Bí quyết an lạc trong cuộc sống
-
Tháng
01.2008 - Chân Giác Quang & Chân Tịnh Minh
biên tập :
Pháp thoại
của Sư ông Làng Mai
ngày
22.02.2007
tại
chùa Pháp Vân, thành phố Hồ Chí Minh
Âm thanh MP3:
Phần 1 (10.9MB)
Phần 2 (13.2MB)

Hàng
ngàn đồng bào, phật tử lắng nghe bài giảng đầu tại chùa Pháp Vân
(Tân Phú - Sài gòn) trong chuyến hoằng pháp mùa xuân 2007 (Đinh
Hợi) tại Việt Nam. |
Nguyện ngày an lành, đêm an lành
Kính thưa đại chúng, các thầy và các sư cô tăng thân làng Mai sẽ
tụng bài Nguyện Trú Cát Tường Dạ Cát Tường bằng tiếng Anh, sau đó sẽ
niệm Đức Bồ Tát Quan Thế Âm bằng tiếng Phạn.
Trong khi các thầy các sư cô tụng bài Nguyện Trú Cát Tường Dạ Cát
Tường và Nam Mô Avalokiteshsvara xin tất cả đại chúng buông
thư và theo dõi hơi thở để cho năng lượng của chư Bụt và chư Bồ Tát
đi vào trong cơ thể của mình. Nếu mình có những đau nhức hay buồn
khổ, năng lượng của chư Bụt và chư Bồ Tát sẽ đi vào trong để ôm ấp
chuyển hóa những đau nhức và buồn khổ đó. Nếu mình có một người thân
đang đau ốm, đang buồn khổ mà không tới được tối hôm nay, mình cũng
có thể truyền năng lượng này về cho người đó bằng cách nghĩ tới
người đó hoặc là gọi thầm tên người đó, năng lượng của tăng thân sẽ
được truyền về cho người đó, người đó sẽ bớt đau nhức, bớt đau khổ
ngay trong giây phút hiện tại. Xin đại chúng thực tập cho nghiêm
chỉnh, ngồi cho thoải mái, đây là cơ hội để chúng ta thực tập với
nhau, cơ hội mà chúng ta đã trông đợi nhiều tháng nhiều năm.
Xin quí vị theo dõi hơi thở và tiếng tụng kinh để cho năng lượng của
Tam Bảo đi vào trong thân và trong tâm của mình.
Các thầy và các sư cô xướng tụng bài Nguyện trú cát tường dạ cát
tường bằng tiếng Anh, dịch ra tiếng Việt là:
Nguyện An Lành
Nguyện ngày an lành đêm an lành
Ngày đêm sáu thời đều an lành
An lành trong mỗi giây mỗi phút
Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở
Bốn loài sinh lên đất Tịnh
Ba cõi thác hóa tòa Sen
Hằng sa ngạ quỷ chứng Tam Hiền
Vạn loại hữu tình lên Thập Địa.
Thế Tôn dung mạo như vầng nguyệt
Lại như mặt nhật phóng quang minh
Hào quang trí tuệ chiếu muôn phương
Hỷ Xả Từ Bi đều thấm nhuận.
Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni. (CC)
Đi tu giúp được nhiều người hơn
Kính thưa đại chúng trong tăng thân có năm vị trước khi xuống tóc để
làm sa di đã từng là bác sĩ y khoa. Sư cô Chân Đẳng Nghiêm hình như
cũng có mặt tối nay, tốt nghiệp bác sĩ y khoa ở bên Mỹ. Sư cô Chân
Tố Nghiêm là người Đức tốt nghiệp y khoa ở bên Đức, sư cô Chân Tố
Nghiêm chuyên môn về giải phẩu. Sư chú Chân Pháp Bảo, thầy Chân Pháp
Lữ tốt nghiệp y khoa tại Pháp. Hôm nay trong tăng thân về Việt Nam
lần này cũng có một vị xuất gia đã tốt nghiệp y khoa tại Pháp đó là
thầy Pháp Liệu, thầy Pháp Liệu chuyên về tim mạch. Được tin thầy
Pháp Liệu đi tu, ông chú của thầy Pháp Liệu mới trách thầy rằng,
tại sao đi tu uổng vậy!
Cuộc đối thoại giữa hai chú cháu được đăng trên Lá Thư Làng Mai số
Tết: “con đi tu làm chi uổng quá, sao con không về Việt Nam hành
nghề, hiện nay Việt Nam bắt đầu có nhiều người giàu lắm, giàu sang
sanh ra bệnh của nhà giàu, nhiều nhất là bệnh tim mạch. Chú biết có
một ông giám đốc kia vì ăn hối lộ khá nhiều nên sống trong lo sợ hồi
hộp, ăn không ngon ngủ không yên, bệnh cao huyết áp của ông cũng gia
tăng. Cách đây vài tuần chú nghe tin ông ta chết do tai biến mạch
máu não. Những trường hợp như vậy rất cần một người bác sĩ chuyên
khoa tim mạch như con. Chú sẳn sàng lo liệu mọi chuyện để con có thể
về làm việc tại Việt
Nam”. Ông chú muốn thầy Pháp Liệu đừng tu nữa, ra đời đi làm bác sĩ tim
mạch kiếm được nhiều tiền hơn, không thì uổng quá. Thầy Pháp Liệu
mới trả lời như thế này: “thưa chú, là bác sĩ con có thể giúp ông
ta điều trị chứng bệnh cao huyết áp, nhưng khi là một thầy tu, con
có thể làm hay hơn nữa. Con sẽ chỉ dẫn ông ta phương pháp thiền tập
để đối trị với cơn lo sợ của ông ta, lo sợ là nguồn gốc làm tăng
trưởng căn bệnh của tim mạch. Con sẽ khuyến khích ông thực tập năm
giới để bỏ ăn hối lộ. Khi căn bệnh lo sợ được chữa trị tận gốc, ông
ta sẽ có khả năng sống an lạc và hạnh phúc, vợ con ông ta và những
người chung quanh cũng sẽ được hưởng lây”. Ông chú trả lời là: “con
nói vậy thì chú hiểu!”.
Tôi biết rõ và tôi chứng kiến rằng thầy Pháp Liệu đi xuất gia giúp
được nhiều người hơn là làm bác sĩ. Thân và tâm nó có liên hệ tới
nhau, những lo lắng, những buồn khổ, những căng thẳng của tâm trí
đưa tới những bệnh tật về thân thể. Chúng ta có thể tin vào những
phương pháp thực tập của đạo Phật để chữa trị được những căn bệnh về
thân và về tâm của chúng ta. Cố nhiên là chúng ta cần tới những bác
sĩ chuyên môn nhưng nếu chúng ta biết sống theo phương pháp của đức
Thế Tôn dạy, chúng ta sẽ có một hình hài khỏe mạnh, một tâm hồn khỏe
mạnh và chúng ta sẽ đở bị bệnh tật hơn. Trong đạo Phật có danh từ an
lạc, an có nghĩa là yên, yên trong thân thể của mình và yên
trong tâm của mình (an thân và an tâm), lạc có nghĩa là hạnh
phúc, hạnh phúc chỉ có thể có được khi mình có sự yên ổn. Vì vậy cho
nên an đi đôi với lạc, có an thì phải có lạc. Nhiều người trong
chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có thể có được khi có nhiều tiền
bạc, có nhiều danh vọng và có nhiều quyền hành. Nhưng trong
trường hợp ông giám đốc bị bệnh tim mạch đó, ông có nhiều quyền
hành, ông có nhiều tiền nhưng ông không có an ở trong thân, ông
không có an ở trong tâm. Trong giáo lý của đức Thế Tôn là : dù
cho mình có nhiều tiền bạc, nhiều uy quyền, nhiều danh vọng mà nếu
mình có sự lo lắng, sự buồn khổ, sự nhức nhối trong thân và trong
tâm thì hạnh phúc vẫn không có. Do đó cho nên sự tu học là để
cho có sự yên ổn, yên ổn trong thân và yên ổn trong tâm.
Ngồi cho mẹ, ngồi cho cha
Ba tôi mất lâu rồi nhưng tôi biết rằng ba vẫn còn sống trong từng tế
bào cơ thể của tôi. Mỗi khi ngồi thiền tôi thường vẫn hay mời ba
ngồi thiền chung, ba ơi, ngồi thiền chung với con, ba thở vô với
con, thở vào tâm tỉnh lặng, thở ra miệng mỉm cười, ba thấy khỏe
không, ba thấy vui không? Hoặc là, mẹ ơi, mẹ ngồi thiền với
con, bây giờ mẹ con mình cùng thở, thở vào tâm tỉnh lặng, thở ra
miệng mỉm cười, an trú trong hiện tại, giây phút đẹp tuyệt vời, mẹ
thấy khỏe không? Mình thấy rõ là mẹ mình nói khỏe lắm con ơi,
ngồi thiền khỏe quá đi. Mình biết rằng, trong quá khứ mẹ đã từng
tất tả ngược xuôi lo lắng cho chồng, cho con, ít có thì giờ để ngồi
yên. Mình ngồi thiền là cũng ngồi cho mẹ, cũng ngồi cho cha. Người
tu báo hiếu cho cha cho mẹ bằng những phương pháp rất là đặt biệt.
Bữa đó, ngồi thiền tôi thấy trong thân rất là yên và trong tâm cũng
rất là yên, không có tham vọng, ước mong, hận thù, sợ hãi nào hết,
trong lòng hạnh phúc rất là lớn, tự nhiên tôi gọi ba, ba ơi, cha
con mình thành công rồi, thành công rồi. Nếu quý vị hỏi thành
công cái gì? Tôi sẽ trả lời thành công trong chuyện đem lại
sự an ổn trong thân và trong tâm của mình. Với tư cách của một
người tu, sự thành công là có an và lạc trong giây phút hiện tại.
Mình đi tu không phải là để cầu an, cầu lạc trong tương lai, mà mình
phải làm thế nào để thực tập cho an và lạc có được ngay trong giây
phút hiện tại. Đức Thế Tôn đã từng dạy rằng nếu chúng ta biết
cách thực tập thì chúng ta có thể có hạnh phúc, có an, có lạc ngay
trong giây phút hiện tại, gọi là hiện pháp lạc trú, tức là sống
an lạc, thảnh thơi, hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Nhưng
muốn sống an lạc hạnh phúc, thảnh thơi trong giây phút hiện tại là
mình phải biết cách điều phục thân và tâm, đem sự yên ổn về với thân
và về với tâm.
Chúng ta đi chùa, chúng ta dâng hương, bái sám, lễ lạy, cúng dường,
cố nhiên chúng ta có một ít an lạc, nhưng an lạc đó chưa đủ sâu,
không có kéo dài được lâu, nên chúng ta phải học thêm những phương
pháp khác như là phương pháp ngồi cho yên gọi là an tọa, phương pháp
đi từng bước chân thảnh thơi gọi là an lạc hành, những phương pháp
đó người nào cũng có thể làm được. Nếu quý vị không có những lo
lắng, những buồn khổ quá lớn thì nội trong vòng ba hay bốn ngày có
thể tập được cách ngồi để cho thân và tâm có an và có lạc. Nhưng nếu
quý vị có nhiều buồn khổ lo lắng sợ hãi, quí vị cần phải có thì giờ
nhiều hơn, tại vì những lo lắng, những sợ hãi, những buồn phiền đó
có nguồn gốc rất sâu trong quá khứ, mình phải nương vào thầy, nương
vào huynh đệ, phải thực tập nhiều tuần lễ mới có thể nhận diện được
những gốc rễ của những lo lắng, những buồn khổ, những sợ hãi đó rồi
mới từ từ nhổ gốc rễ của những khổ đau đó ra, lúc đó mình ngồi mới
là ngồi yên và khi thân yên thì tâm nó cũng yên.
Ngồi trên một đóa sen
Đức Thế Tôn, đức Bổn Sư của chúng ta là người có khả năng ngồi yên,
ngồi dưới gốc cây bồ đề, ngồi trên bãi cỏ, ngồi trên phiến đá hay
ngồi ngoài bờ biển hay ngồi giữa đám đông, ngồi trong tứ chúng Ngài
ngồi rất là yên. Khả năng ngồi yên của đức Thế Tôn tạo cho chúng ta
một sự khâm phục, bất cứ trong trường hợp nào đức Thế Tôn cũng ngồi
yên được, không có bị sự sợ hãi, sự lo lắng, sự buồn phiền kéo đi.
Quý vị đừng tưởng cuộc đời của đức Thế Tôn là cuộc đời không có sóng
gió, có những lúc đức Thế Tôn bị tấn công đủ phía bởi những người
ghen ghét, tị hiềm. Nhưng vì Ngài có khả năng ngồi yên cho nên tất
cả những tấn công đó không làm động được tới Ngài. Ma vương tới giở
đủ trò, Ngài cũng vẫn ngồi yên. Vì vậy cho nên khi mình xưng mình là
đệ tử của đức Thế Tôn trước hết mình phải học phương pháp ngồi yên
của Ngài - lạy đức Thế Tôn, ngài dạy cho con phương pháp an tọa,
ngồi yên.
Mình tới chùa xin quý thầy, xin quý sư cô dạy cho mình phương pháp
ngồi yên, tại vì nhiều người trong chúng ta không có khả năng ngồi
yên. Chúng ta ngồi không yên, chúng ta ngồi như là ngồi trên đống
lửa, ngồi mới được mấy chục giây đã muốn đứng dậy liền. Trong khi đó
đức Thế Tôn ngồi rất là yên, cảm tưởng như Ngài ngồi trên một đóa
sen, rất là tươi mát, rất là thảnh thơi, rất là yên nên chúng ta
thường tạc tượng đức Thế Tôn ngồi trên một đóa sen. Đóa sen tức là
an, tức là lạc, tức là thảnh thơi. Khi chúng ta ngồi trên bãi cỏ,
ngồi trên phiến đá, ngồi trên bờ sông và làm thế nào ngồi được yên
như đức Thế Tôn là chúng ta như ngồi trên một tòa sen vậy, điều này
mình có thể làm được. Các thầy các sư cô khi xuất gia cũng học ngồi
yên, mình là người cư sĩ, mình không cần phải xuất gia nhưng mình
cũng có thể học được cách ngồi yên và mình phải học cho được!
Ngồi thiền không có nghĩa là phấn đấu gian khổ để thành Phật trong
tương lai, ngồi thiền trước hết là ngồi yên, ngồi cho thoải mái,
ngồi cho thảnh thơi, ngồi cho buông thư, ngồi cho an lạc, không để
những lo lắng, những buồn khổ, những sợ hãi xâm chiếm mình. Ngồi như
vậy mới xứng đáng là đệ tử của đức Thế Tôn, chỉ cần ngồi yên thôi là
đủ để báo hiếu cho đức Thế Tôn rồi. Cho nên hôm đó tôi ngồi rất là
yên, thân tôi có sự yên ổn, tâm tôi có sự yên ổn và tôi rất là mừng,
tôi nói rằng - ba ơi, cha con mình đã thành công rồi. Ba ngày xưa
rất là bận rộn, lo việc nhà, việc nước không có thì giờ để thiền
tập. Bây giờ con đi xuất gia, con thực tập cho cha, con đã thực tập
cho mẹ. Một ngày nào đó con cảm thấy mình thành công và sự thành
công của đứa con có nghĩa là sự thành công của ba, sự thành công của
mẹ.
Đức Thế Tôn cũng có một sự nghiệp, sự nghiệp đó là sự nghiệp độ đời,
một sự nghiệp rất là cao cả. Khi chúng ta quỳ xuống phát nguyện trở
thành đệ tử của đức Thế Tôn là chúng ta muốn nối tiếp sự nghiệp của
đức Thế Tôn. Khi thầy Pháp Liệu phát nguyện xuất gia là cũng muốn
nối tiếp sự nghiệp của đức Thế Tôn. Tất cả các thầy các sư cô đều
muốn nối tiếp sự nghiệp của đức Thế Tôn nên mới đi xuất gia. Chúng
ta là người cư sĩ, chúng ta cũng có thể nối tiếp được chí nguyện, sự
nghiệp của đức Thế Tôn. Chúng ta tổ chức lại đời sống hàng ngày của
chúng ta để chúng ta đừng có bận rộn quá, để chúng ta có cơ hội ngồi
yên, để chúng ta có khả năng đem lại sự an tĩnh vào hình hài mình và
vào tâm hồn mình.
Quyền lực – Power
Trong thời gian ở tại thành phố Hồ Chí Minh chúng tôi sẽ có cơ hội
tổ chức một ngày tu cho các doanh nhân ở đó và các miền phụ cận.
Doanh nhân là những người làm việc rất nhiều, họ có những dự án rất
là lớn, phần lớn đều là những người rất giàu và có rất nhiều uy
quyền. Nhưng mà họ bận rộn cũng rất là nhiều, họ ít có thời gian để
lo cho bản thân, cho gia đình, họ có nhiều căng thẳng cho nên họ
cũng cần tu học. Chúng tôi đã từng tổ chức những khóa tu cho các nhà
doanh thương ở trên thế giới, những khóa như vậy ở bên Hoa Kỳ, ở bên
Đức, ở bên Pháp hay ngay tại làng Mai, số các vị doanh thương tới để
tu học trong vòng một tuần lễ rất là đông. Họ học được rất nhiều từ
giáo lý của đức Thế Tôn, họ thay đổi đời sống của họ, họ bắt đầu
thiết lập lại được liên hệ tốt với gia đình, với bạn hữu. Họ biết
phương pháp thở, phương pháp ngồi, phương pháp sống trong giây phút
hiện tại để đừng bị cuốn hút hoàn toàn vào trong dự án doanh nghiệp
của họ. Khóa tu đầu tiên của các nhà doanh thương tổ chức ở làng
Mai, chúng tôi đã đánh máy bài pháp thoại đó ra và làm thành cuốn
sách. Cuốn sách tôi viết bằng tiếng Anh, nhà xuất bản Đại Hàn xin
được dịch trước và ấn hành ở bên Đại Hàn, trước khi được xuất bản
bằng tiếng Anh, cuốn sách đó bán rất là chạy. Hiện bây giờ một nhà
xuất bản bên Mỹ đang ấn hành cuốn đó và tên của cuốn sách đó là
Power có nghĩa là Quyền Lực. Chúng ta cứ nghĩ rằng hạnh
phúc chỉ có được khi nào chúng ta có được nhiều quyền lực, tiền bạc
cũng là quyền lực, có tiền thì có rất là nhiều quyền lực. Nhưng mà
quyền lực như quý vị đã nghe không có đủ để đem lại hạnh phúc nếu
chúng ta không có an ở trong thân và trong tâm của mình.
Thân một đường, tâm một nẻo
Tôi là người xuất gia, tôi có bổn phận phải học ngồi cho yên và có
bổn phận phải dạy cho những người đệ tử ngồi cho yên. Nếu chưa ngồi
yên được là chưa thành công trong sự thực tập. Ngồi yên là cả một
nghệ thuật, phải tập mới có thể ngồi yên được chứ không phải muốn
ngồi yên là mình có thể ngồi yên được liền. Trong kinh đức Thế Tôn
đã dạy rằng - khi ngồi mình phải biết phối hợp hơi thở với hình
hài của mình. Khi phối hợp được hơi thở với hình hài, mình cũng
có thể phối hợp được tâm của mình với thân của mình và hơi thở.
Trong khi ngồi yên, có ba yếu tố mà mình phải điều phục, yếu tố thứ
nhất là thân, yếu tố thứ hai là tâm và yếu tố thứ ba
là hơi thở.
Có nhiều khi thân của mình có mặt ở đó nhưng tâm của mình chạy đi
chỗ khác, chạy về quá khứ, chạy tới tương lai, bị vướng víu vào
trong những lo lắng, buồn khổ, giận hờn, ganh ghét, sợ hãi thành ra
tâm không ở chung với thân - thân một đường mà tâm một nẻo.
Những lúc đó là những lúc không có yên, cho nên muốn ngồi yên phải
đem tâm trở về trở về với thân. Làm thế nào để đem tâm trở về với
thân? Đức Thế Tôn có dạy trong kinh quán niệm hơi thở là - phải
biết sử dụng hơi thở. Khi mình thở vào, mình đem tâm trở về với
hơi thở vào. Tôi đang thở vào và tôi biết rằng tôi đang thở vào.
Thay vì chú ý tới chuyện quá khứ, chuyện tương lai, chuyện làm ăn,
chuyện con cái, chuyện lo lắng, mình đem tâm về chú ý tới hơi thở,
thở vào biết thở vào, thở ra là biết mình đang thở ra. Tôi
đang thở vào và biết rằng tôi đang thở vào, phải ý thức được hơi
thở vào, tôi đang thở ra và tôi biết được đây là hơi thở ra của
tôi. Đó là bài tập đầu tiên mà đức Thế Tôn dạy chúng ta trong
kinh Quán niệm hơi thở.
Kinh Quán Niệm Hơi thở đã có ở Việt
Nam từ thế kỷ thứ ba và do thiền sư Tăng Hội, vị sơ tổ của thiền tông
Việt
Nam viết bài tựa và soạn lời chú giải. Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một
trong những kinh căn bản của sự thực tập về hơi thở, thở vào biết
rằng mình đang thở vào, thở ra biết rằng mình đang thở ra. Đó là
bài tập đầu tiên của mười sáu bài tập về hơi thở có ý thức. Tôi đã
dịch kinh Quán Niệm Hơi Thở từ tiếng Pali, từ chữ Hán ra tiếng Việt
và được xuất bản ra thành nhiều thứ tiếng. Ngày khám phá ra kinh
Quán Niệm Hơi Thở tôi hạnh phúc vô cùng, một thiền phổ rất là mầu
nhiệm. Nếu mình dụng công, hạ thủ công phu trong vòng vài ba
tuần có thể nắm được phương pháp thực tập, có thể đem an và lạc trở
về với thân và tâm của mình. Ví dụ, cánh tay trái của tôi là thân và
cánh tay phải của tôi là tâm, thân và tâm đi hai nẻo khác nhau. Ở
trong Nho giáo tình trạng thân và tâm mỗi thứ đi mỗi ngã gọi là
tâm bất tại, tức là tâm không có mặt đó.
Theo phương pháp của đức Thế Tôn, muốn tâm trở về với thân phải nắm
lấy hơi thở. Đây là thân, đây là tâm, giữa thân và tâm có cái cầu
bắt qua đó là hơi thở. Khi mình để tâm mình chú ý tới hơi thở,
thở vào tôi biết rằng tôi đang thở vào, tự nhiên thân và tâm về
với nhau và cùng hợp nhất với hơi thở, hơi thở là môi giới giữa thân
và tâm. Khi thở mình chú ý tới hơi thở, tự nhiên mình buông hết quá
khứ, tương lai, buông hết những dự án, những sầu khổ và mình đưa tâm
trở lại với thân, điều đó có thể thực hiện được trong vòng mấy giây
đồng hồ, rất là mau. Khi tâm trở về với thân nhờ hơi thở, gọi là
thân tâm nhất như, tức thân tâm là một. Người tu giỏi chỉ cần một
hơi thở vào hoặc một hơi thở ra là đủ đem tâm trở về với thân và đem
thân trở về với tâm. Có những người chưa tu nhưng khi bắt đầu là
thành công liền, thành công ngay trong giờ đồng hồ đầu tiên. Tôi tin
rằng trong hội chúng này có những người có thể làm được như vậy. Khi
mình thở vào, mình đem hết cái tâm của mình chú ý vào hơi thở,
thở vào tôi biết rằng đây là hơi thở vào của tôi, hoàn toàn chú
tâm vào hơi thở gọi là an ban thủ ý (an ban là hơi thở, thủ ý tức là
chú tâm).
Là hoa tươi mát, là núi vững vàng
Bây giờ xin mời quý vị ngồi cho đẹp, ngồi cho thoải mái và mình thử
thở vào chú ý tới hơi thở vào, thở ra chú ý tới hơi thở ra,
coi thử mình đem tâm của mình về với thân của mình có dễ dàng hay
không? Nó dễ ợt hà! Kính thưa đại chúng, ví dụ cái quạt này tượng
trưng cho hơi thở vô của tôi, bắt đầu là hơi thở vô, thở vô…,
tới đây là hết hơi thở vô. Ngón tay này là tâm, tôi bắt đầu thở vô,
tâm bám lấy hơi thở vô, tôi đang thở vô,… đến khi tôi thở ra,
tôi bắt đầu thở ra, thở ra,… tức là tâm phải bám sát lấy hơi
thở vô, bám sát lấy hơi thở ra, đừng có buông ra gọi là thủ ý.
Khi mình bám sát vào hơi thở tự nhiên mình buông những cái khác ra,
mình buông quá khứ, buông tương lai, buông dự án, buông sầu khổ,
buông hết. Tâm của mình chỉ nắm một cái thôi, đó là hơi thở, hơi thở
vào, hơi thở ra. Thở vào rất là khỏe, thở ra rất là nhẹ,
khỏe, nhẹ. Ban đầu là vào, ra cho quen, khi quen rồi thì khỏe,
nhẹ, thở vào khỏe quá đi, thở ra nhẹ nhàng quá đi. Buông hết
tất cả những sầu khổ, những lo lắng, những căng thẳng, những bức
xúc. Hơi thở thứ ba mà đức Thế Tôn dạy là thở vào tôi buông thư
toàn thân, thở ra tôi buông thư toàn thân. Tại vì đức Thế Tôn
biết rằng trong hình hài của mình có sự căng thẳng, có sự lo lắng,
có sự sợ hãi, nên khi thở vào mình có thể buông hết tất cả những sợ
hãi, những lo lắng, đó gọi là buông thư, chỉ cần một hơi thở vào
thôi là mình có thể buông thư và tự nhiên mình bắt đầu hưởng được
pháp lạc, tức niềm vui của giáo pháp, niềm vui của sự thiền tập.
Ở làng Mai có bài kệ mà tất cả chúng tôi đều học thuộc lòng, tôi xin
truyền bài kệ đó cho đại chúng, bài kệ chỉ có mấy chữ thôi vào,
ra, sâu, chậm, khỏe, nhẹ, lặng, cười, hiện tại, tuyệt vời. Trước
hết là vào ra, có nghĩa là thở vào biết thở vào, thở ra biết
thở ra, gọi là vào ra. Câu thứ hai là sâu chậm, nghĩa là thở
vào tôi thấy hơi thở vào của tôi nó bắt đầu sâu hơn, thở ra tôi thấy
hơi thở ra của tôi nó bắt đầu chậm hơn, ban đầu thì hơi thở nó hổn
hển, nó gấp rút, nhưng mình cứ thở vào ra một hồi tự nhiên mình cảm
thấy hơi thở vào chậm hơn, sâu hơn và hơi thở ra chậm hơn, khoan
thai hơn gọi là vào ra sâu chậm. Mà khi hơi thở vào sâu hơn, hơi thở
ra chậm hơn tự nhiên có sự buông thư, có sự nhẹ nhàng trong thân
rồi. Rất là hay! Đây là sự luyện tập, là sự tu tập, cũng giống như
mình muốn chơi đàn Guitar, mình phải tập nhiều ngày mình mới chơi
được, cũng giống như mình muốn tập chơi Tennis mình phải tập nhiều
ngày mình mới chơi hay được, hơi thở cũng vậy, phải tập luyện, tập
một giờ đồng hồ đã thấy khá rồi, ngày mai mình tập thêm nửa giờ nữa
sẽ khá hơn. Rốt cuộc mình có khả năng ngồi yên như đức Thế Tôn và
xứng đáng làm đệ tử của Ngài. Lâu nay mình đi chùa để bái sám, cúng
dường, lễ lạy, điều đó cũng tốt, nhưng chưa đủ, mình phải học được
những pháp môn mà đức Thế Tôn chỉ dạy trong kinh điển.
Vào, ra, sâu, chậm, có
nghĩa là thở vào biết thở vào, thở ra biết thở ra,
hơi thở vào đã sâu, hơi thở ra đã chậm. Khỏe
nhẹ, thở vào tôi thấy khỏe, thở ra tôi thấy nhẹ,
khỏe nhẹ. Mình có pháp lạc, có hạnh phúc ngay trong khi ngồi thở chứ
không phải tu là để có hạnh phúc trong tương lai tu là phải có hạnh
phúc ngay trong hiện tại. Trong khi ngồi, mình phải có hạnh phúc
trong khi ngồi, trong khi mình đi, mình phải có hạnh phúc trong khi
đi. Khi mình ngồi, mình thực tập để tâm vào với thân, ngồi với hơi
thở, ngồi để tâm an, ngồi để thân an gọi là thiền ngồi. Khi mình
bước đi những bước chân thảnh thơi nhẹ nhàng gọi là thiền đi. Ở tại
làng Mai, ở các trung tâm thực tập hay ở các tu viện, hể cất bước
chân để mà đi thì bước chân luôn luôn phối hợp với hơi thở và tâm
của mình. Đi bước nào, mình biết là mình đi bước đó, đi một cách thư
thái, thảnh thơi, an lạc như là mình đi trong cõi Tịnh Độ. Khi đi
không nói chuyện, nếu cần nói một câu gì đó thì ngừng lại, nói xong
rồi tiếp tục đi.
Quý vị có thăm viếng làng Mai, tu viện Lộc Uyển, tu viện Thanh Sơn,
tu viện Bát Nhã ở Bảo Lộc hay tổ đình Từ Hiếu, quý vị sẽ thấy các
thầy, các sư cô ở những nơi đó khi đi không có nói chuyện, để hết
tâm ý vào từng bước chân, mỗi bước chân luôn luôn đi theo với hơi
thở, đã về, đã tới, bây giờ, ở đây, vững chãi, thảnh thơi, quay
về nương tựa... Những bước chân thảnh thơi tỏa chiếu được sự an
sự lạc. Mình tới ở với các thầy, các sư cô trong vòng hai mươi bốn
giờ đồng hồ, mình có thể học cách đi, cách ngồi của các thầy và các
sư cô. An lạc tỏa chiếu trong khi ngồi, trong khi đi. Tu cho đúng,
an lạc có ngay hôm nay chứ không phải đợi tới ngày mai. Những thiền
sinh tới các khóa tu, chỉ ở với mình trong năm bảy ngày thôi nên
trong giờ đầu tiên phải hướng dẫn, dạy cho họ biết thở, biết ngồi và
biết đi từng bước chân an lạc (thiền thở, thiền ngồi và thiền đi).
Thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mĩm cười
Trong chuyến về Việt Nam lần này của tăng thân làng Mai, chúng tôi
sẽ hiến tặng những khóa tu cho người xuất gia cũng như cư sĩ và cố
nhiên mọi người sẽ học được phương pháp thiền thở, thiền ngồi và
thiền đi. Thở, ngồi, đi như thế nào để có sự yên ổn trong thân,
trong tâm ngay trong khi thực tập vào ra, sâu chậm, khỏe nhẹ.
Đó là ba bài tập, thở vào biết thở vào, thở ra tôi biết là
tôi đang thở ra. Thở vào tôi cảm thấy hơi thở vào đã sâu,
thở ra tôi thấy hơi thở ra đã chậm, tức phẩm chất của hơi
thở đã được nâng cấp lên rồi, ban đầu thì hổn hển, ngắn, chưa êm dịu
nhưng vài phút sau thì sâu hơn, chậm hơn là bắt đầu có pháp lạc, có
hạnh phúc. Vào ra, sâu chậm, khỏe nhẹ, thở vào tôi thấy
khỏe quá, thở ra tôi thấy nhẹ nhàng quá, yếu
tố gọi là khinh an - khinh an là nhẹ nhàng và an lạc, khinh
an là một trong bảy yếu tố của sự thành đạo gọi là thất bồ đề
phần.
Tập tới bài tập thứ ba là bắt đầu có khinh an, thở vào tôi thấy
khỏe, thở ra tôi thấy nhẹ. Thở như vậy không phải
là tôi chỉ thở cho tôi mà tôi nối tiếp sự nghiệp của đức Thế Tôn,
tôi thở cho Bụt, tôi thở cho ba, tôi thở cho mẹ ở trong tôi. Khi
mình tu như vậy, vui lắm, mình thở cho cha, mình thở cho mẹ, mình
ngồi yên cho cha, mình ngồi yên cho mẹ, mình bước đi thảnh thơi cho
cha, mình bước đi thảnh thơi cho mẹ. Các thầy, các sư cô trẻ
thường gởi về nhà những bức bút pháp do tôi viết để làm quà cho bố
mẹ: “con đang bước thảnh thơi cho ba, con đang thở nhẹ nhàng cho
ba, con đang đi thảnh thơi cho mẹ, nghĩa là mình tu, mình cũng
tu cho cha, cho mẹ, con đang thở nhẹ nhàng cho ba, con đang đi
thảnh thơi cho mẹ. Khi mình tu, mình tu cho cả gia đình, dòng
họ, đất nước, dân tộc mình chứ không phải mình tu cho riêng mình mà
thôi, vào ra, sâu chậm, khỏe nhẹ.
Bài thứ tư là lặng cười, thở vào thân tĩnh lặng,
thở ra miệng mỉm cười hoặc là thở vào tâm tĩnh lặng,
thở ra miệng mỉm cười. Thở vào thân tĩnh lặng tức là chấp
hành lời dạy của đức Thế Tôn trong bài tập thứ ba của kinh An Ban
Thủ Ý, thở vào tôi cho phép cái thân của tôi nó buông thư,
tất cả những căng thẳng trong thân tôi đi ra hết, nhiều người trong
chúng ta dồn chứa sự căng thẳng ở trong thân - gọi là stress, căng
thẳng đó sẽ đưa tới những chứng bệnh khác nếu lâu ngày mình không
biết tập buông thư. Đức Thế Tôn hiến tặng cho chúng ta bài tập rất
là mầu nhiệm, thở vào buông thư toàn thân, thở ra mỉm cười với
toàn thân, gọi là thở vào buông thư thân tĩnh lặng, danh từ
trong kinh an ban thủ ý tức là an tịnh thân hành, tức là làm cho
thân mình buông thư ra tiếng anh gọi là relax the body, buông thư
tất cả những căng thẳng.
Ở tại làng Mai có pháp môn thiền buông thư, mình có thể buông
thư trong tư thế ngồi, trong tư thế nằm. Xin quý vị học cho được
phương pháp buông thư. Nếu quý vị, mỗi ngày thực tập buông thư được
hai mươi phút, quý vị có thể tránh được rất nhiều chứng bệnh sẽ phát
sinh sau này do mình dồn chứa quá nhiều trong cơ thể, trong tâm hồn
của mình. Nếu cả gia đình, cha mẹ, con cái đều thực tập buông thư
mười lăm, hai mươi phút mỗi ngày một lần thì đó là một gia đình Phật
tử đích thực, là một gia đình có văn minh, có nếp sống văn hóa. Ở
làng Mai chúng tôi có phát hành những cuốn băng để giúp cho người
thực tập thiền buông thư bằng tiếng Anh, bằng tiếng Đức, bằng tiếng
Pháp, bằng tiếng Việt. Mình thỉnh một cuốn băng về, rồi tất cả gia
đình cha mẹ con cái nghe theo lời chỉ dẫn trong băng mà thực tập,
đến khi mình nắm được phương pháp thực tập thì không cần băng nữa,
một người trong gia đình làm hướng dẫn viên thực tập. Nếu thực tập
mỗi ngày có thể ngăn chận được những chứng bệnh cao huyết áp, bệnh
tim mạch, bệnh tâm thần có thể xảy tới khi sự căng thẳng dồn chứa
quá nhiều.
Phương pháp của đức Thế Tôn rất hữu hiệu và còn hữu hiệu mãi cho đến
những thế hệ đời sau. Ở bên Hoa Kỳ đã có những dưỡng đường, những
bệnh viện họ đã áp dụng thiền thở, thiền buông thư đã cứu được rất
nhiều bệnh nhân đã hết hy vọng chữa trị. Rất là hay! Bài của thầy
Pháp Liệu viết trong là thứ làng Mai, nói về chương trình đối trị
với sự căng thẳng trong thân và trong tâm, bác sĩ Jon Kabat-Zinn
giám đốc của một bệnh viện có thiết lập một Dưỡng Đường Giảm Căng
Thẳng -Stress reduction clinic- đã rút ra từ trong kinh điển và pháp
môn thực tập của đạo Phật để áp dụng vào việc tri liệu cho các bệnh
nhân. Họ là một nước Cơ Đốc giáo mà họ đã bắt đầu áp dụng được Phật
học vào trong các lĩnh vực khoa học, tâm lý học và y khoa. Còn mình
là một nước Phật giáo từ mấy ngàn năm nay mà mình chưa biết sử dụng
kho tàng Phật giáo cho đúng mức, mình chỉ thực tập cúng dường, bái
sám chứ mình chưa thực tập được những phương pháp mà đức Thế Tôn đã
trao truyền lại cho mình qua những kinh điển như kinh Niệm Xứ hay
kinh An Ban Thủ Ý, quán niệm về hơi thở. Chúng ta có chùa Pháp Vân,
chùa Bát Nhã, chùa Từ Hiếu và nhiều chùa khác nữa như chùa Đình
Quán, chúng ta có thể tới những nơi đó để tìm học hỏi về phương pháp
mà đức Thế Tôn chỉ dạy. Chúng ta học thiền thở, thiền ngồi, thiền
đi, thiền buông thư rồi chúng ta đem về áp dụng ngay trong đời sống
hàng ngày của chúng ta.
Trong ngày tổ chức cho các doanh nhân sắp tới ở thành phố Hồ Chí
Minh và các vùng phụ cận, các vị đó cũng sẽ được học thiền ngồi,
thiền thở, thiền buông thư. Chúng tôi đã từng tổ chức những khóa tu
như vậy cho các dân biểu quốc hội Hoa Kỳ, hiện bây giờ ở tại trụ sở
quốc hội Hoa Kỳ có những vị dân biểu biết đi thiền hành, biết phối
hợp hơi thở với bước chân. Đời sống của các dân biểu rất là căng
thẳng. Có một ông dân biểu viết thư cho tôi nói rằng - thầy ơi từ
cái văn phòng của tôi cho đến chỗ bỏ phiều, mỗi khi tôi đi là tôi áp
dụng thiền đi phối hợp với hơi thở và bước chân. Khóa tu đó
giúp cho tôi rất là nhiều, bây giờ liên hệ của tôi với các cử tri,
với các bạn đồng viện tốt hơn nhiều là nhờ tôi áp dụng được phương
pháp này.
Chúng tôi cũng có mở một khóa tu để dạy thiền đi, thiền thở và thiền
buông thư cho giới cảnh sát và công an Hoa Kỳ. Quý vị có biết không,
số cảnh sát viên Hoa Kỳ dùng súng của mình để tự tử nhiều hơn số
cảnh sát bị băng đảng hay tội phạm bắn chết. Đời sống cảnh sát có sự
căng thẳng quá lớn, không có hạnh phúc trong gia đình, làm gia đình
đau khổ, làm cho đồng nghiệp đau khổ. Vì vậy cho nên những cảnh sát
viên đó rất cần những pháp môn tu tập của đạo Phật. Chúng tôi cũng
đem giáo lý này vào trong những nhà tù để dạy cho các tù nhân, họ đở
khổ nhiều lắm. Bây giờ quý vị có thể tưởng tượng, có những tù nhân,
tội phạm, phạm nhân tổ chức ngồi thiền chung với nhau ở trong tù.
Mấy tháng trước đây có một tù nhân ở bên Mỹ viết thư nói với tôi như
thế này - thầy ơi, tuy là con đang ở tù nhưng con thấy rất là
hạnh phúc. Con thấy rằng đôi khi ở tù là một nhân duyên tốt cho con,
đây là điều kiện rất tốt để con có cơ hội ngồi thiền nhiều, đi thiền
hành nhiều chứ còn ở ngoài bây giờ chưa chắc con đã biết đến cái
pháp môn này. Con tuy không phải là người xuất gia nhưng con đọc
cuốn bước tới thảnh thơi, con thấy rằng con hiện ở trong tù và con
sống đúng như những uy nghi, những giới luật trong sách Bước Tới
Thảnh Thơi - Bước Tới Thảnh Thơi là bản Việt ngữ của Sa di luật
nghi yếu lược dành cho người mới xuất gia.
Trong những hoàn cảnh cực kỳ căng thẳng khó khăn, khổ đau, tuyệt
vọng người ta đã có cơ hội tiếp xúc được với giáo pháp mầu nhiệm của
đức Thế Tôn, đã làm người ta thay đổi được cuộc đời. Mình là con nhà
Phật từ lâu đời, đạo Phật đã ở với dân tộc hai ngàn năm rồi mà mình
không học được những phương pháp căn bản về thiền tập thì uổng quá.
Cho nên tôi rất là mong chư vị có mặt ở đây, quyết tâm là mình phải
học những căn bản đó, mình phải biết ngồi cho yên, phải biết thở cho
thoải mái, an lạc, phải biết phương pháp buông thư, phải biết đi cho
thảnh thơi. Mình làm như vậy không phải cho riêng mình mà mình làm
cho gia đình mình, cho cha, cho mẹ, cho con cháu và cho đất nước
mình. Những điều này không khó, nếu quyết tâm vài ba tuần tìm hiểu
và thực tập là mình có thể bắt đầu nắm được rồi.
Buông thư, khả năng tự chữa trị
Trong kinh quán niệm hơi thở, đức Thế Tôn dạy mình dùng hơi thở ý
thức chữa trị thân, làm cho thân buông thư. Bác sĩ Benson nói rằng
khi mà trong hình hài của mình có sự buông thư, thân thể mình có
khả năng tự chữa trị lấy những chứng bệnh trong cơ thể và thuốc men
nó trở thành ra phụ thuộc. Khi sự căng thẳng lớn quá, dù có uống
thuốc, có chích thuốc nhiều, căn bản vẫn là sự buông thư của thân
thể, nhưng mà sự buông thư này phải do mình thực tập. Cô y tá rút
thuốc vào trong ống thuốc, cô sắp chích mình, mình sợ đau nên mình
gồng lên, khi gồng lên như vậy, cô đâm mũi kim vào thì đau lắm nên
cô mới xí gạt mình cô nói: tôi chưa chích đâu, bạn thở ra đi cho
nó khỏe, khi mình đang lo chuyện thở ra, cô đâm vô một cái rất
nhẹ.
Khi có sự buông thư, cơ thể mình có khả năng tự trị liệu lấy rất
nhiều chứng bệnh, cho nên học được sự buông thư của cơ thể rất là
quan trọng, xin quý vị nhớ lấy. Trong khi lái xe, nấu cơm, quét nhà,
sử dụng máy tính mình cũng có thể thực tập buông thư được. Quí vị
đừng có tưởng các thầy các sư cô xuất gia là không làm việc nhiều,
các vị làm việc cũng rất là nhiều, nhưng các vị tập làm việc trong
sự buông thư đó. Giữ được sự tươi mát, giữ được nụ cười, giữ được
hạnh phúc của mình thì mình cũng làm được như các vị. Sau khi mình
có thể đem tâm mình về để chăm sóc cho thân, mình cũng có thể đem
tâm về chăm sóc cho tâm. Trong tâm mình có những buồn khổ, những lo
lắng, những sợ hãi, những giận hờn, thường mình muốn ém xuống, mình
muốn phủ lên để cho mình đở khổ, nhưng mà mỗi ngày mình dồn thêm
phần căng thẳng, phần buồn phiền, giận hờn, lo lắng càng ngày càng
lớn, đến một lúc nào đó mình ngã bệnh, bệnh thân và bệnh tâm. Cho
nên phương pháp của đức Thế Tôn đưa ra là mình phải đem tâm trở về
để chăm sóc thân và mình phải đem tâm về để chăm sóc tâm, tâm này là
những tâm giận hờn, buồn phiền, lo lắng, sợ hãi, ganh tị. Công nhận
sự có mặt của những đau khổ, rồi làm buông thư những cái đó đi.
Trong mười sáu hơi thở có một hơi thở có cái mục tiêu làm thư giản,
làm buông thư những tâm hành tiêu cực như giận hờn, sợ hãi, lo lắng.
Thở vào tôi biết rằng có sự giận hờn
trong tôi,
Thở ra tôi mỉm cười với sự giận hờn
trong tôi.
Thở vào tôi biết rằng có sự lo lắng
trong tôi,
Thở ra tôi đang chăm sóc, ôm ấp sự lo
lắng của tôi.
Sự giận hờn, sự lo lắng của mình giống như một em bé, mình dùng
phương pháp hơi thở có ý thức để tạo ra năng lượng gọi là chánh
niệm, mình ôm lấy nỗi khổ, niềm đau của mình ru cho nó ngủ, làm cho
nó nhẹ nhàng bớt. Phương pháp trước là phương pháp buông thư thân,
phương pháp này là phương pháp buông thư tâm, tâm giận hờn, tâm lo
lắng. Khi mình nắm được phương pháp thở vào, thở ra và đi từng bước
thảnh thơi, mình có một năng lượng gọi là chánh niệm, chánh niệm là
biết được những gì đang xãy ra. Ví dụ như, Tôi đang thở vào thì
tôi biết rằng tôi đang thở vào, đó là chánh niệm về hơi thở.
Tôi bước một bước, tôi biết rằng tôi đang bước một bước, đó thì
là chánh niệm về bước đi. Tôi uống một ly nước dừa, tôi biết là
tôi đang uống một ly nước dừa, đó là chánh niệm khi uống nước.
Chánh niệm khi ngồi, khi thở, khi đi, khi đứng, khi làm việc, khi
ăn, khi uống… là người tu, tâm phải có mặt trong mọi trường hợp, đem
tâm trở về trong giây phút hiện tại để có mặt khi đi, đứng, nằm,
ngồi, mặc áo, chải răng. Bí quyết của thiền tập là sự có mặt của tâm
trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Đừng để tâm nó đi lang
thang, đi lạc vào quá khứ, đi lạc vào tương lai, đi lạc vào những lo
lắng, giận hờn, đi lạc vào những dự án. Đem tâm luôn luôn trở về để
có mặt trong giây phút hiện tại, đó gọi là niệm lực.
Khi mình thực tập được ba ngày, năm ngày niệm lực của mình đã khá
rồi. Mỗi khi có những tâm hành giận, buồn hay khổ, mình lấy niệm lực
nhận diện những buồn, lo, khổ đó rồi ôm ấp nó thì tự nhiên sẽ có sự
giải tỏa. Mình phải chăm sóc thân và mình phải chăm sóc tâm, khi
thân và tâm được buông thư mới có khả năng lắng nghe, nói dịu dàng
với người kia. Khi mình lắng nghe được, nói được những lời dịu dàng
với người kia, mình mới có khả năng thiết lập lại được truyền thông
giữa, hòa giải được với người kia. Người kia có thể là vợ của mình,
con trai của mình, con gái của mình, chồng của mình, cha của mình.
Phương pháp đó là phương pháp ái ngữ và lắng nghe.
Nếu mình có sự yên ổn trong thân và trong tâm, mình mới có khả năng
lắng nghe và nói lời ái ngữ. Thực tập được ái ngữ và lắng nghe sẽ
làm cho người kia bớt khổ, mới có thể thiết lập lại được truyền
thông giữa mình với người kia, tự nhiên hạnh phúc lứa đôi, gia đình,
cha con, mẹ con, vợ chồng được thiết lập trở lại, rất là hay. Xin
nói cho quý vị hay, có những người Tây Phương chỉ năm ngày tu thôi
họ có khả năng hòa giải được với cha, với vợ, với chồng của họ. Họ
không tu thì thôi, nhưng khi họ tu, họ đầu tư một trăm phần trăm vào
chuyện tu đó, họ muốn thành công, chứ không phải tu khơi khơi, tu sơ
sơ. Vì vậy cho nên tôi rất là mong có những khóa tu tổ chức cho
những thiền sinh Tây Phương tu chung với thiền sinh người Việt, để
cho người Việt thấy rằng họ là gốc Thiên chúa giáo, gốc Do thái
giáo, nhưng một khi họ đã quyết tâm tu thì họ tu rất là đàng hoàng,
rất là hết lòng. Tôi nhận thấy trong nhiều khóa tu, chỉ sau năm ngày
tu thôi họ đã có khả năng nói lời ái ngữ, họ đã có khả năng nghe
được những lời nói của người kia và thiết lập lại được truyền thông
và hòa giải giữa cha con, giữa vợ chồng với nhau rất là hay.
Mình là con cháu của đức Thế Tôn từ hai ngàn năm nay, không có lý
mình thua họ sao, mình cũng có thể làm được và mình làm hay hơn nữa.
Mình phải có đức tin nơi giáo pháp, nơi pháp môn của đức Thế Tôn.
Đạo Phật không phải chỉ là một nền tín ngưỡng, tôn giáo, đạo Phật là
một kho tàng tuệ giác, kinh nghiệm rất là lớn. Giống như trái mít,
tôn giáo tín ngưỡng chẳng qua chỉ là cái vỏ bên ngoài thôi, còn đi
sâu vào trong sẽ thấy những múi mít rất là ngọt, rất là ngon. Lâu
nay mình chưa chọc thủng được cái vỏ bên ngoài cho nên mình chưa
hưởng được kho tàng tuệ giác lớn lao ở bên trong đó. Chúng ta nếu có
cơ hội phải học thêm, học ở đây không phải là chứa chấp kiến thức về
phật học mà học để bắt đầu áp dụng trong đời sống hàng ngày, trước
hết là học ngồi cho yên, học thở như thế nào để buông thư thân và
tâm, học nói những lời ái ngữ, học lắng nghe với tâm từ bi. Có thể
chỉ trong một tuần hoặc hai tuần mình có thể thay đổi được cả cuộc
đời của mình, thay đổi được bầu không khí gia đình, đem lại hạnh
phúc và hòa điệu trong gia đình của mình. Điều này nhiều người đã
làm được và mình nếu muốn mình cũng có thể làm được.
Buổi thuyết pháp đầu tôi không muốn nói dài thêm, xin để cho quý vị
có thì giờ để hỏi một vài câu liên hệ tới sự thực tập. Vị nào muốn
hỏi một câu thì giơ tay lên thì sẽ có một thầy sẽ đem tới cái máy
nói để cho quý vị hỏi câu đó.
Hỏi
- đáp
Hỏi :
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Sư ông. Con là Diệu Ngọc,
đầu tiên xin kính chúc Sư ông cùng quý thầy và quý cô về thăm Việt
Nam trong mùa xuân Đinh Hợi được nhiều sức khỏe để tiếp tục hoằng dương
chánh pháp, tiếp dẫn hậu lai. Kính bạch Sư ông, vừa qua con được
nghe Sư ông hướng dẫn, tu là phải trở về với giây phút hiện tại và
phải luôn luôn sống trong tuệ giác hiện pháp lạc trú. Mà muốn sống
trong tuệ giác hiện pháp lạc trú, chúng ta phải kết hợp ba yếu tố :
thân, tâm và hơi thở. Nhưng nếu trong ba cái yếu tố đó mà có một yếu
tố bị lỗi, chẳng hạn là chân đau thì sự ngồi của chúng con không
được yên, như vậy sự tu tập của chúng con có được khinh an không?
Thiền
sư Thích Nhất Hạnh : Hay lắm! Trước hết tôi xin nói là đừng đợi đến khi chân đau mới
than là tu không có được, khi mà chân chưa đau cũng nên bắt đầu thực
tập đi, rồi đến khi chân đau thì sẽ tìm cách giải quyết sau. Phần
đầu của câu trả lời là đừng có đợi đến khi chân đau mới thực tập,
bây giờ chân chưa đau, bắt đầu thực tập liền đi. Khi chân đau, một
phần mình lo chữa cho cái chân, một phần mình tìm cách ngồi như thế
nào để có thể ngồi được. Có những người chân đau, họ vẫn ngồi được
như thường, thay vì dùng một cái gối, họ có thể dùng hai cái gối,
thay vì ngồi kiết già họ có thể ngồi bán già, nếu ngồi bán già không
được, có thể ngồi trên ghế bốn chân cũng được. Có những người thiền
sinh họ chỉ ngồi trên ghế mà họ cũng có thể đem thân trở về với tâm
được. Cũng như khi mình bị suyển, mình thực tập hơi thở, thở vào
thấy khỏe, thở ra thấy nhẹ cũng hơi khó đó. Vì vậy đừng đợi khi cơn
suyển kéo tới mình mới thực tập, trước khi bị suyển hãy thực tập đi,
đến khi bị suyển sẽ nhờ bác sĩ, sẽ áp dụng phương pháp như thế nào
để cho dù hơi thở của mình không được thông như người khác mà mình
vẫn có thể thực tập được. Do đó đừng lấy cớ là mình có khó khăn này
về thân, khó khăn kia về hơi thở hay khó khăn về tâm để mình không
thực tập. Có những nạn nhân của xe cộ, họ không vẽ được bằng tay, có
nhiều nghệ sĩ họ đã dùng ngón chân để vẽ ra những bức họa rất là
tuyệt tác. Trong trường hợp đó có sự tranh đấu, mình nên nhớ rằng có
những người họa sĩ không còn tay để vẽ, phải dùng hai ngón chân mà
họ còn làm được. Vậy thì mình có hơi đau chân hay là hơi thở của
mình không có được thông lắm, mình vẫn có thể tu tập được tới một
mức độ nào đó và đừng có nên lấy cái cớ mình bị nhức răng, mình bị
đau đầu hay là hơi bị mệt mà mình bỏ công phu hàng ngày của mình.
Hỏi : Dạ bạch sư tôn con là đệ tử của thầy Sơn Đầu thiền sư ở Quảng
Nam núi Ngũ Hành Sơn, chùa Quan Âm. Con tu học hồi năm 1985, hồi xưa
thầy con có dạy môn thiền cho con, thầy con nay đã mất rồi. Về hơi
thở, con có những cái tự hiểu, tự tìm và tự biết nên muốn xin trình
bày với sư tôn để sư tôn chỉ dẫn thêm cho con hiểu rõ thêm về hơi
thở niệm Phật. Con sử dụng hơi thở niệm Phật, hít vô thì con sử
dụng là A Di, thở ra là Đà Phật. Hôm nay nghe thầy
giảng, hít vô tĩnh lặng, thở ra mỉm cười, con
thấy cũng tạm tạm được theo ý nghĩ của con, hơi thở này con vẫn sử
dụng theo phương pháp của thầy con dạy con hồi xưa, hít vô đầy
ngực, ém một hơi xuống đầy bụng, tung lên bộ đầu A Di Đà Phật, tiêu
trừ nghiệp chướng, đó là hơi thở niệm Phật, theo con tự hiểu.
Hơi thở đó áp dụng quen dần để con đi đến chỗ niệm Phật tam muội. Dạ
bạch sư tôn, suy nghĩ của con như vậy thôi, xin trình lên sư tôn và
con cũng xin phép A Di Đà Phật cám ơn sư tôn bài giảng hôm nay.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh : Hay lắm, mình có thể phối hợp pháp môn niệm Phật vào với pháp môn
thiền thở chứ không phải là không, nhưng tối hôm nay mình nói tới
văn bản xưa nhất về thiền thở, tức là kinh An Ban Thủ Ý mà chính đức
Thế Tôn dạy ra, văn bản này mình có thể sử dụng trong tất cả các
tông phái, Thiền tông, Tịnh độ tông, Thiên thai tông, Luật tông hay
là Chơn ngôn tông. Mình không nói rằng đây là phương pháp duy nhất,
độc nhất có thể thực tập, có thể có rất nhiều pháp môn khác nhau
nhưng tối hôm nay mình chỉ nói về kinh An Ban Thủ Ý, và mình đưa ra
một vài bài tập do chính đức Thế Tôn chỉ bày, ban phát cho chúng ta,
không có nghĩa là mình phủ nhận những phương pháp thực tập khác. Có
một điều tôi muốn nói là pháp môn nào đưa tới sự buông thư, sự thảnh
thơi, sự yên ổn của thân và của tâm là đều tốt hết, thành ra mình
đừng để mất thì giờ để đàm luận rằng pháp môn này hay hơn pháp môn
kia. Người này cảm thấy phương pháp này hợp với mình thì mình theo
pháp môn này, nhưng người kia khi áp dụng pháp môn của mình không có
thành công thì người kia có thể dùng một pháp môn khác, vấn đề là
làm thế nào để trong khi mình tu tập, mình đạt được kết quả mà kết
quả là có sự buông thư, sự yên ổn, sự tươi mát, sự bình yên, sự
hạnh phúc. Hiện pháp lạc trú là như vậy, hiện pháp lạc trú có nghĩa
là trong khi mình thực tập mình có hạnh phúc, mình có an lạc ngay
chứ không phải là phải đợi ba bốn tháng sau hay là đợi ba bốn năm
sau mới có. Pháp môn niệm Phật cũng vậy, niệm Phật như thế nào để có
sự buông thư, có sự an lạc, có sự hạnh phúc ngay trong giây phút
hiện tại, cái đó mới đúng là giáo pháp của đức Thế Tôn. Nếu trong
khi mình tu mà mình cảm thấy khổ sở, mình cảm thấy bị áp bức, mình
cảm thấy không có hạnh phúc, sợ tu như vậy không có đúng vào đường
lối, tinh thần của đức Thế Tôn. Ngày mai mình sẽ có một buổi pháp
thoại tại chùa Vĩnh Nghiêm, có lẽ tôi sẽ để dành một ít thì giờ để
cho các Phật tử đặt những câu hỏi, những câu hỏi nào nằm trong lĩnh
vực thực tập, có thể đem lại an lạc, hạnh phúc và hòa giải là những
câu hỏi rất là có ích lợi, một câu hỏi hay mình có thể làm cho lợi
lạc rất nhiều người khác.
Hỏi : Kính bạch Sư ông, con là Thiện Thành, quê ở Đồng Tháp. Đầu năm mới
con xin chúc Sư ông cùng toàn thể Tăng Ni và Thật tử năm mới mạnh
khỏe, trí tuệ sáng suốt, thiện nghiệp thành tựu, thân tâm an lạc.
Sau đây con xin hỏi một câu, trong báo Giác Ngộ có đề cập hôm nay
thầy thuyết pháp đề tài người thân tôi mất biết tìm nơi đâu, làm
sao tiếp xúc được người chết. Qua bài pháp thoại hôm nay, thầy
nói bí quyết của thiền tập là thân tâm và hơi thở, như vậy có phải
là khi thân, tâm, hơi thở hợp nhất là mình tiếp xúc được người chết
hay không? Xin thầy giải nghĩa cho con vấn đề này, Mô Phật!
Thiền sư Thích Nhất Hạnh : Pháp môn này có liên hệ tới pháp môn khác, cũng như là bước chân
đầu có liên hệ tới bước chân thứ hai. Từ từ mình sẽ đi tới, có nhiều
chủ đề khác nhau là tại vì trong trong ba trai đàn chẩn tế giải oan
bình đẳng, mình cầu nguyện cho những thân nhân của mình đã qua đời
trong thời gian của cuộc chiến tranh. Vì vậy cho nên mình có thể đặt
câu hỏi là người thương của mình qua đời rồi hiện bây giờ đang ở
đâu, làm sao mình tiếp xúc được? Đó là những câu hỏi mà chúng ta có
trong trái tim, nhân cơ hội trai đàn chẩn tế, tôi mới nghĩ những đề
tài như vậy sẽ phù hợp hơn, thật ra những đề tài đó cần rất nhiều
thì giờ để trình bày, để hiểu, tại đó là những vấn đề rất là mầu
nhiệm, rất là sâu sắc. Cũng như trong bất cứ một ngành khoa học nào
khác, đạo Phật rất có tính khoa học, đạo Phật cũng phải đi từng bước
một. Khi mà mình chưa đi được bước thứ nhất, bước thứ hai thì mình
khó có thể bước những bước cao hơn, xa hơn và vì vậy cho nên mình
đừng vội vàng bị lôi cuốn trong lĩnh vực của lý thuyết, mình phải
nắm được phương pháp thực tập. Khi mình có tạm đủ sự an ổn trong
thân và trong tâm, mình có khả năng lắng nghe rồi thì những vấn đề
khó khăn hơn mình cũng có thể giải quyết được dễ dàng hơn. Trong
người của mình có những thành kiến, có những cái mình đã học hỏi
trong quá khứ và những cái mình mới nghe có thể chống đối lại với
những cái mình đã học trong quá khứ, mình sẽ có những bở ngỡ, những
nghi vấn, cái mình học trước đây là đúng hay là cái mình vừa mới
nghe thầy nói đây là đúng, trong tâm mình có thể có sự giằng co
như vậy. Vì vậy cho nên trong đạo Phật nói tới sự thực tập phá chấp,
buông bỏ những gì mình học ngày hôm qua, mình nghe ngày hôm qua mà
nếu mình không có khả năng buông bỏ, mình không thể nào học được
những cái mới, những cái sâu hơn. Cũng như người leo thang, leo tới
nấc thứ năm mà tưởng mình cao nhất, sẽ không có cơ hội để leo lên
nấc thứ sáu, phải buông bỏ nấc thứ năm mới có thể bước lên nấc thứ
sáu, lên tối nấc thứ sáu rồi và muốn lên nấc thứ bảy phải buông bỏ
nấc thứ sáu mới lên nấc thứ bảy. Trong đạo Phật là như vậy, mình đi
từng bước một và mỗi bước đều phải buông bỏ cái mình đã học, đã
hiểu, đã thấy trước. Đó gọi là phá chấp, phá kiến, rất là mầu nhiệm!
Cho nên đạo Phật có thể được coi như là một khoa học. Trong thế kỹ
thứ hai mươi mốt này rất nhiều nhà khoa học họ tìm thấy nơi đạo
Phật niềm cảm hứng rất là lớn. Như nhà bác học Einstein nói: “đạo
Phật là.tôn giáo duy nhất có thể đi đôi với khoa học”. Vì
vậy cho nên trong đạo Phật có tinh thần khoa học, tinh thần đó là
tinh thần phá chấp, không bị kẹt vào những kiến thức mình có, mình
đã thu thập được trong quá khứ.
Chúng ta nên chấm dứt buổi pháp thoại bây giờ và chúng ta sẽ hẹn
nhau vào buổi pháp thoại ngày mai. Ngày hôm nay phái đoàn chúng tôi
có dịp đi thăm chùa Ấn Quang, chắc có lẽ một số vị đạo hữu có mặt
tại chùa Ấn Quang sáng nay, chúng tôi có tặng hòa thượng trù trì
chùa Ấn Quang một bức thư pháp có bốn chữ là “ngồi giữa gió xuân”.
Tôi có cắt nghĩa với hòa thượng như thế này: “ở trong cổ văn ,
trong truyền thống có danh từ tọa xuân phong, có nghĩa là khi huynh
đệ ngồi với nhau trong tình đạo pháp, thầy trò ngồi với nhau trong
tình thầy trò, trao đổi những kinh nghiệm tu học và giảng giải giáo
lý với nhau, mỗi người đều có hạnh phúc giống như là mình đang ngồi
ở trong mùa xuân và hưởng được những ngọn gió xuân rất là mát mẻ, đó
gọi là tọa xuân phong”, một danh từ cổ mà tôi dịch ra là ngồi
giữa gió xuân. Sáng hôm nay tôi đã tặng hòa thượng Nhật Quang
trụ trì tổ đình Ấn Quang bức thư pháp đó. Tôi có cảm tưởng rằng đêm
nay huynh đệ mình, thầy trò mình cũng được ngồi giữa gió xuân và
hạnh phúc rất là lớn. Chúng ta có được cơ duyên huynh đệ gặp nhau,
thầy trò gặp nhau để trao đổi những kiến thức và những kinh nghiệm
tu học như thế này đó là hạnh phúc rất là lớn. Chúng ta nên ý thức
điều đó, xin cảm ơn tất cả chư vị chư tôn đức và quý vị đạo hữu.
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính
là con đường / There is no way to happiness - happiness is the
way (Thích Nhất Hạnh) |
|