áp, chính – tà vật lộn thì tự biến mình thành ra một bãi sa trường. Phương pháp của Đạo Phật không như vậy, không phải chính - tà vật lộn, chính đàn áp tà. Cái thấy của Đạo Phật là không nhị nguyên, đó là cái thấy Bất nhị. Ta không dùng chữ Nhất nguyên mà dùng chữ Bất nhị tức là khổ đau kia là ta mà hạnh phúc kia cũng là ta. Chính kia là ta mà tà kia cũng là ta. Có sự liên hệ giữa chính và tà, giữa khổ đau và hạnh phúc. Cũng như khi làm vườn, trong một khu vườn có hoa, có trái, có rau nhưng cũng có khi có rác. Hoa thế nào cũng thành rác. Những người làm vườn giỏi không vất đi những rác rưới trong vườn. Họ ủ lại để làm phân và nuôi được rau, hoa, trái. Nhìn vào trong hoa ta thấy rác và nhìn vào rác ta thấy được hoa tương lai. Đó là cái nhìn Bất nhị.

Trong Đạo Phật có danh từ phiền nãobồ đề. Bồ đề là giác ngộ, giải thoát, hạnh phúc. Phiền não là khổ đau, đen tối. Trong Phật Giáo đại thừa ta nghe rất rõ là “ Phiền não tức Bồ đề “. Ngay trong phiền não ta tìm ra được Bồ đề. Chính ngay trong đống phân rác đó sẽ chế tác ra những đóa hoa thật đẹp. Hai cái ( phiền não và bồ đề ) không phải là hai kẻ thù. Cái nhìn đó gọi là Bất nhị. Căn cứ trên cái nhìn Bất nhị trong Đạo Phật mà phương pháp tu cũng là Bất nhị. Giữa cái gọi là thiện và ác không có sự đánh nhau, đàn áp nhau. Một cái nhận diện, ôm ấp cái kia và cuối cùng chuyển hóa cái kia. Đó là chuyển rác thành hoa, chuyển phiền não thành Bồ đề. Phiền não dịch từ chữ klesa. Những tâm hành tiêu cực của chúng ta gọi là phiền não như đam mê, hờn giận, hận thù, lo lắng, sợ hãi. Đó là những phiền não căn bản. Bồ đề là giải thoát, là giác ngộ, là từ bi. Giữa Bồ đề và phiền não có sự liên hệ bất nhị. Người làm vườn giỏi không vất rác đi, trái lại giữ rác để ủ phân nuôi hoa.

Chúng ta cũng vậy, chính trong những phiền não khổ đau kia ta có thể tìm ra được sự an lạc, giải thoát, hạnh phúc. Một khi năng lượng tiêu cực xuất hiện trong ta, ta chế tác ra một năng lượng tích cực gọi là chính niệm. Năng lượng này có hai nhiệm vụ thứ nhất là nhận diện, thứ hai là ôm ấp lấy năng lượng tiêu cực một cách bất bạo động như bà mẹ ôm lấy đứa con của mình. Khi em bé khóc la tức là nó có khổ gì trong thân hay tâm của nó. Bà mẹ tới bế em bé và ôm trong lòng, vòng tay nhẹ nhàng, dịu dàng. Tuy bà chưa biết tại sao em bé khóc nhưng sự ôm lấy đứa bé trong tay nhẹ nhàng, êm dịu đã có tác động tốt. Năng lượng dịu dàng đó, thương yêu đó của bà mẹ bắt đầu đi vào trong em bé. Tuy bà chưa làm gì hết nhưng nội việc ôm em bé đã làm cho em bớt khổ và em có thể nín khóc. Nếu nhìn sâu hơn bà mẹ có thể khám phá ra được nguyên do làm cho bé khóc. Có thể là bé sốt, bé đói, hay tả hơi chật… Khi đã thấy rồi thì bà mẹ có thể thay đổi. Nếu bé đói thì cho em bình sữa. Nếu nó sốt thì cho uống thuốc. Nhưng trước khi làm chuyện đó bà mẹ đã ôm lấy em bé và năng lượng dịu hiền của bà đi vào em làm cho em dịu xuống.

Phương pháp của Đạo Phật cũng giống hệt như vậy. Khi năng lượng tiêu cực xuất hiện trong tâm như khổ đau, giận dữ, lo lắng, tuyệt vọng bắt đầu biểu hiện thì năng lượng chính niệm được chế tác liền lập tức. Năng lượng chính niệm làm công việc nhận diện và ôm ấp. Năng lượng thứ hai bắt đầu đi vào trong năng lượng thứ nhất và sẽ đem lại sự lắng dịu. Buổi sáng hoa sen chưa nở, nó còn búp. Nhưng ánh sáng mặt trời tiếp tục chiếu trên hoa sen. -Ánh sáng mặt trời không chỉ đi chung quanh hoa sen mà thôi mà nó tìm cách đi vào trong hoa sen. Ánh sáng mặt trời được làm bằng những hạt rất nhỏ gọi là quang tử ( photon ). Những quang tử không chỉ đi chung quanh để chơi, nó tìm cách đi vào trong hoa sen-. Một, hai giờ đồng hồ sau, năng lượng đó đủ mạnh để làm cho hoa sen nở ra. Phiền não, giận hờn, lo lắng cũng vậy. Khi đươc ôm ấp bởi năng lượng chính niệm thì năng lượng đó từ từ thấm vào và sau đó năm, mười, mười lăm phút thì có sự lắng dịu. Nỗi khổ niềm đau của chúng ta sẽ lắng dịu xuống trong năm, bảy phút nếu chúng ta biết ôm ấp nó bằng năng lượng chính niệm mà không cần phải đàn áp. Đây là vấn đề luyện tập mà không phải là vấn đề tranh luận.

Chúng ta thường nghĩ là hạnh phúc chỉ có thể có khi ta có chổ đứng trong xã hội, có danh vọng, quyền thế, nhiều tiền nhiều bạc, quyền lực… Rất đông trong chúng ta đang chạy theo những thứ đó. Chúng ta nghĩ rằng tiền bạc, danh vọng, quyền uy, sắc dục là những điều kiện thiết yếu của hạnh phúc. Nhưng nếu nhìn cho kỹ thì ta thấy có những người đang có rất nhiều những thứ đó nhưng họ rất đau khổ tại vì trong thân tâm họ không có an. Họ không biết cách xử lý những căng thẳng nhức nhối trong thân và trong tâm. Trong đạo Phật muốn có hạnh phúc chân thật ta phải tu tập. Ta phải biết cách nhận diện, ôm ấp và chuyển hoá những tiêu cực xẩy ra trong thân và trong tâm. Trong đạo Phật có những văn bản rất căn bản đề giúp cho người tu xuất gia cũng như tại gia. Những kinh như kinh Quán Niệm Hơi Thở ( Anapanasati Sutta ), kinh Niệm Xứ ( Satipathana Sutta ) dạy cho chúng ta những phương pháp rất cụ thể đề làm phát khởi chính niệm, để làm lắng dịu những đau nhức, căng thẳng trong thân và tâm. Khi học và thực tập những kinh đó, chỉ trong một tuần thì chúng ta bắt đầu thấy có kết quả.

 

Lắng nghe và Ái ngữ là công năng của Hiểu và Thương

Tôi xin nhắc lại cái học trong đạo Phật không phải là sự chất chứa kiến thức dù là kiến thức Phật học, mà là sự luyện tập. Luyện tập rất quan hệ. Chúng ta mở những khóa tu ( gọi là tu nhưng thật ra là thực tập ), bên tây phương gọi là retreats. Trong những khóa thực tập đó những người tham dự phải để ra ít nhất là năm, sáu hoặc bảy ngày ở luôn tại chổ để được hướng dẫn 24 giờ trong một ngày. Cố nhiên là ban đêm có ngủ nhưng giờ còn lại là để thực tập. Những khóa tu -khóa thực tập đó- đem lại sự chuyển hóa cho rất nhiều người. Vì vậy họ đồn đãi nhau tìm tới khóa tu. Có những bằng cấp gọi là tiến sĩ Phật học nhưng không giải quyết được những đau khổ. Nhưng tới một khóa tu, thực tập thở trong chính niệm, đi trong chính niệm, ăn cơm trong chính niệm, uống trà trong chính niệm, làm mọi việc trong chính niệm thì có khả năng nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa những khổ đau trong thân và trong tâm. Nó làm cho người mình nhẹ ra, có an và có lạc. Khi có an lạc rồi thì mình có thể giúp đối tác của mình, giúp cho người bạn đường, người yêu, con, chồng, vợ của mình cũng làm được như mình.

Khi trong lòng có an và lạc thì ta có thể sử dụng được ngôn từ gọi là ái ngữ và phương pháp nghe gọi là lắng nghe. Đây là hai phép tu rất quan trọng. Nó có thể đưa đến sự hòa giải giữa các cặp vợ chồng, cha con, giữa những nhóm người chống đối nhau. Hai phương pháp thực tập này gọi và lắng ngheái ngữ, nghĩa là nghe với tâm từ bi, với tất cả trái tim của mình, giúp cho người kia có cơ hội để nói ra được tất cả nỗi khổ niềm đau của người đó. Một giờ lắng nghe như thế có thể làm lắng dịu rất nhiều khổ đau của người kia. Người kia có thể là vợ, chồng, bố mẹ, con trai, con gái của mình. Tất cả chúng ta đều có thể học phương pháp lắng nghe như thế. Khi lắng nghe bằng tình thương thì dù người kia có nói bằng ngôn từ chua chát, trách móc, hờn giận, lên án, buộc tội thì ta vẫn có thể tiếp tục lắng nghe. Rất là hay, nhưng phải tập mới được. Nếu không có tu có tập thì lắng nghe độ chừng 5 phút thì giận hờn, bực bội trổi dậy và đánh mất khả năng lắng nghe của mình. Nhất là khi người kia có tri giác rất sai lầm nên trong khi lắng nghe mình rất muốn ngắt lời và sửa lưng người kia, cho những điều người kia nói đều là sai lầm hết. Nhưng nếu mình ngắt lời và sửa lưng người ta thì người ta sẽ không có cơ hội nói ra nữa. Buổi thực tập lắng nghe trở thành buổi tranh luận và thất bại.

Lắng nghe là phải luôn luôn duy trì được tâm từ bi. Lắng nghe đây không ngoài mục đích giúp cho người kia có cơ hội nói ra niềm đau nỗi khổ chất chứa lâu nay mà chưa bao giờ được nói ra. Nếu người đó có những tri giác sai lầm, những thông tin sai lầm thì phải đợi ba, bốn, năm ngày sau mới cung cấp cho người đó một ít thông tin để giúp người đó điều chỉnh những sai lầm trong tri giác. Nếu nhớ được như thế thì ta có thể tiếp tục lắng nghe được. Tôi có những học trò rất trẻ, 16, 17 tuổi tới những khóa thực tập thành công được trở về lắng nghe và hòa giải được với bố mẹ. Tôi rất là hãnh diện về những người đệ tử rất trẻ đó.

Ái ngữ là dùng những ngôn từ giúp cho người khác có khả năng tiếp nhận được nhũng gì mình nói. Nếu mình muốn nguời kia thấy và hiểu được những sai lầm, những tri giác sai lầm của người đó thì mình phải dùng ái ngữ. Trong khi nói mình không lên án, buộc tội, không trách móc, chua chát thì người kia có nhiều cơ hội để nhận diện ra mình có những tri giác sai lầm về chính mình và về người kia. Người kia sẽ có thể thay đổi. Lắng nghe và ái ngữ là hai pháp môn rất tuyệt diệu giúp cho những người chống báng nhau, thù hận nhau có cơ hội tái lập truyền thông với nhau đem lại hòa bình, hòa giải, an lạc.

Đạo Tràng Mai thôn ở Pháp mỗi năm chúng tôi có bảo trợ những nhóm người Israel ( Do thái ) và Palestine qua để tu tập. Họ đã đi qua rất nhiều khổ đau, lo lắng, buồn phiền, hận thù, sợ hãi. Mỗi khi tới họ không nhìn nhau được, họ không nói chuyện với nhau được. Bên nào cũng đầy lo lắng, sợ hãi, hận thù, nghi ngờ và chúng tôi đã cho họ thực tập theo phương pháp của Làng Mai. Trước hết là hai nhóm ở riêng. Họ thực tập những phương pháp để làm lắng dịu thân và tâm. Sau đó chừng 7 hay 10 ngày chúng tôi chỉ cho họ phương pháp ái ngữ và lắng nghe. Một bên có thể nói ra hết tất cả những khổ đau mà mình đã chịu đựng trong cuộc chiến. Người lớn đã từng trải qua những khổ đau, tủi nhục nào ? Trẻ em đã từng trải qua những khổ đau, tủi nhục nào ? Mình có quyền nói hết cho bên kia nghe với điều kiện là phải dùng ngôn từ gọi là ái ngữ. Mình có quyền và có bổn phận phải nói cho bên kia nghe hết nhưng với điều kiện duy nhất là phải sử dụng ái ngữ. Bên kia khi lắng nghe thì không cắt lời, không chữa lỗi người kia và phải lắng nghe theo phương pháp đã học, nghĩa là để người kia có cơ hội nói ra hết. Sau nhiều lần thực tập lắng nghe và ái ngữ đó thì hai bên thay đổi thái độ rất nhiều. Khi mình thấy người kia nói ra những đau khổ của nhóm họ thì lần đầu tiên mình biết rằng : ” À, thì ra bên đó họ cũng từng đau khổ giống hệt như bên mình. Họ cũng có những sợ hãi, lo lắng, hận thù giống hệt như bên mình vậy.” Khi hiểu được như thế rồi thì bên này có thể nhìn bên kia bằng cặp mắt thương hại, từ bi. Và khi nhìn được như thế thì trái tim ứa ra giọt nưóc cam lộ của từ bi và mình thấy dễ chịu. Và họ thấy mình nhìn và mỉm cười với họ như vậy rồi thì họ bớt khổ liền lập tức. Cuối cùng thì hai nhóm có thể ăn cơm chung với nhau, nắm tay nhau đi thiền hành. Sau đó họ lên báo cáo một lần về những thành quả của họ. Họ luôn luôn hứa khi về miền Trung đông sẽ tổ chức những khóa như vậy để đồng bào của họ cũng có thể tham dự tu tập cho bớt khổ.

Để có thì giờ cho chúng ta có được một ít trao đổi, chúng tôi xin kết luận bài thuyết trình sáng hôm nay bằng cách nói rằng, cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc sẽ không thể nào đạt được nếu ta không có khả năng đem lại sự bình yên trong thân và trong tâm. Khi ta có khả năng mang lại sự bình yên trong thân và trong tâm rồi thì ta có thể giúp những người trong gia đình, trong tập đoàn, trong xã hội. Hòa bình an lạc luôn luôn bắt đầu bằng tự thân. “ peace begins with yourself ”. Chúng ta đừng đòi hỏi người kia phải thế này, phải thế kia. Hãy bắt đầu bằng chính mình, bằng một hơi thở, bằng một nụ cười, bằng một bước chân, bằng một lời nói, bằng một cử chỉ hòa bình, an lạc. Chúng tôi sẽ tiếp tục đề tài này chiều mai. Bây giờ chúng ta có thì giờ cho một số câu hỏi và các lời phát biểu. Xin cám ơn các thiện tri thúc, các vị khách quí.

 

Phần vấn đáp

Giáo sư Đinh Xuân Lâm : Tôi xin phép nêu một câu hỏi mong thiền sư có thể cho một số ý kiến. Theo tôi thấy thì người Châu Âu họ thuờng tiếp nhận Ki Tô giáo ( Thiên chúa giáo ). Trong số những  người Âu Châu cũng có người theo Phật giáo nhưng nói chung thì thiên hướng không nghiêng về Phật giáo vì Phật giáo phát triển ở Phương Đông. Tôi rất mong Thiền sư nói rõ là hiện nay Phật giáo cũng đang tiếp nhận được rất nhiều người Châu Âu. Nguyên nhân chủ yếu là Phật giáo có một nền tảng như thế nào về mặt tư tưởng, đạo đức v.v... để có một sức thu hút sâu sắc và chuyển hóa được người Châu Âu mà theo tôi  là có thiên hướng nghiêng về Ki Tô giáo. Đó là câu hỏi của tôi rất mong thiền sư nói rõ lý do, lý do nào là cơ bản để dẫn tới một hiện tượng mà tôi cho là rất độc đáo trong tình hình hiện nay.  Xin hết.

Thiền sư Nhất Hạnh : Tôi thấy có rất nhiều nguyên do. Nguyên do thứ nhất là Ki Tô giáo ở Tây phương đã cố gắng nhưng chưa làm mới được, -chưa đổi mới được-. Một nền tôn giáo đạo đức phải luôn luôn biến chuyển để có thể thích ứng được với những nhu cầu của thời đại. Thành ra giảng dạy như thế nào, thực tập như thế nào để người ta thấy được rằng cách giảng dạy, cách thực tập thích ứng được với những khó khăn hiện thực mà ta đang có bây giờ. Giáo hội Ki Tô đã cố gắng trong nhiều thập niên để thay đổi cách giảng dạy, cách thực tập nhưng chưa thành công lắm. Vì vậy có rất nhiều người trẻ -thế hệ trẻ- bỏ nhà thờ rất nhiều. Tại vì thái độ bảo thủ quá mạnh. Có những người, những vị giám mục đã viết : “ Cơ Đốc giáo nếu không thay đổi thì sẽ bị tiêu diệt ( Christianity must change or die )”. Họ viết những cuốn sách nói rất là mạnh như thế đó. Tôi thấy rằng đây không phải chỉ là vấn đề của Cơ Đốc giáo. Vấn đề của Phật giáo cũng thế tại vì bây giờ đây phần lớn các thầy, các sư cô, các vị hòa thương không nói đưọc ngôn ngữ của tuổi trẻ, không thấy được những khổ đau, dằn vặt, bức xúc của tuổi trẻ mà vẫn dùng một ngôn từ rất xưa và những phương pháp thực tập không thích ứng với tuổi trẻ bây giờ. Nếu đạo Phật không thay đổi, không làm mới thì người ta vẫn bỏ đạo Phật như thường. Đến các chùa ta thấy thanh niên, thiếu nữ rất ít trong khi các cụ rất đông. Sự  kiện đó chứng tỏ rằng giáo pháp và sự thực tập mình cung cấp chưa thích hợp với thế hệ thanh niên. Sở dĩ người Tây phưong đi tìm một cái gì mới, trong đó có đạo Phật tại vì giáo hội Cơ Đốc giáo chưa tự làm mới mình để cung cấp giáo lý và những thực tập thích hợp cho thời đại mới.

Thứ hai là trong đạo Phật có những cái mới lạ đối với người Tây phương : thứ nhất là Phật là một vị xuất phát từ một con ngươì như chúng ta, đã từng đau khổ tuyệt vọng, đã từng thực tập để đạt tới sự giải thoát. Phật không phải là một thần linh, không phải là một đấng Tạo hóa. Đó là một điều rất hấp dẫn đối với những người trí thức và tuổi trẻ  Tây phương. Đức Phật là một con người như chúng ta nên người ta cảm thấy rất gần gủi, rất khoa học. Thứ hai là đạo Phật rất bao dung ( tolérance). Đạo Phật không phải là một ý thức hệ để loạt trừ những ý thức hệ khác. Đi tới đâu thì đạo Phật thích ứng được với văn hóa xứ đó, với những tư tưởng và nền đạo đức của xứ đó để phối hợp lại làm thành nền đạo đức của địa phương. Đạo Phật không bao giờ nghĩ đến chuyện loại trừ những ý thức hệ, những tôn giáo khác. Đạo Phật lúc nào cũng ôm lấy tất cả. Đó là tinh thần bao dung của đạo Phật. Ngày hôm kia chúng tôi có đến thăm nhà thờ Phát Diệm, được các Linh mục, các bà Sơ, các đồng bào Công giáo tiếp. Tôi có được cơ hội phát biểu. Chúng tôi nói rằng ở Tây phương lúc chúng tôi mở những lớp, những khóa tu tập thì chúng tôi luôn luôn khuyên ngưòi Tây phương không nên bỏ đạo gốc của họ, tại vì một người mất gốc không thể là một người hạnh phúc. Khuyên người ta bỏ đạo, bỏ gốc, bỏ truyền thống của người ta là một chuyện không hay gì mấy. Tại vì ngày xưa các vị giáo sĩ Tây phương đến Việt nam đã hành đạo theo phương thức đó, nghĩa là không cho người ta thờ cúng ông bà theo đạo gốc và đó là điều kiện để được theo đạo mới. Chúng tôi thấy rằng điều đó không nhân đạo lắm. Vì học được bài học đó nên khi sang Tây phương là vùng đất văn hóa Ki tô giáo và Do thái giáo thì chúng tôi có thái độ khác hẳn. Thái độ này có nguồn gốc ở trong đạo Phật, đó là thái độ bao dung. Chúng tôi khuyên rằng nếu quí vị là người Cơ đốc thì cứ giữ đạo Cơ đốc, nếu là người Do thái giáo thì cứ giữ đạo Do thái. Quí vị thực tập được, chuyển hóa rồi thì về làm mới truyền thống của quí vị. Quí vị không cần phải bỏ đạo gốc của mình. Chính thái độ cởi mở, bao dung đó khiến cho rất nhiều người Tây phương thán phục, yên mến đạo Phật. Đạo Phật có những giáo lý, những thực tập theo tinh thần bất bạo động như vấn đề bảo hộ môi trường. Trong đạo Phật lòng từ bi không chỉ ôm lấy con người mà còm ôm lấy các loại động vật, thực vật và khoáng vật nữa. Bảo hộ môi trường nằm trong sự thực tập của đạo Phật vì thế đạo Phật rất là hấp dẫn đối với người Tây phương. Tây phương bây giờ là một mảnh đất rất mầu mỡ phì nhiêu để hạt giống của đạo Phật được trồng vào. Cố nhiên, như quí vị đã biết, đạo Phật là một tôn giáo, một truyền thống có thể đi đôi với khoa học, đó là lời tuyên bố của nhà bác học Einstein. Tuệ giác, thấy biết về tương tức, về vô ngã của đạo Phật rất thích hợp với khoa học và có thể làm chổ nương tựa cho khoa học trong sự phát triển sau này. Đó là những yếu tố làm cho đạo Phật trở nên hấp dẫn đối với người Tây phương.

Đạo Phật có những biện pháp, những cách tu tập để là giảm những căng thẳng ở trong thân và trong tâm, nuôi lớn tình thương. Tuy rằng nhiều người vẫn yêu mến đạo Chúa, -đạo gốc của mình- nhưng rất muốn tu theo đạo Phật. Trong phái đoàn chúng tôi có một vị Đại đức người Hoa kỳ ngày xưa đã từng làm Linh mục Công giáo và một vị Giáo thọ ngày xưa đã từng làm một Mục sư Tin lành. Họ vẫn còn yêu mến đạo gốc của họ, vẫn còn thương Chúa Ki tô, nhưng họ thấy trong đạo Phật có những phương pháp cụ thể để họ có thể tháo gỡ những khó khăn của họ, để chế tác được tình thương. Trong những con người như thế không có sự chống đối giữa hai truyền thống.

Con Phật và con Chúa bên nhau trong ngày 30.04.2007 tại nhà thờ Phát Diệm.

Tại Phát diệm chúng tôi cũng đã nói như thế. Chúng tôi nói rằng trong 300 năm nay có rất nhiều thanh niên, thiếu nữ yêu nhau mà không cưới được nhau tại và có nhiều gia đình một bên Công giáo, một bên Phật giáo. Gia đình nào cũng tự ái đòi muốn cưới một người Công giáo thì phải rửa tội. Chúng tôi báo cáo cho những Linh mục nhà thờ Phát diệm : cách đây gần 10 năm trong một buổi thuyết trình ở Hán thành, buổi họp đầu tiên giữa người Phật giáo và người Cơ đốc giáo tôi có đề nghị một công thức để giúp cho thanh niên yêu nhau mà có hai tôn giáo khác nhau. Tôi nói rằng khi mình yêu nhau thì phải yêu luôn gốc r của bên kia và phải tìm hiểu. Mình phải học truyền thống của người yêu. Sau khi cưới nhau rồi thì hai người cùng đi nhà thờ mỗi chủ nhật và cùng đi chùa vào ngày rằm và ngày mồng một. Thay vì có một thì mình có hai gốc r tâm linh. Em sẽ học đạo Chúa, sẽ rửa tội, nhưng anh cũng phải quy y và giữ 5 giới. Như thế chúng ta sẽ giàu có hơn về phương diện tâm linh. Có những người thực sự có hai truyền thống tâm linh đó mà không hề thấy mâu thuẩn gì hết. Tất cả những người Tây phương đến tu tập với chúng tôi đều có truyền thống Cơ đốc giáo, Do thái giáo, hoặc những tôn giáo khác.

Tại Phát diệm tôi đã đề nghị như thế. Giáo hội Công giáo và Giáo hội Phật giáo nên cho ra một văn bản nói về chuyện này để chấm dứt sự đau khổ của những thanh niên yêu nhau mà không được cưới nhau. Hai người cùng đi nhà thờ ngày chủ nhật, hai người cùng có thể được rửa tội . Hai người cùng đi chùa ngày mồng một ngày rằm và cả hai đều quy y và thọ 5 giới. Như thế thì mình giàu có thêm thôi, tại sao phải chống đối như thế. Tôi nói nếu như mình có 100 năm để đi tới văn bản này thì nó vẫn đáng vì thanh niên ta đã đau khổ trên 300 năm nay rồi vì sự mâu thuẫn kia. Nói như vậy để quí vị thấy rằng đạo Phật có tinh thần bao dung rất lớn. Đó là yếu tố rất hấp dẫn đối với con người của thời đại mới. Xin cám ơn.

 

Câu hỏi của một vị giáo sư : Kính thưa thiền sư, chúng tôi rất cám ơn thiền sư đã có những lời thuyết giảng. Tôi xin phép được có 3 câu hỏi : thứ nhất là vấn đề tâm thân. Đây là vấn đề hết sức trung tâm, đôi khi gọi là vấn đề cốt lõi của triết học và tâm lý học. Gần đây ở Việt nam có truyền bá một ít sách của tác giả Osho trong có một quyển riêng về tâm thân. Tôi xin ý kiến của thiền sư về cuốn sách này và tác giả đó.

Thiền sư Nhất Hạnh : Tôi chưa được đọc ạ. Tôi chưa được đọc.

Tiếp theo câu hỏi trên : Thứ hai là khi nói về tuệ giác thì tôi có cảm nhận là ban đầu ý kiến hay chủ kiến của thiền sư rất các tác giả như Husserl tác giả của Hiện tượng luận. Tôi không được đọc bản tiếng Đức, tôi đọc bản tiếng Anh trong tác phẩm “ Sự khủng hoảng của người Châu Âu ”. Không hiểu cảm nhận của tôi có đúng không.

Thứ ba là vừa rồi trả lời câu hỏi của giáo sư Lâm thì thiền sư có nói đến tâm linh, tức là một khái niệm công cụ ( paradix ),một khái niệm chủ yếu của các tôn giáo. Tôi hiểu tâm linh là một khái niệm để chỉ một dòng liên tục của cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Tôi có đọc trong báo Lao động của Việt Nam cách đây khoảng một tháng nói lại bài thuyết giảng của thiền sư ở thành phố Hồ chí Minh, nói là chúng ta không để quá khứ ràng buộc, không để tương lai lôi kéo, hãy biết hiện tại. Hôm nay một nữ Phật tử đã nói rằng : quá khứ đã qua rồi mà tương lai thì chưa đến và nữ Phật tử này không nói nhưng tôi hiểu theo lời giảng của thiền sư hãy chính niệm về hiện tại thôi. Cái đó có mâu thuẫn với phạm trù tâm linh tức là phạm trù công cụ chủ yếu của các tôn giáo không?

Câu hỏi thứ hai được lập lại như sau cho rõ: Khi nghe thiền sư giảng tôi rất thích và tiếp nhận được nhiều điều. Tôi thấy có liên hệ đến một tác phẩm của nhà triết học Husserl tức là người sáng lập ra phái Hiện tượng luận. Trong tác phẩm của ông đề là “ Khủng hoảng của người Châu Âu “( Crisis of european man ) tôi thấy lời giảng của thiền sư với ông ta có gần nhau. Sự nhận xét của tôi có đúng không.

Thiền sư Nhất Hạnh: Về vấn đề thân-tâm, não bộ, thần kinh học cũng là vấn đề lớn. Câu hỏi là tại sao hoạt động của các tế bào óc trong hệ thần kinh có tính khách quan, những thực tại khách quan như thế mà có thể tạo ra được một tâm thức chủ quan? Đó là một trong những câu hỏi căn bản của khoa thần kinh não bộ hiện bây giờ. Thân và tâm là hai hiện tượng tách rời hay có dính líu với nhau?.. Đây quả thật là vấn đề quan trọng.

Trong đạo Phật có danh từ Nàma-Rùpa. Nàma-Rùpa ( Danh-Sắc ) là một danh từ kép nói thân tâm là một.  Theo Tâm học Phật giáo thì thân tâm là hai mặt của một thực tại. Thực tại đó biểu hiện ra là thân và tâm. Hai cái đó không phải là hai cái riêng biệt. Cũng như một đồng tiền thì có mặt trái và mặt phải biểu hiện ra cùng một lúc. Tâm nương vào thân để biểu hiện và thân nương và tâm để biểu hiện. Vì vậy có thể nói thân là sự nối tiếp của tâm và tâm là sự nối tiếp của thân. Hai cái đó không phải là hai bản chất khác nhau. Chúng ta biết rằng trong ánh sáng của khoa học lượng tử hiện đại cho thấy rằng nếu nói có vật chất tồn tại độc lập ngoài tâm thì quan điểm đó đã lỗi thời rồi.

Đứng về phương diện hiện tượng luận của Husserl tôi thấy rằng theo hiện tượng luận thì ý thức bao giờ cũng là ý thức về một cái gì ( conscience c’ est toujours conscience de quelque chose ) ( conciousness is always conciousness of something ). Đó là phạm trù căn bản của hiện tương luận. Trong đạo Phật có nói rằng con người được làm nên bởi 5 yếu tố, đó là sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Sắc là cơ thể, thụ là cảm giác, tưởng là tri giác, hành là những tâm tư khác nhau và thức là nhận biết. Tuy chia ra làm năm nhưng có khi gọi là Danh-Sắc, tức là Nàma-Rùpa, chỉ có hai chữ thôi, Thân và Tâm.

Khi có khái niệm về thân, có một tri giác về thân thì trước hết mình phải biết rằng thân của mình là đối tượng của tri giác. Tôi có tri giác về thân hình của tôi thì thân hình đó là đối tượng của tri giác, mà đối tượng của tri giác đó có thể tồn tại độc lập ngoài tri giác không ? Đó là một câu hỏi hóc búa của tâm lý học. Tại vì tri giác không chỉ có thể được làm bằng chủ thể tri giác mà không có đối tượng tri giác. Tri giác bao giờ cũng là tri giác về một cái gì. Khi nói ăn thì chúng ta phải nói ăn cái gì, phải có đối tượng. Bất cứ tri giác nào cũng có đối tưọng. Trong trường hợp tri giác về thân thì thân trở thành đối tượng của tri giác tôi. Cái mà tôi có thể biết chắc được là thân là đối tượng của tri giác, của ý thức, còn thân như là một thực tại nằm ngoài tri giác hay không thì đó là một vấn đề khác. Vấn đề đó không chắc được. Điều chắc là tri giác gồm có hai phần, chủ thể tri giác và đối tượng tri giác và cái mà tôi với tới được là đối tượng của tri giác còn đối tượng tri giác đó có phải là một vật tự thân ( la chose en soi ) hay không thì đó là vấn đề khác. Vì vậy hiện tượng luận tới rất gần với đạo Phật, tại vì đạo Phật nói rằng : tri giác gồm chủ thể của tri giác và đối tượng của tri giác.

Trong đạo Phật, thế gian, trời đất, sông, núi, trăng sao đều gọi là pháp ( les phénomènes ), mà các pháp là đối tượng của tâm. Trong sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp thì pháp là đối tuợng của tâm chứ không phải là những hiện tượng độc lập ngoài tâm. Điều này rất là quan trọng. Tiếng anh gọi là object of mind, ví dụ như tờ giấy là một pháp, bàn tay tôi là một pháp, ánh sáng kia là một pháp. Tất cả những cái đó đều là đối tượng của tâm ( object of mind ). Vì vậy đạo Phật rất gần với hiện tượng luận.

Giây phút hiện tại ôm được quá khứ và tương lai. Phương pháp tu trong chánh niệm không cấm chúng ta quán chiếu về quá khứ và thiết kế cho tương lai. Phương pháp của đạo Phật dạy ta đừng luyến tiếc, sầu khổ về quá khứ. Nhưng an trú trong hiện tại chúng ta có thể học hỏi rất nhiều từ quá khứ. Chúng ta có thể đem quá khứ vào hiện tại để quá khứ có thể trở thành sự học hỏi của chúng ta trong hiện tại. Vấn đề là đừng đánh mất mình trong những lo lắng, tiếc thương, sấu đau về quá khứ nhưng ai cấm mình đem quá khứ biến thành một đối tượng để học hỏi trong hiện tại ? Còn đối với tương lai thì phương pháp của của đạo Phật là đừng lo lắng, sợ hãi, bất an về tưong lai, tại vì lo lắng, sợ hãi, bất an chỉ làm hư tương lai và không cho mình sống trong hiện tại. Khi nhìn kỹ thì ta thấy tương lai chỉ làm bằng một chất liệu mà thôi. Đó là chất liệu hiện tại. Nếu tương lai không được làm bằng hiện tại thì được làm bằng gì ? Khi chúng ta xử lý, chăm sóc được hiện tại với tất cả tài năng của chúng ta thì chúng ta đang làm tất cả cho tương lai rồi ! Còn lo lắng sợ hãi làm gì nữa ? Cho nên quản lý, chăm sóc cho hiện tại bằng tất cả trí tuệ và năng lượng của chúng ta là một việc rất quan trọng. Đó là làm cho tương lai rồi. Cho nên khi an trú trong hiện lại ta có thể thiết kế một cách thông minh cho tưong lai. Nhưng thiết kế cho tương lai không có nghĩa là lo lắng, sợ hãi, bất an về tương lai. Trong đạo Phật chỉ khuyên mình đừng lo lắng, sợ hãi, bất an về tương lai mà thôi nhưng mình có thể nghiên cứu, thiết kế cho tương lai chứ. Nhưng trong khi đó mình vẫn thiết lập mình vững chãi trong giây phút hiện tại. Đây là vấn đề danh từ thôi chứ không phải là vấn đề gì lớn

Giáo sư phát biểu : Tôi rất cám ơn và thỏa mãn với lời giải thích của thiền sư, nhất là câu cuối cùng về sự liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng theo tôi thì những người phụ trách thông tin của thiền sư nên cải chính trên báo của Việt nam. Những tin đăng trên báo Việt nam thì người Việt nam hiểu. Như tôi là người Việt nam hiểu là sự đứt đoạn giữa quá khứ và hiện tại và không có gì liên hệ giữa hiện tại và tương lai. Tôi đã đọc và tôi cắt bài báo rất cẩn thận. Tôi sợ là người Việt nam hiểu không đúng ý kiến của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Nếu thiền sư thấy đúng như vậy thì nên cho bộ phận phụ trách thông tin của thiền sư cải chính trên báo chí. Tôi sợ các nhà báo hiểu không đúng như thiền sư giải thích vừa rồi tôi thấy ý kiến rất đúng đắn.

Thiền sư trả lời: Xin cám ơn giáo sư. Tôi nghĩ rằng các bậc vĩ nhân bị hiểu lầm nhiều lắm thì chúng tôi sức mấy mà không bị hiểu lầm.

 

Giáo sư Nguyễn Đình Chủ : Trước hết tôi xin bày tỏ niềm vui lần thứ hai được nghe thiền sư thuyết trình. Qua lần thứ nhất cách đây hai năm, cũng tại chổ nầy nghe thiền sư thuyết trình tôi có cảm nhận một điều : thiền sư là người muốn làm mới Phật giáo Truyền thống. Đi xa hơn trong điểm này theo tôi hiểu thì Phật giáo Truyền thống ( chưa phải là hết tất cả Phật giáo ) tương lai ảo tưởng, nhưng thiền sư có một ý tưởng muốn hướng con người đến hạnh phúc ngay trong hiện tại. Đi được một bước là hạnh phúc, thở được một nhịp thở là hạnh phúc. Tôi thú thật rất thích, tán thành ý tưởng ấy qua buổi nói chuyện lần trước cũng như lần này nó đụng đến trong tôi mấy điều mà tôi xin hỏi rõ thêm : Một là nó đụng đến vấn đề tâm lý học, những thành tựu của tâm lý học. Vậy thì lý thuyết của thiền sư có bà con gì, có khai thác gì về phương diện tâm lý học không. Thứ hai là lý thuyết của thiền sư hình như ít nhiều cũng đụng tới hiện sinh trên phương diện triết học. Liệu thiền sư trong khi xây dựng lý thuyết đó có tham khảo, có thấy gì tương đồng hay tương dị giữa ý tưởng của thiền sư và cái gọi là hiện sinh không. Thứ ba là : qua lần nói chuyện của thiền sư tôi thấy rõ ràng là có một khái niệm gọi là bất nhị, một chứ không phải hai. Vậy thì tôi cũng hiểu ch này hình như là ch có sự khác nhau giữa phương Đông và phương Tây. Phương Tây có nói đến tư duy tiến trình ( esprit linéaire ). Phương Đông nói đến tư duy cầu tính ( esprit global ). Ở Việt nam ta có nhà đạo học Cao Xuân Huy trong một công trình khoa học rất sáng giá có nói đến tư tưởng chủ tòa, khác với chủ điểm của phương Tây. Thiền sư có thấy ch này có gì đó mang truyền thống tư duy của phương Đông khi nói đến cái gọi là bất nhị.

Ở đây tôi xin trở lại vấn đề thứ nhất là vấn đề tâm lý học. Với trình độ hiểu biết rất non yếu của tôi mà đọc qua các sách về Phật giáo Việt nam thấy nói tu hành, tâm linh v.v... nhưng mà chưa thấy chưa có ai đưa ra khái niệm gọi là Tâm lý học Phật giáo, trong khi đó tôi có đọc quyển “ Triết học Phật giáo “ của Rosenthal dịch ra tiếng Việt chủ yếu nói đến Phật giáo Nhật bản, trong đó có nói đến Tâm lý học Phật giáo. Tôi xin nhờ thiền sư giảng dạy thêm. Xin cám ơn.

Thiền sư Nhất Hạnh : Kính thưa các vị thiện tri thức. Kính thưa các vị khách quí. Trong đạo Phật có một nền tâm lý học rất sâu sắc. Trong Tam tạng Kinh điển có một nền văn học gọi là Abhidharma ( A Tỳ Đạt Ma ). Đây đích thực là tâm lý học của Phật giáo. Tâm lý học Phật giáo có tính cách thực dụng vì các thiền sư luôn luôn nói rằng nếu mình không biết lối vận hành của tâm thì tu khó thành. Phải biết tâm mình vận hành như thế nào thì tu tập, chuyển hóa dễ dàng. Như lòi nói của thiền sư Thường Chiếu -một thiền sư đời Lý- Khi ta biết được các vận hành của tâm thì tu tập dễ thành công hơn. Vì vậy tâm lý học trong Phật giáo rất quan trọng. Trong Phật giáo nguyên thỉ thì là văn học Abhidharma, trong Phật giáo Đại thừa là văn học Duy thức học ( Vijnanavada ). Duy thức học là một hệ thống tư tưởng giáo lý rất quan trọng ở Ấn độ. Ở Trung quốc có thầy Huyền Trang trong khi Tây du có thu thập rất nhiều kiến thức về Duy thức học và thành lập một trường phái gọi là Duy thức tông. Thật ra không phải thầy Huyền Trang thành lập mà là thầy Khuy Cơ, một cao đệ của thầy Huyền Trang, trường phái đó chuyên về tâm lý học Phật giáo. Tâm lý học này là tâm lý học áp dụng. Trong thời gian ở Tây phương chúng tôi đã từng mở các khóa thực tập cho các nhà tâm lý trị liệu  (Psychotherapist ). Những khóa tu như vậy luôn có rất đông người tham dự tại vì đạo Phật có một nền tâm lý học rất xưa cổ -2500 năm-, trong khi đó thì nền tâm lý học Tây phuơng còn trẻ, nhất là nền tâm lý trị liệu chỉ có một vài trăm năm. Cho nên đạo Phật có rất nhiều tuệ giác để cống hiến cho nền tâm lý trị liệu Tây phương. Vì vậy các nhà tâm lý trị liệu tới những khóa tu đó rất nhiều. Họ tới học là vì trong những khóa đó ta không những chỉ học trên văn bản mà thôi, ta còn được thực tập liền, áp dụng liền vào trong đời sống của chúng ta. Trong lúc hướng dẫn tu tập về môn này ở Tây phương thì chúng tôi có sáng tác ra được 50 bài kệ gọi là Ngũ thập Duy biểu Tụng thâu tóm những tinh hoa của nền Tâm lý học Áp dụng Phật giáo. Bên Pháp, Anh chúng tôi đã làm thành sách. Năm mươi bài Tụng đã được diễn giải và đem ra áp dụng để chuyển hóa, tu tập và nuôi dưỡng. Nhưng ở Việt nam thì cuốn sách đó chưa được dịch. Tiếng Anh là Transformation At the Base ( Chuyển hóa ngay tận gốc ) và mới được tái bản với tựa đề là “ Understanding our mind “ ( Làm thế nào dể hiểu được sự vận hành của tâm ta ). Khi sách được xuất bản lần đầu với tựa đề “ Transformation at the base ”  thì Ý Tâm thức mà ta thường biết tới ( như ) là ý thức. Nhưng nằm dưới ý thức còn có phần gọi là Tàng thức ( Alaya-Vijnana ). Tất cả các hạt giống của tâm hành như buồn khổ, lo âu, giận hờn, sợ hãi hay tha thứ bao dung, hanh phúc, từ bi, đều nằm sâu ở tâm thức của A Lại Da Thức. Muốn có hạnh phúc thực sự thì phải nhận diện được tâm hành đó ở dạng những hạt giống và chuyển hóa tận gốc mới được. Còn nếu chúng ta chỉ đối xử với chúng khi chúng phát hiện trên mặt phẳng của ý thức thì ta chưa giải quyết được căn bản. Vì vậy cuốn sách đó có tên là “ Transformation at the base ” ( Chuyển Hóa Tận Gốc ), tiếng Phạn là Asrayaparavritti. Asraya là gốc nhưng danh từ đó hơi chuyên môn nên nhà xuất bản trong kỳ in thứ hai đề tựa là “ Understanding our mind ” ( Làm thế nào để hiểu được Tâm của chúng ta ).

Đứng về phía Phật giáo thì chúng tôi có thể nói rằng Phật giáo ngày xưa đã đóng một phần rất quan trọng trong sự thành lập nền văn hóa, văn minh Việt nam. Các vua đời Lý, đời Trần đều tu tập thiền, không phải chỉ tín ngưỡng, bái sám hay cúng dường. Phần tôn giáo là phần nhỏ của đạo Phật thôi. Nếu ta chọc thủng được phần đó và đi vào phía trong thì chúng ta sẽ động tới được kho tuệ giác của đạo Phật. Nhưng ở Việt nam chúng ta chỉ khai thác được nhiều phần tôn giáo, tín ngưỡng mà thôi. Chúng tôi rất mong các nhà trí thức, thiện tri thức nghiên cứu thêm Phật giáo và nhất là thực tập thêm Phật giáo để có thể tíếp xúc được với kho tàng rất phong phú trong đạo Phật. Khi chúng ta có được kho tàng tuệ giác rồi thì ta có thể tháo gỡ được những khó khăn, bức xúc, tuyệt vọng, lo lắng, sầu khổ. Ta biết rằng sự cầu nguyện, cầu xin chỉ có thể làm lắng dịu, vơi bớt mà thôi chứ không thể giải quyết tận gốc. Giải quyết tận gốc phải có Giới, có Định, có Tuệ giác. Chúng ta chưa khai thác đưọc hết tiềm năng của đạo Phật. Nếu khai thác được thì ta có thể đóng góp rất nhiều cho sự xây dựng đất nước và dân tộc. Trong thời đại hiện tại với những phát triển kinh tế, kỹ thuật thì những tệ nạn xã hội từ từ bung ra. Nếu không có chiều hướng tâm linh thì chúng ta không thể nào dập tắt, ngăn ngừa và chuyển hóa những tệ nạn xã hội đó.

Các nhà doanh thương, chính trị nếu bận rộn quá không có thì giờ tu tập thì cũng không có khả năng tháo gỡ những khó khăn trong sự nghiệp chính trị và kinh doanh của mình. Có thể mình có nhiều quyền hành, nhiều tiền bạc nhưng mình vẫn đau khổ như thường nếu mình không có một chiều hưóng tâm linh trong đời sống hằng ngày. Khi chúng ta khai thác được phần đó trong đạo Phật thì ta sẽ được trang bị bởi một nếp sống tâm linh, tinh thần và cuộc sống của ta có thể có được nhiều hạnh phúc hơn. Chúng ta có thì giờ, có năng lượng để chăm sóc, thương yêu, làm cho cuộc sống của ta thực sự có hạnh phúc. Nếu không chúng ta chỉ có thể đạt được nhiều tiền, nhiều uy quyền nhưng chúng ta đánh mất hạnh phúc vì rất nhiều người có nhiều tiền, nhiều uy quyền nhưng không thực sự có hạnh phúc. Vì vậy chúng ta phải khai thác kho tàng tuệ giác trong đạo Phật. Đó là công trình chung của tất cả các Phật tử và các bậc thiện hữu tri thức. Đạo Phật là một gia sản rất quí báu của văn hóa Việt nam mà chúng ta chưa sử dụng được một phần của cái gia sản đó. Rất là uổng !

Đứng về câu hỏi thứ ba thì tư duy hay cái thấy của đạo Phật là tương tức, duyên sinh. Tôi xin đem ra một thí dụ là khi nhìn vào cái hoa hồng trước mặt, tôi hỏi bông hoa từ đâu tới thì mình có thể trả lời là bông hoa từ người trồng hoa tới. Người trồng hoa hồng đâu phải là nguyên nhân duy nhất của hoa hồng. Bông hồng cần có nhiều điều kiện như hạt hoa, cành hoa. Nhìn vào bông hồng ta thấy có rất nhiều yếu tố mà ta có thề gọi là không phải là bông hồng như mặt trời - mặt trời trong bông hồng. Nếu không có mặt trời thì làm sao có ánh sáng, sức nóng và bông hồng không làm sao mọc lên được. Nhìn vào bông bồng thì ta thấy mặt trời, đám mây. Đám mây nằm trong lòng của bông hồng. Không có đám mây thì làm sao có mưa. Không có mưa thì làm sao bông hồng có thể mọc lên được. Nhìn vào bông hồng ta thấy đất phân, không có đất phân thì làm sao bông hồng có thể mọc lên được?. Tất cả vũ trụ đã tới với nhau để làm biểu hiện ra bông hồng. Cái một được làm bằng cái tất cả. Tiếp xúc được với bông hồng ta có thể tiếp xúc được với toàn thể vũ trụ. Tiếp xúc được với con người ta có thể tiếp xúc được với tất cả các thế hệ tổ tiên trong ta. Cái nhìn của đạo Phật là khi nhìn cho sâu vào cái một thì ta thấy được cái tất cả. Cái một không thể nào tách lìa ra cái tất cả. Có một thiền sư đời Lý đã nói: Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không.

Cái một chứa đựng cái tất cả. Cho nên cái thấy của đạo Phật là cái thấy duyên sinh chằng chịt. Chứ không phải thấy theo chiều dọc. Hiện bây giờ thế giới chúng ta cần tuệ giác đó tại vì những nước kinh tế phát triển mà không lo cho những nước chậm phát triển thì hiểm họa chiến tranh, bệnh tật, tai nạn thiên nhiên sẽ xẩy ra cho tất cả mọi người. Trái đất là một hành tinh, gia sản chung của tất cả mọi loài. Nếu ta chỉ lo cho đất nước, dân tộc ta thôi thì chưa đủ. Ta phải làm sao lo cho tất cả trái đất mới được. Đó là cái nhìn duyên sinh còn cái nhìn cục bộ kia là không chính xác. Đạo Phật đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn như thế. Khi nhìn được như thế thì ta có thể mở rộng đưọc vòng tay để ôm lấy tất cả nhân loại. Ta yêu được tất cả nhân loại chứ không phải chỉ yêu người cùng dòng họ huyết thống mà thôi. Tình yêu đó trong đạo Phật gọi là tình yêu không biên giới ( Tứ Vô Lượng Tâm, vô lượng là không có biên giới, là không đo lường được ).

Chúng ta đã nghe một giáo sư sử học, một giáo sư tâm lý học, một giáo sư văn học, bây giờ xin mời giáo sư y học Đoàn Xuân Hướng phát biểu.

 

Giáo sư Đoàn Xuân Hướng : Trước hết tôi rất hoan nghênh buổi thuyết trình của thiền sư. Tôi mới được nghe, được đọc, nhưng chưa gặp. Đây là lần gặp đầu tiên xin thiền sư nhận sự chúc mừng của tôi. Tôi chỉ nói hai ý, ý thứ nhất như một nhận xét, ý thứ hai như một câu hỏi. Về nhận xét tôi thấy rằng đạo Phật chủ trương một hạnh phúc ngay trên cõi đời này chứ không phải là một Niết Bàn xa xôi. Cách để đạt tới hạnh phúc đó theo thiền sư giảng là một cách rất hiện đại kiểu như phân tâm học ( Psychoanalyse của Freud ) dùng để mô tả những phương pháp để đạt tới những vấn đề của vô thức. Tôi nghĩ rằng cách đó rất tốt để phổ cập nội dung Tứ Diệu Đế của đức Phật trong cõi đời này. Còn câu hỏi của tôi là vấn đề này: Ở Việt nam tôi là người theo đạo Phật nhưng không thờ cúng, tôi không biết cúng biết thờ. Người ta hỏi tôi tại sao tôi viết sách về vấn đề tâm linh mà không cúng không thờ. Tôi bảo là tôi theo lối Phật dạy là tu tại tâm. Hiện nay ở Việt nam là cúng bái nhiều lắm. Hầu như là đi tìm hạnh phúc bằng cách cúng bái, xin đủ mọi cái : quyền, chức, tài, lộc. Tôi đề nghị thiền sư nên dùng cách phân tích tâm lý học Phật giáo để giúp cho người ta tu tại tâm, tại gia, biết đi vào lòng mình, đi vào ý thức, vô thức của mình để đạt tới an lạc, hạnh phúc mà tự mình có thể đạt được. Tôi nghĩ buổi thuyết giảng với nội dung này nếu có thể phổ cập được để trở thành một tài liệu huớng dẫn thực tập để tu tại gia, tại tâm chứ không phải tu tại chùa. Như thế thì làm thế nào để cho cái đó trở thành hiện đại hóa Phật giáo Việt nam để những người theo đạo Phật có thể đạt được hạnh phúc ngay tại nhà mình, tại nước mình, tại trên quả đất này bằng phương pháp phân tâm, phân  tích tâm lý Phật giáo như thiền sư hôm nay đã giảng trong một thời gian rất ngắn. Nhưng tôi cho rằng tiếp tục cái đó thì cả đời chỉ cần cái đó mà có thể đạt được hạnh phúc. Xin hết.

Thiền sư trả lời : Trong đạo Phật người ta nói đến căn cơ. Căn cơ có nghĩa là trường hợp của từng người. Có người cần phương pháp này, có người cần phương pháp khác. Trong đạo Phật có nói tám vạn bốn ngàn pháp môn tu tập vì vậy chư vị tổ sư đã sáng tác ra không biết bao nhiêu là pháp môn tu tập. Khi thấy phương pháp tu tập thích hợp thì mình cứ theo nhưng đừng vội lên án phương pháp tu tập khác. Thường thuờng khi mới đến với đạo Phật thì ta nghĩ Phật là một hiện tượng, một thực tại ở ngoài mình và mình phải cung kính thờ. Chính chúng tôi cũng vậy. Trước hết nghĩ Phật là một bậc thầy có ngoài mình và mình hướng về bậc thầy đó để cung kính và đốt hương là một hình thức cung kính. Nhưng nhờ tu tập đàng hoàng nên một ngày nào đó mình thấy Phật không phải nằm ở ngoài mình. Tượng Phật trên bàn thờ chẳng qua chỉ là một tượng bằng đồng bằng đá thôi. Phật là nằm trong trái tim của mình. Phật là lòng từ bi, là trí tuệ. Đó là bản chất của Phật. Vì vậy có danh từ là Phật tại tâm.

Ban đầu mình nghĩ cõi Tịnh Độ, cõi Niết Bàn nằm ở ngoài. Nhưng nhờ có tu tập nên mình chứng ngộ rằng cõi Tịnh Độ có mặt ngay trong phút giây hiện tại. Khi tâm thanh thản, đầy tình thương, không có hận thù, tiếp xúc được với bản thể của vũ trụ thì Tịnh Độ, Phật Quốc hay Niết Bàn có mặt ngay trong phút giây hiện tại. Nhưng mà phải cần có công phu tu tập mới được. Ban đầu đi tới làm sao mà với tới được.

Khi ta đốt một cây hương trên bàn thờ tổ tiên thì đó được xem như một hành động thờ cúng hay mê tín nhưng cũng có thể xem như một hành động văn minh tâm lý học tại vì bàn thờ và cây hương giúp mình tiếp xúc được với tổ tiên trong từng tế bào của cơ thể mình. Ngạn ngữ Việt nam có nói : “ Con cháu đi đâu thì ông bà đi theo đó ”. Điều đó rất đúng ! Không phải đi theo sau chúng ta mà là đi trong chúng ta tại vì theo khoa học ta biết rằng cha, mẹ, tổ tiên đang có mặt trong từng tế bào cơ thể của chúng ta. Đó là những nhiễm thể ( gene ) mà tổ tiên để lại. Ta biết rằng cha mẹ tuy có mặt ở ngoài những cũng có mặt trong từng tế bào cơ thể ta. Vì vậy ta đi đâu thì cha mẹ đi theo đó. Nếu ta tu tập có hạnh phúc, thảnh thơi thì cha mẹ trong ta cũng hạnh phúc, thảnh thơi.

Những người bị phóng thể, bị cắt đứt với tổ tiên, văn hóa thì không có hạnh phúc. Khi ta nâng lên một cây hương và tưởng niệm tới tổ tiên thì ta tiếp xúc được với tổ tiên ngay trong cơ thể của ta. Nhờ tiếp xúc với tổ tiên như vậy nên ta không mất gốc. Có những người không liên hệ được với tổ tiên mình thì làm sao có thể yêu thương được con cháu. Họ sống trong tình trạng không thể alliéné. Hành động đốt một cây hương để tiếp xúc được với tổ tiên trong từng tế bào của cơ thể có thể là một hành động rất là khoa học, rất văn minh mà không phải là mê tín gì hết. Tùy theo cái nhìn của mình mà thôi. Nếu những ngưòi đó bắt đầu bằng những hình thức thực tập thấp thì từ từ mình giúp cho người đó đi lên, thực tập cao, chứ mình đừng có chê trách. Thí dụ có người đốt vàng mã, tiền giấy xuống cho người thân của mình ở cõi âm thì mình thấy đó là một hành động mê tín, dị đoan. Tuy nhiên với con mắt của một nhà văn hóa thì mình thấy trong hành động đốt vàng mã, tiền giấy đó có một tình thương, sự thao thức của nguời sống đối với nguời chết. Đó là văn hóa, đó là cái đẹp. Nếu chúng ta chưa có phương thức văn minh hơn để tỏ bày tình cảm đó thì ta hãy khoan vội lên án hành động kia, vì đó thuộc về một phần của văn hóa. Những nhà văn hóa là những người sáng tạo ra cho chúng ta phương thức sinh hoạt mới để nuôi dưỡng cái tình, cái nghĩa, hạnh phúc, tự do, thảnh thơi. Những hình thái sinh hoạt mới giúp cho mình bỏ được từ từ những hình thái sinh hoạt cũ mà về phương diện hình thức thì giống như mê tín, dị đoan. Co nên chúng ta phải có cái nhìn bao dung, rộng mở để đừng lên án, buộc tội. Do đó chúng ta có thể hiểu được và giúp mọi người đi lên. Đó là tinh thần của đạo Phật Đại thừa.

Có những người Phật tử tin rằng sau khi chết thì có thể sinh sang cõi Tịnh Độ ở Phương Tây gặp đức A Di Đà. Chúng tôi ở Làng Mai, chùa Đình Quán, chùa Từ Hiếu tu tập chúng tôi làm thế nào để cho trong thân, trong tâm được an lạc, thân tâm nhất như. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở giúp cho mình khám phá được Tịnh Độ đó ngay trong giây phút hiện tại. Chúng gọi là Tịnh-Độ-cầm-tay. Đi tới đâu thì Tịnh Độ theo mình tới đó. Đi ra nhà ga thì mình cũng thảnh thơi an lạc như ở nhà. Đó gọi là Tịnh Độ hiện tiền, Tịnh Độ trong giây phút hiện tại, Hiện Pháp Tịnh Độ. Trong Kinh có nói Cực Lạc, Tịnh Độ nằm trong trái tim mình chứ không phải nằm trong không gian và thời gian. Nếu trái tim mình có đầy thương yêu, hiểu biết, tha thứ, nếu mình có khả năng tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại thì Tịnh Độ hiện tiền. Nhưng mà có những người tu tập bằng cách tin rằng Tịnh Độ ở  Phương Tây có sau khi mình chết thì mình phải từ từ huớng dẫn họ để họ có thể sống trong Tịnh Độ hiện tiền như bây giờ. Trong đạo Phật cần phải có sự thương yêu, hiểu biết và đưa tất cả cùng đi lên với mình chứ không phải là mình đi một mình. Còn nếu mình chỉ sử dụng phương pháp phân tâm học để giải phóng những khổ đau cho mình thì những người chưa học về tâm lý học làm sao hiểu được ? Mình phải thi thiết ra những phương pháp khác để họ có thể đạt tới những cái mình đã đạt được. Đó là lòng từ bi, là tâm cởi mở. Xin cám ơn quí vị.

 

Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính là con đường / There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.