Nghệ thuật thương yêu
Kính thưa đại
chúng,
Hôm nay là ngày 23 tháng 2 năm
2007.
Chúng ta đang ở tại chùa Vĩnh Nghiêm, thành phố Hồ Chí Minh. Hôm nay
tôi muốn nói về đề tài Tình thương.
Phẩm vật quí nhất
cho người thương
Khi chúng ta thương yêu một người nào, thì phẩm vật quí nhất mà mình
có thể hiến tặng cho người đó, là sự có mặt của mình. Làm sao có thể
thương yêu nếu chúng ta không có mặt, khi chúng ta quá bận rộn,
chúng ta tiếp tục lo lắng về tương lai, cứ nghĩ tới những dự án
trong tương lai. Nếu chúng ta không có thì giờ cho chính mình thì
làm sao chúng ta có thể có thì giờ cho người ta thương yêu.
Tôi biết có
một cậu bé mười hai tuổi con của một doanh thương rất giàu có. Nhà
doanh thương này có thể mua cho đứa con trai của mình bất cứ một món
quà nào mà nó muốn, đắt bao nhiêu cũng được, tại vì ông quá giàu.
Nhưng ông không thể hiến tặng cho con sự có mặt của ông, bởi ông
luôn vắng nhà. Doanh nghiệp của ông rất lớn và nó chiếm hết thì giờ
của ông ta. Vì vậy ông ta không còn thì giờ cho vợ con. Ông ta cũng
không có thì giờ cho chính bản thân ông ta nữa, ông ta bị cuốn vào
trong công việc của doanh nghiệp. Ông chỉ nghĩ làm thế nào để cho
doanh nghiệp của mình thành công. Có thể nói rằng ông cũng thương
vợ thương con, nhưng ông chỉ có thể cho người thương của mình tiền
bạc thôi, mà tiền bạc thì không đủ cho người ta có hạnh phúc. Chính
sự có mặt của mình mới là cái mà người thương của mình cần đến.
Một hôm nhà
doanh thương nói với cậu con trai : Này con, ngày mai có phải là
ngày sinh nhật của con ? Con muốn gì bố sẽ mua tặng con, muốn gì
cũng được, con đừng lo vấn đề tiền. Cậu con trai không biết trả
lời ra sao vì cậu không cần gì hết, cái gì cậu cũng có đủ rồi, cậu
không thiếu gì cả, cậu chỉ thiếu một điều, đó là sự có mặt của bố
.Cậu bé cảm thấy cái mình thật sự muốn là sự có mặt của bố.
Tại vì khi thương ai thì mình phải hiến tặng cho người thương của
mình sự có mặt của mình. Sau mấy giây suy nghĩ, cậu con trai nói
bố ơi cái mà con muốn nhất là sự có mặt của bố.
Nhưng liệu
người bố có thể hiến tặng được sự có mặt của ông cho người con trai
không? Tại vì doanh nghiệp nó như nhà độc tài, chiếm hết một trăm
phần trăm thì giờ của ông. Nhà doanh thương không còn thì giờ để lo
lắng, chăm sóc cho chinh bản thân thì làm sao để có thì giờ lo lắng
và chăm sóc cho những người thương của ông được? Cho nên suy nghĩ
lại thì chúng ta thấy rằng: tặng phẩm quí hóa nhất mà mình có thể
dâng hiến cho người thương của mình không phải là tiền bạc mà là sự
có mặt của mình. Khi mình có một người yêu mà mình không có mặt cho
người yêu của mình, thì người yêu của mình sẽ đau khổ. Khi mình được
yêu thương thì mình muốn sự có mặt của người mà mình yêu thương.
Nếu người đó bận rộn quá thì mình có cảm tưởng là mình không được
yêu thương. Do đó yêu thương là hiến tặng sự có mặt của mình cho
người thương của mình. Nếu mình yêu thương mẹ mình, thì mình phải
tìm cách để có mặt cho mẹ mình. Mình có thể tới với mẹ, ngồi bên mẹ,
nhìn vào mắt mẹ và mình có thể nói một câu: mẹ ơi, mẹ có biết là con
đang có mặt cho mẹ hay không?
Mẹ ơi, mẹ
có biết là con thương mẹ không?
Năm 1962, trong khi tôi đang tại đại học Princeton tôi có sáng tác
đoản văn Bông Hồng Cài Áo nói về tình mẹ. Tôi có đưa ra một
bài thực tập. Nếu anh hay chị bận rộn quá thì anh chị không hưởng
được sự ngọt ngào tươi mát của mẹ. Vì vậy tôi hiến tặng anh hay chị
một bài thực tập là chiều nay đi học, hoặc đi làm về thì anh hoặc
chị đi vào phòng của mẹ. Có thể mẹ đang may vá, thêu thùa hay đang
nấu nướng. Anh hoặc chị sẽ để bàn tay của mình trên bàn tay mẹ để
cho mẹ chú ý. Lúc đó anh chị có thể ngồi bên cạnh mẹ, nhìn vào mắt
mẹ và hỏi mẹ một câu: Mẹ ơi, mẹ có biết là con thương mẹ không?
Mẹ có biết là con đang có mặt cho mẹ hay không?.
Đây là bài
tập mà tất cả chúng ta đều có thể làm được. Đó là hiến tặng sự có
mặt của mình cho người thương của mình. Nếu ông thương yêu bà mà
ông không có mặt cho bà, thì tình thương đó nó không cụ thể. Nếu bà
bận rộn quá, bà không có thì giờ cho ông, bà không có mặt tươi mát
nhẹ nhàng và hạnh phúc của mình cho ông, thì bà thật sự chưa có gì
quý hóa để hiến tặng cho ông cả. Người cha đối với người con cũng
vậy, người con đối với cha cũng vậy, người mẹ đối với người con và
người con đối với mẹ cũng vậy. Khi thương yêu chúng ta phải làm thế
nào để hiến tặng sự có mặt của mình cho người thương của chúng ta.
Trong đạo
Phật có danh từ Niệm. Chữ Niệm đây nếu mình dịch cho khéo thì
mình có thể sử dụng được chữ có mặt. Niệm tức là có mặt. Khi
mình niệm Phật tức là mình có mặt cho Phật. Khi mình niệm hơi thở
tức là mình có mặt cho hơi thở, niệm có nghĩa là ý thức về cái gì
đang xảy ra. Khi mình thở vào và ý thức được là mình đang thở vào,
cái đó gọi là niệm hơi thở. Danh từ chuyên môn gọi là an
ban thủ ý. An ban thủ ý tức là để ý tới hơi thở. Khi mình thở ra
mà mình biết rằng mình đang thở ra thì cái tâm của mình đang có mặt
cho hơi thở. Niệm hơi thở tức là để ý tới hơi thở vào, để ý tới hơi
thở ra, có mặt cho hơi thở vào, có mặt cho hơi thở ra. Khi mình thở
một hơi và mình trở về với hình hài của mình, thì mình có mặt cho
hình hài của mình. Trong hình hài có thể có sự căng thẳng, đau nhức
và khi mình đem tâm của mình trở về với thân của mình thì mình ý
thức được rằng có sự căng thẳng, đau nhức ở trong cơ thể của mình.
Lúc đó mình có thể thực tập theo lời đức Thế Tôn dạy: thở vào
tôi buông thư toàn thân, thở ra tôi làm cho toàn thân lắng dịu.
Danh từ trong kinh là an tịnh thân hành. An tịnh thân hành
tức là làm cho thân hình của mình, hình hài của mình buông thư, lắng
dịu trở lại. Trong khi mình thực tập hơi thở vào và hơi thở ra thì
mình làm cho buông thư tất cả những bắp thịt trong toàn thân, mình
lấy đi sự căng thẳng ở trong cơ thể của mình. Sự căng thẳng là
nguyên nhân đưa tới nhiều bệnh tật. Và sự thực tập này trong kinh
gọi là niệm thân. Niệm thân tức là trở về để có mặt cho thân
thể. Thân thể mình có những đau nhức và những căng thẳng. Mình trở
về cơ thể để giúp cho cơ thể buông bỏ những đau nhức và những căng
thẳng đó. Có một kinh mà đức Thế Tôn dạy gọi là Thân hành niệm.
Thân hành niệm tức là đem cái tâm trở về để có mặt cho cái thân, để
quán chiếu cái thân của mình. Trong kinh này đức Thế Tôn dạy chúng
ta trước hết là đem cái tâm về để nhận diện hơi thở vào và hơi thở
ra. Tôi đang thở vào, tôi biết là tôi đang thở vào. Tôi đang thở
vào và ý thức được toàn thân của tôi. Tôi đang thở ra và cho toàn
thân của tôi lắng dịu trở lại.
Những bài tập
như vậy chúng ta có thể tìm thấy ở trong kinh An ban thủ ý
tức là kinh đức Thế Tôn dạy về phương pháp quán niệm hơi thở.
Quán niệm hơi thở tức là dùng cái tâm đi đôi với hơi thở để trở về
với thân và về với tâm. Trong thân mình có thể có sự đau nhức, có sự
căng thẳng, trong tâm mình có thể có sự lo lắng buồn khổ tuyệt vọng.
Mình phải trở về để chăm sóc cho thân và cho tâm, có mặt cho thân và
cho tâm.
Đức Thế Tôn
dạy rằng nếu chúng ta không có khả năng thương yêu và chăm sóc cho
bản thân mình thì làm sao chúng ta có khả năng thương yêu và chăm
sóc cho một người khác? Vì vậy trở về có mặt cho bản thân là rất
quan trọng. Trong khi mình đi, đứng, nằm, ngồi, lái xe, rửa rau,
nấu cơm, giặt áo... mình làm thế nào đem tâm trở về với thân để
chăm sóc cho thân, để nhận diện được những buồn khổ những lo âu,
những sợ hãi trong lòng mà chuyển hóa, thì cái đó là có mặt cho bản
thân. Thương mình, thương lấy cái bản thân của mình. Khi mình đã có
thể chăm sóc và thương yêu bản thân của mình rồi thì lúc đó mình mới
thật sự có khả năng chăm sóc và lo lắng cho một người khác. Người đó
có thể là người yêu của mình, người đó có thể là bố hay mẹ mình hay
là con trai, con gái của mình.
Nghệ thuật
của sự thương yêu chăm sóc là sự có mặt. Nếu nhà doanh thương đó mà
hiều được, thì nhà doanh thương đó sẽ thở vào một hơi, thở ra một
hơi, buông bỏ tất cả những suy tư, những tính toán lo lắng của ông
ta về doanh nghiệp. Trở về với hơi thở, tôi đang thở vào và biết
rằng tôi đang có mặt ở đây, tôi đang thở ra và biết rằng đứa con
trai của tôi nó đang thiếu sự có mặt của tôi. Thực tập như vậy trong
một hai phút thì người cha có thể có mặt đó và đem sự có mặt của
mình để hiến tặng cho đứa con trai. Người cha có thể nhìn vào trong
hai mắt của con mình và nói: Con ơi, con có biết là bố đang có
mặt cho con đây không? Đó là sự thương yêu . Đó là món quà quý
nhất mà mình có thể đem hiến tặng cho người thương của mình.
Nếu quý vị
thật sự muốn thương yêu thì quý vị phải đi theo con đường của đức
Thế Tôn giảng dạy về thương yêu: hãy trở về có mặt và chăm sóc cho
cái thân của mình và cho cái tâm của mình. Mình đã đày đọa cái thân
mình quá nhiều, mình đã đày đọa cái tâm của mình quá nhiều. Mình
chưa học được phương pháp trở về để chăm sóc lo lắng cho thân và
tâm. Quý vị đã nắm vững được phương pháp ngồi yên hay chưa? Quý vị
đã nắm vững được phương pháp nằm buông thư hay chưa? Quý vị có nắm
vững được phương pháp thực tập thở vào làm cho thân tỉnh lặng,
thở ra nở một nụ cười để buông thư tất cả những bắp thịt trong
cơ thể chưa? Quý vị có khả năng bước đi những bước ung dung, thảnh
thơi an lạc mà không có nghĩ tới quá khứ hay tương lai không? Nếu
quý vị chưa làm được những chuyện đó thì quý vị phải bắt đầu đi
thôi, tại vì đó là những trông chờ đầu tiên của đức Như Lai, thầy
của chúng ta. Đức Thế Tôn muốn chúng ta trở về chăm sóc cho cái thân
mình cho nên ngài đã nói kinh niệm thân. Đức Thế Tôn muốn cho
chúng ta trở về chăm sóc cho cái tâm của mình cho nên ngài mới dạy
kinh niệm hơi thở. Và phương pháp của Đức Thế Tôn là một
phương pháp rất khoa học, nếu đem áp dụng trong vòng vài ngày là đã
thấy có sự thay đổi trong đời sống của mình.
Chiều nay
hoặc sáng mai mình có thể đem phương pháp này ra thực tập. Mình có
một người thương. Người thương đó, có thể là bố hoặc mẹ của mình, có
thể là con trai hay con gái của mình, có thể là người yêu chưa cưới
hoặc là vợ mình hay là chồng mình. Mình hãy để ra một phút hai phút
để tập thở, đưa cái tâm về có mặt cho cái thân. Lúc đó
thân được buông thư, tâm được thư thái, mình mới đi tới gần người
thương, nhìn vào đôi mắt người thương và nói một câu. Nếu người đó
là mẹ, thì mình sẽ nói: mẹ ơi, má ơi, má có biết là con đang có
mặt cho má không, má còn sống đó, con ý thức được điều đó và con rất
hạnh phúc. Má đang còn sống với con và điều này làm cho con
có hạnh phúc rất nhiều.
Đây là những
câu nói đơn sơ, nhưng nếu chúng ta có niệm lực thì có thể biến những
câu đó thành những câu thần chú, những câu linh chú, có một tác
dụng chuyển hóa vô cùng lớn lao.
Bốn câu “linh chú” cho người thương:
Câu linh chú thứ nhất mà mình có thể sử dụng được, tôi đã nói rồi:
Em ơi, em có biết rằng anh đang có mặt cho em đây không? Con ơi,
con có biết là bố đang có mặt cho con đây không? Anh ơi, anh có biết
là em đang có mặt cho anh đây không? Mẹ ơi, mẹ có biết là con đang
có mặt cho mẹ đây không? Đó là sự tỏ tình, đó là sự hiến tặng sự
có mặt tươi mát nhẹ nhàng, êm dịu của mình cho người mình thương
yêu. Và cái đó mình không thể nào mua được ở siêu thị. Sự có mặt
tươi mát và ngọt ngào của mình, mình phải tự chế tác ra chứ không
thể nào đi siêu thị mà mua về được, dầu mình có nhiều tiền. Và với
phương pháp quán niệm hơi thở, đem tâm trở về với thân, mình có thể
tạo ra sự buông thư tươi mát đó và hiến tặng cho người thương của
mình.
Đó là câu
linh chú thứ nhất. Nếu quý vị có niệm và có định thì câu thần chú đó
sẽ tạo ra hạnh phúc cho người thương ngay trong giây lát, ngay lập
tức.
Câu linh chú
thứ hai là: Con biết là mẹ đang còn sống đó với con và điều này
làm cho con rất là hạnh phúc. Anh biết là em đang có mặt đó cho anh
và anh rất trân quý sự có mặt của em. Con biết là cha đang còn sống
với con và điều này làm con vô cùngsung sướng. Đó là câu linh
chú thứ hai, và câu linh chú thứ hai này mình cũng có thể thực tập
được, nếu mình có một ít năng lượng của niệm và định. Niệm tức là
đem thân về có mặt cho tâm, định tức là không có suy nghĩ lung tung,
không suy nghĩ tới quá khứ, tương lai mà tập trung vào giây phút
hiện tại. Trong giây phút hiện tại, mình biết rằng người thương của
mình đang có mặt đó, mình muốn thừa hưởng sự có mặt của người thương
và mình muốn hiến tặng sự có mặt tươi mát ngọt ngào của mình cho
người thương mình. Đó là hai câu linh chú mà bất cứ một người nào
trong chúng ta cũng có thể thực tập được. Khi chúng ta có niệm và
định nhiều thì hai câu linh chú đó sẽ có năng lượng vô song, có thể
đem lại hạnh phúc ngay trong giây phút đó cho chính bản thân và cho
người mình thương. Câu linh chú thứ nhất dịch ra tiếng Anh,( tại vì
ở Tây phương chúng tôi thường hướng dẫn tu học cho người Tây phương
dùng tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức nhiều hơn là tiếng Việt)
Darling, I am here for you, nó có nghĩa là em ơi ,anh đang có
mặt cho em đây, anh ơi em đang có mặt cho em đây.
Câu linh
chú thứ hai tiếng Anh là Darling, I know are you there and I am
very happy. Người thương ơi ,tôi biết rằng anh đang có mặt đó,
đang còn sống với tôi, vì vậy tôi rất hạnh phúc.
Thương yêu
nghĩa là công nhận sự có mặt của người mình thương. Có thể là ông
đang lái xe và bà ngồi một bên ông, nhưng cái đầu ông suy nghĩ lung
tung, ông nghĩ đến quá khứ, đến tương lai, đến doanh nghiệp, đến sự
thành công của ông và ông hoàn toàn quên lảng bà. Ông niệm
doanh nghiệp, ông niệm tương lai, ông niệm quá khứ mà
ông không niệm bà. Ông không để ý tới bà và như vậy ông loại
bà ra khỏi vùng chú ý của ông, chú ý tức là niệm. Khi
mình niệm Phật tức là mình đưa Phật vào trong vùng chú ý của mình.
Khi mình nghĩ tới người thương tức là đưa người thương vào trong
vùng chú ý của mình. Và nếu mình loại người thương ra khỏi vùng chú
ý của mình thì người thương sẽ chết dần chết mòn, vì người đó không
được nuôi dưỡng bởi tình thương của mình. Tình thương đó phải được
biểu hiện một cách cụ thể, đó là sự có mặt của mình cho người đó.
Nếu ông giác ngộ, thì ông sẽ chấm dứt những suy nghĩ của ông về quá
khứ, về tương lai. Ông sẽ nói với bà : em ơi, anh biết là em đang
ngồi bên anh và anh rất hạnh phúc.
Câu linh
chú thứ ba là mình sử dụng, khi người thương của mình có vấn đề,
có khó khăn, có đau khổ, có lo lắng. Nếu mình thương yêu đích
thực thì mình có mặt cho người đó và khi mình thật sự có mặt cho
người đó thì mình biết rằng người đó đang có những khó khăn, đang có
những đau khổ, đang có những lo lắng và mình sử dụng câu thần chú
thứ ba. Em ơi anh biết rằng là em đang có những nỗi khổ niềm đau,
vì vậy cho nên anh đang có mặt bên em để hổ trợ cho em đây.
Câu này quý vị có thể áp dụng được liền, tại vì người thương của
mình có thể là mẹ, có thể là cha, có thể là thầy, có thể là đệ tử,
có thể là anh, có thể là chị, có thể là con mình. Và khi đứa con
mình có những khó khăn, những đau khổ thì mình là cha, mình là mẹ,
mình có thể thực tập câu linh chú này với đứa con: con ơi, ba
biết con đang có những khó khăn, những đau khổ cho nên ba tới ngồi
với con đây để yểm trợ cho con. Đó là câu thần chú thứ ba. Ông
hãy thực tập với con trai của ông đi, bà hãy thực tập với con gái bà
đi rồi ông bà sẽ thấy rằng câu thần chú này nó nối liền sự liên lạc
giữa ông với con trai, ông với con gái, bà với con trai, bà với con
gái. Tại vì ông ưu ái, ông để ý tới người thương của ông, con của
ông. Vì lưu ý cho nên ông biết rằng con trai của ông, con gái của
ông đang có những khó khăn. Bà cũng vậy, mỗi khi bà thấy ông trầm
tư, bà thấy ông đang bị kẹt trong những khổ đau, đang bị kẹt trong
những khó khăn, bức xúc, bà có thể tới gần bên ông và đọc câu thần
chú thứ ba: anh ơi em biết rằng anh đang có những cái khó khăn,
những cái khổ đau, những bức xúc. Vì vậy cho nên em đang có mặt cho
anh đây. Đó là câu thần chú thứ ba mà tất cả chúng ta đều có thể
thực tập được. Hàng ngàn, hàng chục ngàn thiền sinh Tây Phương đã và
đang thực tập câu linh chú đó và đem lại hạnh phúc trong đời sống
hàng ngày của họ, đem sự chú ý trở về với thân tâm, đem sự chú ý trở
về để ôm ấp lấy người thương của mình.
Và câu
linh chú thứ tư, khó thực tập hơn một chút nhưng mà nó có thể tháo
gỡ được cho mình trong những trường hợp nguy hiểm. Câu thần chú thứ
tư mình chỉ áp dụng khi nào mình đau khổ nhiều quá và mình tin rằng
cái đau khổ đó là do người thương của mình gây ra. Nếu một người
khác nói hoặc làm điều đó thì mình chỉ khổ ít thôi. Nhưng vì người
nói câu đó, làm điều đó lại là người mình thương nhất trên đời, cho
nên mình đau khổ vô cùng và mình không muốn sống nữa. Trong trường
hợp này mình có thể sử dụng câu thần chú thứ tư.
Chắc quý
vị còn nhớ câu chuyện thiếu phụ Nam Xương vợ chàng Trương.
Khi chàng Trương đi lính về thì người thiếu phụ đem đứa con ra cổng
làng đón chồng. Họ mừng mừng tủi tủi, tại vì người chiến sĩ được
sống sót trở về. Theo tục lệ Việt Nam là phải cáo với tổ tiên cái
tin mừng này,vì vậy người thiếu phụ Nam Xương đi ra chợ để mua sắm
về làm một mâm cỗ để cúng tổ tiên. Trong khi đó chàng Trương ở nhà
tìm cách làm quen với đứa con trai của mình vì đứa con trai đó sinh
ra trong thời gian chàng vắng mặt. Chàng Trương thuyết phục đứa con
gọi chàng ta là bố, nhưng đứa bé không chịu. Nó nói, ông đâu phải
là bố tôi, bố tôi là một người khác. Bố tôi thường tới mỗi
đêm và mỗi khi bố tôi tới, thì mẹ tôi nói chuyện với bố tôi cả giờ
đồng hồ, mẹ tôi lại khóc với bố tôi. Mỗi khi bố tôi ngồi xuống thì
mẹ tôi cũng ngồi xuống và bố tôi nằm xuống thì mẹ tôi cũng nằm
xuống. Nghe đứa bé nói như vậy, chàng Trương đau khổ vô cùng.
Chàng Trương nghĩ rằng trong khi chàng vắng mặt đã có một người đàn
ông khác xen vào gia đình mình. Từ đó chàng Trương trở thành một cục
nước đá , không cười không nói nữa.
Người vợ
đi chợ về anh ta không thèm nhìn vợ, anh ta không nói chuyện với vợ,
anh ta không trả lời những câu hỏi của vợ. Anh tin chắc rằng người
vợ đã ngoại tình trong khi anh đi vắng.
Chúng ta
đều biết rằng sự thật không phải như vậy. Sự thật là trong khi anh
chàng đi vắng không có người đàn ông nào tới hết. Có một hôm đứa bé
đi vào trong xóm chơi, về nói như thế này: Mẹ ơi, tại sao đứa nào
trong xóm cũng có bố mà riêng một mình con không có bố. Thiếu
phụ Nam Xương mới chỉ cái bóng của mình ở trên tường do chiếc đèn
dầu phóng lên và nói rằng, đây là bố của con đây. Chỉ vào
bóng mình ở trên tường, con cúi đầu thưa bố đi. Đứa bé tưởng cái
bóng đó là bố của nó. Cố nhiên là thiếu phụ Nam Xương rất là thương
nhớ chồng. Mỗi khi có cái bóng đó, thì nàng nói chuyện với bóng:
anh ơi anh đi lâu quá, một mình em ở nhà làm sao em có thể nuôi con
được, anh tìm cách để về sớm sớm nghe anh. Thiếu phụ Nam Xương
khóc. Thật ra không có một người đàn ông nào khác. Đứa bé nói, bố
tôi mỗi đêm tới là nó nói cái bóng của mẹ nó ở trên tường. Chàng
Trương đã có tri giác sai lầm và vì vậy cho nên
khi người vợ đi chợ về thì anh ta không nhìn vợ nữa, anh ta không
nói chuyện với người vợ nữa và anh ta cũng không trả lời những câu
hỏi của vợ. Anh ta đau khổ và người vợ cũng đau khổ lắm. Một giờ
đồng hồ trước thì hai người vồn vã khóc lóc, mừng mừng, tủi tủi. Bây
giờ tình cảnh đã hoàn toàn khác. Sau khi mâm cỗ đặt lên bàn thờ,
chàng Trương đốt hương khấn vái lạy xong và cuốn chiếu không cho vợ
lạy trước bàn thờ tổ tiên, vì nghĩ rằng vợ mình đã ngoại tình,
không xứng đáng để lạy trước bàn thờ tổ tiên. Cúng xong, đáng lẽ anh
sẽ ăn cơm cùng gia đình, thì trái lại anh chàng ra quán rượu và ở
suốt ngày suốt đêm ở ngoài quán, cố gắng tìm quên nỗi sầu đau tuyệt
vọng của mình bằng rượu trong nhiều ngày, cuối cùng thiếu phụ Nam
Xương chịu đựng không nỗi nữa và cô ta đã nhảy xuống sông tự tử.
Khi nghe
tin vợ chết, chàng Trương mới trở về. Đêm hôm đó, đốt đèn lên thì
đứa bé nói rằng: Này ông, này ông, bố tôi đây và nó chỉ cái
bong của bố nó trên tường. Lúc đó nỗi oan của thiếu phụ Nam Xương
mới được tỏ ra nhưng bây giờ thì đã muộn . Trong trường hợp đó, nếu
thiếu phụ Nam Xương hoặc chàng Trương thực tập câu linh chú thứ tư
thì đã có thể cứu vãn được tình trạng.
Thực tập
như thế nào, câu thần chú đó như thế nào? Anh ơi, em đau khổ quá,
anh phải giúp em mới được. Tại sao từ khi em đi chợ về cho đến bây
giờ anh không có nhìn em. Mỗi khi em hỏi một câu gì anh không có trả
lời, em đã làm gì để bị anh đối xử một cách tàn tệ như vậy, anh giúp
cho em đi. Đó là câu thần chú thứ tư Anh ơi, em đau khổ quá,
anh giúp em đi, anh giải thích tại sao anh đã làm, anh đã đối xử như
vậy với em? Hoặc là chàng Trương cũng có thể thực tập như vậy.
Chàng Trương tới với thiếu phụ Nam Xương và chàng đọc câu thần chú
đó: Em ơi anh rất đau khổ, anh đau khổ cực kỳ anh muốn chết, em
phải giúp anh mới được, em phải giải thích cho anh biết, người đàn
ông mà thường tới mỗi đêm trong khi anh vắng mặt là người nào? Nếu
em không giải thích được thì anh sẽ chết.
Câu thần
chú đó có nghĩa là mình nói cho người mình thương biết là mình đang
đau khổ và mình cần sự yểm trợ của người thương của mình. Khi mình
đau khổ và tin rằng nỗi khổ niềm đau của mình là do người thương yêu
nhất của mình tạo ra, thì mình có khuynh hướng tự ái, mình không
muốn người đó tới giúp mình. Thà rằng khóa cửa lại, khóc một mình
hoặc là đi tự tử chứ mình không muốn người đó giúp mình. Đó là một
sự dại dột rất lớn. Đó là sự dại dột của thiếu phụ Nam Xương, đó là
sự dại dột của chàng Trương. Vì vậy cho nên nếu chúng ta học được
bài học này, thì chúng ta sẽ biết sử dụng câu linh chú thứ tư để mà
tránh đi bi kịch có thể xảy ra cho gia đình.
Câu linh
chú thứ tư tôi xin nhắc lại: anh ơi em đau khổ quá, anh phải giúp
em, anh phải giải thích cho em biết tại sao anh đã nói cái câu đó,
tại sao anh đã làm cái điều đó, anh phải giúp em nếu không chắc em
chết. Đó là câu linh chú thứ tư. Hoặc là em ơi, anh đang đau khổ cực
kỳ anh không hiểu tại sao em đã nói câu đó em đã có cái hành động
như vậy, nếu em không giải thích được chắc là anh chết, em phải giúp
anh, đó là câu linh chú thứ tư. Và câu linh chú này có thể cứu được
cả hai người trong cái trường hợp rất là khắc khe như trường hợp của
thiếu phụ Nam Xương. Bây giờ chúng ta nghe một tiếng chuông, thở cho
khỏe rồi tôi xin nói tiếp.
Ý
NGHĨA CỦA TRAI
ĐÀN BÌNH ĐẲNG CHẨN TẾ
Kính thưa
đại chúng,
Trong chuyến về thăm và hoằng pháp lần thứ hai này, chúng tôi đã
được Thủ tướng chính phủ cho phép tổ chức ba Trai đàn chẩn tế cầu
siêu bình đẳng để cầu siêu cho tất cả những nạn nhân của cuộc
chiến đã xảy ra ở Việt Nam trong bao nhiêu năm qua.
Chúng ta
biết rằng có khoảng năm triệu người đã chết trong cuộc chiến tranh.
Có những chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng, đã chết một cách rất vinh
quang trên chiến trường. Nhưng cũng có rất nhiều người chết oan ức
trong tăm tối, trong tù ngục và có hàng trăm ngàn người đã chết
ngoài biển cả. Kỳ này chúng ta được phép của nhà nước tổ chức ba đại
trai đàn để cầu nguyện cho tất cả những đồng bào của chúng ta, trong
Nam ngoài Bắc, không phân biệt già trẻ trai gái, tôn giáo và đảng
phái chính trị. Tại chùa Vĩnh Nghiêm sẽ có ba ngày cầu nguyện. Và
trai đàn chẩn tế sẽ bắ t đâu từ ngày mười sáu, mười bảy và mười tám
tháng ba năm nay.
Trong bản
phổ cáo quốc dân, đạo tràng Mai thôn cùng với giáo hội Phật
giáo Việt Nam đã đề nghị mỗi gia đình nên thiết lập một bàn thờ vong
trước hiên nhà của mình. Trên bàn thờ vong đó mình có thể cúng cháo
trắng, nước trong, gạo và muối. Mỗi ngày mình có thể thay cháo, thay
nước và thắp hương luôn trong suốt ba ngày để cầu nguyện cho những
đồng bào đã tử nạn, đã khổ đau, đã chết trong cuộc chiến mấy mươi
năm qua. Tất cả đồng bào đều được mời thực tập chung, dầu mình là
người Phật tử hay là người Công giáo, người Do thái giáo hay là
người Cộng sản đều được mời thiết lập một bàn thờ vong trước hiên
nhà có cháo trắng có nước trong có gạo, có muối, có văn bản tam quy
và ngũ giới. Số người tới được chùa Vĩnh Nghiêm trong ba ngày mười
sáu, mười bảy và mười tám tháng ba dầu cho được ba ngàn, bốn ngàn,
hay năm ngàn người cũng không thấm gì. Vì vậy cho nên tất cả chúng
ta dầu ở tỉnh nào, miền Nam, miền Trung hay miền Bắc thì chúng ta
cũng nên nhớ những ngày như vậy mười sáu, mười bảy và mười tám tháng
ba và chúng ta thiết lập bàn thờ vong ở trước hiên nhà đốt hương
luôn ba ngày để cùng cầu nguyện. Chúng ta thực tập câu thần chú thứ
nhất và thứ hai. Hàng triệu người đã chết trong chiến tranh, chúng
ta nói rằng này tất cả các hương linh, chúng tôi biết quý vị đã bỏ
chúng tôi mà đi, chúng tôi đã mất quý vị. Hôm nay chúng tôi có cơ
hội tới với nhau để tưởng niệm quý vị, nhờ ơn đức của Bụt, của Pháp
của Tăng cầu nguyện cho quý vị tất cả được siêu thăng, dầu quý vị là
người Nam hay người Bắc, dầu quý vị là người Cộng sản hay là người
chống Cộng sản, dầu quý vị là người có tôn giáo hay không có tôn
giáo. Tại vì Trai đàn chẩn tế này được gọi là trai đàn chẩn tế
bình đẳng giải oan. Dầu chúng ta có thân nhân đã chết trong cuộc
chiến hay là không có thì chúng ta cũng nên thiết lập bàn vong để
cúng dường, để tưởng niệm. Chúng ta hãy tới với nhau trong tâm
tưởng, chúng ta biết rằng những khổ đau, những oan ức nó chôn tận
trong đáy lòng của chúng ta, nó sẽ còn mãi mãi. Và chúng ta sẽ
truyền những khổ đau, oan ức đó cho những thế hệ tương lai nếu chúng
ta không thực tập cầu nguyện để chuyển hóa những khổ đau đó trong
khi chúng ta có thể làm được. Vì vậy khi được phép của thủ tướng
chính phủ chúng tôi rất mừng. Và các vị tôn đức trong giáo hội cũng
như tăng thân làng Mai đang chuẩn bị rất kỹ lưỡng để làm cho ba trai
đàn chẩn tế này trở thành những phương pháp thực tập tập thể cho
toàn dân. Tôi tin tưởng rằng sau ba ngày thực tập như vậy thì năng
lượng sẽ thay đổi rất nhiều.
Có một
thanh niên ở tại Hoa Thịnh Đốn viết thư cho tôi như thế này: Bạch
thầy con lớn lên và đi ngang qua cuộc chiến khốc liệt và trong lòng
của con có bao nhiêu là vết thương, lâu nay nó được dấu kín. Cái
ngày mà con nghe tin rằng sẽ có trai đàn chẩn tế ở chùa Vĩnh Nghiêm,
chùa Diệu Đế và Học Viện Sóc Sơn thì tuy rằng trai đàn chẩn tế chưa
được tổ chức mà những vết thương ở trong con đã bắt đầu có sự trị
liệu, nó bắt đầu lành rồi. Con rất mừng, con cảm ơn thầy, con cảm ơn
tăng thân làng Mai, con cảm ơn giáo hội đã để ra tâm lực, thì
giờ, năng lượng để tổ chức những trai đàn giải oan chẩn tế bình
đẳng để cầu nguyện cho tất cả các đồng bào của chúng ta đã chết
trong cuộc chiến.
Hàng trăm
ngàn chiến sĩ đã bỏ mình trong cuộc chiến. Biết bao nhiêu hài cốt
vẫn chưa tìm ra được, hàng trăm ngàn người chết ở ngoài biển cả và
có những người chết trong những cái trại tù tối tăm. Và những oan ức
đó, những khổ đau đó chưa bao giờ được chính thức nói lên và công
nhận. Những trai đàn chẩn tế giải oan là để chính thức nói lên được
những oan khổ đó, những đau khổ đó và để cho tất cả chúng ta người
Việt Nam từ Nam chí Bắc không phân biệt già trẻ trai gái, lập trường
chính trị có thể tới với nhau để mà cầu nguyện cho tất cả những
người đã chết trong cuộc chiến. Vì tất cả đều là đồng bào của chúng
ta, họ là chồng của chúng ta, họ là cha của chúng ta, họ là anh trai
của chúng ta, họ là em trai của, họ là con trai của chúng ta, họ là
mẹ của chúng ta, họ là vợ của chúng ta, họ là em gái của chúng ta,
họ là con gái của chúng ta, Tất cả những người chết đó đều là đồng
bào của chúng ta và chúng ta có cơ hội tới với nhau góp lời cầu
nguyện, nương vào pháp lực của Tam bảo để cho tất cả được siêu
thăng. Đây là một Tin mừng rất là lớn. Phật sự quan trọng này do
giáo hội Phật giáo Việt Nam và đạo tràng Mai thôn khởi xướng theo
nhu yếu của lòng dân. Tại vì lòng dân muốn như vậy, và vì vậy cho
nên Mai thôn đạo tràng cũng như giáo hội Phật giáo Việt Nam đã nghe
cái tiếng thao thức đó và đứng ra tổ chức những trai đàn chẩn tế
bình đẳng và giải oan.
Qua ngài
đại sứ Việt Nam tại Paris tôi có gởi cho ngài chủ tịch nước một lá
thư mời ngài tới trai đàn chẩn tế tại chùa Vĩnh Nghiêm tham dự lể
dâng hương bạch Phật để khai mạc cho trai đàn. Tôi tin rằng ngài chủ
tịch nước sẽ đến, tại vì ngài cũng biết rằng câu thần chú thứ nhất,
ngài có thể thực tập được. Khi mà chúng ta có bão lụt, có những tai
biến thì các vị thủ tướng, các vị có trách vụ trong chính quyền
thường tới để an ủi, để ủy lạo. Và khi chúng ta tổ chức một trai đàn
chẩn tế có tầm vóc quốc gia như thế này, tất cả mọi người dân đều
hướng tới thì tôi tin chắc rằng ngài chủ tịch nước sẽ tới để tham
dự lễ dâng hương bạch Phật. Điều đó sẽ đóng góp rất nhiều cho sự
trị liệu và làm ấm lòng người. Tôi tin rằng lãnh đạo nhà nước thấy
được tầm quan trọng của Phật sự này, sẽ ủng hộ và sẽ tham dự trong
lễ cầu nguyện.
Trong hội
nghị APEC vừa qua, tôi nghe nói tổng thống Hoa Kỳ Buss tới tham dự
hai ba ngày thôi nhưng gặp ngày chủ nhật, ông cũng đi nhà thờ và
không bỏ quên đời sống tâm linh tôn giáo của ông ta. Chúng tôi cũng
có gửi thư mời ngài thủ tướng chính phủ và ngài chủ tịch quốc hội
tới tham dự các trai đàn chẩn tế ở Huế và ở Sóc Sơn. Tôi tin rằng
quý vị cũng thấy được tầm quan trọng của Phật sự này. Bề ngoài nó
chỉ giống như là một sự cầu nguyện có tính cách tín ngưỡng và tôn
giáo, nhưng nội dung là một phép thực tập tâm lý trị liệu rất quan
trọng. Theo tâm lý học thì những nỗi khổ niềm đau mà vùi lấp trong
chiều sâu của tâm thức, nếu mình không đưa nó lên trên mặt phẳng ánh
sáng của ý thức để công nhận thì nó không có cơ hội chuyển hóa và
trị liệu. Vì vậy cho nên trai đàn chẩn tế thật sự là một phương pháp
tâm lý trị liệu có tính cách cộng đồng, có tính cách tập thể. Và nó
sẽ làm cho nhẹ nhàng năng lượng của đất nước, của dân tộc. Đất nước
chúng ta hiện bây giờ có một vận hội mới, nếu chúng ta tới với nhau
được trong tình đồng bào, chấp nhận lẫn nhau thì sức mạnh của chúng
ta sẽ tăng trưởng rất là lớn.
Ngày xưa
vua A Dục sau khi thống nhất lãnh thổ Ấn Độ, ý thức được rằng chiến
tranh cũng đã gây ra những khổ đau những oan ức, vua A Dục đã tổ
chức yểm trợ các giáo phái tôn giáo, các truyền thống tôn giáo để
hàn gắn, để trị liệu. Cuối cùng vua A Dục đã thống nhất được lòng
người sau khi thống nhất được lãnh thổ. Tôi tin rằng các nhà lãnh
đạo của đất nước chúng ta đã thấy được như vậy cho nên đã cho phép
chúng ta tổ chức ba đại trai đàn chẩn tế giải oan với tầm vóc quốc
gia.
Sau khi
mình đã thống nhất lãnh thổ thì công việc mình đang làm là thống
nhất được lòng người, làm thế nào để cho người Nam người Bắc thấy rõ
ràng ch úng ta là một dân tộc, người ở ngoài nước và người trong
nước thấy được cùng là một dân tộc. Đó là mục đích của trai đàn chẩn
tế, nó đưa người Nam trở về với người Bắc, nó đưa người Bắc trở về
với người Nam, nó đưa người ngoài nước trở về với người trong nước,
nó đưa người trong nước trở về với người ngoài nước. Và như vậy
chúng ta sẽ trở thành một dân tộc đoàn kết. Khi sự thống nhất lòng
người được thực hiện thì chúng ta sẽ thành công trong vận hội mới
của dân tộc của đất nước. Tôi tin rằng trong ban tư tưởng cũng như
bộ chính trị, có nhiều vị hiểu được tầm vóc quan trọng của những
trai đàn chẩn tế này. Chúng ta tin tưởng vào sự yểm trợ của toàn
dân trong cái việc thực tập trai đàn chẩn tế. Xin mời liệt vị trong
vùng lân cận tới tham dự đại trai đàn chẩn tế ở tại chùa Vĩnh
Nghiêm, nếu quý vị ở xa quá thì quý vị cũng có thể thiết lập bàn thờ
linh ở trước hiên nhà mình, thắp hương liên tiếp ba ngày và đọc kinh
hướng về trai đàn chẩn tế.
Sau trai
đàn chẩn tế ở tại chùa Vĩnh Nghiêm, chúng ta sẽ có một trai đàn chẩn
tế tại quốc tự Diệu Đế ở Huế. Và trong khi trai đàn chẩn tế ở chùa
Vĩnh Nghiêm được thực hành theo nghi lễ truyền thống miền Nam thì
trai đàn chẩn tế ở Huế s ẽ được tổ chức theo nghi lễ truyền thống
miền Trung và trai đàn chẩn tế ở tại Sóc Sơn sẽ được tổ chức theo
nghi lễ cổ truyền miền Bắc. Chúng tôi tin rằng sau khi hoàn tất ba
trai đàn đó, thì lòng người chúng ta sẽ được nối kết trở lại và
chúng ta sẽ có năng lượng rất lành, rất hùng hậu và chúng ta sẽ có
nhiều hạnh phúc tại vì chúng ta đã chuyển hóa được những nỗi khổ
niềm đau trong lòng mà chúng ta ôm ấp lâu nay. Xin cảm ơn quý vị đã
lắng nghe chúng tôi từ nãy tới giờ. Chúng ta có độ chừng mười lăm
phút để đặt những câu hỏi, nếu vị nào có câu hỏi thì đứng dậy giơ
tay thì sẽ có máy nói đi tới với quý vị.
Phần
vấn đáp:
- Nam
mô đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni,
Bây giờ
đây con thật là hạnh phúc khi con được đến với sư ông để đặt lên
câu hỏi của con. Con kính bạch sư ông là với phương pháp chánh niệm
mà sư ông đã trao truyền cách đây hai năm, con đã bắt đầu thực tập
và con nghĩ rằng, con cũng có những an lạc từ sự thực tập đó. Hôm
nay con xin sư ông soi sáng cho con thêm một điểm nữa. Sư ông đã
giảng rằng chánh
niệm là đem tâm mình trở về với thân và để có được an lạc ở
trong hiện tại thì...
- Thở đi, thở đi một hơi cho nhẹ nhàng rồi nói tiếp
(TS.NH)
...thì
ta không nên để cho những dự tính của tương lai, những việc của quá
khứ nó lôi kéo ta. Nhưng con thưa sư ông là thỉnh thoảng trong con,
như là chiều hôm nay thôi,
con đi trên đường, con chạy xe thì trong đầu con nhớ tới lời thơ
của sư ông đọc cho con hồi sáng nay và con thấy rất là hạnh phúc.
Thưa sư ông, những lúc như vậy con có rơi vào thất niệm hay không ?
Có nhiều lúc thỉnh thoảng trong ý nghĩ của con luôn luôn nhớ về
những lời các anh các chị con đã dạy cho con. Và con cảm thấy như
vậy con cũng rất là hạnh phúc. Thưa sư ông, như vậy thì con có rơi
vào thất niệm hay không?
- Trong cuộc đời có những cái mầu nhiệm, có những yếu tố
tươi mát, có những yếu tố trị liệu và nuôi dưỡng bên trong cũng như
bên ngoài. Khi mình đem tâm của mình trở về với cái thân của mình
thì mình có cơ hội nhận diện những yếu tố tươi mát nuôi dưỡng và trị
liệu đó, mình có thể tiếp xúc với những cái yếu tố đó để cho mình
được tiếp tục nuôi dưỡng, trị liệu và lớn lên. Tiếp xúc với một yếu
tố nào có khả năng nuôi dưỡng, trị liệu thì đều là chánh niệm cả.
Thất niệm là tâm không có mặt đó trong giây phút hiện tại, tâm luôn
luôn phóng về tương lai và người ta đánh mất mình trong sự lo lắng.
Trong khi đó mình biết rất rõ rằng tương lai nó được làm bằng một
chất liệu gọi là hiện tại, nếu mình quản lý được cái giây phút hiện
tại một cách toàn hảo, mình biết mình phải làm cái gì và không nên
làm cái gì trong giây phút hiện tại, thì đó là phương pháp duy nhất
để xây dựng một tương lai tốt đẹp. Tại vì tương lai nó được làm bằng
một chất liệu thôi, đó là hiện tại. Do đó chánh niệm tức là đem hết
năng lượng của thân và tâm để chăm sóc cho hiện tại, thành ra nguyên
tắc đó đủ để soi sáng cho mình rồi. Và khi có cái đó thì mình có
chánh niệm, còn khi mà mình đánh mất mình trong sự lo lắng buồn khổ,
mình không có mặt trong giây phút hiện tại, cái đó gọi là thất niệm,
thất niệm tức là cái sự vắng mặt của chánh niệm, tức là mình không
có mặt cho mình và mình không có mặt cho sự sống, mình không có mặt
cho người thương của mình. Xin câu hỏi thứ hai.
-.Kính thưa thầy, con là người chưa bao giờ học Phật,
duyên may con được đọc những quyển sách thầy viết như Bông hồng
cài áo, Nẻo về của ý, Đường xưa mây trắng. Trong lần thầy về
Việt Nam trước đây con đã tới nghe thầy, về con thực tập thường
xuyên và con thật an vui rất đúng như lời thầy nói, thực tập đạo
Phật rất là hạnh phúc. Con mong muốn mọi người tu tập đều nhận được
sự mầu nhiệm cuộc sống để sống an vui trong mọi hoàn cảnh. Bây giờ
con xin được đưa ra không phải là một câu hỏi mà là một lời đề nghị.
Thưa thầy, hiện nay các em sinh viên học sinh học hành rất nặng nề,
áp lực thi cử và những lo lắng khi ra trường, tình cảnh của các em
rất là đáng thương. Thưa thầy trong chuyến về Việt Nam lần này xin
thầy có một buổi chia sẽ với giáo viên, một khóa tu với những người
làm công việc giảng dạy để qua đó các em học sinh sinh viên được
trao truyền thực tập. Con tin rằng các em sẽ thực tập rất nhanh. Khi
được hướng dẫn tu học, các em sẽ học tốt, sống hạnh phúc, tránh xa
những thú vui vô bổ, xì ke ma túy và có những đóng góp tích cực
trong việc xây dựng nước nhà. Con tin tưởng thầy sẽ làm được sự trao
truyền nếp sống tốt đẹp cho mọi người tại Việt Nam như thầy đã làm
điều đó trên toàn thế giới. Con rất cảm ơn thầy và quý vị đã lắng
nghe co. Con kính chúc thầy luôn được mạnh khỏe. Nam mô A Di Đà
Phật.
- Xin cảm ơn cô. Ở Âu châu chúng tôi thường mở những
khóa tu cho các thầy giáo và cô giáo. Tại vì các vị cũng rất cần sự
thực tập để có thể thành công được trong sự chuyển hóa những khổ
đau, khó khăn của mình để có thể giúp được học sinh và sinh viên của
họ. Chuyến về này chúng tôi có những khóa tu dành cho người xuất
gia, có những khóa tu dành cho người cư sĩ. Nhưng chưa có một khóa
tu dành riêng cho các thầy giáo và cô giáo. Nhưng chúng tôi sẽ tìm
cách để có thể nêu vấn đề đó ra trong khóa tu cho người cư sĩ ,và
chúng tôi sẽ cống hiến một vài pháp môn tu tập để các thầy giáo, cô
giáo cũng như các học sinh có thể tiếp thu mà đối phó được một cách
dể dàng hơn với những khó khăn, với những sự căng thẳng trong đời
sống dạy dỗ và học hỏi tại học đường.
Câu hỏi
thứ ba.
- Dạ con kính bạch sư ông, con tên là Nguyên Minh,
pháp danh của con là Nguyên Minh. Con xin kính bạch sư ông cho con
được đặt một vài câu hỏi. Con kính xin sư ông làm sáng tỏ giúp cho
con.
Kính
bạch sư ông, chúng con biết rằng thời gian mà sư ông đang còn ở tại
Việt Nam thì sư ông là một trong số rất ít những nhà tu đã bỏ rất
nhiều những tâm tư tình cảm, cũng như đã bỏ tất cả mọi điều, sư ông
chỉ có niềm khao khát muốn làm thế nào để xoa dịu những nỗi đau,
những bất hạnh cho dân tộc cho đất nước, vì cuộc chiến tranh dai
dẳng. Những điều đó không chỉ thể hiện qua những tác phẩm thơ văn
của sư ông mà nó thể hiện qua những việc làm thiết thực, mà theo con
nghĩ trường thanh niên phụng sự xã hội là một ngôi trường đã minh
chứng được điều đó bằng cả máu và nước mắt nữa. Con cũng biết rằng
suốt bốn mươi năm sư ông ở bên phía trời Tây xa quê, thì sư ông đã
bỏ ra rất nhiều công lao nhằm gieo hạt giống giáo lý Phật cho mọi
người trên toàn thế giới. Chúng con rất là hạnh phúc vì cũng khoảng
tháng năm, năm rồi chúng con được nghe một tin vui là có một cuốn
sách của sư ông được các đạo diển nước ngoài muốn chuyển thể thành
phim. Con không biết điều đó có đúng hay không và con không biết bây
giờ cuốn phim ấy nó đang như thế nào. Nhân tiện hôm nay con kính xin
sư ông cho chúng con biết về cuốn phim đó. Và con cũng kính xin sư
ông cho con biết, liệu khi cuốn phim đó được hoàn thành chúng con ở
quê nhà có được thưởng thức tác phẩm đó không. Và một câu hỏi ngắn
nữa, con xin sư ông cho con được biết, là chuyến viếng thăm quê
hương lần đầu của sư ông cách đây hai năm, thì đó có phải là hạn kỳ
để cho sư ông có thể trở về quê hương từng hai năm một lần hay là
không? Và chúng con xin đề đạt một nguyện vọng, kính xin sư ông cho
chúng con được trình bày cái hoài vọng của chúng con. Con kính xin
sư ông và phái đoàn tăng thân làng Mai cứ mỗi năm cố gắng về với
chúng con một lần. Vì chúng con biết rằng sống không chỉ là chỉ có
cơm gạo, áo tiền mà thôi. Sống, mỗi một con người trong chúng ta cần
những bông hồng của tâm linh nữa. Con kính chúc sư ông được sức khỏe
mãi.
- Xin cảm ơn cô, ở Âu châu có mấy chục nước và nước nào
cũng muốn tăng thân làng Mai tới nước họ mỗi năm một lần. Vì vậy cho
nên chúng tôi rất lúng túng không biết làm thế nào để mà đáp ứng lại
cái nhu yếu đó của nhiều nước. Riêng về cuốn sách Đường Xưa Mây
Trắng, bây giờ ở Trung Quốc được ấn hành lần thứ hai. Hiện nay
David Quare đã sắp hoàn tất truyện phim rồi. Và sau khi mà hoàn tất
truyện phim, h ọ sẽ tuyển lựa những tài tử đóng phim. Theo bảng hợp
đồng, giám đốc điều khiển, nhà đạo diễn cũng như các minh tinh màn
ảnh phải qua làng Mai để tu tập chánh niệm trong thời gian mấy tuần
lể để thấm nhuần chánh niệm và để khi thực hiện cuốn phim nó có năng
lượng bình an, giải thoát và giác ngộ của Phật. Tôi được tin rằng
ông Modi, giám đốc chương trình phim này, sẽ tới Việt Nam vào dịp
đại trai đàn chẩn tế tại chùa Vĩnh Nghiêm. Và ông ta sẽ mở cuộc họp
báo để nói chuyện về tiến trình của cuốn phim này. Ông ta đã dự định
bỏ ra một trăm hai mươi triệu Dolla để thực hiện cuốn phim . Nếu mọi
chuyện được suông sẻ, thì đến tháng tư năm 2008 phim sẽ được ra mắt
tại liên hoan phim ở Canne (Pháp). Chúng tôi xin kể một câu chuyện
thú vị. Sau khi ông Modi đọc cuốn Đường xưa mây trắng, ông Modi
không phải là Phật tử, nhưng đọc xong Đường xưa mây trắng, ông cảm
động quá, chưa bao giờ ông đọc về tiểu sử của của đức Thế Tôn mà làm
cho ông cảm động như vậy. Ông có ý làm cuốn phim theo Đường xưa mây
trắng đó để chia sẻ hạnh phúc của ông với hàng triệu người khác. Vì
vậy ông đã đi tìm tác giả và sau nhiều tháng tìm kiếm thì tiếp xúc
được với nhà xuất bản Paralac. Một bữa đó có một phái đoàn đi về
Pháp để gặp tác giả. Ông Modi đi cùng với một dân biểu quốc hội Ấn
Độ, một nhà nghiên cứu lịch sử và một vị luật sư để gặp gỡ tác giả
Đường xưa mây trắng và điều đình mua bản quyền của Đường Xưa Mây
Trắng với mục đích dựng thành một thiên anh hùng ca về cuộc đời
của đức Thế Tôn.
Một người
bạn Ấn Độ cho chúng tôi biết rằng nếu ông này mà bỏ ra một trăm hai
chục triệu đôla để làm cuốn phim, thì mình phải đòi bản quyền năm
chục triệu đôla. Đàm luận một thời gian , ít nhất cũng có hai mươi
lăm triệu đôla cho tác giả. Nhưng khi tăng thân làng Mai họp lại,
thì tuệ giác mà tăng thân làng Mai có là mình sẽ hiến tặng tác quyền
này mà không lấy một đồng đôla nào cả. Mình sẽ ký hợp đồng với hảng
phim này với một điều kiện thôi. Đó là tất cả mọi người trong đoàn
làm phim, từ giám đốc sản xuất cho đến đạo diễn, diễn viên đều phải
qua làng Mai tu tập chánh niệm trong thời gian ba tuần để cho thấm
nhuần cái chất Phật, chất liệu của đạo Phật. Giây phút mà chúng tôi
nói lên điều đó trong buổi họp làm cho ông Modi
ngẩn ngơ, là tại vì chưa bao giờ thấy một người không có ham tiền,
một đoàn thể không ham tiền mà chỉ vì lý tưởng. Chúng tôi chỉ muốn
có một cuốn phim thật hay nói được lên tinh thần đạo Phật và chúng
tôi xin cúng dường không lấy một đồng nào hết. Ông không tin rằng
chuyện này là chuyện có thật, mãi tới mười lăm phút sau. Quý vị cứ
tưởng tượng, nếu bây giờ làng Mai có hai mươi lăm triệu đôla thì
chúng tôi không có yên vui đâu, chúng tôi sẽ khổ lăm. Do đó cho nên
không có hai mươi lăm triệu đôla là một hạnh phúc rất lớn của làng
Mai.
Câu hỏi
thứ tư.
- Kính bạch sư ông, con còn có một chút thắc mắc này.
Như sư ông vừa dạy tặng phẩm quý báu nhất mình để dành cho người
thân thương của mình đó là sự có mặt của mình. Và nếu hiểu như vậy,
thì theo lịch sử của đức Thế Tôn lúc ngài ra đi tìm đạo để cứu khổ,
thì ngài phải đã bỏ hết gia đình, bố mẹ vợ con. Và trong một số cách
sách dạy về pháp tu cũng nói rằng là để mà tìm được đường tu thì
mình phải bỏ hết tất cả mọi cái ở cuộc sống bình thường cũng như bỏ
gia đình, thậm chí có cả pháp tu sống độc cư nữa, không tiếp xúc với
ai hết. Như vậy, bạch sư ông có thể khai thị thêm cho con cũng như
tất cả mọi người còn thắc mắc, khi mình xa lìa mọi người như vậy
thì mình có thể đem lại hạnh phúc cho những người mình thân thương
nữa hay không?
Hay lắm. Siddhatta trước khi đi xuất gia có những thao
thức, có những bức xúc, có những khổ đau, có những vấn đề không giải
quyết được. Vì vậy cho nên sự có mặt của Siddhatta không phải là sự
có mặt tươi mát và ngọt ngào. Khi mình đi xuất gia không phải là
mình hết thương, không phải là mình không thương cha, thương mẹ,
thương gia đình, thương đất nước, không phải như vậy đâu. Mình vẫn
thương, nhưng mà mình đi tìm một phương pháp thương nào có thể đem
lại cái hạnh phúc thật sự cho người mình thương. Và đây là vấn đề
của sự có mặt, cái phẩm chất của sự có mặt. Nếu mình có mặt nhưng mà
sự có mặt của mình không có phẩm chất thì sự có mặt đó không có giá
trị lắm. Sự có mặt cau có, bực bội, nặng nề, sự có mặt đó không phải
là một tặng phẩm đích thực. Cho nên mình phải tu tập, mình chuyển
hóa để đạt tới một sự có mặt trong sáng, tươi mát, ngọt ngào. Sau
khi Siddhatta thành đạo rồi, đã trở về thăm quê hương, đã cống hiến
cho phụ hoàng cũng như là dòng họ Sakya một sự có mặt hùng vĩ, tươi
mát, trong sáng, giải thoát. Như vậy khi mình đi xuất gia không phải
là mình không còn thương nữa, mình tiếp tục thương nhưng mà mình
muốn cống hiến một sự có mặt có phẩm chất cao hơn là sự có mặt bây
giờ, sự có mặt của sự nặng nề, của bức xúc, nó không có phải là một
tặng phẩm đáng giá. Cho nên vấn đề không phải là tiếp tục thương hay
là không thương. Vấn đề là làm thế nào trong khi thương, mình có thể
đem hiến tặng một sự có mặt có phẩm chất cao, trong đó có sự giải
thoát, có sự giác ngộ, có sự tươi mát. Thật sự là Siddhatta khi trở
về đã trở thành một con người giác ngộ toàn vẹn và đã độ được cho
phụ hoàng, đã độ được cho hoàng gia và đã độ được cho đất nước. Thì
đó không phải là một sự trốn bỏ mà là một sự trở về để dâng hiến sự
có mặt phẩm chất cao.
Một câu
hỏi cuối cùng, chúng ta sẽ hẹn vào những buổi pháp thoại khác.
Thưa sư ông, con là Huỳnh Văn Nghĩ, con xin có ý kiến
như thế này. Hiện thời văn hóa và kinh tế của tất cả các nước trên
thế giới trong đó có Việt Nam chúng ta nó luôn luôn ảnh hưởng tới
đời sống sâu đậm tới nhiều dân tộc. Mà ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, hiện
nay là phim ảnh. Vừa rồi cũng như truớc đó chúng con được nghe báo
chí nói là sư ông có một phim do một nhà tỉ phú Ấn Độ yểm trợ làm
việc. Con kính xin sư ông coi ở Việt Nam chúng ta, nhà nước hiện nay
cũng có những cái phim và những cố gắng để phát triển phim ảnh Việt
Nam. Sư ông có một đề nghị hay lời khuyến khích gì không về vấn đề
làm phim ảnh Phật giáo, để truyền bá đạo đức của Việt Nam và của thế
giới?
Vâng, câu hỏi hay lắm. Chúng tôi đã có tổ chức một khóa
tu riêng cho các nhà đạo diễn điện ảnh, các minh tinh màn ảnh tại
Hollywood. Tại vì đời sống của họ cũng có những bức xúc, có những lo
lắng, có những sợ hãi rất là lớn. Và khi mà chúng tôi tổ chức khóa
tu đó thì có rất nhiều vị giám đốc sản xuất, các vị đạo diễn, các
minh tinh màn bạc nổi tiếng tới tham dự khóa tu. Tham dự khóa tu
giúp cho họ cởi bỏ rất nhiều khổ đau, lo lắng và nhất là sợ hãi.
Chúng tôi cũng mong ước rằng trong tương lai mình có thể một khóa tu
như vậy để dành cho giới điện ảnh tại Việt Nam. Tôi nghĩ rằng sớm
muộn gì những người trong cái giới điện ảnh cũng sẽ thấy rằng, đời
sống có những cái nhiêu khê, có những khó khăn, có những căng
thẳng. Thực tập theo pháp môn đạo Phật có thể giúp cho họ tháo gỡ
được những khó khăn đó, những lo lắng đó, những buồn khổ đó và nhất
là những sự sợ hãi đó. Nếu có cơ hội thật thuận tiện thì trong một
chuyến về nước trong tương lai, chúng ta sẽ cố gắng tổ chức một khóa
tu riêng cho các nhà sản xuất và các diễn viên trong lĩnh vực điện
ảnh.
Xin cảm
tạ đại chúng, tứ chúng và chúng ta hẹn gặp lại trong những sinh hoạt
sắp tới trong các khóa tu và trong những bài thuyết pháp khác.
|