Các
thầy và các sư cô sẽ xướng tụng bài Tào Khê, trước khi Sư Ông
nói pháp thoại, bài Tào khê như thế này:
Tào Khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước tịnh
Rửa sạch dấu phong trần
Cành dương rưới Cam Lộ
Làm sống dậy mùa xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng
Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa
Tôi xin
nói sơ lược về ý nghĩa bài này: “Tào khê là tên một dòng
suối rất nổi tiếng ở châu Á, đó là truyền thống tâm linh mà
đạo Phật gọi là thiền Tào Khê. Dân tộc chúng ta đã được nuôi
dưỡng trong bao thế kỷ bởi dòng suối tâm linh, dòng thiền đó.
Trong đời sống, chúng ta không phải chỉ cần tới cơm áo, nhà
cửa, thuốc men mà cần có đời sống tinh thần, đời sống tâm
linh. Nương vào Phật, Pháp, Tăng và dòng suối Tào Khê để chúng
ta được nuôi dưỡng về phương diện tinh thần, tình cảm, lý
tưởng, hạnh phúc. Từ hơn một ngàn năm, dòng Tào Khê đã là
gia sản của nền văn hóa Việt Nam, trong bài ca dao “hôm qua
ra đứng bờ ao” có nhắc tới dòng Tào Khê đó:
Hôm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai
Đêm đêm tưởng giải ngân hà
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.
Đá mòn
nhưng tình thương, hiếu, nghĩa của mình không bao giờ mòn
được. Hiếu và Nghĩa trong lòng người Việt Nam được nuôi dưỡng
bởi dòng suối Tào Khê, chừng nào hiếu-nghĩa còn được nuôi
dưỡng thì chừng đó mình còn có hạnh phúc. Ở Việt Nam, chùa gọi
dòng thiền, dòng suối Tào Khê là cửa thiền hay thiền môn.
Chúng ta tới chùa để uống dòng nước Cam Lộ, dòng nước Tào Khê,
mỗi tuần mình được nghe pháp, được lễ Phật, được các thầy, các
sư cô hướng dẫn tu học là mình được tiếp xúc với dòng nước Cam
Lộ, dòng suối Tào Khê đó.
Trong
bốn mươi năm giảng dạy đạo Phật ở bên Âu châu và ở bên Mỹ châu
tôi đã đem nước suối Tào khê qua hiến tặng cho người châu Âu
và người châu Mỹ. Có hàng triệu người đã trở thành Phật tử,
thực tập theo Bụt, số đệ tử người Tây Phương của tôi đông hơn
cả số đệ tử người Việt Nam, những người đó họ đã uống được
nước của dòng Tào Khê. Khi có được chất liệu tâm linh, chất
liệu tinh thần thì mình có thể tháo gỡ được những khó khăn,
bức xúc, buồn giận trong lòng, không đối xử tàn nhẫn với những
người mình thương, có thể nói năng dịu dàng, có thể lắng nghe
được người mình thương, liên hệ giữa mình với người khác tốt
đẹp, trong gia đình có nhiều hạnh phúc hơn. Cho nên dòng Tào
Khê rất quan trọng!
Khi
tháo gỡ được những khó khăn, bức xúc, lo lắng, ganh tị ở trong
lòng thì mình giúp được chồng mình, vợ mình, con mình, cha
mình hay mẹ mình cũng có thể tháo gỡ được như mình. Tới chùa
để tiếp nhận được dòng Tào Khê, mỗi bài pháp là một giọt nước
Tào Khê. Cho nên trong đời sống ngoài chuyện cơm ăn, áo mặc,
nhà ở, thuốc men mình cần có nếp sống tâm linh, nếp sống tâm
linh đó là: “ dòng Tào Khê, là nhà chùa, là Tam Bảo.”
Bài tụng được dịch ra từ chữ Hán, Tào Khê một dòng biếc,
một dòng suối trong vắt.
Tào Khê một dòng biếc,
Chảy mãi về phương Đông.
Đây là
sản phẩm văn hóa của Đông Phương, mình đem ra chia sẻ với
người Tây Phương. Người Tây Phương bây giờ bắt đầu thích đạo
Phật lắm và có rất nhiều người tu theo đạo Phật. Trong phái
đoàn của chúng tôi về hành đạo ở Việt Nam có rất nhiều thầy,
sư cô và thiền sinh Tây Phương đến từ ba mươi nước trên thế
giới (ngày hôm qua thầy Pháp Ấn, sư cô Chân Không đã giới
thiệu một số các vị cho đại chúng ở đây rồi).
Tào Khê một dòng biếc,
Chảy mãi về phương Đông,
Quan Âm bình nước tịnh,
Rửa sạch dấu phong trần.
Đức
Quan Thế Âm Bồ Tát là một người có tình thương rất lớn, ngài
có khả năng lắng nghe tất cả những nỗi khổ niềm đau của mọi
người và ngài cầm trong tay một bình tịnh thủy đựng nước Tào
Khê, mỗi khi rãi lên một vài giọt thì những oan khổ, đau đớn,
lo sợ của mình tan liền.
Quan Âm bình nước tịnh,
Rửa sạch dấu phong trần.
Cuộc
đời của mình có nhiều gió sương, bụi bặm, khổ đau cho nên gọi
là dấu phong trần. Chỉ cần một giọt nước trong bình tịnh thủy
của đức Quan Thế Âm đủ rửa sạch hết dấu phong trần đó.
Quan Âm bình nước tịnh,
Rửa sạch dấu phong trần.
Cành dương rưới Cam Lộ,
Làm sống dậy mùa xuân.
Đức
Quan Thế Âm dùng nhành dương liễu nhúng vào nước Cam Lộ đó và
vẫy lên một cái thì cây khô biến thành cây tươi. Trong đời
sống của mình có nhiều khi khô héo, buồn khổ, chán chường,
không muốn sống. Nhưng nếu tiếp nhận được vài giọt nước của
đức Quan Thế Âm thì mình sống dậy, có niềm vui, có hạnh phúc.
Cành dương rưới Cam Lộ,
Làm sống dậy mùa xuân.
Mùa
xuân nằm ngủ ở trong mình, chưa chết đâu. Nếu mình tu, mình
uống được nước Cam Lộ thì mùa xuân sống dậy.
Cành dương rưới Cam Lộ,
Làm sống dậy mùa xuân.
Đề hồ trong cổ họng,
Làm lắng dịu muôn lòng.
Đề hồ
là thức ăn rất bổ dưỡng, là Cam Lộ, là Phật, Pháp, Tăng, thức
ăn để cho mình khỏi đói. Chúng ta không phải đói cơm, đói áo
mà chúng ta đói tình thương, đói hiểu biết, đói trí tuệ, đói
từ bi. Hiểu biết tức là trí tuệ, tình thương tức là từ bi. Có
những người trong chúng ta tưởng rằng: “trong cuộc đời chưa
có ai hiểu mình, chưa có ai thương mình”. Những người như
vậy là những người đói, đói hiểu và đói thương. Dòng Tào Khê
có thể làm cho người đó bớt đói, bớt khát vì dòng Tào Khê cung
cấp được cái hiểu và cái thương. Đề hồ là chất ngon ngọt của
giáo pháp.
Đề hồ trong cổ họng,
Làm lắng dịu muôn lòng.
Ở trong
truyền thống của chúng ta tin rằng: “có những con quỷ đói,
bụng của nó phình lớn và cổ của nó nhỏ bằng cây kim. Nó đói
suốt ngày, suốt năm, nhưng không có khả năng tiếp nhận thức ăn
dầu thức ăn thật nhiều. Có câu thần chú gọi là khai yết hầu
chơn ngôn, khi đọc với tình thương thì tự nhiên cổ họng của
những con ma đói trở lại dung tích bình thường và bắt đầu tiếp
nhận được hiểu và thương”.
Nhiều
khi mình cung cấp cho nó hiểu và thương nhưng nó không tiếp
nhận được, nó nghi rằng: “mình giả dối, mình không thật sự
hiểu, mình không có thật sự thương”. Có nhiều đứa con như
vậy, cứ nghĩ rằng: “bố không thật sự hiểu nó, không thật sự
thương nó”. Nhưng mà kỳ thực bố thương, mẹ hiểu! Chúng ta
đừng nghĩ rằng: “loài quỷ đói chỉ là loài đã chết rồi”.
Có những chàng thanh niên, có những cô thiếu nữ đi bơ vơ trong
cuộc đời, “cảm thấy chưa bao giờ được ai hiểu hết, chưa bao
giờ được ai thương hết”. Đó là những con quỷ đói bằng
xương bằng thịt! Nếu mình để ý thì xung quanh có nhiều lắm. Có
nhiều thanh niên bây giờ rất đói hiểu và đói thương, thấy đời
sống không có ý nghĩa gì nên đi tự tử. Ở bên Pháp mỗi ngày có
hai mươi bốn, hai mươi lăm thanh niên, thiếu nữ Pháp tự tử.
Bên Anh, bên Mỹ còn nhiều hơn nữa. Họ không phải vì đói cơm,
đói áo mà vì đói hiểu và đói thương. Ở Việt Nam cũng có những
chàng thanh niên, những cô thiếu nữ cảm thấy mình không được
hiểu, được thương nên có nhiều đứa đã nhảy xuống sông tự tử.
Rất là tội nghiệp! “Quỷ đói không phải chỉ bên cõi âm thôi,
mà trong cõi dương nếu nhìn xung quanh sẽ thấy có những người
đang rất là đói. Đi chung quanh cuộc đời để đi tìm một
chút hiểu và chút thương”.
Đề hồ trong cổ họng,
Làm lắng dịu muôn lòng.
Đó là
nói đến công đức của đức Quan Thế Âm, ngài có thể ban phát cái
hiểu và cái thương cho chúng ta. Niệm
Nam mô
Bồ Tát Cam Lộ Vị.
Cam Lồ là nước trong bình tịnh thủy. Xin quý vị chắp tay lại,
các cháu ngồi xuống, chắp tay búp sen nghe các thầy các sư cô
xướng tụng bài Tào khê một dòng biếc.
Giếng nước thơm trong
Kính
thưa các vị tôn đức các thầy, các sư cô và các Phật tử cư sĩ.
Ở huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa có một cái núi gọi là núi
Nưa, trên núi có một cái giếng rất là trong, chiều hôm qua tôi
đi thăm cái giếng đó. Cách đây bảy mươi mấy năm tôi đã đi lên
cái giếng đó một lần, giếng đó được gọi là Giếng Tiên,
dầu trời nắng bao nhiêu đi nữa thì cái giếng đó lúc nào cũng
có nước, nước rất trong và ngọt. Ngày xưa thì tôi với các học
sinh khác phải leo năm giờ đồng hồ từ chân núi cho tới đỉnh
núi, lúc đó tôi mới có mười một tuổi. Bây giờ đã có đường xe
hơi đi lên tận đỉnh núi, cách đây khoảng vài giờ đồng hồ xe.
Có một
hôm, tôi thấy trên bìa một tờ tạp chí Phật giáo có vẽ hình của
đức Phật đang ngồi thiền, ngài ngồi rất thẳng, rất đẹp, ngài
ngồi trên thảm cỏ và miệng ngài mỉm cười. Ngài ngồi thanh
tịnh, ngồi an lạc, ngồi thoải mái, ngồi tươi mát thì tự nhiên
trong trái tim của cậu bé có ước muốn là: “sau này mình lớn
lên mình sẽ làm được như ông Phật, cũng ngồi thoải mái, an
lạc, hạnh phúc như thế”. Lần đầu tiên hạt giống tu tập
trong trái tim của cậu bé được tưới tẫm!
Mấy
tháng sau thì trường tôi tổ chức một cuộc picnic cho tất cả
học sinh, thầy cô giáo ở núi Nưa và tôi đã có cơ hội thấy được
cái giếng ở trên đó. Núi Nưa cách trường học chúng tôi độ
chừng bốn năm cây số. Ngày hôm đó chúng tôi dậy thật sớm,
người nào cũng có cơm vắt, muối vừng và một chai nước lọc, vì
nghe nói rằng: “núi leo lâu lắm mới tới, nửa đường sẽ khát
nước, đói bụng”. Chúng tôi được tổ chức chia ra thành
nhiều nhóm, mỗi nhóm năm đứa. Hồi đó học sinh con trai rất
nhiều nhưng mà học sinh con gái rất là ít, trong lớp tôi gần
năm chục học sinh mà chỉ có năm nữ sinh thôi, còn bao nhiêu là
nam sinh hết. Ngày xưa người ta quan niệm rằng: “con gái
chỉ cần ở nhà học thêu thùa, may vá, nấu nướng thôi, không cần
phải tới trường đi học, không cần phải biết nhiều chữ”.
Bây giờ quan niệm đó đã đổi rồi!
Hồi đó
tôi còn nhỏ lắm, mới mười một, mười hai tuổi, nghe tin đồn:
“trên núi Nưa nó có một ông đạo, ông thầy tu, ông đang tu để
thành Phật”, thành ra trong trí óc của cậu bé rất là ham
muốn biết: “ông tu như thế nào để thành Phật?”. Đó là
mong ước của cậu bé mười một, mười hai tuổi. Cho nên đêm trước
đó tôi nằm thao thức không ngủ được, mong cho trời mau trời
sáng để được lên trên núi gặp ông đạo (ông thầy tu ở trong Nam
gọi là ông đạo).
Mình
phải leo qua nhiều ngọn núi, mà hồi nhỏ đâu có biết đi thiền
hành như sáng hôm nay. Mình đi hấp tấp, mình vội vã cho nên
mình mệt nhoài, mới đến lưng chừng núi thì mình uống hết nước,
vì vậy cho nên mình khát quá trời. Lên tới đỉnh núi thì khát
lắm, rất là khát! Lúc đó, các thầy giáo, cô giáo mới ra lệnh
cho ngồi xuống, bày cơm vắt ra để ăn với nhau, từng nhóm năm
người. Trong khi bốn đứa bạn kia (toàn là bạn trai hết) ngồi
mở cơm nắm ra thì tôi có ý tưởng: “đi tìm gặp ông đạo”.
Tôi đi về phía túp lều tranh và nghĩ: “có thể là nơi
ông đạo đang tu hành, mình sẽ được gặp ông, nhìn
thấy ông và hỏi ông một vài câu”. Nhưng khi tới nơi thì
tôi rất là thất vọng, “nghe nói ông đi đâu mất rồi”!
Không thấy ông đạo, chỉ thấy các thầy cô giáo đang giở
cơm ra ăn, không phải cơm nắm muối mè mà với thịt gà, làm tôi
chán quá!
Tôi suy
nghĩ, “Ông đạo này muốn tu một mình nên ông mới lên trên
đỉnh núi, mà bây giờ thấy mấy trăm đứa con nít lên ồn quá cho
nên ông mới trốn đâu đó?”. Tôi đi về phía mé rừng, đi xa
hơn một chút, hy vọng tìm ra ông đạo để nhìn ông một cái, hỏi
ông một câu: “tu như thế nào để thành Phật”? Đi một hồi
thì nghe tiếng nước róc rách chảy, lần theo tiếng nước chảy
thì khám phá ra cái giếng thiên nhiên, nước rất trong, xung
quanh toàn bằng những tảng đá. Lúc đó tôi rất là khát, tôi quỳ
xuống bên miệng giếng, vốc nước ở dưới giếng lên uống,
“chưa bao giờ uống được một thứ nước nó trong, nó ngọt, nó mát
như thế! Nó mát rượi hết cả tâm can của mình”! Hồi
đó tôi đọc truyện thần tiên rất nhiều, nên mới tưởng tượng ra
rằng: “ông đạo này ông trốn mọi người nhưng mà riêng với
mình, ông biến ra thành cái giếng nước để cho mình được gặp
riêng một mình ông”. Tôi rất lấy làm hạnh phúc, trong đầu
với chuyện thần tiên: “ông đạo này có phép, ông đã biến ra
thành cái giếng ngọt để cho mình được gặp gỡ và uống nước
giếng đó”. Sau khi uống mấy vốc nước, tôi thấy khỏe trong
người và không còn ước mong gì nữa hết! “Ngay cái ước mong
gặp ông đạo cũng không còn nữa, tại vì đã thỏa mãn hoàn toàn
rồi”. Vì mệt quá nên mới nằm xuống được một chút thì tôi
thiếp đi và tôi ngủ. Tôi còn nhớ là có những cành cây sà trước
mặt mình. Tôi không biết là tôi ngủ được bao lâu? Nhưng mà “sự
thật là tôi ngủ một giấc ngủ rất là sâu!”
Tại vì khi tôi thức dậy thì tôi không biết là mình đang ở
đâu? Một hồi sau mới chợt nhớ ra: “mình đang ở trên núi Nưa
và mình vừa mới khám phá ra cái giếng của ông đạo...” Nghĩ
đến bốn đứa bạn đang chờ mình xuống ăn cơm picnic chung với
tụi nó, thành ra tôi phải miễn cưỡng đi xuống thôi nhưng mà kỳ
thực lòng rất còn lưu luyến, còn muốn ngồi lại bên giếng nước
thơm trong. Tôi thấy: “ông đạo này rất là đặc biệt, ông dễ
thương với mình, ông đối đãi đặc biệt tử tế với mình cho nên
ông biến ra một cái giếng để cho mình được gặp”. Tôi rất
lấy làm biết ơn, nói tự đáy lòng: “ nước giếng này có lẽ là
nước ngon ngọt nhất ở trên đời”.
Hồi đó
chưa biết tới Tào Khê, chưa biết thiền là cái gì? Nhưng trong
đầu đã nghĩ: “giếng này có một thứ nước rất là linh thiêng,
rất là tuyệt diệu, khi uống vào được một ngụm thì tiêu tan hết
những sầu khổ, những lo lắng của mình”. Lúc gặp mấy đứa
bạn thì tôi rất là im lặng, tôi có cảm tưởng: ”nếu mình kể
câu chuyện đó ra thì nó mất hay, mất hết vẻ linh thiêng”.
Thành ra tôi giữ một mình trong trái tim cái câu chuyện bí mật
đó. Bốn đứa kia cũng rất lấy làm ngạc nhiên, thấy anh chàng
này bữa nay sao mà ít nói thế? “Kỳ thực là một bí mật đẹp,
một bí mật thiêng liêng mà mình muốn cất giữ trong trái tim
của mình và mình không muốn chia sẻ với bất cứ ai”.
Từ ngày
hôm đó về sau ý chí muốn đi xuất gia càng ngày càng lớn, tôi
bắt đầu đi tìm những cuốn sách, những bài giảng, những tạp chí
về Phật học để học và bắt đầu ăn chay. Cuối cùng năm mười sáu,
mười bảy tuổi thì được phép của bố mẹ cho đi xuất gia đến bây
giờ, năm nay đã tám mươi hai tuổi, lần đầu tiên đó cách nay
bảy mươi mốt năm. Buổi chiều hôm qua, tôi đã nhờ một anh Phật
tử lái xe chở tôi về Nông Cống, chúng tôi đã leo lên trên đó
và đã tìm ra được cái Giếng Tiên năm xưa, chúng tôi có chụp
một số hình, đêm qua đã đem đi rửa và sáng nay đã có người đem
tới cho xem hình chụp ở cái giếng đó. Vài thầy và vài sư cô đi
chung đã được tôi múc nước từ giếng lên cho rửa mặt và uống.
Nếu quý vị có thì giờ, quý vị có thể đi thăm Giếng Tiên trên
núi Nưa, uống một ngụm như vậy, biết đâu mai mốt quý vị cũng
có ý muốn xuất gia như tôi ngày xưa, tại vì bảy mươi mấy năm
về trước tôi đã uống một ngụm như vậy.
Đi tu là một chí nguyện
Khi
mình xuất gia tu đạo mà thành đạo thì mình giúp, mình độ không
biết bao nhiêu người. Có những người ở trong những hoàn cảnh
khó khăn, bức xúc, khổ đau. Vậy mà gặp mình trong năm mười
phút, họ được tháo gỡ, họ hòa giải được với những người thân
trong gia đình, họ có hạnh phúc. Vì vậy cho nên đi tu là
một chí nguyện rất là lớn! Có nhiều người nghĩ rằng:
“khi mình thất bại ngoài đời rồi mình mới đi tu”, cái đó
không đúng! Ngày xưa thái tử Tất Đạt Đa, ngài đâu có thất bại
gì đâu? Ngài cảm thấy “có những cái khổ đau mà mình không
có giải quyết được bằng chính trị, bằng quân sự, bằng tiền bạc.
Có những khổ đau mà mình chỉ có thể giải quyết được bằng
con đường tu thôi”. Ví dụ như quý vị có những lo lắng,
buồn khổ, sợ hãi thì làm sao tiền bạc có thể chữa lành những
cái đó, chỉ có tu thôi. Vì vậy cho nên Siddhatta đã bỏ ngai
vàng để đi xuất gia tìm phương pháp giúp cho bản thân tháo gỡ
được những sầu đau, lo lắng, buồn phiền, sợ hãi. Khi ngài
thành đạo rồi thì ngài truyền lại phương pháp đó cho chúng ta.
Chúng ta là những người học trò của Siddhatta, của Tất Đạt Đa,
của Phật Thích Ca, chúng ta phải học được những cái mà ngài đã
làm được, chứng được: “Bạch Đức Thế Tôn, ngày xưa ngài đã
thực tập như thế nào mà ngài tháo gỡ được những sợ hãi, lo
lắng, buồn phiền của ngài, ngài dạy cho con đi”! Trong
kinh có rất nhiều bài giảng giúp cho chúng ta có thể thực tập
để tháo gỡ những khó khăn, lo lắng, buồn đau, sợ hãi.
Trì danh niệm Phật - quán tưởng niệm Phật
Hôm nay
các em thiếu nhi, các thanh niên, các thiếu nữ được phép ngồi
trước! Khi chúng tôi dạy đạo Phật ở bên Tây Phương thì giới
trẻ, thanh thiếu niên tới học rất là đông, người lớn tuổi ít
lắm. Thường thường chúng ta nghĩ rằng niệm Phật là chỉ niệm
bằng tiếng thôi, tức là niệm Phật bằng cách gọi tên ngài, gọi
tên của ngài là A Di Đà, là Thích Ca Mâu Ni, là Quán Thế Âm,
là Địa Tạng. Niệm Phật bằng cách gọi tên của ngài, chữ Hán gọi
là trì danh niệm Phật. “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam Mô Địa
Tạng Vương Bồ Tát...” đó gọi là niệm Phật bằng cách gọi
tên. Nhưng mà có nhiều cách niệm Phật lắm chứ không phải chỉ
có một cách gọi tên thôi. Bài mà các cháu học hát sáng nay
cũng là niệm Phật, nhưng niệm Phật không phải bằng cách gọi
tên, mà niệm Phật bằng cách hình dung, niệm Phật bằng cách
quán tưởng, tức là mình hình dung Bụt như thế nào, Phật như
thế nào. Không gọi tên Phật mà chỉ hình dung Phật thì gọi là
quán tưởng niệm Phật hay quán tướng niệm Phật cũng được.
Chắp tay búp sen,
Con nhìn lên Bụt,
Tức là
mình quán tưởng, mình hình dung.
Bụt đang ngồi yên,
Dáng Bụt rất hiền
Khi
mình niệm Phật, mình phải thấy Bụt ngồi rất thẳng, ngồi rất
yên và dáng rất là hiền. Khi mình thấy được cái đó thì tự
nhiên mình cũng ngồi yên, dáng ngồi của mình cũng sẽ thẳng và
mình cũng sẽ hiền như Bụt. Phương pháp niệm Bụt này không phải
là gọi tên, không phải trì danh mà là quán tưởng hay là quán
tướng (quán tướng là hình dung). Quý vị lâu nay thực tập niệm
Phật trì danh tức là gọi tên, hôm nay quý vị thử niệm Phật
quán tướng, mình không cần gọi tên ngài, mình không cần Nam Mô
A Di Đà Phật mà mình hình dung ra cái tướng của Phật.
Chắp tay búp sen,
Con nhìn lên Bụt,
Bụt đang ngồi yên,
Dáng Bụt rất hiền.
Bụt là
một người rất hiền, không bao giờ bạo động, không bao giờ đánh
giết, la mắng, đàn áp, loại trừ ai. Đó là tinh thần từ bi,
tinh thần bất bạo động, nếu không có từ bi, không có bất bạo
động thì không thể gọi là Bụt được. Vì vậy cho nên nhìn thấy
Bụt không những là nhìn thấy hình của ngài đang ngồi yên, ngồi
rất thẳng, miệng mĩm cười mà thấy Bụt có rất nhiều tình thương
và rất hiền từ.
Chắp tay búp sen,
Con nhìn lên Bụt,
Bụt đang ngồi yên,
Có
nghĩa là con thấy Bụt đang ngồi yên.
Dáng Bụt rất hiền.
Bụt ngồi rất thẳng.
Mình là
học trò của Bụt thì mình đâu có ngồi cong được, mình phải ngồi
thật thẳng, nhưng không có cứng ngắt, đầu không cúi xuống,
không ngước lên và phải ngồi cho thật thoải mái. Bây giờ chúng
ta tập ngồi thẳng như Bụt, chúng ta là con trai, là con gái
của Bụt, chúng ta phải học ngồi giống như Bụt vậy.
Bụt ngồi rất thẳng,
Hào quang tỏa chiếu
Trên vầng trán cao
Bụt có
trán rất cao, biểu lộ ngài là người rất là thông minh, là
người có trí tuệ rất lớn. Thấy giống như ánh sáng từ ngài
phóng đi (phóng quang) gọi là quán tưởng (quán tưởng tức là
hình dung ra). Cách niệm Phật như vậy là gọi là niệm Phật quán
tưởng (một lối niệm Phật khác). Trán của ngài đang phóng ra
những luồng hào quang của trí tuệ, nhờ trí tuệ mà có ánh sáng,
nhờ ánh sáng mà chúng ta không có lầm đường lạc lối, đó là
ánh sáng của trí tuệ và tình thương. Trí tuệ và tình
thương nó soi đường cho mình, hể mình đi theo con đường của
trí tuệ và tình thương thì mình không đau khổ, nếu mình đi
ngược lại thì mình sẽ sa vào những hầm hố của khổ đau.
Chắp tay búp sen,
Con nhìn lên Bụt,
Bụt đang ngồi yên,
Dáng Bụt rất hiền.
Bụt ngồi rất thẳng.
Hào quang tỏa chiếu
Trên vầng trán cao
Hai mắt Bụt sáng.
Ngàn cánh hoa vô ưu
Siddhatta, Tất Đạt Đa ngày xưa là một người học sinh rất là
thông minh (Các cháu đừng có tưởng Bụt là một ông thần đâu
nghe), ngài cũng là một đứa con nít như chúng ta, ngài cũng
được sinh ra, mẹ ngài là hoàng hậu Maha Maya. “Một hôm,
hoàng hậu Maha Maya nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ
trên trời đi xuống. Trên không nhã nhạc vang lừng và tiếng ca
hát chúc tụng của chư thiên vọng lên không ngớt. Con voi trắng
đi xuống càng lúc càng gần, da của nó trắng như tuyết và vòi
của nó quấn một đóa sen hồng. Con voi tới gần
đưa đóa
hoa sen đụng vào người hoàng hậu...” Tự
nhiên hoàng hậu thấy trong người sảng khoái lạ thường, có cảm
tưởng rằng từ nay sẽ không bao giờ còn khổ đau, lo lắng và
phiền muộn nữa. Chưa bao giờ hoàng hậu
cảm thấy hạnh phúc đến như thế. Những tiếng hát ca của chư
thiên và nhạc trời êm ái còn như văng vẳng bên tai.
Hoàng
hậu trỗi dậy, đi tìm vua Tịnh Phạn và kể lại cho vua nghe về
giấc mộng thần kỳ, vua chia sẻ niềm vui với hoàng hậu. Sáng
hôm ấy, nhà vua mời các đạo sĩ, nhà triết học và những thầy bà
la môn nổi tiếng ở kinh đô vào cung để nhờ đoán mộng. Sau khi
nghe kể, các vị đều nói: “Hoàng hậu sẽ hạ sinh một hoàng
nam. Thái tử sau này sẽ là một người xuất chúng, là một bậc
vĩ nhân, thấu suốt được mọi lẽ huyền vi trong vũ trụ. Cõi đất
chúng ta, đã chờ đợi từ lâu rồi một người như thái tử.”
Vào một
ngày mùa xuân, hoàng hậu Maha Maya mới xin phép được đi về quê
ngoại để mà sinh con (Tập tục ngày xưa bên Ấn Độ là người con
gái có chồng phải về sinh con tại nhà cha mẹ). Đi chưa tới quê
ngoại, mới tới được nửa đường, hoàng hậu và đoàn tùy tùng ghé
vào nghỉ tại vườn Lâm Tỳ Ni. Trong vườn muôn hoa đang nở
rộ, chim chóc đang ca hát vang lừng, có một cây vô ưu hoa nở
rực đầy cành, hoàng hậu bước tới gần, thấy hơi choáng váng,
vội đưa tay nắm chặt một cành cây vô ưu thì chuyển bụng và hạ
sinh thái tử, đúng ngày trăng tròn tháng tư. Những người
thị nữ cắt nhao, cắt rốn cho thái tử và đem thái tử xuống một
cái hồ nước rất là mát để tắm. Tôi đã đến thăm vùng đó rồi,
vườn Lâm Tỳ Ni và cái hồ nước đó vẫn còn.
Siddhatta (tên của Bụt hồi còn lạp sinh) lớn lên cũng học viết
chữ, cũng học toán, cũng có thầy giáo, cũng có bạn học như
mình. Trong số những người bạn học của Siddhatta có anh chàng
tên là Devadatta, là em trong họ, anh chàng này thông minh lắm
nhưng có nhiều lần tỏ vẻ ganh tỵ với Siddhatta. Một bữa đó
Siddhatta đang chơi ở trong cung thấy một con thiên nga bị
trúng tên từ trên trời rơi xuống. Siddhatta (tức là Tất Đạt
Đa) thấy tội nghiệp quá mới chạy tới rút mũi tên ra, lấy lá
thuốc gì đó nhai nhai rồi đắp vào vết thương con thiên nga và
lấy cái áo len của ngài quấn cho con thiên nga đỡ lạnh. Lúc
đó, anh chàng Devadatta đẩy cửa bước vào hỏi: “có thấy con
chim rớt xuống đây không?” Siddhatta hỏi lại: “chim nào?”.
Devadatta trả lời: “Có con thiên nga bay ngang qua bị em
bắn trúng, hình như nó rơi xuống đây? Em phải đi tìm mới được!”
Devadatta vừa nói, vứa ngó quanh, ngó quất thì thấy con thiên
nga đang được quấn trong cái áo len. Devadatta định chạy tới
dành lấy con chim thì bị Siddhatta ngăn lại: "Em không được
dành, con chim này là của anh”. Devadatta không chịu:
“con chim này là của em tại vì em là người bắn rơi nó xuống”.
Siddhatta chặn trước mặt Devadatta và nói: “Con chim
này bị thương, anh cứu nó, anh che chở cho nó, nó cần anh, chứ
nó không cần em”. Devadatta đâu có chịu thua: “Con chim
này, khi nó còn bay trên trời, thì nó không thuộc về ai cả. Em
bắn nó rơi xuống, thì lý đương nhiên nó thuộc về em.”
Siddhatta nghe tức lắm, thấy có cái gì sai trong đó, nhưng
chưa biết sai chỗ nào? Siddhatta hít thở vài hơi, bỗng nhiên
nghĩ ra cách trả lời như thế này: “Thói thường, những kẻ
thương yêu nhau mới ở chung với nhau, còn những kẻ ghét bỏ
nhau thì không bao giờ sống chung với nhau. Em có ý dữ muốn
bắn giết con chim, như vậy em và con chim là những kẻ thù ghét
nhau, làm sao con chim có thể ở chung với em được. Trong khi
đó, anh cứu con chim, anh rịt vết thương cho nó, anh ấp ủ nó,
và anh đang đi kiếm thức ăn cho nó ăn… vậy thì anh và con chim
là những kẻ biết yêu thương nhau, anh và con chim có thể ở
chung với nhau… như anh đã nói, con chim nó cần anh, chứ nó
không cần em.”
Siddhatta thời còn nhỏ, hồi còn đi học đã có được tình thương
rất là lớn rồi. Khi lớn lên thấy rằng “vua cha có rất là
nhiều quyền hành, có rất nhiều tiền bạc. Nhưng mà những khổ
đau ở trong gia đình, ở trong kinh thành, ở trong nước không
giải quyết được. Những lúc người ta giận dữ, thù hận, giết
nhau, tranh nhau, hại nhau thì vua cũng bất lực, có quyền cũng
bất lực, có tiền cũng bất lực”. Cho nên thái tử Siddhatta
mới phải đi tìm phương pháp để tháo gỡ những khổ đau đó. Những
tham đắm, giận hờn, nghi kỵ, bạo động đâu thể giải quyết được
bằng tiền bạc, quyền hành. Chỉ có con đường tu mới giải quyết
được vấn đề. Vì vậy Siddhatta mới quyết định xuất gia đi tìm
đạo. Cuối cùng Siddhatta đã thành công, đã trở thành bậc thầy
của nhân loại. Chúng ta hôm nay đều là học trò của Siddhatta
hết thì nên nhớ rằng: “Siddhatta trước hết là một bậc thầy
chớ không phải là một ông thần!” Tại vì Siddhatta cũng đã
sinh ra, cũng đã đi học, cũng đã từng đánh lộn, cũng đã từng
khổ đau như chúng ta. Nhưng Siddhatta với tâm nguyện lớn lao
đã tìm ra được con đường cứu khổ cho chính mình và cho cả nhân
loại.
Chánh niệm là Bụt - Soi sáng xa gần
Khi học
với Siddhatta, mình nói con về nương tựa Phật, tức là mình đi
theo con đường của ngài, con đường của tình thương và sự hiểu
biết.
Chắp tay búp sen
Con nhìn lên Bụt
Bụt đang ngồi yên
Các
cháu thấy không, Bụt đang ngồi yên, ngài ngồi rất yên. Ngài
ngồi như ngồi trên đóa sen. Còn phần lớn chúng ta ngồi không
yên, ngồi như ngồi trên đống lửa, mới có mười lăm phút đã động
đậy, đã muốn đứng dậy.
Bụt đang ngồi yên,
Dáng Bụt rất hiền.
Bụt ngồi rất thẳng.
Hào quang tỏa chiếu
Trên vầng trán cao
Trí tuệ lớn lắm (đại trí).
Hai mắt Bụt sáng
Nhìn thấu lòng con
Mắt của
Bụt rất sáng, ngài không nhìn khơi khơi và thấy khơi khơi đâu,
ngài nhìn và ngài thấy được rất là sâu. Khi mình tu, hai con
mắt mình có tuệ, cũng nhìn cái đó nhưng mình thấy sâu hơn
người khác nhiều. Đó là con mắt tuệ (chữ Hán gọi là tuệ nhãn),
mình có tu mới có con mắt tuệ, còn mình không tu thì chỉ có
mắt thịt thôi (người trần mắt thịt), mắt thịt thì không thể
thấy được những cái mà mắt tuệ thấy được. Cho nên người tu là
cốt để làm sao cho có được con mắt tuệ.
Hai mắt Bụt sáng
Nhìn thấu lòng con
Thấy được niềm vui
Cũng như nỗi khổ
Ngài
thấy được hết niềm vui và nỗi khổ của chúng sanh. Tuy là mình
còn bé, mới mười, mười lăm, mười bảy, mười tám tuổi nhưng mình
đã bắt đầu có những khó khăn, những khổ đau rồi. Khi Bụt nhìn
mình Bụt thấy hết, đừng tưởng là có thể che dấu được ngài.
Hai mắt Bụt sáng.
Nhìn thấu lòng con.
Thấy được niềm vui.
Cũng như nỗi khổ.
Đó là
mình đang quán tưởng, con mắt của Bụt, miệng Bụt mỉm cười.
Không gì đẹp bằng nụ cười của Bụt. Hoa tuy đẹp, tuy tươi mát
thật nhưng không có được nét đẹp, nét từ bi, sự tha thứ bao
dung như nụ cười của Bụt. Mình là học trò của ngài, mình phải
tập cười như thế nào để nụ cười vừa đẹp, vừa hiền.
Miệng Bụt mỉm cười
Nụ cười từ bi
Chứa đầy hiểu biết
Tha thứ bao dung
Mình
mỉm cười mà trong cái cười của mình có tha thứ bao dung, hiểu
biết và không trách móc. Hiểu biết rằng, vì hoàn cảnh anh phải
làm như thế, tại anh chưa có người hướng dẫn, tội nghiệp anh
quá! Bây giờ anh đã có người đưa đường, chỉ lối rồi, mong anh
cơ hội chuyển hóa thân tâm, để anh có thể làm tốt hơn, tôi
không trách anh đâu!” Đó gọi là hiểu biết, tha thứ, bao dung
(bao dung tức là ôm lấy mà không trục xuất ra). Bao dung tức
là mình ôm được người đó trong lòng, không đẩy người đó ra
khỏi tình thương của mình. Tình thương của Bụt lớn lắm, ôm lấy
tất cả muôn loài. Không những Bụt thương con người mà Bụt còn
thương các loài động vật, thực vật, khoáng vật khác. Trái tim
của Bụt là trái tim không có biên giới, tình yêu của bụt là
tình yêu không biên giới. Còn trái tim của mình đôi khi nhỏ
bằng trái cam, đôi khi bé tí xíu bằng hạt đậu vì thế nên mình
không hạnh phúc. Trái tim càng lớn thì hạnh phúc càng lớn!
Có bài
giảng về nắm muối, Bụt nói: “ví dụ bỏ một nắm muối vào trong
một bát nước, bát nước sẽ mặn lắm, không uống được. Nhưng nếu
liệng nắm muối đó xuống sông thì không đủ sức làm cho dòng
sông mặn, nước sông vẫn tiếp tục uống được. Là tại vì sao? Tại
cái bát nhỏ, chỉ chứa được một ít nước, trong khi dòng sông
chứa được rất nhiều nước, dòng sông mênh mông. Vì vậy, cho
dầu mình có đổ cả thúng muối xuống sông, cũng không đủ để làm
dòng sông mặn. Vấn đề là trái tim của mình nhỏ hay lớn thôi!
Nếu trái tim mình nhỏ thì bất kỳ một lời nói hay cử chỉ nhỏ
nào cũng có thể làm cho mình bực tức, đau khổ. Nhưng nếu trái
tim mình rộng lớn như một dòng sông thì bất kỳ lời trách móc
nào hay những hành động không dễ thương nào cũng không đủ làm
cho mình khổ. Khổ hay không khổ là do trái tim của mình nhỏ
hay lớn thôi! Mình là học trò của Đức Thế Tôn, mình nên sống,
nên tu tập như thế nào để mỗi ngày trái tim của mình nó lớn
dần lên. Nếu trái tim mình nhỏ như hạt đậu thì buồn lắm, mình
sẽ đau khổ rất nhiều. Mình phải làm thế nào để có hiểu và có
thương thì trái tim mình từ từ sẽ lớn lên, trái tim mình sẽ đi
về hướng không biên giới, vô lượng tâm. Trong đạo Phật có danh
từ tứ vô lượng tâm, từ, bi, hỷ, xả, là bốn chất liệu của tình
thương lớn. Mỗi ngày mình làm cho những chất liệu từ bi hỷ xả
lớn lên, trái tim mình tiếp tục lớn lên. Khi mình bao dung, ôm
ấp, không loại trừ ra bất cứ ai thì lúc đó mình sẽ không còn
khổ đau nữa. Không phải mình chỉ thương con người, mình thương
các loài khác; không phải mình chỉ thương người Việt, mình
cũng thương người Lào, người Thái; không phải mình chỉ thương
người Phật tử mà mình thương luôn người Thiên Chúa giáo.
Thương hết không kỳ thị, gọi là xả, xả tức là không kỳ thị, từ
bi hỷ xả.
Đức Thế
Tôn dạy về phương pháp thương yêu rất là hay, tôi có viết một
cuốn sách gọi là Thương yêu theo phương pháp Bụt dạy. Trong đó
nói rất rõ về bốn đức từ bi hỷ xả, tu tập như thế nào để trái
tim mình càng ngày càng lớn ra, ôm lấy được tất cả mọi loài,
mọi người để trở thành tình yêu không biên giới. Nếu quý vị có
cơ hội thì thỉnh cuốn sách ấy về đọc, Thương yêu theo phương
pháp Bụt dạy, dạy về tứ vô lượng tâm, tức tình thương không
biên giới.
Con mắt
của Bụt rất là sáng, nếu mình biết tu tập hai con mắt mình
cũng sẽ rất là sáng. Con mắt đó gọi là con mắt tuệ, chữ Hán
gọi là tuệ nhãn. Còn nếu không tu thì mắt mình là mắt trần,
mắt thịt (mắt làm bằng thịt thôi).
Hai mắt Bụt sáng
Nhìn thấu lòng con
Thấy được niềm vui
Cũng như nỗi khổ
Miệng Bụt mỉm cười
Nụ cười từ bi
Chứa đầy hiểu biết
Tha thứ bao dung.
Bao
dung tức là ôm lấy hết, không có loại trừ bất cứ ai, đó là
tình thương không biên giới.
Bụt là bậc thầy
Dạy thương dạy hiểu
Mình
đừng có nghĩ Bụt là một ông thần để mình tới mình cúng bái!
Trước hết phải thấy Bụt là một vị giáo sư. Mà giáo sư này dạy
về gì? Không phải dạy toán, dạy lý hóa hay dạy sinh học mà
ngài dạy về thương và hiểu. Làm thế nào để hiểu và làm thế nào
để thương? Hiểu tức là trí tuệ, mà thương tức là từ bi.
Bụt là bậc thầy
Dạy thương dạy hiểu
Bụt đã cho con nếp sống tâm linh
Suốt đời con nguyện noi theo ánh sáng của Bụt mà đi
Chúng
ta có đời sống xã hội, đời sống kinh tế, đời sống chính trị,
nhưng nếu chúng ta không có nếp sống tâm linh thì chúng ta sẽ
khổ đau. Có nếp sống tâm linh chúng ta mới tháo gỡ được những
khó khăn trong lòng. Bụt không có dạy về kinh tế học, xã hội
học, chính trị học mà Bụt dạy về tâm linh, con đường của hiểu
và của thương.
Bụt là bậc thầy
Dạy thương dạy hiểu
Bụt đã cho con nếp sống tâm linh
Tất cả
các cháu tới chùa ngày hôm nay đều có nếp sống tâm linh hết.
Các cháu đã chịu khó ngồi nghe sư ông giảng, tiếp nhận lời dạy
của Bụt là các cháu bắt đầu có nếp sống tâm linh. Làm sao nuôi
dưỡng nếp sống tâm linh mỗi ngày mỗi lớn? Phải đi chùa mỗi
ngày chủ nhật! Vì vậy cho nên các thầy các sư cô trẻ có mặt
hôm nay tôi xin giao trách nhiệm cho quý vị là: “sáng chủ nhật
nào thì cũng phải tạo cơ hội cho các cháu thanh niên, thiếu nữ
tới chùa học hỏi như thế này để các cháu sớm có được đời sống
tâm linh, để khi lớn lên các cháu có nhiều hạnh phúc”. Ở nhà
thờ tuổi trẻ tới rất là đông, ở chùa thì tuổi trẻ không được
chăm sóc nhiều, đó là một cái khuyết điểm ở bên Phật giáo.
Bụt đã cho con nếp sống tâm linh
Suốt đời con nguyện noi theo ánh sáng của Bụt mà đi
Bụt chỉ
đường cho mình, giáo lý của ngài tức là ánh sáng, tức là quy y
Phật. Quy y Phật tức là nhận Bụt làm thầy, đi theo thầy trên
con đường thực tập hiểu và thương. Tự quy y Phật, mình phải
nhận Phật làm thầy, mình phải đi theo con đường của Phật dạy.
Làm thế nào để mỗi ngày hiểu biết và thương yêu càng lớn lên
thì mới gọi là thật sự quy y Phật.
Hơi thở là Pháp - Bảo hộ thân tâm
Giáo
pháp hướng dẫn mình làm thế nào để càng ngày càng hiểu
thêm, càng thương thêm. Giáo pháp về hiểu và thương! Tại vì
Bụt là giáo sư về hiểu và thương.
Con xin lạy Bụt đã ban cho con giáo Pháp pháp nhiệm mầu
Giúp con nuôi dưỡng tình nghĩa, hạnh phúc, nụ cười, niềm tin
Mình có
tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa cha con, tình nghĩa mẹ con.
Mình có hạnh phúc vợ chồng, hạnh phúc cha con, hạnh phúc mẹ
con, hạnh phúc anh em. Nhưng nếu mình không tu tập thì tình
nghĩa càng ngày càng ốm yếu, càng bị xoi mòn. Khi tình nghĩa,
hạnh phúc bị xoi mòn thì bắt đầu biết khổ, bắt đầu làm khổ
nhau. Buổi ban đầu mới cưới sao mà hạnh phúc thế! Người này
nói với người kia “giời đất ơi, nếu không có em trong đời anh
thì làm sao anh sống được. Em là hơi ấm, là cành hoa, là nguồn
sống của đời anh…" Ban đầu rất đẹp, tình nghĩa rất đẹp, nhưng
mà sống một hồi thì làm khổ nhau, “trời đất ơi, mình sống với
bà này cho tới suốt đời chắc mình chết quá. Ngày xưa bà tươi
như một đóa hoa bây giờ bà sao mà chua chát giống như một bà
chằng thế này!” Lúc đó mình không nuôi dưỡng tình nghĩa và
hạnh phúc. Ban đầu thì nói “nếu không có anh thì em làm sao
sống nỗi!” Bây giờ thì nói “trời đất ơi nếu mà ông không cưới
mình thì đời mình đâu đến nổi bệ rạc như thế này!” Đó là lỗ
vốn, tại vì mình không biết tu, mình không biết nuôi dưỡng
tình nghĩa, hạnh phúc, nụ cười và niềm tin. Ngày xưa cái gì
mình cũng cười được hết, bây giờ mình cười không nổi. Có những
người không có khả năng cười và nếu ráng cười thì cái miệng
méo xẹo. Mình không có niềm tin nữa, không có niềm tin nơi
chồng, nơi vợ, nơi bố, nơi mẹ, nơi gia đình… mình không còn
hạnh phúc nữa. Như vậy là lỗ vốn! Tu tức là để nuôi dưỡng tình
nghĩa mỗi ngày, tình nghĩa càng được nuôi dưỡng thì hạnh phúc
càng lớn. Giáo lý của Đức Thế Tôn giúp cho chúng ta nuôi dưỡng
được tình nghĩa.
Con xin lạy Bụt đã ban cho con giáo Pháp pháp nhiệm mầu
Giúp con nuôi dưỡng tình nghĩa hạnh phúc, nụ cười, niềm tin
Bắt đầu
mình nghi ngờ là mình không còn hạnh phúc nữa, mình nghi ngờ
cái lý tưởng của mình, mình nghi ngờ con đường của mình. Giáo
lý của Đức Thế Tôn, trước hết là giúp mình nuôi dưỡng bốn cái:
“nụ cười, niềm tin, tình nghĩa, hạnh phúc.” Nhưng mà giáo lý
còn có thể giúp mình nhiều hơn nữa:
Dạy con biết thở
Ôm lấy niềm đau
Những lúc tâm con
Tham đắm giận hờn
Si mê ganh tị.
Đó là
những cái rất là người, nếu không tu tập, không quán chiếu,
không theo con đường Bụt đi thì những tham đắm giận hờn, si mê
ganh tị cứ phát sinh ra, những khối khổ đau càng ngày càng
lớn, “mình tự làm khổ mình và mình làm khổ người mình yêu,
mình thương”. Thực tập theo lời Phật dạy để mỗi khi giận hờn,
buồn bực là mình biết trở về với hơi thở, thở trong chính
niệm. Trong khi thở mình chế tát được năng lượng chính niệm,
mình nhận diện được nỗi khổ, niềm đau của mình; ôm lấy nỗi khổ
niềm đau của mình mà không vung vãi lên người khác, không làm
khổ những người thân của mình. Người biết tu là như thế! Mai
mốt nếu ông có giận, có buồn, có bực tức thì “ông đừng có la
mắng con cái, la mắng bà, ông trở về với hơi thở, ông thở cho
nhẹ nhàng, ông đi cho nhẹ nhàng, ông dùng cái năng lượng đó
ông ôm ấp nỗi khổ niềm đau của ông”, đỡ cho ông lắm, đỡ cho
bà và các cháu lắm. Bà cũng thế, mỗi khi có những niềm đau nỗi
khổ, “mình đừng có nói gì hết, đừng có làm gì hết, trở về với
hơi thở, tập đi thiền hành” như sáng hôm nay. Mình ôm lấy nỗi
khổ, niềm đau nội trong năm mười phút nó sẽ lắng xuống, mình
sẽ không làm khổ người mình thương. Điều đó rất là quan trọng!
Giáo pháp dạy con biết thở để ôm lấy niềm đau những lúc tâm
con tham đắm giận hờn, si mê ganh tị. Người tu thì biết cách
đối phó với phiền não, tức si mê, tham đắm, giận hờn, ganh tị.
Người không tu cứ để cho phiền não chiếm cứ mình, làm khổ
mình, khi mình khổ thì mình làm khổ những người chung quanh.
Để con có thể làm chủ thân tâm
Vượt thắng cơn buồn
Làm vơi nỗi khổ
Quy y
Pháp là phải làm được những điều mình vừa mới đọc mới gọi là
quy y Pháp. Chứ còn nói rằng con về nương tựa Pháp mà mình
không thực tập thì đó chỉ là quy y nơi miệng thôi chứ không
phải quy y bằng hành động của mình.
Năm uẩn là Tăng - Phối hợp tinh cần
Bây giờ
mình đi sang đoạn kế là quy y Tăng. Tăng thân tức là đoàn thể
tu học. Chữ tăng ở đây có nghĩa là chúng, chữ tăng ở đây không
có nghĩa là người xuất gia. Ở trong văn học của mình nói một
vị tăng là một người xuất gia là không đúng. Chữ Tăng nguyên
trong tiếng Phạn là chữ Sangha, Sangha nghĩa là đoàn thể, bất
cứ một nhóm người nào cũng có thể gọi là Sangha, là tăng hết.
Trong thời đức Phật, đoàn thể gồm có bốn yếu tố: xuất gia nam,
xuất gia nữ, tại gia nam, tại gia nữ, bốn Sangha gọi là tứ
chúng. Mình tu mình phải có tứ chúng, mỗi tuần mình phải họp
nhau, nghe pháp thoại, đi thiền hành, tập thở, tập ngồi thiền,
tụng kinh với nhau. Tất cả bốn đoàn thể đó gộp chung gọi là
tăng thân. Mình nương tựa vào đoàn thể gọi là quy y tăng. Quy
y tăng không phải chỉ là đi theo một vị xuất gia, Quy y tăng
tức là phải cùng thực tập chung với một đoàn thể có nhiều
thầy, nhiều sư cô, nhiều cư sĩ nam, nhiều cư sĩ nữ, mới gọi là
quy y tăng.
Con xin trở về nương tựa tăng thân
Khi mà
chúng ta đi thiền hành chung với một ngàn người, cái năng
lượng rất là hùng tráng. Khi tụng kinh, sám hối với đông đảo
đại chúng, năng lượng rất là lớn. Năng lượng tăng thân nuôi
dưỡng, ôm ấp, bảo hộ mình, có tăng thân thì mình mới tu học
lâu dài được. Vì vậy cho nên mình phải quy y tăng, sinh hoạt
chung với tăng thân, tu một mình cũng được nhưng rất là khó.
Khi mình tu chung với tăng thân sẽ dễ hơn rất nhiều. Cũng như
đàn chim bay trên trời, nếu có một con chim bay một mình thì
nó phải dùng sức rất là nhiều, còn nếu có hàng ngàn con chim
cùng bay, nương vào nhau bay sẽ ít mệt hơn nhiều lắm. Chúng ta
cũng thế, nếu chúng ta nương vào tăng thân mà tu thì năng
lượng không mất nhiều mà dễ thành công hơn.
Con xin trở về nương tựa tăng thân
Tức là đoàn thể những người thực tập theo Bụt
Chúng
ta là học trò, đệ tử của Bụt hết, chúng ta hợp lại, chúng ta
trở thành tăng thân. Nương tựa tăng thân có lợi ích gì? Để
được nâng đỡ, để được soi sáng trên đường học hỏi đạo lý nhiệm
mầu! Chúng ta có các thầy, các sư cô, những người anh, những
người chị ở trong đạo và chúng ta thân cận những người đó.
Những người đó có thể đóng góp ý kiến, soi sáng cho chúng ta:
“chị có những khổ đau này, chị nên thực tập theo pháp môn
này. Anh có những ước vọng kia, anh có thể thực tập theo cái
pháp môn kia”. Chúng ta soi sáng, nâng đỡ cho nhau, đó là cái
chúng ta thừa hưởng được khi mà chúng ta có một tăng thân. Con
đường của mình là con đường học hỏi giáo pháp của Bụt, Nếu
mình đi một mình thì mình sẽ có những khó khăn. Nếu mình cùng
đi chung với các thầy các sư cô, các bạn tu người nam cũng như
người nữ, để được học hỏi chung, để được soi sáng chung thì
chúng ta sẽ dễ thành công hơn. Cho nên quy y Phật chưa đủ, quy
y Pháp cũng chưa đủ, mình phải quy y Tăng. Nếu mình giỏi, ở
địa phương mình, mình tổ chức một nhóm người cùng tu chung.
Những đạo tràng cùng tu chung với nhau gọi là xây dựng tăng
thân và quy y tăng.
Bây giờ các cháu hát lại bài này từ đầu tới cuối được không?
Các cháu hiểu bài này rồi, sư ông muốn các cháu mỗi tuần đến
chùa lễ Phật nên hát hoặc là tụng bài này (bài này vốn là một
bài tụng, nhưng mà sau đó được phổ nhạc thành bài ca). Mời
thầy Pháp Niệm, sư cô Định Nghiêm ra hướng dẫn cho các em tụng
và hát bài này. Bây giờ sư cô Định Nghiêm cùng hát với các
cháu, các bác các chú cùng hát theo, sau đó chúng ta học tụng.
|