Lắng
dịu thân tâm
Kính thưa các vị thiện tri thức, kính thưa các vị khách quí,
Trong thiền môn mỗi khi nghe tiếng chuông chúng tôi chấm dứt
mọi nói năng, mọi suy nghĩ và trở về với hơi thở, thở vào
tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười, để cho tâm hợp nhất
với thân, để mình có mặt thật sự trong giây phút hiện tại, vì
giây phút hiện tại là giây phút mà mình có thể tiếp xúc được
với những mầu nhiệm của sự sống. Trong buổi giao lưu này thỉnh
thoảng chúng ta sẽ nghe một tiếng chuông. Khi nghe chuông thì
chúng ta ngừng nói, ngừng nghe, ngừng suy nghĩ. Chúng ta trở
về với hơi thở, thở vào và thở ra thật thoải mái 3 lần để đem
lại sự thoải mái, nhẹ nhàng và an lạc cho thân tâm.
Tiếng Việt có danh từ an lạc, có thể dịch ra
tiếng Anh là peace and happiness. Chúng ta biết rằng nếu không
có an thì không thể nào có được lạc. Hạnh phúc
sẽ không có được nếu chúng ta không có an. An
tức là sự bình yên, sự bình yên trong cơ thể cũng như sự bình
yên trong tâm hồn. Chúng ta biết trong cơ thể có những căng
thẳng, đau nhức. Những căng thẳng, đau nhức đó được dồn chứa
mỗi ngày. Trên căn đó nhiều cơn
bệnh có thể phát sinh. Làm thế nào để thân an là một phép thực
tập. Làm thế nào để lấy đi sự căng thẳng đau nhức trong thân.
Trong giáo lý đạo Phật có những phương pháp rất cụ thể
giúp
chúng ta có thể làm được chuyện đó. Nếu làm
lắng dịu được những căng thẳng đau nhức trong thân thì chúng
ta cũng có thể làm được như vậy đối với những căng thẳng đau
nhức trong tâm. Trong tâm có những khối lo lắng, giận
hờn, sợ hãi, tuyệt vọng, bực bội. Chính những năng lượng đó
làm cho ta bất an. Khi bất an thì
không có lạc. Đạo Phật là một hệ thống dạy cho ta phương pháp
làm thế nào đối trị được sự bất an trong thân và trong tâm.
Điều này cần đến sự thực tập nhiều hơn là lý luận. Trong văn
học Phật giáo chữ học có một nghĩa rất đặc biệt.
Chữ học trong
đó
không có nghĩa là chất chứa những kiến
thức do đọc sách hay ngồi trong lớp học. Học ở đây có nghĩa là
rèn luyện, thực tập. Chữ học này tiếng Pháp là entrainement,
formation, tiếng Anh là training có nghĩa là mình phải thực
tập, rèn luyện. Chúng ta biết trong luận ngữ có câu : học
nhi thời tập chi bất duyệt lạc hồ. Học đồng thời phải áp
dụng những điều mình học, cái đó đem lại nhiều hạnh phúc.
Trong đạo Phật có danh từ “ vô học “ và “ hữu học
”. Hữu học là mình còn phải thực tập phải tu luyện. Còn thành
công rồi thì không cần phải luyện tập nữa, trạng thái đó gọi
là vô học. Vô học là thực tập thành công rồi. Còn trong ngôn
ngữ thế gian “ vô học ” là không có cơ hội học hỏi. Chữ học
được dịch từ tiếng Phạn là sisha, có nghĩa là rèn
luyện, là thực tập ( entrainement, training ). Trong đạo Phật
danh từ tuệ dùng trong bộ ba Niệm, Định, Tuệ
không phải là kiến thức mà chúng ta chất chứa nhờ sự học hỏi
trong trường hay trong sách. Tuệ này là một cái thấy do thực
nghiệm. Chúng ta phải trực tiếp thực chứng thì mới gọi là
tuệ. Ví dụ có một người chưa biết trái sầu riêng là trái
gì người đó có thể nghe những người khác giảng giải trái sầu
riêng giống như thế này, múi sầu riêng màu vàng như múi mít
nhưng không phải là mít. Chúng ta nói bao nhiêu thì người
kia chỉ có thể chất chứa một số ý niệm về trái sầu riêng nhưng
người đó không có kinh nghiệm trực tiếp về múi sầu riêng. Cách
hay nhất là chúng ta hiến tặng người đó một múi sầu riêng, bỏ
vào miệng thì người đó có kinh nghiệm trực tiếp về múi sầu
riêng. Đó gọi là tuệ ( experience directe ). Chữ tuệ
trong đạo Phật có nghĩa một cái thấy có khả năng tháo gỡ những
khó khăn trong đời sống hằng ngày của mình, những bức xúc, lo
lắng, ưu phiền, mâu thuẩn trong con người của mình và tháo gỡ
được cho những người mình thương. Chỉ khi nào mình có tuệ thì
mình mới có khả năng tháo gỡ. Còn nếu mình chất chứa kiến
thức, dù là kiến thức Phật học, thì cũng là vô ích.
Ở Tây phương có những trường đại học có thể cấp phát văn bằng
Phật học và dạy rất khoa học. Nhưng những văn bằng đó chỉ
chứng tỏ rằng mình đã học nhiều năm về văn học Phật giáo chứ
không có nghĩa là ta đã có cơ hội thực tập, rèn luyện. Nó khác
với một tu viện, một Phật học viện. Khi có bằng tiến sĩ Phật
học thì ta có thể đi dạy được. Nhưng có thể khi ta có những
nỗi khổ niềm đau thì ta không thể tháo gỡ được vì ta chỉ có
những kiến thức về Phật học mà không có tuệ giác Phật học. Hai
cái đó khác nhau.
Chế tác năng lượng chính niệm
Trong ta có những năng lượng giúp hế tác ra an
và lạc. Trong ta cũng có năng lượng ngăn cản
không cho chúng ta có an và có lạc.
Vì vậy sự thực tập giúp ta có khả năng nhận diện những năng
lượng đó khi chúng phát khởi trong thân cũng như trong tâm.
Năng lượng giúp ta có thể nhận diện được những năng lương tích
cực hay tiêu cực trong thân và trong tâm gọi là năng lượng
chính niệm, tiếng Phạn là smirti, tiếng Pali
là satti, tiếng Việt là niệm hay
chính niệm. Nó là năng lượng giúp ta nhận diện những
gì đang xẩy ra trong giây phút hiện tại. Thí dụ như khi thở
vào mà tôi ý thức là tôi đang thở vào thì đó là thở trong
chính niệm. Khi tôi uống trà mà tâm tôi có mặt, tôi biết là
tôi đang uống trà thì đó gọi là uống trà trong chính niệm. Khi
tôi bước đi một bước mà tôi ý thức được bước chân đó thì gọi
là bước đi trong chính niệm. Phần lớn trong chúng ta khi uống
trà thì ta không biết là ta đang uống trà vì đầu của chúng ta
bị lôi kéo bởi quá khứ hoặc tương lai, bởi những dự án, khổ
đau, buồn bực của chúng ta.. Tâm không có mặt với thân nên
mình không nhận biết những gì đang thật sự xẩy ra trong giây
phút hiện tại. Đem tâm về với thân để tâm có thể nhận diện
được tất cả những gì đang xẩy ra trong thân và trong tâm đó
gọi là thực tập chính niệm.
Trong Nho giáo Luận ngữ cũng có dạy chuyện này. Khi tâm không
có mặt thì nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe, ăn mà không
biết mùi vị ( Tâm bất tại thị nhi bất kiến, thính nhi bất
văn, thực nhi bất tri kỳ vị ). Trong sách Luận ngữ cũng
có nói về chính niệm. Căn bản của sự thực tập Phật giáo là
luôn luôn đem tâm trở về với thân để cho thân-tâm hợp-nhất.
Khi thân-tâm hợp-nhất thì ta thật sự có mặt trong phút giây
hiện tại. Nếu ta thật sự có mặt trong giây phút hiện tại thì
ta có khả năng tiếp xúc với những mầu nhiệm, tươi mát, những
gì có thể nuôi dưỡng mình trong giờ phút hiện tại. Nếu ta thật
sự có mặt trong giờ phút hiện tại thì chúng ta cũng có cơ hội
nhận diện những gì tiêu cực đang xẩy ra để có thể ôm ấp, làm
lắng dịu và chuyển hóa chúng trong đó có giận, buồn, lo, và
sợ. Chính niệm là loại năng lượng giúp cho ta trở về trong
giây phút hiện tại và biết được những gì đang xẩy ra trong
giây phút hiện tại. Đó là sự thực tập căn bản trong đạo Phật.
Niệm đưa tới Định, Định đưa tới Tuệ. Tuệ là trí tuệ có khả
năng tháo gỡ những khó khăn, bức xúc, lo lắng, buồn khổ của ta
và giúp ta tháo gỡ được cho những người khác.
nhận diện và chuyển hóa
Có một năng lượng rất mạnh trong mỗi chúng ta ngăn cản không
cho chúng ta được an và lạc. Chúng
ta phải nhận diện nó. Tên của nó tiếng Phạn là vasana,
tiếng Việt là tập khí. Tập khí là thói quen. Chúng ta
có những thói quen đã được huân tập lâu ngày. Có những thói
quen tốt và những thói quen xấu. Chính những thói quen xấu đó
ngăn không cho chúng ta có an và có lạc. Chúng ta phải sử dụng
năng lượng của chính niệm để nhận diện tập khí đó, thói quen
đó
mỗi khi nó vừa xuất hiện. Chúng ta có dư thông minh để hiểu
rằng nói một câu như thế là có thể gây đổ vỡ, làm một cử chỉ
như thế thì có thể gây đổ vỡ. Chúng ta biết như thế. Nhưng khi
hoàn cảnh xẩy ra thì ta vẫn nói câu đó, vẫn làm điều đó và gây
ra sự đổ vỡ trong lòng chúng ta, trong gia đình chúng ta,
trong sự liên hệ giữa ta và người khác.
Cái gì thúc đẩy chúng ta nói câu đó, làm việc đó trong khi ta
biết rằng nói câu đó là tan vỡ, làm việc đó là tan vỡ. Năng
lượng đẩy chúng ta nói và làm việc đó là tập khí ( vasana ).
Khi chúng ta đã nói rồi, làm rồi, gây ra tan vỡ rồi thì chúng
ta không giận người kia nữa, ta quay lại giận mình. Tại sao
mình biết như thế, mình biết rất rõ là nói một câu như thế,
hành động như thế gây đổ vỡ, vậy mà mình vẫn nói, vẫn làm ?
Mình trở lại giận mình, mình bức tóc, đập ngực, xấu hổ với
chính mình và tự hứa rằng từ nay về sau sẽ không nói nhũng câu
như thế, không làm những việc như thế. Mình có thể lạy tổ
tiên, lạy Phật, lạy các vị bồ tát và hứa là từ nay về sau
con sẽ không dại dột nói những câu, làm những việc như thế
nữa. Ấy vậy mà lần sau, hai, ba tháng sau, khi mà hoàn cảnh
đưa tới thì mình vẫn ngựa theo lối cũ, mình vẫn nói, vẫn làm
lại như thường, để mình lại đau khổ, bức tóc, đập ngực như
thường. Đó là tại vì mình chưa điều phục được năng lượng ghê
gớm đó, tập khí ghê gớm đó trong con người của mình.
Chắc tất cả quí vị trong hội trường này cũng đã có một ít kinh
nghiệm về việc này. Ngày xưa Tuệ Trung Thưong Sĩ Trần Quốc
Tung, anh ruột của tướng Trần Hưng Đạo là một thiền sư cư sĩ.
Ông đã học Phật, đã tu tập rất vững và ông đã để lại rất
nhiều bài kệ, bài thơ, bài văn nói về sự chứng đạt của ông.
Chắc chắn là quí vị đã đọc ” Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục ”
trong đó có câu nói về tập khí bằng hình ảnh thi ca rất hay,
đó là câu “ phóng trước liên ti phược hổ nhi ”, dịch ra
tiếng Việt là “ liệng sợi tơ sen trói mãnh hổ ”. Mãnh hổ là
con thú hoang rất khó điều phục mà mình chỉ cần liệng sợi tơ
sen thôi có thể trói được nó. Chúng ta biết, khi bẻ cọng sen
thành hai và nâng một nửa lên thì nửa kia nó cũng theo lên vì
hai cọng còn dính vào nhau bởi những sợi tơ sen. Trong Kiều có
câu “ dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng ”. Sợi tơ sen rất
mỏng manh, rất nhẹ, nhưng nếu biết dùng thì mình có thể trói
một con mãnh hổ. Con mãnh hổ đây là tập khí, là thói quen ghê
gớm đó. Nó là con ngựa hoang, con voi hoang mà chúng ta phải
điều phục cho được nếu chúng ta không muốn gây tan vỡ trong
lòng ta và người khác, nhất là những người ta thương yêu. Ở
Thái lan người ta điều phục những con voi bằng những xích sắt
và những vồ bằng sắt. Ba, bốn tuần sau con voi có thể bắt đầu
thuần phục. Nhưng muốn điều phục con voi hoang tập khí chúng
ta không cần phải dùng những phương tiện bạo động như thế. Đức
Phật đã cho chúng ta nhũng phương pháp bất bạo động, rất nhẹ
nhàng để giúp chúng ta điều phục những tập khí đó, những thói
quen đó.
Phương pháp đó gọi là nhận diện đơn thuần ( simple
recognition, la reconnaissance simple ). Khi chúng ta thấy
năng lượng của tập khí bắt đầu ló đầu ra thì lập tức hành động
liền. Chúng ta trở về với hơi thở, chế tác năng lượng chính
niệm và năng lượng đó sẽ làm công việc nhận diện đơn thuần.
Thở vào tôi biết rằng tập khí trong tôi bắt đầu xuất hiện
Thở ra tôi mỉm cười với tập khí trong tôi
Rất là nhẹ nhàng ! Đúng là một sợi tơ sen. Khi tập khí ở một
mình, chiếm cứ được thân tâm thì nó tác hại được. Nhưng khi có
năng lượng của chính niệm, tức là năng lượng mình làm phát
khởi ra để nhận diện tập khí đó thì chúng ta lại ở vào trong
một hoàn cảnh khác. Thí dụ nắm tay trái của tôi là tập khí.
Năng lượng của tập khí tức là năng lượng của thói quen thúc
đẩy tôi nói và làm những điều gây đổ vỡ xuất hiện. Nếu tôi
không làm gì hết, tôi không phải là người có tu tập, thì nó sẽ
hoành hành, sẽ xúi tôi làm những điều gây đổ vỡ. Nhưng tôi là
một người có thực tập -tu có nghĩa là có thực tập- nên tôi
biết phải làm gì. Tôi trở về với hơi thở, thở vào, thở ra có
chính niệm, hoặc tôi đi thiền từng bước chân có chính niệm thì
tôi chế tác ra một năng lượng thứ hai gọi là niệm
( smirti ). Năng lượng thứ hai này có mặt để nhận diện năng
lượng đầu.
Thở vào tôi nhận diện năng lượng tập khí bắt dầu trổi dậy
trong tôi
Thở ra tôi mỉm cười với thói quen tập khí trong tôi
Đó gọi là nhận diện đơn thuần. Khi tập khí được nhận diện thì
nó mất đi rất nhiều năng lượng chính nó. Nó không còn đủ sức
để thúc đẩy mình nói và làm những điều mình không muốn nói và
không muốn làm. Đây là một phương pháp thực tập bất bạo động
rất là hữu hiệu nhưng chúng ta phải có công phu hằng ngày mới
được. Nếu công phu yếu thì mỗi khi tập khí đó nổi lên ta quên
thực tập để cho nó hoành hành. Cho nên trong đời sống hằng
ngày ta phải thực tập. Tập thở trong chính niệm, đi trong
chính niệm, uống trà trong chính niệm, ăn cơm trong chính
niệm. Hạt giống chính niệm trong ta trở thành quan trọng. Mỗi
khi cần đến nó, ta chỉ động một cái là nó phát khởi và nó giúp
chúng ta làm công việc nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa tập khí
đó.
Trong văn hóa Phật giáo có Kinh gọi là Kinh An Ban Thủ Ý, có
nghĩa là Kinh dạy về phương pháp thở để chế tác chính niệm.
Khi viết chữ niệm bằng Hán tự thì thấy rằng ở trên có chữ kim
tức là giây phút hiện tại và ở dưới là chữ tâm có nghĩa là tâm
của chúng ta. Đem cái tâm của ta về với giây phút hiện tại gọi
là niệm. Trong đời sống hằng ngày tâm của ta rong ruổi,
đi về quá khứ, tiếc nuối quá khứ, sầu khổ vì quá khứ. Nó không
có mặt trong giây phút hiện tại. Có nhiều người trong chúng ta
bị quá khứ giam hãm, không có khả năng sống được sâu sắc những
giây phút trong đời sống hằng ngày. Rất tội nghiệp. Có những
người trong chúng ta bị tương lai lôi kéo, lo lắng, sợ hãi,
bất an về tưong lai. Tương lai trở thành một ngục tù. Vì vậy
tâm ta bị kẹt vào quá khứ, tương lai, trong những dự án, lo
lắng, sầu khổ. Tâm không có đó cho thân. Khi đem tâm trở về
với thân thì ta thiết lập được thân tâm trong giây phút hiện
tại. Chúng ta thoát ra khỏi sự kềm chế của quá khứ và tương
lai. Trạng thái đó gọi là thân tâm nhất như, thân và tâm hợp
nhất. Chính niệm là năng lượng giúp ta thực hiện được cái gọi
là thân tâm nhất như, thân tâm hợp nhất. Kinh Quán Niệm Hơi
Thở trình bày 16 phương pháp thực tập thở giúp ta tháo gỡ
những bất an trong thân và trong tâm, rất hay, và giúp cho ta
có được tuệ giác, có thể tháo gỡ những khoắc khoải, những
tuyệt vọng, những bức xúc trong tâm của chúng ta.
Phiền não tức Bồ đề
Trong những khóa tu 7 ngày, 21 ngày tổ chúc cho thiền sinh ỏ
Âu châu, Mỹ châu chúng tôi luôn luôn trao truyền phương pháp
thở trong chính niệm, đi trong chính niệm, ăn cơm trong chính
niệm, lái xe trong chính niệm giúp cho thiền sinh biết chế tác
năng lượng đó. Khi có năng lượng đó rồi thì ta có khả năng
nhận diện những gì xẩy ra trong giây phút hiện tại, nhất là
những tâm hành tiêu cực, nhưn giận, buồn, lo. Chính niệm có
rất nhiều công năng. Công năng thứ nhất là nhận diện : ” À, ta
biết là ngươi đang có mặt đó. Không sao! Ta sẽ chăm sóc cho
ngươi ”. Công năng thứ hai là có thể ôm lấy năng lượng của sầu
khổ, lo lắng, giận hờn. Nó không cần phải vật lộn hoặc tranh
đấu hay đàn áp. Phương pháp của Đạo Phật là bất bạo động căn
cứ trên cái thấy gọi là Bất Nhị ( Non-dualistic ). Chính niệm
là mình, nhưng giận, buồn, tập khí cũng là một phần của mình.
Nếu mình đàn áp, chính – tà vật lộn thì tự biến mình thành ra
một bãi sa trường. Phương pháp của Đạo Phật không như vậy,
không phải chính - tà vật lộn, chính đàn áp tà. Cái thấy của
Đạo Phật là không nhị nguyên, đó là cái thấy Bất nhị. Ta không
dùng chữ Nhất nguyên mà dùng chữ Bất nhị tức là khổ đau kia là
ta mà hạnh phúc kia cũng là ta. Chính kia là ta mà tà kia cũng
là ta. Có sự liên hệ giữa chính và tà, giữa khổ đau và hạnh
phúc. Cũng như khi làm vườn, trong một khu vườn có hoa, có
trái, có rau nhưng cũng có khi có rác. Hoa thế nào cũng thành
rác. Những người làm vườn giỏi không vất đi những rác rưới
trong vườn. Họ ủ lại để làm phân và nuôi được rau, hoa, trái.
Nhìn vào trong hoa ta thấy rác và nhìn vào rác ta thấy được
hoa tương lai. Đó là cái nhìn Bất nhị.
Trong Đạo Phật có danh từ phiền não và bồ
đề. Bồ đề là giác ngộ, giải thoát, hạnh phúc. Phiền
não là khổ đau, đen tối. Trong Phật Giáo đại thừa ta nghe rất
rõ là “ Phiền não tức Bồ đề “. Ngay trong phiền
não ta tìm ra được Bồ đề. Chính ngay trong đống phân rác đó sẽ
chế tác ra những đóa hoa thật đẹp. Hai cái ( phiền não và bồ
đề ) không phải là hai kẻ thù. Cái nhìn đó gọi là Bất nhị. Căn
cứ trên cái nhìn Bất nhị trong Đạo Phật mà phương pháp tu cũng
là Bất nhị. Giữa cái gọi là thiện và ác không có sự đánh nhau,
đàn áp nhau. Một cái nhận diện, ôm ấp cái kia và cuối cùng
chuyển hóa cái kia. Đó là chuyển rác thành hoa, chuyển phiền
não thành Bồ đề. Phiền não dịch từ chữ klesa.
Những tâm hành tiêu cực của chúng ta gọi là phiền não như đam
mê, hờn giận, hận thù, lo lắng, sợ hãi. Đó là những phiền não
căn bản. Bồ đề là giải thoát, là giác ngộ, là từ bi. Giữa Bồ
đề và phiền não có sự liên hệ bất nhị. Người làm vườn giỏi
không vất rác đi, trái lại giữ rác để ủ phân nuôi hoa.
Chúng ta cũng vậy, chính trong những phiền não khổ đau kia ta
có thể tìm ra được sự an lạc, giải thoát, hạnh phúc. Một
khi năng lượng tiêu cực xuất
hiện trong ta, ta chế tác ra một năng lượng tích cực gọi là
chính niệm. Năng lượng này có hai nhiệm
vụ
thứ nhất là nhận diện, thứ hai là ôm ấp lấy năng lượng tiêu
cực một cách bất bạo động như bà mẹ ôm lấy đứa con của mình.
Khi em bé khóc la tức là nó có khổ gì trong thân hay tâm của
nó. Bà mẹ tới bế em bé và ôm trong lòng, vòng tay nhẹ nhàng,
dịu dàng. Tuy bà chưa biết tại sao em bé khóc nhưng sự ôm lấy
đứa bé trong tay nhẹ nhàng, êm dịu đã có tác động tốt. Năng
lượng dịu dàng đó, thương yêu đó của bà mẹ bắt đầu đi vào
trong em bé. Tuy bà chưa làm gì hết nhưng nội việc ôm em bé đã
làm cho em bớt khổ và em có thể nín khóc. Nếu nhìn sâu hơn bà
mẹ có thể khám phá ra được nguyên do làm cho bé khóc. Có thể
là bé sốt, bé đói, hay tả hơi chật… Khi đã thấy rồi thì bà mẹ
có thể thay đổi. Nếu bé đói thì cho em bình sữa. Nếu nó sốt
thì cho uống thuốc. Nhưng trước khi làm chuyện đó bà mẹ đã ôm
lấy em bé và năng lượng dịu hiền của bà đi vào em làm cho em
dịu xuống.
Phương pháp của Đạo Phật cũng giống hệt như vậy. Khi năng
lượng tiêu cực xuất hiện trong tâm như khổ đau, giận dữ, lo
lắng, tuyệt vọng bắt đầu biểu hiện thì năng lượng chính niệm
được chế tác liền lập tức. Năng lượng chính niệm làm công việc
nhận diện và ôm ấp. Năng lượng thứ hai bắt đầu đi vào trong
năng lượng thứ nhất và sẽ đem lại sự lắng dịu. Buổi sáng hoa
sen chưa nở, nó còn búp. Nhưng ánh sáng mặt trời tiếp tục
chiếu trên hoa sen. -Ánh sáng mặt trời không chỉ đi chung
quanh hoa sen mà thôi mà nó tìm cách đi vào trong hoa sen. Ánh
sáng mặt trời được làm bằng những hạt rất nhỏ gọi là quang tử
( photon ). Những quang tử không chỉ đi chung quanh để chơi,
nó tìm cách đi vào trong hoa sen-. Một, hai giờ đồng hồ sau,
năng lượng đó đủ mạnh để làm cho hoa sen nở ra. Phiền não,
giận hờn, lo lắng cũng vậy. Khi đươc ôm ấp bởi năng lượng
chính niệm thì năng lượng đó từ từ thấm vào và sau đó năm,
mười, mười lăm phút thì có sự lắng dịu. Nỗi khổ niềm đau của
chúng ta sẽ lắng dịu xuống trong năm, bảy phút nếu chúng ta
biết ôm ấp nó bằng năng lượng chính niệm mà không cần phải đàn
áp. Đây là vấn đề luyện tập mà không phải là vấn đề tranh
luận.
Chúng ta thường nghĩ là hạnh phúc chỉ có thể có khi ta có chổ
đứng trong xã hội, có danh vọng, quyền thế, nhiều tiền nhiều
bạc, quyền lực… Rất đông trong chúng ta đang chạy theo những
thứ đó. Chúng ta nghĩ rằng tiền bạc, danh vọng, quyền uy, sắc
dục là những điều kiện thiết yếu của hạnh phúc. Nhưng nếu nhìn
cho kỹ thì ta thấy có những người đang có rất nhiều những thứ
đó nhưng họ rất đau khổ tại vì trong thân tâm họ không có an.
Họ không biết cách xử lý những căng thẳng nhức nhối trong thân
và trong tâm. Trong đạo Phật muốn có hạnh phúc chân thật ta
phải tu tập. Ta phải biết cách nhận diện, ôm ấp và chuyển hoá
những tiêu cực xẩy ra trong thân và trong tâm. Trong đạo Phật
có những văn bản rất căn bản đề giúp cho người tu xuất gia
cũng như tại gia. Những kinh như kinh Quán Niệm Hơi Thở (
Anapanasati Sutta ), kinh Niệm Xứ ( Satipathana Sutta ) dạy
cho chúng ta những phương pháp rất cụ thể đề làm phát khởi
chính niệm, để làm lắng dịu những đau nhức, căng thẳng trong
thân và tâm. Khi học và thực tập những kinh đó, chỉ trong một
tuần thì chúng ta bắt đầu thấy có kết quả.
Lắng
nghe và Ái ngữ là công năng của Hiểu và Thương
Tôi xin nhắc lại cái học trong đạo Phật không phải là sự chất
chứa kiến thức dù là kiến thức Phật học, mà là sự luyện tập.
Luyện tập rất quan hệ. Chúng ta mở những khóa tu ( gọi là tu
nhưng thật ra là thực tập ), bên tây phương gọi là retreats.
Trong những khóa thực tập đó những người tham dự phải để ra ít
nhất là năm, sáu hoặc bảy ngày ở luôn tại chổ để được hướng
dẫn 24 giờ trong một ngày. Cố nhiên là ban đêm có ngủ nhưng
giờ còn lại là để thực tập. Những khóa tu -khóa thực tập đó-
đem lại sự chuyển hóa cho rất nhiều người. Vì vậy họ đồn đãi
nhau tìm tới khóa tu. Có những bằng cấp gọi là tiến sĩ Phật
học nhưng không giải quyết được những đau khổ. Nhưng tới một
khóa tu, thực tập thở trong chính niệm, đi trong chính niệm,
ăn cơm trong chính niệm, uống trà trong chính niệm, làm mọi
việc trong chính niệm thì có khả năng nhận diện, ôm ấp và
chuyển hóa những khổ đau trong thân và trong tâm. Nó làm cho
người mình nhẹ ra, có an và có lạc. Khi có an lạc rồi thì mình
có thể giúp đối tác của mình, giúp cho người bạn đường, người
yêu, con, chồng, vợ của mình cũng làm được như mình.
Khi trong lòng có an và lạc thì ta có thể sử dụng được ngôn từ
gọi là ái ngữ và phương pháp nghe gọi là
lắng nghe. Đây là hai phép tu rất quan trọng. Nó có
thể đưa đến sự hòa giải giữa các cặp vợ chồng, cha con, giữa
những nhóm người chống đối nhau. Hai phương pháp thực tập này
gọi và lắng nghe và ái ngữ, nghĩa
là nghe với tâm từ bi, với tất cả trái tim của mình, giúp cho
người kia có cơ hội để nói ra được tất cả nỗi khổ niềm đau của
người đó. Một giờ lắng nghe như thế có thể làm lắng dịu rất
nhiều khổ đau của người kia. Người kia có thể là vợ, chồng, bố
mẹ, con trai, con gái của mình. Tất cả chúng ta đều có thể học
phương pháp lắng nghe như thế. Khi lắng nghe bằng tình thương
thì dù người kia có nói bằng ngôn từ chua chát, trách móc, hờn
giận, lên án, buộc tội thì ta vẫn có thể tiếp tục lắng nghe.
Rất là hay, nhưng phải tập mới được. Nếu không có tu có tập
thì lắng nghe độ chừng 5 phút thì giận hờn, bực bội trổi dậy
và đánh mất khả năng lắng nghe của mình. Nhất là khi người kia
có tri giác rất sai lầm nên trong khi lắng nghe mình rất muốn
ngắt lời và sửa lưng người kia, cho những điều người kia nói
đều là sai lầm hết. Nhưng nếu mình ngắt lời và sửa lưng người
ta thì người ta sẽ không có cơ hội nói ra nữa. Buổi thực tập
lắng nghe trở thành buổi tranh luận và thất bại.
Lắng nghe là phải luôn luôn duy trì được tâm từ
bi. Lắng nghe đây không ngoài mục đích giúp cho người kia có
cơ hội nói ra niềm đau nỗi khổ chất chứa lâu nay mà chưa bao
giờ được nói ra. Nếu người đó có những tri giác sai lầm, những
thông tin sai lầm thì phải đợi ba, bốn, năm ngày sau mới cung
cấp cho người đó một ít thông tin để giúp người đó điều chỉnh
những sai lầm trong tri giác. Nếu nhớ được như thế thì ta có
thể tiếp tục lắng nghe được. Tôi có những học trò rất trẻ, 16,
17 tuổi tới những khóa thực tập thành công được trở về lắng
nghe và hòa giải được với bố mẹ. Tôi rất là hãnh diện về những
người đệ tử rất trẻ đó.
Ái ngữ là dùng những ngôn từ giúp cho người khác
có khả năng tiếp nhận được nhũng gì mình nói. Nếu mình muốn
nguời kia thấy và hiểu được những sai lầm, những tri giác sai
lầm của người đó thì mình phải dùng ái ngữ. Trong khi nói mình
không lên án, buộc tội, không trách móc, chua chát thì người
kia có nhiều cơ hội để nhận diện ra mình có những tri giác sai
lầm về chính mình và về người kia. Người kia sẽ có thể thay
đổi. Lắng nghe và ái ngữ là hai pháp môn rất tuyệt diệu giúp
cho những người chống báng nhau, thù hận nhau có cơ hội tái
lập truyền thông với nhau đem lại hòa bình, hòa giải, an lạc.
Đạo Tràng Mai thôn ở Pháp mỗi năm chúng tôi có bảo trợ những
nhóm người Israel ( Do thái ) và Palestine qua để tu tập. Họ
đã đi qua rất nhiều khổ đau, lo lắng, buồn phiền, hận thù, sợ
hãi. Mỗi khi tới họ không nhìn nhau được, họ không nói chuyện
với nhau được. Bên nào cũng đầy lo lắng, sợ hãi, hận thù, nghi
ngờ và chúng tôi đã cho họ thực tập theo phương pháp của Làng
Mai. Trước hết là hai nhóm ở riêng. Họ thực tập những phương
pháp để làm lắng dịu thân và tâm. Sau đó chừng 7 hay 10 ngày
chúng tôi chỉ cho họ phương pháp ái ngữ và lắng nghe. Một bên
có thể nói ra hết tất cả những khổ đau mà mình đã chịu đựng
trong cuộc chiến. Người lớn đã từng trải qua những khổ đau,
tủi nhục nào ? Trẻ em đã từng trải qua những khổ đau, tủi nhục
nào ? Mình có quyền nói hết cho bên kia nghe với điều kiện là
phải dùng ngôn từ gọi là ái ngữ. Mình có quyền và có bổn phận
phải nói cho bên kia nghe hết nhưng với điều kiện duy nhất là
phải sử dụng ái ngữ. Bên kia khi lắng nghe thì không cắt lời,
không chữa lỗi người kia và phải lắng nghe theo phương pháp đã
học, nghĩa là để người kia có cơ hội nói ra hết. Sau nhiều lần
thực tập lắng nghe và ái ngữ đó thì hai bên thay đổi thái độ
rất nhiều. Khi mình thấy người kia nói ra những đau khổ của
nhóm họ thì lần đầu tiên mình biết rằng : ” À, thì ra bên đó
họ cũng từng đau khổ giống hệt như bên mình. Họ cũng có những
sợ hãi, lo lắng, hận thù giống hệt như bên mình vậy.” Khi hiểu
được như thế rồi thì bên này có thể nhìn bên kia bằng cặp mắt
thương hại, từ bi. Và khi nhìn được như thế thì trái tim ứa ra
giọt nưóc cam lộ của từ bi và mình thấy dễ chịu. Và họ thấy
mình nhìn và mỉm cười với họ như vậy rồi thì họ bớt khổ liền
lập tức. Cuối cùng thì hai nhóm có thể ăn cơm chung với nhau,
nắm tay nhau đi thiền hành. Sau đó họ lên báo cáo một lần về
những thành quả của họ. Họ luôn luôn hứa khi về miền Trung
đông sẽ tổ chức những khóa như vậy để đồng bào của họ cũng có
thể tham dự tu tập cho bớt khổ.
Để có thì giờ cho chúng ta có được một ít trao đổi, chúng tôi
xin kết luận bài thuyết trình sáng hôm nay bằng cách nói rằng,
cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc sẽ không thể nào đạt được
nếu ta không có khả năng đem lại sự bình yên trong thân và
trong tâm. Khi ta có khả năng mang lại sự bình yên trong
thân và trong tâm rồi thì ta có thể giúp những người trong gia
đình, trong tập đoàn, trong xã hội. Hòa bình an lạc luôn luôn
bắt đầu bằng tự thân. “ peace begins with yourself ”. Chúng ta
đừng đòi hỏi người kia phải thế này, phải thế kia. Hãy bắt đầu
bằng chính mình, bằng một hơi thở, bằng một nụ cười, bằng một
bước chân, bằng một lời nói, bằng một cử chỉ hòa bình, an lạc.
Chúng tôi sẽ tiếp tục đề tài này chiều mai. Bây giờ chúng ta
có thì giờ cho một số câu hỏi và các lời phát biểu. Xin cám ơn
các thiện tri thúc, các vị khách quí.
Phần vấn đáp
Giáo sư Đinh Xuân Lâm :
Tôi xin phép nêu một câu hỏi mong thiền sư có thể cho một
số ý kiến. Theo tôi thấy thì người Châu Âu họ thuờng tiếp nhận
Ki Tô giáo ( Thiên chúa giáo ). Trong số những người Âu Châu
cũng có người theo Phật giáo nhưng nói chung thì thiên hướng
không nghiêng về Phật giáo vì Phật giáo phát triển ở Phương
Đông. Tôi rất mong Thiền sư nói rõ là hiện nay Phật giáo cũng
đang tiếp nhận được rất nhiều người Châu Âu. Nguyên nhân chủ
yếu là Phật giáo có một nền tảng như thế nào về mặt tư tưởng,
đạo đức v.v... để có một sức thu hút sâu sắc và chuyển hóa
được người Châu Âu mà theo tôi là có thiên hướng nghiêng về
Ki Tô giáo. Đó là câu hỏi của tôi rất mong thiền sư nói rõ lý
do, lý do nào là cơ bản để dẫn tới một hiện tượng mà tôi cho
là rất độc đáo trong tình hình hiện nay.
Xin hết.
Thiền sư Nhất Hạnh :
Tôi thấy có rất nhiều nguyên do. Nguyên do thứ nhất là Ki Tô
giáo ở Tây phương đã cố gắng nhưng chưa làm mới được, -chưa
đổi mới được-. Một nền tôn giáo đạo đức phải luôn luôn biến
chuyển để có thể thích ứng được với những nhu cầu của thời
đại. Thành ra giảng dạy như thế nào, thực tập như thế nào để
người ta thấy được rằng cách giảng dạy, cách thực tập thích
ứng được với những khó khăn hiện thực mà ta đang có bây giờ.
Giáo hội Ki Tô đã cố gắng trong nhiều thập niên để thay đổi
cách giảng dạy, cách thực tập nhưng chưa thành công lắm. Vì
vậy có rất nhiều người trẻ -thế hệ trẻ- bỏ nhà thờ rất nhiều.
Tại vì thái độ bảo thủ quá mạnh. Có những người, những vị giám
mục đã viết : “ Cơ Đốc giáo nếu không thay đổi thì sẽ bị tiêu
diệt ( Christianity must change or die )”. Họ viết những cuốn
sách nói rất là mạnh như thế đó. Tôi thấy rằng đây không phải
chỉ là vấn đề của Cơ Đốc giáo. Vấn đề của Phật giáo cũng thế
tại vì bây giờ đây phần lớn các thầy, các sư cô, các vị hòa
thương không nói đưọc ngôn ngữ của tuổi trẻ, không thấy được
những khổ đau, dằn vặt, bức xúc của tuổi trẻ mà vẫn dùng một
ngôn từ rất xưa và những phương pháp thực tập không thích ứng
với tuổi trẻ bây giờ. Nếu đạo Phật không thay đổi, không làm
mới thì người ta vẫn bỏ đạo Phật như thường. Đến các chùa ta
thấy thanh niên, thiếu nữ rất ít trong khi các cụ rất đông. Sự
kiện đó chứng tỏ rằng giáo pháp và sự thực tập mình cung cấp
chưa thích hợp với thế hệ thanh niên. Sở dĩ người Tây phưong
đi tìm một cái gì mới, trong đó có đạo Phật tại vì giáo hội Cơ
Đốc giáo chưa tự làm mới mình để cung cấp giáo lý và những
thực tập thích hợp cho thời đại mới.
Thứ hai là trong đạo Phật có những cái mới lạ đối với người
Tây phương : thứ nhất là Phật là một vị xuất phát từ một con
ngươì như chúng ta, đã từng đau khổ tuyệt vọng, đã từng thực
tập để đạt tới sự giải thoát. Phật không phải là một thần
linh, không phải là một đấng Tạo hóa. Đó là một điều rất hấp
dẫn đối với những người trí thức và tuổi trẻ Tây phương. Đức
Phật là một con người như chúng ta nên người ta cảm thấy rất
gần gủi, rất khoa học. Thứ hai là đạo Phật rất bao dung (
tolérance). Đạo Phật không phải là một ý thức hệ để loạt trừ
những ý thức hệ khác. Đi tới đâu thì đạo Phật thích ứng được
với văn hóa xứ đó, với những tư tưởng và nền đạo đức của xứ đó
để phối hợp lại làm thành nền đạo đức của địa phương. Đạo Phật
không bao giờ nghĩ đến chuyện loại trừ những ý thức hệ, những
tôn giáo khác. Đạo Phật lúc nào cũng ôm lấy tất cả. Đó là tinh
thần bao dung của đạo Phật. Ngày hôm kia chúng tôi có đến thăm
nhà thờ Phát Diệm, được các Linh mục, các bà Sơ, các đồng bào
Công giáo tiếp. Tôi có được cơ hội phát biểu. Chúng tôi nói
rằng ở Tây phương lúc chúng tôi mở những lớp, những khóa tu
tập thì chúng tôi luôn luôn khuyên ngưòi Tây phương không nên
bỏ đạo gốc của họ, tại vì một người mất gốc không thể là một
người hạnh phúc. Khuyên người ta bỏ đạo, bỏ gốc, bỏ truyền
thống của người ta là một chuyện không hay gì mấy. Tại vì ngày
xưa các vị giáo sĩ Tây phương đến Việt nam đã hành đạo theo
phương thức đó, nghĩa là không cho người ta thờ cúng ông bà
theo đạo gốc và đó là điều kiện để được theo đạo mới. Chúng
tôi thấy rằng điều đó không nhân đạo lắm. Vì học được bài học
đó nên khi sang Tây phương là vùng đất văn hóa Ki tô giáo và
Do thái giáo thì chúng tôi có thái độ khác hẳn. Thái độ này có
nguồn gốc ở trong đạo Phật, đó là thái độ bao dung. Chúng tôi
khuyên rằng nếu quí vị là người Cơ đốc thì cứ giữ đạo Cơ đốc,
nếu là người Do thái giáo thì cứ giữ đạo Do thái. Quí vị thực
tập được, chuyển hóa rồi thì về làm mới truyền thống của quí
vị. Quí vị không cần phải bỏ đạo gốc của mình. Chính thái độ
cởi mở, bao dung đó khiến cho rất nhiều người Tây phương thán
phục, yên mến đạo Phật. Đạo Phật có những giáo lý, những thực
tập theo tinh thần bất bạo động như vấn đề bảo hộ môi trường.
Trong đạo Phật lòng từ bi không chỉ ôm lấy con người mà còm ôm
lấy các loại động vật, thực vật và khoáng vật nữa. Bảo hộ môi
trường nằm trong sự thực tập của đạo Phật vì thế đạo Phật rất
là hấp dẫn đối với người Tây phương. Tây phương bây giờ là một
mảnh đất rất mầu mỡ phì nhiêu để hạt giống của đạo Phật được
trồng vào. Cố nhiên, như quí vị đã biết, đạo Phật là một tôn
giáo, một truyền thống có thể đi đôi với khoa học, đó là lời
tuyên bố của nhà bác học Einstein. Tuệ giác, thấy biết về
tương tức, về vô ngã của đạo Phật rất
thích hợp với khoa học và có thể làm chổ nương tựa cho khoa
học trong sự phát triển sau này. Đó là những yếu tố làm cho
đạo Phật trở nên hấp dẫn đối với người Tây phương.
Đạo Phật có những biện pháp, những cách tu tập để là giảm
những căng thẳng ở trong thân và trong tâm, nuôi lớn tình
thương. Tuy rằng nhiều người vẫn yêu mến đạo Chúa, -đạo gốc
của mình- nhưng rất muốn tu theo đạo Phật. Trong phái đoàn
chúng tôi có một vị Đại đức người Hoa kỳ ngày xưa đã từng làm
Linh mục Công giáo và một vị Giáo thọ ngày xưa đã từng làm một
Mục sư Tin lành. Họ vẫn còn yêu mến đạo gốc của họ, vẫn còn
thương Chúa Ki tô, nhưng họ thấy trong đạo Phật có những
phương pháp cụ thể để họ có thể tháo gỡ những khó khăn của họ,
để chế tác được tình thương. Trong những con người như thế
không có sự chống đối giữa hai truyền thống.

Con Phật và con Chúa bên nhau trong ngày 30.04.2007 tại
nhà thờ Phát Diệm. |
Tại Phát diệm chúng tôi cũng đã nói như thế. Chúng tôi nói
rằng trong 300 năm nay có rất nhiều thanh niên, thiếu nữ yêu
nhau mà không cưới được nhau tại và có nhiều gia đình một bên
Công giáo, một bên Phật giáo. Gia đình nào cũng tự ái đòi muốn
cưới một người Công giáo thì phải rửa tội. Chúng tôi báo cáo
cho những Linh mục nhà thờ Phát diệm : cách đây gần 10 năm
trong một buổi thuyết trình ở Hán thành, buổi họp đầu tiên
giữa người Phật giáo và người Cơ đốc giáo tôi có đề nghị một
công thức để giúp cho thanh niên yêu nhau mà có hai tôn giáo
khác nhau. Tôi nói rằng khi mình yêu nhau thì phải yêu luôn
gốc rễ
của bên kia và phải tìm hiểu. Mình phải học truyền thống của
người yêu. Sau khi cưới nhau rồi thì hai người cùng đi nhà thờ
mỗi chủ nhật và cùng đi chùa vào ngày rằm và ngày mồng một.
Thay vì có một thì mình có hai gốc rễ
tâm linh. Em sẽ học đạo Chúa, sẽ rửa tội, nhưng anh cũng phải
quy y và giữ 5 giới. Như thế chúng ta sẽ giàu có hơn về phương
diện tâm linh. Có những người thực sự có hai truyền thống tâm
linh đó mà không hề thấy mâu thuẩn gì hết. Tất cả những người
Tây phương đến tu tập với chúng tôi đều có truyền thống Cơ đốc
giáo, Do thái giáo, hoặc những tôn giáo khác.
Tại Phát diệm tôi đã đề nghị như thế. Giáo hội Công giáo và
Giáo hội Phật giáo nên cho ra một văn bản nói về chuyện này để
chấm dứt sự đau khổ của những thanh niên yêu nhau mà không
được cưới nhau. Hai người cùng đi nhà thờ ngày chủ nhật, hai
người cùng có thể được rửa tội . Hai người cùng đi chùa ngày
mồng một ngày rằm và cả hai đều quy y và thọ 5 giới. Như thế
thì mình giàu có thêm thôi, tại sao phải chống đối như thế.
Tôi nói nếu như mình có 100 năm để đi tới văn bản này thì nó
vẫn đáng vì thanh niên ta đã đau khổ trên 300 năm nay rồi vì
sự mâu thuẫn kia. Nói như vậy để quí vị thấy rằng đạo Phật có
tinh thần bao dung rất lớn. Đó là yếu tố rất hấp dẫn đối với
con người của thời đại mới. Xin cám ơn.
Câu hỏi
của một vị giáo sư
:
Kính thưa thiền sư, chúng tôi rất cám ơn thiền sư đã có
những lời thuyết giảng. Tôi xin phép được có 3 câu hỏi : thứ
nhất là vấn đề tâm thân. Đây là vấn đề hết sức trung tâm, đôi
khi gọi là vấn đề cốt lõi của triết học và tâm lý học. Gần đây
ở Việt nam có truyền bá một ít sách của tác giả Osho trong có
một quyển riêng về tâm thân. Tôi xin ý kiến của thiền sư về
cuốn sách này và tác giả đó.
Thiền sư Nhất Hạnh :
Tôi chưa được đọc ạ. Tôi chưa được đọc.
Tiếp theo câu hỏi trên :
Thứ hai là khi nói về tuệ giác thì tôi có cảm nhận là ban
đầu ý kiến hay chủ kiến của thiền sư rất các tác giả như
Husserl tác giả của Hiện tượng luận. Tôi không được đọc bản
tiếng Đức, tôi đọc bản tiếng Anh trong tác phẩm “ Sự khủng
hoảng của người Châu Âu ”. Không hiểu cảm nhận của tôi có đúng
không.
Thứ ba là vừa rồi trả lời câu hỏi của giáo sư Lâm thì thiền sư
có nói đến tâm linh, tức là một khái niệm công cụ ( paradix
),một
khái niệm chủ yếu của các tôn giáo. Tôi hiểu tâm linh là một
khái niệm để chỉ một dòng liên tục của cả quá khứ, hiện tại và
tương lai. Tôi có đọc trong báo Lao động của Việt Nam cách đây
khoảng một tháng nói lại bài thuyết giảng của thiền sư ở thành
phố Hồ chí Minh, nói là chúng ta không để quá khứ ràng buộc,
không để tương lai lôi kéo, hãy biết hiện tại. Hôm nay một nữ
Phật tử đã nói rằng : quá khứ đã qua rồi mà tương lai thì chưa
đến và nữ Phật tử này không nói nhưng tôi hiểu theo lời giảng
của thiền sư hãy chính niệm về hiện tại thôi. Cái đó có mâu
thuẫn với phạm trù tâm linh tức là phạm trù công cụ chủ yếu
của các tôn giáo không?
Câu hỏi thứ hai được lập lại như sau cho rõ: Khi nghe thiền sư
giảng tôi rất thích và tiếp nhận được nhiều điều. Tôi thấy có
liên hệ đến một tác phẩm của nhà triết học Husserl tức là
người sáng lập ra phái Hiện tượng luận. Trong tác phẩm của ông
đề là “ Khủng hoảng của người Châu Âu “( Crisis of european
man ) tôi thấy lời giảng của thiền sư với ông ta có gần nhau.
Sự nhận xét của tôi có đúng không.
Thiền sư Nhất Hạnh:
Về vấn đề thân-tâm, não bộ, thần kinh học cũng là vấn đề lớn.
Câu hỏi là tại sao hoạt động của các tế bào óc trong hệ thần
kinh có tính khách quan, những thực tại khách quan như thế mà
có thể tạo ra được một tâm thức chủ quan? Đó là một trong
những câu hỏi căn bản của khoa thần kinh não bộ hiện bây giờ.
Thân và tâm là hai hiện tượng tách rời hay có dính líu với
nhau?.. Đây quả thật là vấn đề quan trọng.
Trong đạo Phật có danh từ Nàma-Rùpa. Nàma-Rùpa ( Danh-Sắc ) là
một danh từ kép nói thân và tâm là
một. Theo Tâm học Phật giáo thì thân và
tâm là hai mặt của một thực tại. Thực tại đó biểu hiện
ra là thân và tâm. Hai cái đó không phải là hai cái riêng
biệt. Cũng như một đồng tiền thì có mặt trái và mặt phải biểu
hiện ra cùng một lúc. Tâm nương vào thân để biểu hiện và thân
nương và tâm để biểu hiện. Vì vậy có thể nói thân là sự nối
tiếp của tâm và tâm là sự nối tiếp của thân. Hai cái đó không
phải là hai bản chất khác nhau. Chúng ta biết rằng trong ánh
sáng của khoa học lượng tử hiện đại cho thấy rằng nếu nói có
vật chất tồn tại độc lập ngoài tâm thì quan điểm đó đã lỗi
thời rồi.
Đứng về phương diện hiện tượng luận của Husserl tôi thấy rằng
theo hiện tượng luận thì ý thức bao giờ cũng là ý thức về một
cái gì ( conscience c’ est toujours conscience de quelque
chose ) ( conciousness is always conciousness of something ).
Đó là phạm trù căn bản của hiện tương luận. Trong đạo Phật có
nói rằng con người được làm nên bởi 5 yếu tố, đó là sắc, thụ,
tưởng, hành, thức. Sắc là cơ thể, thụ là cảm giác, tưởng là
tri giác, hành là những tâm tư khác nhau và thức là nhận biết.
Tuy chia ra làm năm nhưng có khi gọi là Danh-Sắc, tức là
Nàma-Rùpa, chỉ có hai chữ thôi, Thân và Tâm.
Khi có khái niệm về thân, có một tri giác về thân thì trước
hết mình phải biết rằng thân của mình là đối tượng của tri
giác. Tôi có tri giác về thân hình của tôi thì thân hình đó là
đối tượng của tri giác, mà đối tượng của tri giác đó có thể
tồn tại độc lập ngoài tri giác không ? Đó là một câu hỏi hóc
búa của tâm lý học. Tại vì tri giác không chỉ có thể được làm
bằng chủ thể tri giác mà không có đối tượng tri giác. Tri giác
bao giờ cũng là tri giác về một cái gì. Khi nói ăn thì chúng
ta phải nói ăn cái gì, phải có đối tượng. Bất cứ tri giác nào
cũng có đối tưọng. Trong trường hợp tri giác về thân thì thân
trở thành đối tượng của tri giác tôi. Cái mà tôi có thể biết
chắc được là thân là đối tượng của tri giác, của ý thức, còn
thân như là một thực tại nằm ngoài tri giác hay không thì đó
là một vấn đề khác. Vấn đề đó không chắc được. Điều chắc là
tri giác gồm có hai phần, chủ thể tri giác và đối tượng tri
giác và cái mà tôi với tới được là đối tượng của tri giác còn
đối tượng tri giác đó có phải là một vật tự thân ( la chose en
soi ) hay không thì đó là vấn đề khác. Vì vậy hiện tượng luận
tới rất gần với đạo Phật, tại vì đạo Phật nói rằng : tri giác
gồm chủ thể của tri giác và đối tượng của tri giác.
Trong đạo Phật, thế gian, trời đất, sông, núi, trăng sao đều
gọi là pháp ( les phénomènes ), mà các pháp là đối tượng của
tâm. Trong sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp thì pháp là đối tuợng
của tâm chứ không phải là những hiện tượng độc lập ngoài tâm.
Điều này rất là quan trọng. Tiếng anh gọi là object of mind,
ví dụ như tờ giấy là một pháp, bàn tay tôi là một pháp, ánh
sáng kia là một pháp. Tất cả những cái đó đều là đối tượng của
tâm ( object of mind ). Vì vậy đạo Phật rất gần với hiện tượng
luận.
Giây phút hiện tại ôm được quá khứ và tương lai. Phương pháp
tu trong chánh niệm không cấm chúng ta quán chiếu về quá khứ
và thiết kế cho tương lai. Phương pháp của đạo Phật dạy ta
đừng luyến tiếc, sầu khổ về quá khứ. Nhưng an trú trong hiện
tại chúng ta có thể học hỏi rất nhiều từ quá khứ. Chúng ta có
thể đem quá khứ vào hiện tại để quá khứ có thể trở thành sự
học hỏi của chúng ta trong hiện tại. Vấn đề là đừng đánh mất
mình trong những lo lắng, tiếc thương, sấu đau về quá khứ
nhưng ai cấm mình đem quá khứ biến thành một đối tượng để học
hỏi trong hiện tại ? Còn đối với tương lai thì phương pháp của
của đạo Phật là đừng lo lắng, sợ hãi, bất an về tưong lai, tại
vì lo lắng, sợ hãi, bất an chỉ làm hư tương lai và không cho
mình sống trong hiện tại.
Khi nhìn kỹ thì ta thấy tương lai chỉ làm bằng một chất liệu
mà thôi. Đó là chất liệu hiện tại. Nếu tương lai không được
làm bằng hiện tại thì được làm bằng gì ? Khi chúng ta xử
lý, chăm sóc được hiện tại với tất cả tài năng của chúng ta
thì chúng ta đang làm tất cả cho tương lai rồi ! Còn lo lắng
sợ hãi làm gì nữa ? Cho nên quản lý, chăm sóc cho hiện tại
bằng tất cả trí tuệ và năng lượng của chúng ta là một việc rất
quan trọng. Đó là làm cho tương lai rồi. Cho nên khi an trú
trong hiện lại ta có thể thiết kế một cách thông minh cho
tưong lai. Nhưng thiết kế cho tương lai không có nghĩa là lo
lắng, sợ hãi, bất an về tương lai. Trong đạo Phật chỉ khuyên
mình đừng lo lắng, sợ hãi, bất an về tương lai mà thôi nhưng
mình có thể nghiên cứu, thiết kế cho tương lai chứ. Nhưng
trong khi đó mình vẫn thiết lập mình vững chãi trong giây phút
hiện tại. Đây là vấn đề danh từ thôi chứ không phải là vấn đề
gì lớn
Giáo sư phát biểu :
Tôi rất cám ơn và thỏa mãn với lời giải thích của thiền sư,
nhất là câu cuối cùng về sự liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai. Nhưng theo tôi thì những người phụ trách thông tin
của thiền sư nên cải chính trên báo của Việt nam. Những tin
đăng trên báo Việt nam thì người Việt nam hiểu. Như tôi là
người Việt nam hiểu là sự đứt đoạn giữa quá khứ và hiện tại và
không có gì liên hệ giữa hiện tại và tương lai. Tôi đã đọc và
tôi cắt bài báo rất cẩn thận. Tôi sợ là người Việt nam hiểu
không đúng ý kiến của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Nếu thiền sư
thấy đúng như vậy thì nên cho bộ phận phụ trách thông tin của
thiền sư cải chính trên báo chí. Tôi sợ các nhà báo hiểu không
đúng như thiền sư giải thích vừa rồi tôi thấy ý kiến rất đúng
đắn.
Thiền sư trả lời:
Xin cám ơn giáo sư. Tôi nghĩ rằng các bậc vĩ nhân bị hiểu lầm
nhiều lắm thì chúng tôi sức mấy mà không bị hiểu lầm.
Giáo sư Nguyễn Đình Chủ :
Trước hết tôi xin bày tỏ niềm vui lần thứ hai được nghe
thiền sư thuyết trình. Qua lần thứ nhất cách đây hai năm, cũng
tại chổ nầy nghe thiền sư thuyết trình tôi có cảm nhận một
điều : thiền sư là người muốn làm mới Phật giáo Truyền thống.
Đi xa hơn trong điểm này theo tôi hiểu thì Phật giáo Truyền
thống ( chưa phải là hết tất cả Phật giáo ) tương lai ảo
tưởng, nhưng thiền sư có một ý tưởng muốn hướng con người đến
hạnh phúc ngay trong hiện tại. Đi được một bước là hạnh phúc,
thở được một nhịp thở là hạnh phúc. Tôi thú thật rất thích,
tán thành ý tưởng ấy qua buổi nói chuyện lần trước cũng như
lần này nó đụng đến trong tôi mấy điều mà tôi xin hỏi rõ thêm
: Một là nó đụng đến vấn đề tâm lý học, những thành tựu của
tâm lý học. Vậy thì lý thuyết của thiền sư có bà con gì, có
khai thác gì về phương diện tâm lý học không. Thứ hai là lý
thuyết của thiền sư hình như ít nhiều cũng đụng tới hiện sinh
trên phương diện triết học. Liệu thiền sư trong khi xây dựng
lý thuyết đó có tham khảo, có thấy gì tương đồng hay tương dị
giữa ý tưởng của thiền sư và cái gọi là hiện sinh không. Thứ
ba là : qua lần nói chuyện của thiền sư tôi thấy rõ ràng là có
một khái niệm gọi là bất nhị, một chứ không phải hai.
Vậy thì tôi cũng hiểu chỗ
này hình như là chỗ
có sự khác nhau giữa phương Đông và phương Tây. Phương Tây có
nói đến tư duy tiến trình ( esprit linéaire ). Phương Đông nói
đến tư duy cầu tính ( esprit global ). Ở Việt nam ta có nhà
đạo học Cao Xuân Huy trong một công trình khoa học rất sáng
giá có nói đến tư tưởng chủ tòa, khác với chủ điểm của phương
Tây. Thiền sư có thấy chỗ
này có gì đó mang truyền thống tư duy của phương Đông khi nói
đến cái gọi là bất nhị.
Ở đây tôi xin trở lại vấn đề thứ nhất là vấn đề tâm lý học.
Với trình độ hiểu biết rất non yếu của tôi mà đọc qua các sách
về Phật giáo Việt nam thấy nói tu hành, tâm linh v.v... nhưng
mà chưa thấy chưa có ai đưa ra khái niệm gọi là Tâm lý học
Phật giáo, trong khi đó tôi có đọc quyển “ Triết học Phật giáo
“ của Rosenthal dịch ra tiếng Việt chủ yếu nói đến Phật giáo
Nhật bản, trong đó có nói đến Tâm lý học Phật giáo. Tôi xin
nhờ thiền sư giảng dạy thêm. Xin cám ơn.
Thiền sư Nhất Hạnh :
Kính thưa các vị thiện tri thức. Kính thưa các vị khách quí.
Trong đạo Phật có một nền tâm lý học rất sâu sắc. Trong Tam
tạng Kinh điển có một nền văn học gọi là Abhidharma ( A Tỳ Đạt
Ma ). Đây đích thực là tâm lý học của Phật giáo. Tâm lý học
Phật giáo có tính cách thực dụng vì các thiền sư luôn luôn nói
rằng nếu mình không biết lối vận hành của tâm thì tu khó
thành. Phải biết tâm mình vận hành như thế nào thì tu tập,
chuyển hóa dễ dàng. Như lòi nói của thiền sư Thường Chiếu -một
thiền sư đời Lý- Khi ta biết được các vận hành của tâm thì tu
tập dễ thành công hơn. Vì vậy tâm lý học trong Phật giáo rất
quan trọng. Trong Phật giáo nguyên thỉ thì là văn học
Abhidharma, trong Phật giáo Đại thừa là văn học Duy thức học
( Vijnanavada ). Duy thức học là một hệ thống tư tưởng giáo lý
rất quan trọng ở Ấn độ. Ở Trung quốc có thầy Huyền Trang trong
khi Tây du có thu thập rất nhiều kiến thức về Duy thức học và
thành lập một trường phái gọi là Duy thức tông. Thật ra không
phải thầy Huyền Trang thành lập mà là thầy Khuy Cơ, một cao đệ
của thầy Huyền Trang, trường phái đó chuyên về tâm lý học Phật
giáo. Tâm lý học này là tâm lý học áp dụng. Trong thời gian ở
Tây phương chúng tôi đã từng mở các khóa thực tập cho các nhà
tâm lý trị liệu (Psychotherapist ). Những khóa tu như vậy
luôn có rất đông người tham dự tại vì đạo Phật có một nền tâm
lý học rất xưa cổ -2500 năm-, trong khi đó thì nền tâm lý học
Tây phuơng còn trẻ, nhất là nền tâm lý trị liệu chỉ có một vài
trăm năm. Cho nên đạo Phật có rất nhiều tuệ giác để cống hiến
cho nền tâm lý trị liệu Tây phương. Vì vậy các nhà tâm lý trị
liệu tới những khóa tu đó rất nhiều. Họ tới học là vì trong
những khóa đó ta không những chỉ học trên văn bản mà thôi, ta
còn được thực tập liền, áp dụng liền vào trong đời sống của
chúng ta. Trong lúc hướng dẫn tu tập về môn này ở Tây phương
thì chúng tôi có sáng tác ra được 50 bài kệ gọi là Ngũ
thập Duy biểu Tụng thâu tóm những tinh hoa của nền Tâm
lý học Áp dụng Phật giáo. Bên Pháp, Anh chúng tôi đã làm thành
sách. Năm mươi bài Tụng đã được diễn giải và đem ra áp dụng để
chuyển hóa, tu tập và nuôi dưỡng. Nhưng ở Việt nam thì cuốn
sách đó chưa được dịch. Tiếng Anh là Transformation At the
Base ( Chuyển hóa ngay tận gốc ) và mới được tái bản với tựa
đề là “ Understanding our mind “ ( Làm thế nào dể hiểu được sự
vận hành của tâm ta ). Khi sách được xuất bản lần đầu với tựa
đề “ Transformation at the base ” thì Ý là
Tâm thức mà ta thường biết tới ( như ) là ý
thức. Nhưng nằm dưới ý thức còn có phần gọi là Tàng
thức ( Alaya-Vijnana ). Tất cả các hạt giống của tâm hành như
buồn khổ, lo âu, giận hờn, sợ hãi hay tha thứ bao dung, hanh
phúc, từ bi, đều nằm sâu ở tâm thức của A Lại Da Thức. Muốn có
hạnh phúc thực sự thì phải nhận diện được tâm hành đó ở dạng
những hạt giống và chuyển hóa tận gốc mới được. Còn nếu chúng
ta chỉ đối xử với chúng khi chúng phát hiện trên mặt phẳng của
ý thức thì ta chưa giải quyết được căn bản. Vì vậy cuốn sách
đó có tên là “ Transformation at the base ” ( Chuyển Hóa Tận
Gốc ), tiếng Phạn là Asrayaparavritti. Asraya là gốc nhưng
danh từ đó hơi chuyên môn nên nhà xuất bản trong kỳ in thứ hai
đề tựa là “ Understanding our mind ” ( Làm thế nào để hiểu
được Tâm của chúng ta ).
Đứng về phía Phật giáo thì chúng tôi có thể nói rằng Phật giáo
ngày xưa đã đóng một phần rất quan trọng trong sự thành lập
nền văn hóa, văn minh Việt nam. Các vua đời Lý, đời Trần đều
tu tập thiền, không phải chỉ tín ngưỡng, bái sám hay cúng
dường. Phần tôn giáo là phần nhỏ của đạo Phật thôi. Nếu ta
chọc thủng được phần đó và đi vào phía trong thì chúng ta sẽ
động tới được kho tuệ giác của đạo Phật. Nhưng ở Việt nam
chúng ta chỉ khai thác được nhiều phần tôn giáo, tín ngưỡng mà
thôi. Chúng tôi rất mong các nhà trí thức, thiện tri thức
nghiên cứu thêm Phật giáo và nhất là thực tập thêm Phật giáo
để có thể tíếp xúc được với kho tàng rất phong phú trong đạo
Phật. Khi chúng ta có được kho tàng tuệ giác rồi thì ta có thể
tháo gỡ được những khó khăn, bức xúc, tuyệt vọng, lo lắng, sầu
khổ. Ta biết rằng sự cầu nguyện, cầu xin chỉ có thể làm lắng
dịu, vơi bớt mà thôi chứ không thể giải quyết tận gốc. Giải
quyết tận gốc phải có Giới, có Định, có Tuệ giác. Chúng ta
chưa khai thác đưọc hết tiềm năng của đạo Phật. Nếu khai thác
được thì ta có thể đóng góp rất nhiều cho sự xây dựng đất nước
và dân tộc. Trong thời đại hiện tại với những phát triển kinh
tế, kỹ thuật thì những tệ nạn xã hội từ từ bung ra. Nếu không
có chiều hướng tâm linh thì chúng ta không thể nào dập tắt,
ngăn ngừa và chuyển hóa những tệ nạn xã hội đó.
Các nhà doanh thương, chính trị nếu bận rộn quá không có thì
giờ tu tập thì cũng không có khả năng tháo gỡ những khó khăn
trong sự nghiệp chính trị và kinh doanh của mình. Có thể mình
có nhiều quyền hành, nhiều tiền bạc nhưng mình vẫn đau khổ như
thường nếu mình không có một chiều hưóng tâm linh trong đời
sống hằng ngày. Khi chúng ta khai thác được phần đó trong đạo
Phật thì ta sẽ được trang bị bởi một nếp sống tâm linh, tinh
thần và cuộc sống của ta có thể có được nhiều hạnh phúc hơn.
Chúng ta có thì giờ, có năng lượng để chăm sóc, thương yêu,
làm cho cuộc sống của ta thực sự có hạnh phúc. Nếu không chúng
ta chỉ có thể đạt được nhiều tiền, nhiều uy quyền nhưng chúng
ta đánh mất hạnh phúc vì rất nhiều người có nhiều tiền, nhiều
uy quyền nhưng không thực sự có hạnh phúc. Vì vậy chúng ta
phải khai thác kho tàng tuệ giác trong đạo Phật. Đó là công
trình chung của tất cả các Phật tử và các bậc thiện hữu tri
thức. Đạo Phật là một gia sản rất quí báu của văn hóa Việt nam
mà chúng ta chưa sử dụng được một phần của cái gia sản đó. Rất
là uổng !
Đứng về câu hỏi thứ ba thì tư duy hay cái thấy của đạo Phật là
tương tức, duyên sinh. Tôi xin đem
ra một thí dụ là khi nhìn vào cái hoa hồng trước mặt, tôi hỏi
bông hoa từ đâu tới thì mình có thể trả lời là bông hoa từ
người trồng hoa tới. Người trồng hoa hồng đâu phải là nguyên
nhân duy nhất của hoa hồng. Bông hồng cần có nhiều điều kiện
như hạt hoa, cành hoa. Nhìn vào bông hồng ta thấy có rất nhiều
yếu tố mà ta có thề gọi là không phải là bông hồng như
mặt trời - mặt trời trong bông hồng. Nếu không có mặt trời thì
làm sao có ánh sáng, sức nóng và bông hồng không làm sao mọc
lên được. Nhìn vào bông bồng thì ta thấy mặt trời, đám mây.
Đám mây nằm trong lòng của bông hồng. Không có đám mây thì làm
sao có mưa. Không có mưa thì làm sao bông hồng có thể mọc lên
được. Nhìn vào bông hồng ta thấy đất phân, không có đất phân
thì làm sao bông hồng có thể mọc lên được?. Tất cả vũ trụ đã
tới với nhau để làm biểu hiện ra bông hồng. Cái một
được làm bằng cái tất cả. Tiếp xúc được với
bông hồng ta có thể tiếp xúc được với toàn thể vũ trụ. Tiếp
xúc được với con người ta có thể tiếp xúc được với tất cả các
thế hệ tổ tiên trong ta. Cái nhìn của đạo Phật là khi nhìn cho
sâu vào cái một thì ta thấy được cái tất
cả. Cái một không thể nào tách lìa ra cái tất cả. Có
một thiền sư đời Lý đã nói: Có thì có tự mảy may, không thì
cả thế gian này cũng không.
Cái một chứa đựng cái tất cả. Cho nên cái thấy của đạo Phật là
cái thấy duyên sinh chằng chịt. Chứ không phải thấy theo chiều
dọc. Hiện bây giờ thế giới chúng ta cần tuệ giác đó tại vì
những nước kinh tế phát triển mà không lo cho những nước chậm
phát triển thì hiểm họa chiến tranh, bệnh tật, tai nạn thiên
nhiên sẽ xẩy ra cho tất cả mọi người. Trái đất là một hành
tinh, gia sản chung của tất cả mọi loài. Nếu ta chỉ lo cho đất
nước, dân tộc ta thôi thì chưa đủ. Ta phải làm sao lo cho tất
cả trái đất mới được. Đó là cái nhìn duyên sinh còn cái nhìn
cục bộ kia là không chính xác. Đạo Phật đã cung cấp cho chúng
ta cái nhìn như thế. Khi nhìn được như thế thì ta có thể mở
rộng đưọc vòng tay để ôm lấy tất cả nhân loại. Ta yêu được tất
cả nhân loại chứ không phải chỉ yêu người cùng dòng họ huyết
thống mà thôi. Tình yêu đó trong đạo Phật gọi là tình yêu
không biên giới ( Tứ Vô Lượng Tâm, vô lượng là không có biên
giới, là không đo lường được ).
Chúng ta đã nghe một giáo sư sử học, một giáo sư tâm lý học,
một giáo sư văn học, bây giờ xin mời giáo sư y học Đoàn Xuân
Hướng phát biểu.
Giáo sư Đoàn Xuân Hướng :
Trước hết tôi rất hoan nghênh buổi thuyết trình của thiền sư.
Tôi mới được nghe, được đọc, nhưng chưa gặp. Đây là lần gặp
đầu tiên xin thiền sư nhận sự chúc mừng của tôi. Tôi chỉ nói
hai ý, ý thứ nhất như một nhận xét, ý thứ hai như một câu hỏi.
Về nhận xét tôi thấy rằng đạo Phật chủ trương một hạnh phúc
ngay trên cõi đời này chứ không phải là một Niết Bàn xa xôi.
Cách để đạt tới hạnh phúc đó theo thiền sư giảng là một cách
rất hiện đại kiểu như phân tâm học ( Psychoanalyse của Freud )
dùng để mô tả những phương pháp để đạt tới những vấn đề của vô
thức. Tôi nghĩ rằng cách đó rất tốt để phổ cập nội dung Tứ
Diệu Đế của đức Phật trong cõi đời này. Còn câu hỏi của tôi là
vấn đề này: Ở Việt nam tôi là người theo đạo Phật nhưng không
thờ cúng, tôi không biết cúng biết thờ. Người ta hỏi tôi tại
sao tôi viết sách về vấn đề tâm linh mà không cúng không thờ.
Tôi bảo là tôi theo lối Phật dạy là tu tại tâm. Hiện nay ở
Việt nam là cúng bái nhiều lắm. Hầu như là đi tìm hạnh phúc
bằng cách cúng bái, xin đủ mọi cái : quyền, chức, tài, lộc.
Tôi đề nghị thiền sư nên dùng cách phân tích tâm lý học Phật
giáo để giúp cho người ta tu tại tâm, tại gia, biết đi vào
lòng mình, đi vào ý thức, vô thức của mình để đạt tới an lạc,
hạnh phúc mà tự mình có thể đạt được. Tôi nghĩ buổi thuyết
giảng với nội dung này nếu có thể phổ cập được để trở thành
một tài liệu huớng dẫn thực tập để tu tại gia, tại tâm chứ
không phải tu tại chùa. Như thế thì làm thế nào để cho cái đó
trở thành hiện đại hóa Phật giáo Việt nam để những người theo
đạo Phật có thể đạt được hạnh phúc ngay tại nhà mình, tại nước
mình, tại trên quả đất này bằng phương pháp phân tâm, phân
tích tâm lý Phật giáo như thiền sư hôm nay đã giảng trong một
thời gian rất ngắn. Nhưng tôi cho rằng tiếp tục cái đó thì cả
đời chỉ cần cái đó mà có thể đạt được hạnh phúc. Xin hết.
Thiền sư trả lời :
Trong đạo Phật người ta nói đến căn cơ. Căn cơ có nghĩa là
trường hợp của từng người. Có người cần phương pháp này, có
người cần phương pháp khác. Trong đạo Phật có nói tám vạn bốn
ngàn pháp môn tu tập vì vậy chư vị tổ sư đã sáng tác ra không
biết bao nhiêu là pháp môn tu tập. Khi thấy phương pháp tu tập
thích hợp thì mình cứ theo nhưng đừng vội lên án phương pháp
tu tập khác. Thường thuờng khi mới đến với đạo Phật thì ta
nghĩ Phật là một hiện tượng, một thực tại ở ngoài mình và mình
phải cung kính thờ. Chính chúng tôi cũng vậy. Trước hết nghĩ
Phật là một bậc thầy có ngoài mình và mình hướng về bậc thầy
đó để cung kính và đốt hương là một hình thức cung kính. Nhưng
nhờ tu tập đàng hoàng nên một ngày nào đó mình thấy Phật không
phải nằm ở ngoài mình. Tượng Phật trên bàn thờ chẳng qua chỉ
là một tượng bằng đồng bằng đá thôi. Phật là nằm trong trái
tim của mình. Phật là lòng từ bi, là trí tuệ. Đó là bản chất
của Phật. Vì vậy có danh từ là Phật tại tâm.
Ban đầu mình nghĩ cõi Tịnh Độ, cõi Niết Bàn nằm ở ngoài. Nhưng
nhờ có tu tập nên mình chứng ngộ rằng cõi Tịnh Độ có mặt ngay
trong phút giây hiện tại. Khi tâm thanh thản, đầy tình thương,
không có hận thù, tiếp xúc được với bản thể của vũ trụ thì
Tịnh Độ, Phật Quốc hay Niết Bàn có mặt ngay trong phút giây
hiện tại. Nhưng mà phải cần có công phu tu tập mới được.
Ban đầu đi tới làm sao mà với tới được.
Khi ta đốt một cây hương trên bàn thờ tổ tiên thì đó được xem
như một hành động thờ cúng hay mê tín nhưng cũng có thể xem
như một hành động văn minh tâm lý học tại vì bàn thờ và cây
hương giúp mình tiếp xúc được với tổ tiên trong từng tế bào
của cơ thể mình. Ngạn ngữ Việt nam có nói : “ Con cháu đi
đâu thì ông bà đi theo đó ”. Điều đó rất đúng ! Không phải
đi theo sau chúng ta mà là đi trong chúng ta tại vì theo khoa
học ta biết rằng cha, mẹ, tổ tiên đang có mặt trong từng tế
bào cơ thể của chúng ta. Đó là những nhiễm thể ( gene ) mà tổ
tiên để lại. Ta biết rằng cha mẹ tuy có mặt ở ngoài những cũng
có mặt trong từng tế bào cơ thể ta. Vì vậy ta đi đâu thì cha
mẹ đi theo đó. Nếu ta tu tập có hạnh phúc, thảnh thơi thì cha
mẹ trong ta cũng hạnh phúc, thảnh thơi.
Những người bị phóng thể, bị cắt đứt với tổ tiên, văn hóa thì
không có hạnh phúc. Khi ta nâng lên một cây hương và tưởng
niệm tới tổ tiên thì ta tiếp xúc được với tổ tiên ngay trong
cơ thể của ta. Nhờ tiếp xúc với tổ tiên như vậy nên ta không
mất gốc. Có những người không liên hệ được với tổ tiên mình
thì làm sao có thể yêu thương được con cháu. Họ sống trong
tình trạng không thể alliéné. Hành động đốt một cây hương để
tiếp xúc được với tổ tiên trong từng tế bào của cơ thể có thể
là một hành động rất là khoa học, rất văn minh mà không phải
là mê tín gì hết. Tùy theo cái nhìn của mình mà thôi. Nếu
những ngưòi đó bắt đầu bằng những hình thức thực tập thấp thì
từ từ mình giúp cho người đó đi lên, thực tập cao, chứ mình
đừng có chê trách. Thí dụ có người đốt vàng mã, tiền giấy
xuống cho người thân của mình ở cõi âm thì mình thấy đó là một
hành động mê tín, dị đoan. Tuy nhiên với con mắt của một nhà
văn hóa thì mình thấy trong hành động đốt vàng mã, tiền giấy
đó có một tình thương, sự thao thức của nguời sống đối với
nguời chết. Đó là văn hóa, đó là cái đẹp. Nếu chúng ta chưa có
phương thức văn minh hơn để tỏ bày tình cảm đó thì ta hãy
khoan vội lên án hành động kia, vì đó thuộc về một phần của
văn hóa. Những nhà văn hóa là những người sáng tạo ra cho
chúng ta phương thức sinh hoạt mới để nuôi dưỡng cái tình, cái
nghĩa, hạnh phúc, tự do, thảnh thơi. Những hình thái sinh hoạt
mới giúp cho mình bỏ được từ từ những hình thái sinh hoạt cũ
mà về phương diện hình thức thì giống như mê tín, dị đoan. Co
nên chúng ta phải có cái nhìn bao dung, rộng mở để đừng lên
án, buộc tội. Do đó chúng ta có thể hiểu được và giúp mọi
người đi lên. Đó là tinh thần của đạo Phật Đại thừa.
Có những người Phật tử tin rằng sau khi chết thì có thể sinh
sang cõi Tịnh Độ ở Phương Tây gặp đức A Di Đà. Chúng tôi ở
Làng Mai, chùa Đình Quán, chùa Từ Hiếu tu tập chúng tôi làm
thế nào để cho trong thân, trong tâm được an lạc, thân tâm
nhất như. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở giúp cho mình khám phá
được Tịnh Độ đó ngay trong giây phút hiện tại. Chúng gọi là
Tịnh-Độ-cầm-tay. Đi tới đâu thì Tịnh Độ theo mình tới đó. Đi
ra nhà ga thì mình cũng thảnh thơi an lạc như ở nhà. Đó gọi là
Tịnh Độ hiện tiền, Tịnh Độ trong giây phút hiện tại, Hiện Pháp
Tịnh Độ. Trong Kinh có nói Cực Lạc, Tịnh Độ nằm trong trái tim
mình chứ không phải nằm trong không gian và thời gian. Nếu
trái tim mình có đầy thương yêu, hiểu biết, tha thứ, nếu mình
có khả năng tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong
giây phút hiện tại thì Tịnh Độ hiện tiền. Nhưng mà có những
người tu tập bằng cách tin rằng Tịnh Độ ở Phương Tây có sau
khi mình chết thì mình phải từ từ huớng dẫn họ để họ có thể
sống trong Tịnh Độ hiện tiền như bây giờ. Trong đạo Phật cần
phải có sự thương yêu, hiểu biết và đưa tất cả cùng đi lên với
mình chứ không phải là mình đi một mình. Còn nếu mình chỉ sử
dụng phương pháp phân tâm học để giải phóng những khổ đau cho
mình thì những người chưa học về tâm lý học làm sao hiểu được
? Mình phải thi thiết ra những phương pháp khác để họ có thể
đạt tới những cái mình đã đạt được. Đó là lòng từ bi, là tâm
cởi mở. Xin cám ơn quí vị.
|