.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

... Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (...)

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư Nhất Hạnh.

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

 Nghệ thuật sống thiền :



Nghệ thuật thương yêu

 

  • Chân Tịnh Ý biên tập - tháng Ba 2007
    Pháp thoại của Sư Ông Làng Mai ngày 23 tháng 2 năm 2007, tại chùa Vĩnh Nghiêm, thành phố Hồ Chí Minh.
    Audio MP3 : Phần 1 (12.7MB) | Phần 2 (9.7MB)
     

Kính thưa đại chúng,
Hôm nay là ngày 23 tháng 2 năm
2007. Chúng ta đang ở tại chùa Vĩnh Nghiêm, thành phố Hồ Chí Minh. Hôm nay tôi muốn nói về đề tài Tình thương.

 

Phẩm vật quí nhất  cho người thương
Khi chúng ta thương yêu một người nào, thì phẩm vật quí nhất mà mình có thể hiến tặng cho người đó, là sự có mặt của mình. Làm sao có thể thương yêu nếu chúng ta không có mặt, khi chúng ta quá bận rộn, chúng ta tiếp tục lo lắng về tương lai, cứ nghĩ tới những dự án trong tương lai. Nếu chúng ta không có thì giờ cho chính mình thì làm sao chúng ta có thể có thì giờ cho người ta thương yêu.

Tôi biết có một cậu bé mười hai tuổi con của một doanh thương rất giàu có. Nhà doanh thương này có thể mua cho đứa con trai của mình bất cứ một món quà nào mà nó muốn, đắt bao nhiêu cũng được, tại vì ông quá giàu. Nhưng ông không thể hiến tặng cho con sự có mặt của ông, bởi ông luôn vắng nhà. Doanh nghiệp của ông rất lớn và nó chiếm hết thì giờ của ông ta. Vì vậy ông ta không còn thì giờ cho vợ con. Ông ta cũng không có thì giờ cho chính bản thân ông ta nữa, ông ta bị cuốn vào trong công việc của doanh nghiệp. Ông chỉ nghĩ  làm thế nào để cho doanh nghiệp của mình thành công. Có thể nói rằng ông  cũng thương vợ thương con, nhưng ông chỉ có thể cho người thương của mình tiền bạc thôi, mà tiền bạc thì không đủ cho người ta có hạnh phúc. Chính sự có mặt của mình mới là cái mà người thương của mình cần đến.

Một hôm nhà doanh thương nói với cậu con trai : Này con, ngày mai có phải là ngày sinh nhật của con ? Con muốn gì bố sẽ mua tặng con, muốn gì cũng được, con đừng lo  vấn đề tiền. Cậu con trai không biết trả lời ra sao vì cậu không cần gì hết, cái gì cậu cũng có đủ rồi, cậu không thiếu gì cả, cậu chỉ thiếu một điều, đó là sự có mặt của bố .Cậu bé cảm thấy cái mình thật sự muốn là sự có mặt của bố. Tại vì khi thương ai thì mình phải hiến tặng cho người thương của mình sự có mặt của mình. Sau mấy giây suy nghĩ, cậu con trai nói bố ơi cái mà con muốn nhất là sự có mặt của bố.

Nhưng liệu người bố có thể hiến tặng được sự có mặt của ông cho người con trai không? Tại vì doanh nghiệp nó như nhà độc tài, chiếm hết một trăm phần trăm thì giờ của ông.  Nhà doanh thương không còn thì giờ để lo lắng, chăm sóc cho chinh bản thân thì làm sao để có thì giờ lo lắng và chăm sóc cho những người thương của ông được? Cho nên suy nghĩ lại thì chúng ta thấy rằng: tặng phẩm quí hóa nhất mà mình có thể dâng hiến cho người thương của mình không phải là tiền bạc mà là sự có mặt của mình. Khi mình có một người yêu mà mình không có mặt cho người yêu của mình, thì người yêu của mình sẽ đau khổ. Khi mình được yêu thương thì mình muốn  sự có mặt của người mà mình yêu thương. Nếu người đó bận rộn quá thì mình có cảm tưởng là mình không được yêu thương. Do đó yêu thương là hiến tặng sự có mặt của mình cho người thương của mình. Nếu mình yêu thương mẹ mình, thì mình phải tìm cách để có mặt cho mẹ mình. Mình có thể tới với mẹ, ngồi bên mẹ, nhìn vào mắt mẹ và mình có thể nói một câu: mẹ ơi, mẹ có biết là con đang có mặt cho mẹ hay không?

 

Mẹ ơi, mẹ có biết là con thương mẹ không?
Năm 1962, trong khi tôi đang tại đại học Princeton tôi có sáng tác đoản văn  Bông Hồng Cài Áo nói về tình mẹ. Tôi có đưa ra một bài thực tập. Nếu anh hay  chị bận rộn quá thì anh chị không hưởng được sự ngọt ngào tươi mát của mẹ. Vì vậy tôi hiến tặng anh hay chị một  bài thực tập là chiều nay đi học, hoặc đi làm về thì anh hoặc chị đi vào phòng của mẹ. Có thể mẹ đang may vá, thêu thùa hay đang nấu nướng. Anh hoặc chị sẽ để bàn tay của mình trên bàn tay mẹ để cho mẹ chú ý. Lúc đó anh chị có thể ngồi bên cạnh mẹ, nhìn vào mắt mẹ và hỏi mẹ một câu: Mẹ ơi, mẹ có biết là con thương mẹ không? Mẹ có biết là con đang có mặt cho mẹ hay không?.

Đây là bài tập mà tất cả chúng ta đều có thể làm được. Đó là hiến tặng sự có mặt của mình cho người thương của mình. Nếu ông  thương yêu bà mà ông không có mặt cho bà, thì tình thương đó nó không cụ thể. Nếu bà bận rộn quá, bà không có thì giờ cho ông, bà không có mặt tươi mát nhẹ nhàng và hạnh phúc của mình cho ông, thì bà thật sự chưa có gì quý hóa để hiến tặng cho ông cả. Người cha đối với người con cũng vậy, người con đối với cha cũng vậy, người mẹ đối với người con và người con đối với mẹ cũng vậy. Khi thương yêu chúng ta phải làm thế nào để hiến tặng sự có mặt của mình cho người thương của chúng ta.

Trong đạo Phật có danh từ Niệm. Chữ Niệm đây nếu mình dịch cho khéo thì mình có thể sử dụng được chữ có mặt. Niệm tức là có mặt. Khi mình niệm Phật tức là mình có mặt cho Phật. Khi mình niệm hơi thở tức là mình có mặt cho hơi thở, niệm có nghĩa là ý thức về cái gì đang xảy ra. Khi mình thở vào và ý thức được là mình đang thở vào, cái đó gọi là niệm hơi thở. Danh từ chuyên môn gọi là an ban thủ ý. An ban thủ ý tức là để ý tới hơi thở. Khi mình thở ra mà mình biết rằng mình đang thở ra thì cái tâm của mình đang có mặt cho hơi thở. Niệm hơi thở tức là để ý tới hơi thở vào, để ý tới hơi thở ra, có mặt cho hơi thở vào, có mặt cho hơi thở ra. Khi mình thở một hơi và mình trở về với hình hài của mình, thì mình có mặt cho hình hài của mình. Trong hình hài có thể có sự căng thẳng, đau nhức và khi mình đem tâm của mình trở về với thân của mình thì mình ý thức được rằng có sự căng thẳng, đau nhức ở trong cơ thể của mình. Lúc đó  mình có thể thực tập theo lời đức Thế Tôn dạy: thở vào tôi buông thư toàn thân, thở ra tôi làm cho toàn thân lắng dịu. Danh từ trong kinh là an tịnh thân hành. An tịnh thân hành tức là làm cho thân hình của mình, hình hài của mình buông thư, lắng dịu trở lại. Trong khi mình thực tập hơi thở vào và hơi thở ra thì mình làm cho buông thư tất cả những bắp thịt trong toàn thân, mình lấy đi sự căng thẳng ở trong cơ thể của mình. Sự căng thẳng là nguyên nhân đưa tới nhiều bệnh tật. Và sự thực tập này trong kinh gọi là niệm thân. Niệm thân tức là trở về để có mặt cho thân thể. Thân thể mình có những đau nhức và những căng thẳng. Mình trở về cơ thể để giúp cho cơ thể buông bỏ những đau nhức và những căng thẳng đó. Có một kinh mà đức Thế Tôn dạy gọi là Thân hành niệm. Thân hành niệm tức là đem cái tâm trở về để có mặt cho cái thân, để quán chiếu cái thân của mình. Trong kinh này đức Thế Tôn dạy chúng ta trước hết là đem cái tâm về để nhận diện hơi thở vào và hơi thở ra. Tôi đang thở vào, tôi biết là tôi đang thở vào. Tôi đang thở vào và ý thức được  toàn thân của tôi. Tôi đang thở ra và cho toàn thân của tôi lắng dịu trở lại.

Những bài tập như vậy chúng ta có thể tìm thấy ở trong kinh An ban thủ ý tức là kinh  đức Thế Tôn dạy về phương pháp quán niệm hơi thở. Quán niệm hơi thở tức là dùng cái tâm đi đôi với hơi thở để  trở về với thân và về với tâm. Trong thân mình có thể có sự đau nhức, có sự căng thẳng, trong tâm mình có thể có sự lo lắng buồn khổ tuyệt vọng. Mình phải trở về để chăm sóc cho thân và cho tâm, có mặt cho thân và cho tâm.

Đức Thế Tôn dạy rằng nếu chúng ta không có khả năng thương yêu và chăm sóc cho bản thân mình thì làm sao chúng ta có khả năng thương yêu và chăm sóc cho một người khác? Vì vậy trở về có mặt cho bản thân là rất quan trọng. Trong khi mình đi, đứng, nằm, ngồi,  lái xe, rửa rau, nấu cơm, giặt áo... mình làm thế nào đem  tâm trở về với  thân để chăm sóc cho thân, để nhận diện được những buồn khổ những lo âu, những sợ hãi trong lòng mà chuyển hóa, thì cái đó là có mặt cho bản thân. Thương mình, thương lấy cái bản thân của mình. Khi mình đã có thể chăm sóc và thương yêu bản thân của mình rồi thì lúc đó mình mới thật sự có khả năng chăm sóc và lo lắng cho một người khác. Người đó có thể là người yêu của mình, người đó có thể là bố hay mẹ mình hay là con trai, con gái của mình.

Nghệ thuật của sự thương yêu chăm sóc là sự có mặt. Nếu nhà doanh thương đó mà hiều được, thì nhà doanh thương đó sẽ thở vào một hơi, thở ra một hơi, buông bỏ tất cả những suy tư, những tính toán lo lắng của ông ta về doanh nghiệp. Trở về với hơi thở, tôi đang thở vào và biết rằng tôi đang có mặt ở đây, tôi đang thở ra và biết rằng đứa con trai của tôi nó đang thiếu sự có mặt của tôi. Thực tập như vậy trong một hai phút thì người cha có thể có mặt đó và đem sự có mặt của mình để hiến tặng cho đứa con trai. Người cha có thể nhìn vào trong hai mắt của con mình và nói: Con ơi, con có biết là bố đang có mặt cho con đây không? Đó là sự thương yêu . Đó là món quà quý nhất mà mình có thể đem hiến tặng cho người thương của mình.

Nếu quý vị thật sự muốn thương yêu thì quý vị phải đi theo con đường của đức Thế Tôn giảng dạy về thương yêu: hãy trở về có mặt và chăm sóc cho cái thân của mình và cho cái tâm của mình. Mình đã đày đọa cái thân mình quá nhiều, mình đã đày đọa cái tâm của mình quá nhiều. Mình chưa học được phương pháp trở về để chăm sóc lo lắng cho thân và  tâm. Quý vị đã nắm vững được phương pháp ngồi yên hay chưa? Quý vị đã nắm vững được phương pháp nằm buông thư hay chưa? Quý vị có nắm vững được  phương pháp thực tập thở vào làm cho thân tỉnh lặng, thở ra nở một nụ cười để buông thư tất cả những bắp thịt trong cơ thể chưa? Quý vị có khả năng bước đi những bước ung dung, thảnh thơi an lạc mà không có nghĩ tới quá khứ hay tương lai không? Nếu quý vị chưa làm được những chuyện đó thì quý vị phải bắt đầu đi thôi, tại vì đó là những trông chờ đầu tiên của đức Như Lai, thầy của chúng ta. Đức Thế Tôn muốn chúng ta trở về chăm sóc cho cái thân mình cho nên ngài đã nói kinh niệm thân. Đức Thế Tôn muốn cho chúng ta trở về chăm sóc cho cái tâm của mình cho nên ngài mới dạy kinh niệm hơi thở. Và  phương pháp của Đức Thế Tôn là một phương pháp rất khoa học, nếu đem áp dụng trong vòng vài ngày là đã thấy có sự thay đổi trong đời sống của mình.

Chiều nay hoặc sáng mai mình có thể đem  phương pháp này ra thực tập. Mình có một người thương. Người thương đó, có thể là bố hoặc mẹ của mình, có thể là con trai hay con gái của mình, có thể là người yêu chưa cưới hoặc là vợ mình hay là chồng mình. Mình hãy để ra một phút hai phút để tập thở, đưa cái tâm về có mặt cho cái thân. Lúc đó thân  được buông thư, tâm được thư thái, mình mới đi tới gần người thương, nhìn vào đôi mắt  người thương và nói một câu. Nếu người đó là mẹ,  thì mình  sẽ nói: mẹ ơi, má ơi, má có biết là con đang có mặt cho má không, má còn sống đó, con ý thức được điều đó và con rất hạnh phúc. Má đang còn sống với con và điều này làm cho con có hạnh phúc rất nhiều.

Đây là những câu nói đơn sơ, nhưng nếu chúng ta có niệm lực thì có thể biến những câu  đó thành những câu thần chú, những câu linh chú, có một tác dụng chuyển hóa vô cùng lớn lao.

 

Bốn câu “linh chú” cho người thương:
Câu linh chú thứ nhất mà mình có thể sử dụng được, tôi đã nói rồi: Em ơi, em có biết rằng anh đang có mặt cho em đây không? Con ơi, con có biết là bố đang có mặt cho con đây không? Anh ơi, anh có biết là em đang có mặt cho anh đây không? Mẹ ơi, mẹ có biết là con đang có mặt cho mẹ đây không? Đó là sự tỏ tình, đó là sự hiến tặng sự có mặt tươi mát nhẹ nhàng, êm dịu của mình cho người mình thương yêu. Và cái đó mình không thể nào mua được ở siêu thị.  Sự có mặt tươi mát và ngọt ngào của mình, mình phải tự chế tác ra chứ không thể nào đi siêu thị mà mua về được, dầu mình có nhiều tiền. Và với phương pháp quán niệm hơi thở, đem tâm trở về với thân, mình có thể tạo ra sự buông thư tươi mát đó và hiến tặng cho người thương của mình.

Đó là câu linh chú thứ nhất. Nếu quý vị có niệm và có định thì câu thần chú đó sẽ tạo ra hạnh phúc cho người thương ngay trong giây lát, ngay lập tức.

Câu linh chú thứ hai là: Con biết là mẹ đang còn sống đó với con và điều này làm cho con rất là hạnh phúc. Anh biết là em đang có mặt đó cho anh và anh rất trân quý sự có mặt của em. Con biết là cha đang còn sống với con và điều này làm con vô cùngsung sướng. Đó là câu linh chú thứ hai, và câu linh chú thứ hai này mình cũng có thể thực tập được, nếu mình có một ít năng lượng của niệm và định. Niệm tức là đem thân về có mặt cho tâm, định tức là không có suy nghĩ lung tung, không suy nghĩ tới quá khứ, tương lai mà tập trung vào giây phút hiện tại. Trong giây phút hiện tại, mình biết rằng người thương của mình đang có mặt đó, mình muốn thừa hưởng sự có mặt của người thương và mình muốn hiến tặng sự có mặt tươi mát ngọt ngào của mình cho người thương mình. Đó là hai câu linh chú mà bất cứ một người nào trong chúng ta cũng có thể thực tập được. Khi chúng ta có niệm và định nhiều thì hai câu linh chú đó sẽ có năng lượng vô song, có thể đem lại hạnh phúc ngay trong giây phút đó cho chính bản thân và cho người mình thương. Câu linh chú thứ nhất dịch ra tiếng Anh,( tại vì ở Tây phương chúng tôi thường hướng dẫn tu học cho người Tây phương dùng tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức nhiều hơn là tiếng Việt) Darling, I am here for you, nó có nghĩa là em ơi ,anh đang có mặt cho em đây, anh ơi em đang có mặt cho em đây. Câu linh chú thứ hai tiếng Anh là Darling, I know are you there and I am very happy. Người thương ơi ,tôi biết rằng anh đang có mặt đó, đang còn sống với tôi, vì vậy tôi rất hạnh phúc.

Thương yêu nghĩa là công nhận sự có mặt của người mình thương. Có thể là ông đang lái xe và bà ngồi một bên ông, nhưng cái đầu ông suy nghĩ lung tung, ông nghĩ đến quá khứ, đến tương lai, đến doanh nghiệp, đến sự thành công của ông và ông hoàn toàn quên lảng bà. Ông niệm doanh nghiệp, ông niệm tương lai, ông niệm quá khứ mà ông không niệm bà. Ông không để ý tới bà và như vậy ông loại bà ra khỏi vùng chú ý của ông, chú ý tức là niệm. Khi mình niệm Phật tức là mình đưa Phật vào trong vùng chú ý của mình. Khi mình nghĩ tới người thương tức là đưa người thương vào trong vùng chú ý của mình. Và nếu mình loại người thương ra khỏi vùng chú ý của mình thì người thương sẽ chết dần chết mòn, vì người đó không được nuôi dưỡng bởi tình thương của mình. Tình thương đó phải được biểu hiện một cách cụ thể, đó là sự có mặt của mình cho người đó. Nếu ông giác ngộ, thì ông sẽ chấm dứt những suy nghĩ của ông về quá khứ, về tương lai.  Ông sẽ nói với bà : em ơi, anh biết là em đang ngồi bên anh và anh rất hạnh phúc.

Câu linh chú thứ ba là mình sử dụng, khi người thương của mình có vấn đề, có khó khăn, có đau khổ, có lo lắng. Nếu mình thương yêu đích thực thì mình có mặt cho người đó và khi mình thật sự có mặt cho người đó thì mình biết rằng người đó đang có những khó khăn, đang có những đau khổ, đang có những lo lắng và mình sử dụng câu thần chú thứ ba. Em ơi anh biết rằng là em đang có những nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho nên anh đang có mặt bên em để hổ trợ cho em đây. Câu này quý vị có thể áp dụng được liền, tại vì người thương của mình có thể là mẹ, có thể là cha, có thể là thầy, có thể là đệ tử, có thể là anh, có thể là chị, có thể là con mình. Và khi đứa con mình có những khó khăn, những đau khổ thì mình là cha, mình là mẹ, mình có thể thực tập câu linh chú này với đứa con: con ơi, ba biết con đang có những khó khăn, những đau khổ cho nên ba tới ngồi với con đây để yểm trợ cho con. Đó là câu thần chú thứ ba. Ông hãy thực tập với con trai của ông đi, bà hãy thực tập với con gái bà đi rồi ông bà sẽ thấy rằng câu thần chú này nó nối liền sự liên lạc giữa ông với con trai, ông với con gái, bà với con trai, bà với con gái. Tại vì ông ưu ái, ông để ý tới người thương của ông, con của ông. Vì lưu ý cho nên ông biết rằng con trai của ông, con gái của ông đang có những khó khăn. Bà cũng vậy, mỗi khi bà thấy ông trầm tư, bà thấy ông đang bị kẹt trong những khổ đau, đang bị kẹt trong những khó khăn, bức xúc, bà có thể tới gần bên ông và đọc câu thần chú thứ ba: anh ơi em biết rằng anh đang có những cái khó khăn, những cái khổ đau, những bức xúc. Vì vậy cho nên em đang có mặt cho anh đây. Đó là câu thần chú thứ ba mà tất cả chúng ta đều có thể thực tập được. Hàng ngàn, hàng chục ngàn thiền sinh Tây Phương đã và đang thực tập câu linh chú đó và đem lại hạnh phúc trong đời sống hàng ngày của họ, đem sự chú ý trở về với thân tâm, đem sự chú ý trở về để ôm ấp lấy người thương của mình.

Và câu linh chú thứ tư, khó thực tập hơn một chút nhưng mà nó có thể tháo gỡ được cho mình trong những trường hợp nguy hiểm. Câu thần chú thứ tư mình chỉ áp dụng khi nào mình đau khổ nhiều quá và mình tin rằng cái đau khổ đó là do người thương của mình gây ra. Nếu một người khác nói hoặc làm điều đó thì mình chỉ khổ ít thôi. Nhưng vì người nói câu đó, làm điều đó lại là người mình thương nhất trên đời, cho nên mình đau khổ vô cùng và mình không muốn sống nữa. Trong trường hợp này mình có thể sử dụng  câu thần chú thứ tư.

Chắc quý vị còn nhớ câu chuyện thiếu phụ Nam Xương v chàng Trương. Khi chàng Trương đi lính về thì người thiếu phụ đem đứa con ra cổng làng đón chồng. Họ mừng mừng tủi tủi, tại vì người chiến sĩ được sống sót trở về. Theo tục lệ Việt Nam là phải cáo với tổ tiên cái tin mừng này,vì vậy người thiếu phụ Nam Xương đi ra chợ để mua sắm về làm một mâm cỗ để cúng tổ tiên. Trong khi đó chàng Trương ở nhà tìm cách làm quen với đứa con trai của mình vì đứa con trai đó sinh ra trong thời gian chàng vắng mặt. Chàng Trương thuyết phục đứa con gọi chàng ta là bố, nhưng đứa bé không chịu. Nó nói, ông đâu phải là bố tôi, bố tôi là một người khác. Bố tôi thường tới mỗi đêm và mỗi khi bố tôi tới, thì mẹ tôi nói chuyện với bố tôi cả giờ đồng hồ, mẹ tôi lại khóc với bố tôi. Mỗi khi bố tôi ngồi xuống thì mẹ tôi cũng ngồi xuống và bố tôi nằm xuống thì mẹ tôi cũng nằm xuống. Nghe đứa bé nói như vậy, chàng Trương đau khổ vô cùng. Chàng Trương nghĩ rằng trong khi chàng vắng mặt đã có một người đàn ông khác xen vào gia đình mình. Từ đó chàng Trương trở thành một cục nước đá , không cười không nói nữa.

Người vợ đi chợ về anh ta không thèm nhìn vợ, anh ta không nói chuyện với vợ, anh ta không trả lời những câu hỏi của vợ. Anh tin chắc rằng người vợ đã ngoại tình trong khi anh đi vắng.

Chúng ta đều biết rằng sự thật không phải như vậy. Sự thật là trong khi anh chàng đi vắng không có người đàn ông nào tới hết. Có một hôm đứa bé đi vào trong xóm chơi, về nói như thế này: Mẹ ơi, tại sao đứa nào trong xóm cũng có bố mà riêng một mình con không có bố. Thiếu phụ Nam Xương mới chỉ cái bóng của mình ở trên tường do chiếc đèn dầu  phóng lên và nói rằng, đây là bố của con đây. Chỉ vào bóng mình ở trên tường, con cúi đầu thưa bố đi. Đứa bé tưởng cái bóng đó là bố của nó. Cố nhiên là thiếu phụ Nam Xương rất là thương nhớ chồng. Mỗi khi có cái bóng đó, thì nàng nói chuyện với bóng: anh ơi anh đi lâu quá, một mình em ở nhà làm sao em có thể nuôi con được, anh tìm cách để về sớm sớm nghe anh.  Thiếu phụ Nam Xương khóc. Thật ra không có một người đàn ông nào khác. Đứa bé nói, bố tôi mỗi đêm tới là nó nói cái bóng của mẹ nó ở trên tường. Chàng Trương đã có tri giác sai lầm và vì vậy cho nên khi người vợ đi chợ về thì anh ta không  nhìn vợ nữa, anh ta không nói chuyện với người vợ nữa và anh ta cũng không trả lời những câu hỏi của vợ. Anh ta đau khổ và người vợ cũng đau khổ lắm. Một giờ đồng hồ trước thì hai người vồn vã khóc lóc, mừng mừng, tủi tủi. Bây giờ tình cảnh đã hoàn toàn khác. Sau khi mâm cỗ đặt lên bàn thờ, chàng Trương đốt hương khấn vái lạy xong và cuốn chiếu không cho vợ lạy trước bàn thờ tổ tiên, vì nghĩ rằng vợ mình đã ngoại tình, không xứng đáng để lạy trước bàn thờ tổ tiên. Cúng xong, đáng lẽ anh sẽ ăn cơm cùng gia đình, thì trái lại anh chàng  ra quán rượu và ở suốt ngày suốt đêm ở ngoài quán, cố gắng tìm quên nỗi sầu đau tuyệt vọng của mình bằng rượu trong nhiều ngày, cuối cùng thiếu phụ Nam Xương chịu đựng không nỗi nữa và cô ta đã nhảy xuống sông tự tử.

Khi nghe tin vợ chết, chàng Trương mới trở về. Đêm hôm đó, đốt đèn lên thì đứa bé nói rằng: Này ông, này ông, bố tôi đây và nó chỉ cái bong của bố nó trên tường. Lúc đó nỗi oan của thiếu phụ Nam Xương mới được tỏ ra nhưng bây giờ thì đã muộn . Trong trường hợp đó, nếu thiếu phụ Nam Xương hoặc chàng Trương thực tập câu linh chú thứ tư thì đã có thể cứu vãn được tình trạng.

Thực tập như thế nào, câu thần chú đó như thế nào? Anh ơi, em đau khổ quá, anh phải giúp em mới được. Tại sao từ khi em đi chợ về cho đến bây giờ anh không có nhìn em. Mỗi khi em hỏi một câu gì anh không có trả lời, em đã làm gì để bị anh đối xử một cách tàn tệ như vậy, anh giúp cho em đi. Đó là câu thần chú thứ tư Anh ơi, em đau khổ quá, anh giúp em đi, anh giải thích tại sao anh đã làm, anh đã đối xử như vậy với em? Hoặc là chàng Trương cũng có thể thực tập như vậy. Chàng Trương tới với thiếu phụ Nam Xương và chàng đọc câu thần chú đó: Em ơi anh rất đau khổ, anh đau khổ cực kỳ anh muốn chết, em phải giúp anh mới được, em phải giải thích cho anh biết,  người đàn ông mà thường tới mỗi đêm trong khi anh vắng mặt là người nào? Nếu em không giải thích được thì anh sẽ chết.

Câu thần chú đó có nghĩa là mình nói cho người mình thương biết là mình đang đau khổ và mình cần sự yểm trợ của người thương của mình. Khi mình đau khổ và tin rằng nỗi khổ niềm đau của mình là do người thương yêu nhất của mình tạo ra, thì mình có khuynh hướng tự ái, mình không muốn người đó tới giúp mình. Thà rằng khóa cửa lại, khóc một mình hoặc là đi tự tử chứ mình không muốn người đó giúp mình. Đó là một sự dại dột rất  lớn. Đó là sự dại dột của thiếu phụ Nam Xương, đó là sự dại dột của chàng Trương. Vì vậy cho nên nếu chúng ta học được bài học này, thì chúng ta sẽ biết sử dụng câu linh chú thứ tư để mà tránh đi bi kịch có thể xảy ra cho gia đình.

Câu linh chú thứ tư tôi xin nhắc lại: anh ơi em đau khổ quá, anh phải giúp em, anh phải giải thích cho em biết tại sao anh đã nói cái câu đó, tại sao anh đã làm cái điều đó, anh phải giúp em nếu không chắc em chết. Đó là câu linh chú thứ tư. Hoặc là em ơi, anh đang đau khổ cực kỳ anh không hiểu tại sao em đã nói câu đó em đã có cái hành động như vậy, nếu em không giải thích được chắc là anh chết, em phải giúp anh, đó là câu linh chú thứ tư. Và câu linh chú này có thể cứu được cả hai người trong cái trường hợp rất là khắc khe như trường hợp của thiếu phụ Nam Xương. Bây giờ chúng ta nghe một tiếng chuông, thở cho khỏe rồi tôi xin nói tiếp.

 

 Ý  NGHĨA CỦA TRAI ĐÀN BÌNH  ĐẲNG CHẨN TẾ

Kính thưa đại chúng,
Trong chuyến về thăm và hoằng pháp lần thứ hai này, chúng tôi đã được Thủ tướng chính phủ cho phép tổ chức ba Trai đàn chẩn tế cầu siêu bình đẳng để cầu siêu cho tất cả những nạn nhân của cuộc chiến đã xảy ra ở Việt Nam trong bao nhiêu năm qua.

Chúng ta biết rằng có khoảng năm triệu người đã chết trong cuộc chiến tranh. Có những chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng, đã chết một cách rất vinh quang trên chiến trường. Nhưng cũng có rất nhiều người chết oan ức trong tăm tối, trong tù ngục và có hàng trăm ngàn người đã chết ngoài biển cả. Kỳ này chúng ta được phép của nhà nước tổ chức ba đại trai đàn để cầu nguyện cho tất cả những đồng bào của chúng ta, trong Nam ngoài Bắc, không  phân biệt già trẻ trai gái, tôn giáo và đảng phái chính trị. Tại chùa Vĩnh Nghiêm sẽ có ba ngày cầu nguyện. Và trai đàn chẩn tế sẽ bắ t đâu từ ngày mười sáu, mười bảy và mười tám tháng ba năm nay.

Trong bản phổ cáo quốc dân, đạo tràng Mai thôn cùng với giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đề nghị mỗi gia đình nên thiết lập một bàn thờ vong trước hiên nhà của mình. Trên bàn thờ vong đó mình có thể cúng cháo trắng, nước trong, gạo và muối. Mỗi ngày mình có thể thay cháo, thay nước và thắp hương luôn trong suốt ba ngày để cầu nguyện cho những đồng bào đã tử nạn, đã khổ đau, đã chết trong cuộc chiến mấy mươi năm qua. Tất cả đồng bào đều được mời thực tập chung, dầu mình là người Phật tử hay là người Công giáo, người Do thái giáo hay là người Cộng sản đều được mời thiết lập một bàn thờ vong trước hiên nhà có cháo trắng có nước trong có gạo, có muối, có văn bản tam quy và ngũ giới. Số người tới được chùa Vĩnh Nghiêm trong ba ngày mười sáu, mười bảy và mười tám tháng ba dầu cho được ba ngàn, bốn ngàn, hay năm ngàn người cũng không thấm gì. Vì vậy cho nên tất cả chúng ta dầu ở tỉnh nào, miền Nam, miền Trung hay miền Bắc thì chúng ta cũng nên nhớ những ngày như vậy mười sáu, mười bảy và mười tám tháng ba và chúng ta thiết lập bàn thờ vong ở trước hiên nhà đốt hương luôn ba ngày để cùng cầu nguyện. Chúng ta thực tập câu thần chú thứ nhất và thứ hai. Hàng triệu người đã chết trong chiến tranh, chúng ta nói rằng này tất cả các hương linh, chúng tôi biết quý vị đã bỏ chúng tôi mà đi, chúng tôi đã mất quý vị. Hôm nay chúng tôi có cơ hội tới với nhau để tưởng niệm quý vị, nhờ ơn đức của Bụt, của Pháp của Tăng cầu nguyện cho quý vị tất cả được siêu thăng, dầu quý vị là người Nam hay người Bắc, dầu quý vị là người Cộng sản hay là người chống Cộng sản, dầu quý vị là người có tôn giáo hay không có tôn giáo. Tại vì Trai đàn chẩn tế này được gọi là trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan. Dầu chúng ta có thân nhân đã chết trong cuộc chiến hay là không có thì chúng ta cũng nên thiết lập bàn vong để cúng dường, để tưởng niệm. Chúng ta hãy tới với nhau trong tâm tưởng, chúng ta biết rằng những khổ đau, những oan ức nó chôn tận trong đáy lòng của chúng ta, nó sẽ còn mãi mãi. Và chúng ta sẽ truyền những khổ đau, oan ức đó cho những thế hệ tương lai nếu chúng ta không  thực tập cầu nguyện để chuyển hóa những khổ đau đó trong khi chúng ta có thể làm được. Vì vậy khi được phép của thủ tướng chính phủ chúng tôi rất mừng. Và các vị tôn đức trong giáo hội cũng như tăng thân làng Mai đang chuẩn bị rất kỹ lưỡng để làm cho ba trai đàn chẩn tế này trở thành những phương pháp thực tập tập thể cho toàn dân. Tôi tin tưởng rằng sau ba ngày thực tập như vậy thì năng lượng sẽ thay đổi rất nhiều.

Có một thanh niên ở tại Hoa Thịnh Đốn viết thư cho tôi như thế này: Bạch thầy con lớn lên và đi ngang qua cuộc chiến khốc liệt và trong lòng của con có bao nhiêu là vết thương, lâu nay nó được dấu kín. Cái ngày mà con nghe tin rằng sẽ có trai đàn chẩn tế ở chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Diệu Đế và Học Viện Sóc Sơn thì tuy rằng trai đàn chẩn tế chưa được tổ chức mà những vết thương ở trong con đã bắt đầu có sự trị liệu, nó bắt đầu lành rồi. Con rất mừng, con cảm ơn thầy, con cảm ơn tăng thân làng Mai, con cảm ơn giáo hội đã để ra  tâm lực,  thì giờ,  năng lượng để tổ chức những  trai đàn giải oan chẩn tế bình đẳng để cầu nguyện cho tất cả các đồng bào của chúng ta đã chết trong cuộc chiến.

Hàng trăm ngàn chiến sĩ đã bỏ mình trong cuộc chiến. Biết bao nhiêu hài cốt vẫn chưa tìm ra được, hàng trăm ngàn người chết ở ngoài biển cả và có những người chết trong những cái trại tù tối tăm. Và những oan ức đó, những khổ đau đó chưa bao giờ được chính thức nói lên và công nhận. Những trai đàn chẩn tế giải oan là để chính thức nói lên được những  oan khổ đó, những đau khổ đó và để cho tất cả chúng ta người Việt Nam từ Nam chí Bắc không phân biệt già trẻ trai gái, lập trường chính trị có thể tới với nhau để mà cầu nguyện cho tất cả những người đã chết trong cuộc chiến. Vì tất cả đều là đồng bào của chúng ta, họ là chồng của chúng ta, họ là cha của chúng ta, họ là anh trai của chúng ta, họ là em trai của, họ là con trai của chúng ta, họ là mẹ của chúng ta, họ là vợ của chúng ta, họ là em gái của chúng ta, họ là con gái của chúng ta, Tất cả những người chết đó đều là đồng bào của chúng ta và chúng ta có cơ hội tới với nhau góp lời cầu nguyện, nương vào pháp lực của Tam bảo để cho tất cả được siêu thăng. Đây là một Tin mừng rất là lớn. Phật sự quan trọng này do giáo hội Phật giáo Việt Nam và đạo tràng Mai thôn khởi xướng theo nhu yếu của lòng dân. Tại vì lòng dân muốn như vậy, và vì vậy cho nên Mai thôn đạo tràng cũng như giáo hội Phật giáo Việt Nam đã nghe cái tiếng thao thức đó và đứng ra tổ chức những trai đàn chẩn tế bình đẳng và giải oan.

Qua ngài đại sứ Việt Nam tại Paris tôi có gởi cho ngài chủ tịch nước một lá thư mời ngài tới trai đàn chẩn tế tại chùa Vĩnh Nghiêm tham dự lể dâng hương bạch Phật để khai mạc cho trai đàn. Tôi tin rằng ngài chủ tịch nước sẽ đến, tại vì ngài cũng biết rằng câu thần chú thứ nhất, ngài có thể thực tập được. Khi mà chúng ta có bão lụt, có những tai biến thì các vị thủ tướng, các vị có trách vụ trong chính quyền thường tới để an ủi, để ủy lạo. Và khi chúng ta tổ chức một trai đàn chẩn tế có tầm vóc quốc gia như thế này, tất cả mọi người dân đều hướng tới thì tôi tin chắc rằng ngài chủ tịch nước sẽ tới để tham dự  lễ dâng hương bạch Phật. Điều đó sẽ đóng góp rất nhiều cho sự trị liệu và làm ấm lòng người. Tôi tin rằng lãnh đạo nhà nước thấy được tầm quan trọng của Phật sự này, sẽ ủng hộ và sẽ tham dự trong  lễ cầu nguyện.

Trong hội nghị APEC vừa qua,  tôi nghe nói tổng thống Hoa Kỳ Buss tới tham dự hai ba ngày thôi nhưng gặp ngày chủ nhật, ông cũng đi nhà thờ và không bỏ quên đời sống tâm linh tôn giáo của ông ta. Chúng tôi cũng có gửi thư mời ngài thủ tướng chính phủ và ngài chủ tịch quốc hội tới tham dự các trai đàn chẩn tế ở Huế và ở Sóc Sơn. Tôi tin rằng quý vị cũng thấy được tầm quan trọng của Phật sự này. Bề ngoài nó chỉ giống như là một sự cầu nguyện có tính cách tín ngưỡng và tôn giáo, nhưng nội dung là một phép thực tập tâm lý trị liệu rất quan trọng. Theo tâm lý học thì những nỗi khổ niềm đau mà vùi lấp trong chiều sâu của tâm thức, nếu mình không đưa nó lên trên mặt phẳng ánh sáng của ý thức để công nhận thì nó không có cơ hội chuyển hóa và trị liệu. Vì vậy cho nên trai đàn chẩn tế thật sự là một phương pháp tâm lý trị liệu có tính cách cộng đồng, có tính cách tập thể. Và nó sẽ làm cho nhẹ nhàng năng lượng của đất nước, của dân tộc. Đất nước chúng ta hiện bây giờ có một vận hội mới, nếu chúng ta tới với nhau được trong tình đồng bào, chấp nhận lẫn nhau thì sức mạnh của chúng ta sẽ tăng trưởng rất là lớn.

 Ngày xưa vua A Dục sau khi thống nhất lãnh thổ Ấn Độ, ý thức được rằng chiến tranh cũng đã gây ra những khổ đau những oan ức, vua A Dục đã tổ chức yểm trợ các giáo phái tôn giáo, các truyền thống tôn giáo để hàn gắn, để trị liệu. Cuối cùng vua A Dục đã thống nhất được lòng người sau khi thống nhất được lãnh thổ. Tôi tin rằng các nhà lãnh đạo của đất nước chúng ta đã thấy được như vậy cho nên đã cho phép chúng ta tổ chức ba đại trai đàn chẩn tế giải oan với tầm vóc quốc gia.

Sau khi mình đã thống nhất lãnh thổ thì công việc mình đang làm là thống nhất được lòng người, làm thế nào để cho người Nam người Bắc thấy rõ ràng ch úng ta là một dân tộc, người ở ngoài nước và người trong nước thấy được cùng là một dân tộc. Đó là mục đích của trai đàn chẩn tế, nó đưa người Nam trở về với người Bắc, nó đưa người Bắc trở về với người Nam, nó đưa người ngoài nước trở về với người trong nước, nó đưa người trong nước trở về với người ngoài nước. Và như vậy chúng ta sẽ trở thành một dân tộc đoàn kết. Khi sự thống nhất lòng người được thực hiện thì chúng ta sẽ thành công trong vận hội mới của dân tộc của đất nước. Tôi tin rằng trong ban tư tưởng cũng như bộ chính trị, có nhiều vị hiểu được tầm vóc quan trọng của những trai đàn chẩn tế này. Chúng ta tin tưởng  vào sự yểm trợ của toàn dân trong cái việc thực tập trai đàn chẩn tế. Xin mời liệt vị trong vùng lân cận tới tham dự đại trai đàn chẩn tế ở tại chùa Vĩnh Nghiêm, nếu quý vị ở xa quá thì quý vị cũng có thể thiết lập bàn thờ linh ở trước hiên nhà mình, thắp hương liên tiếp ba ngày và đọc kinh hướng về trai đàn chẩn tế.

Sau trai đàn chẩn tế ở tại chùa Vĩnh Nghiêm, chúng ta sẽ có một trai đàn chẩn tế tại quốc tự Diệu Đế ở Huế. Và trong khi trai đàn chẩn tế ở chùa Vĩnh Nghiêm được thực hành theo  nghi lễ truyền thống miền Nam thì trai đàn chẩn tế ở Huế s ẽ được tổ chức theo nghi lễ truyền thống miền Trung và trai đàn chẩn tế ở tại Sóc Sơn sẽ được tổ chức theo  nghi lễ cổ truyền miền Bắc. Chúng tôi tin rằng sau khi hoàn tất ba trai đàn đó, thì lòng người chúng ta sẽ được nối kết trở lại và chúng ta sẽ có năng lượng rất lành, rất hùng hậu và chúng ta sẽ có nhiều hạnh phúc tại vì chúng ta đã chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau trong lòng mà chúng ta ôm ấp lâu nay. Xin cảm ơn quý vị đã lắng nghe chúng tôi từ nãy tới giờ. Chúng ta có độ chừng mười lăm phút để đặt những câu hỏi, nếu vị nào có câu hỏi thì đứng dậy giơ tay thì sẽ có máy nói đi tới với quý vị.

 

Phần vấn đáp:

- Nam mô đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni,

Bây giờ đây con thật là hạnh phúc khi  con được đến với sư ông để đặt lên câu hỏi của con. Con kính bạch sư ông là với phương pháp chánh niệm mà sư ông đã trao truyền cách đây hai năm, con đã bắt đầu thực tập và con nghĩ rằng, con cũng có những an lạc từ sự thực tập đó. Hôm nay con xin sư ông soi sáng cho con thêm một điểm nữa. Sư ông đã giảng rằng  chánh niệm là đem  tâm mình trở về với thân và để có được an lạc ở trong hiện tại thì...

            - Thở đi, thở đi một hơi cho nhẹ nhàng rồi nói tiếp (TS.NH)

...thì ta không nên để cho những dự tính của tương lai, những  việc của quá khứ nó lôi kéo ta. Nhưng con thưa sư ông là thỉnh thoảng trong con, như là chiều hôm nay thôi, con đi trên đường, con chạy xe thì trong đầu con nhớ tới  lời thơ của sư ông đọc cho con hồi sáng nay và con thấy rất là hạnh phúc. Thưa sư ông, những lúc như vậy con có rơi vào thất niệm hay không ? Có nhiều lúc thỉnh thoảng trong ý nghĩ của con luôn luôn nhớ về những  lời các anh các chị con đã dạy cho con. Và con cảm thấy  như vậy con cũng rất là hạnh phúc. Thưa sư ông, như vậy thì con có rơi vào thất niệm hay không?

            - Trong cuộc đời có những cái mầu nhiệm, có những yếu tố tươi mát, có những yếu tố trị liệu và nuôi dưỡng bên trong cũng như bên ngoài. Khi mình đem tâm của mình trở về với cái thân của mình thì mình có cơ hội nhận diện những yếu tố tươi mát nuôi dưỡng và trị liệu đó, mình có thể tiếp xúc với những cái yếu tố đó để cho mình được tiếp tục nuôi dưỡng, trị liệu và lớn lên. Tiếp xúc với một yếu tố nào có khả năng nuôi dưỡng, trị liệu thì đều là chánh niệm cả. Thất niệm là tâm không có mặt đó trong giây phút hiện tại, tâm luôn luôn phóng về tương lai và người ta đánh mất mình trong sự lo lắng. Trong khi đó mình biết rất rõ rằng tương lai nó được làm bằng một chất liệu gọi là hiện tại, nếu mình quản lý được cái giây phút hiện tại một cách toàn hảo, mình biết mình phải làm cái gì và không nên làm cái gì trong giây phút hiện tại, thì đó là phương pháp duy nhất để xây dựng một tương lai tốt đẹp. Tại vì tương lai nó được làm bằng một chất liệu thôi, đó là hiện tại. Do đó chánh niệm tức là đem hết năng lượng của thân và tâm để chăm sóc cho hiện tại, thành ra nguyên tắc đó đủ để soi sáng cho mình rồi. Và khi có cái đó thì mình có chánh niệm, còn khi mà mình đánh mất mình trong sự lo lắng buồn khổ, mình không có mặt trong giây phút hiện tại, cái đó gọi là thất niệm, thất niệm tức là cái sự vắng mặt của chánh niệm, tức là mình không có mặt cho mình và mình không có mặt cho sự sống, mình không có mặt cho người thương của mình. Xin câu hỏi thứ hai.

            -.Kính thưa thầy, con là người chưa bao giờ học Phật, duyên may con được đọc những quyển sách thầy viết như Bông hồng cài áo, Nẻo về của ý, Đường xưa mây trắng. Trong lần thầy về Việt Nam trước đây con đã tới nghe thầy, về con thực tập thường xuyên và con thật an vui rất đúng như lời thầy nói, thực tập đạo Phật rất là hạnh phúc. Con mong muốn mọi người tu tập đều nhận được sự mầu nhiệm cuộc sống để sống an vui trong mọi hoàn cảnh. Bây giờ con xin được đưa ra không phải là một câu hỏi mà là một lời đề nghị. Thưa thầy, hiện nay các em sinh viên học sinh học hành rất nặng nề, áp lực thi cử và những lo lắng khi ra trường, tình cảnh của các em rất là đáng thương. Thưa thầy trong chuyến về Việt Nam lần này xin thầy có một buổi chia sẽ với giáo viên, một khóa tu với những người làm công việc giảng dạy để qua đó các em học sinh sinh viên được trao truyền thực tập. Con tin rằng các em sẽ thực tập rất nhanh. Khi được hướng dẫn tu học, các em sẽ học tốt, sống hạnh phúc, tránh xa những thú vui vô bổ, xì ke ma túy và có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng nước nhà. Con tin tưởng thầy sẽ làm được sự trao truyền nếp sống tốt đẹp cho mọi người tại Việt Nam như thầy đã làm điều đó trên toàn thế giới. Con rất cảm ơn thầy và quý vị đã lắng nghe co. Con kính chúc thầy luôn được mạnh khỏe. Nam mô A Di Đà Phật.

            - Xin cảm ơn cô. Ở Âu châu chúng tôi thường mở những khóa tu cho các thầy giáo và cô giáo. Tại vì các vị cũng rất cần sự thực tập để có thể thành công được trong sự chuyển hóa những khổ đau, khó khăn của mình để có thể giúp được học sinh và sinh viên của họ. Chuyến về này chúng tôi có những khóa tu dành cho người xuất gia, có những khóa tu dành cho người cư sĩ. Nhưng chưa có một khóa tu dành riêng cho các thầy giáo và cô giáo. Nhưng chúng tôi sẽ tìm cách để có thể nêu vấn đề đó ra trong khóa tu cho người cư sĩ ,và chúng tôi sẽ cống hiến một vài pháp môn tu tập để các thầy giáo, cô giáo cũng như các học sinh có thể tiếp thu mà đối phó được một cách dể dàng hơn với những khó khăn, với những sự căng thẳng trong đời sống dạy dỗ và học hỏi tại học đường.

Câu hỏi thứ ba.

            - Dạ con kính bạch sư ông, con tên là Nguyên Minh, pháp danh của con là Nguyên Minh. Con xin kính bạch sư ông cho con được đặt một vài câu hỏi. Con kính xin sư ông làm sáng tỏ giúp cho con.

Kính bạch sư ông, chúng con biết rằng thời gian mà sư ông đang còn ở tại Việt Nam thì sư ông là một trong số rất ít những nhà tu đã bỏ rất nhiều những tâm tư tình cảm, cũng như đã bỏ tất cả mọi điều, sư ông chỉ có niềm khao khát muốn làm thế nào để xoa dịu những nỗi đau, những bất hạnh cho dân tộc cho đất nước, vì cuộc chiến tranh dai dẳng. Những điều đó không chỉ thể hiện qua những tác phẩm thơ văn của sư ông mà nó thể hiện qua những việc làm thiết thực, mà theo con nghĩ trường thanh niên phụng sự xã hội là một ngôi trường đã minh chứng được điều đó bằng cả máu và nước mắt nữa. Con cũng biết rằng suốt bốn mươi năm sư ông ở bên phía trời Tây xa quê, thì sư ông đã bỏ ra rất nhiều công lao nhằm gieo hạt giống  giáo lý Phật cho mọi người trên toàn thế giới. Chúng con rất là hạnh phúc vì cũng khoảng tháng năm, năm rồi chúng con được nghe một tin vui là có một cuốn sách của sư ông được các đạo diển nước ngoài muốn chuyển thể thành phim. Con không biết điều đó có đúng hay không và con không biết bây giờ cuốn phim ấy nó đang như thế nào. Nhân tiện hôm nay con kính xin sư ông cho chúng con biết về cuốn phim đó. Và con cũng kính xin sư ông cho con biết, liệu khi cuốn phim đó được hoàn thành chúng con ở quê nhà có được thưởng thức tác phẩm đó không. Và một câu hỏi ngắn nữa, con xin sư ông cho con được biết, là chuyến viếng thăm quê hương lần đầu của sư ông cách đây hai năm, thì đó có phải là hạn kỳ để cho sư ông có thể trở về quê hương từng hai năm một lần hay là không? Và chúng con xin đề đạt một nguyện vọng,  kính xin sư ông cho chúng con được trình bày cái hoài vọng của chúng con. Con kính xin sư ông và phái đoàn tăng thân làng Mai cứ mỗi năm cố gắng về với chúng con một lần. Vì chúng con biết rằng sống không chỉ là chỉ có cơm gạo, áo tiền mà thôi. Sống, mỗi một con người trong chúng ta cần những bông hồng của tâm linh nữa. Con kính chúc sư ông được sức khỏe mãi.

            - Xin cảm ơn cô, ở Âu châu có mấy chục nước và nước nào cũng muốn tăng thân làng Mai tới nước họ mỗi năm một lần. Vì vậy cho nên chúng tôi rất lúng túng không biết làm thế nào để mà đáp ứng lại cái nhu yếu đó của nhiều nước. Riêng về cuốn sách Đường Xưa Mây Trắng, bây giờ ở Trung Quốc được ấn hành lần thứ hai. Hiện nay David Quare đã sắp hoàn tất truyện phim rồi. Và sau khi mà hoàn tất truyện phim, h ọ sẽ tuyển lựa những tài tử đóng phim. Theo bảng hợp đồng, giám đốc điều khiển, nhà đạo diễn cũng như các minh tinh màn ảnh phải qua làng Mai để tu tập chánh niệm trong thời gian mấy tuần lể để thấm nhuần chánh niệm và để khi thực hiện cuốn phim nó có năng lượng bình an, giải thoát và giác ngộ của Phật. Tôi được tin rằng ông Modi, giám đốc chương trình phim này, sẽ tới Việt Nam vào dịp đại trai đàn chẩn tế tại chùa Vĩnh Nghiêm. Và ông ta sẽ mở cuộc họp báo để nói chuyện về tiến trình của cuốn phim này. Ông ta đã dự định bỏ ra một trăm hai mươi triệu Dolla để thực hiện cuốn phim . Nếu mọi chuyện được suông sẻ, thì đến tháng tư năm 2008 phim sẽ được ra mắt tại liên hoan phim ở Canne (Pháp). Chúng tôi xin kể một câu chuyện thú vị. Sau khi ông Modi đọc cuốn Đường xưa mây trắng, ông Modi không phải là Phật tử, nhưng đọc xong Đường xưa mây trắng, ông cảm động quá, chưa bao giờ ông đọc về tiểu sử của của đức Thế Tôn mà làm cho ông cảm động như vậy. Ông có ý làm cuốn phim theo Đường xưa mây trắng đó để chia sẻ  hạnh phúc của ông với hàng triệu người khác. Vì vậy ông đã đi tìm tác giả và sau nhiều tháng tìm kiếm thì tiếp xúc được với nhà xuất bản Paralac. Một bữa đó có một phái đoàn đi về Pháp để gặp tác giả. Ông Modi đi cùng với một dân biểu quốc hội Ấn Độ, một nhà nghiên cứu lịch sử và một vị luật sư để gặp gỡ tác giả Đường xưa mây trắng và điều đình mua bản quyền của Đường Xưa Mây Trắng với mục đích dựng thành một thiên anh hùng ca về cuộc đời của đức Thế Tôn.

Một người bạn Ấn Độ cho chúng tôi biết rằng nếu ông này mà bỏ ra một trăm hai chục triệu đôla để làm cuốn phim, thì mình phải đòi bản quyền năm chục triệu đôla. Đàm luận một thời gian , ít nhất cũng có hai mươi lăm triệu đôla cho tác giả. Nhưng khi tăng thân làng Mai họp lại, thì tuệ giác mà tăng thân làng Mai có là mình sẽ hiến tặng tác quyền này mà không lấy một đồng đôla nào cả. Mình sẽ ký hợp đồng với hảng phim này với một điều kiện thôi. Đó là tất cả mọi người trong đoàn làm phim, từ giám đốc sản xuất cho đến đạo diễn, diễn viên đều phải qua làng Mai tu tập chánh niệm trong thời gian ba tuần để cho thấm nhuần cái chất Phật, chất liệu của đạo Phật. Giây phút mà chúng tôi nói lên điều đó trong buổi họp làm cho ông Modi ngẩn ngơ, là tại vì chưa bao giờ thấy một người không có ham tiền, một đoàn thể không ham tiền mà chỉ vì lý tưởng. Chúng tôi chỉ muốn có một cuốn phim thật hay nói được lên tinh thần đạo Phật và chúng tôi xin cúng dường không lấy một đồng nào hết. Ông không tin rằng chuyện này là chuyện có thật, mãi tới mười lăm phút sau. Quý vị cứ tưởng tượng, nếu bây giờ làng Mai có hai mươi lăm triệu đôla thì chúng tôi không có yên vui đâu, chúng tôi sẽ khổ lăm. Do đó cho nên không có hai mươi lăm triệu đôla là một hạnh phúc rất lớn của làng Mai.

 Câu hỏi thứ tư.

            - Kính bạch sư ông, con còn có một chút thắc mắc này. Như sư ông vừa dạy tặng phẩm quý báu nhất mình để dành cho người thân thương của mình đó là sự có mặt của mình. Và nếu hiểu như vậy, thì theo lịch sử của đức Thế Tôn lúc ngài ra đi tìm đạo để cứu khổ, thì ngài phải đã bỏ hết gia đình, bố mẹ vợ con. Và trong một số cách sách dạy về pháp tu cũng nói rằng là để mà tìm được đường tu thì mình phải bỏ hết tất cả mọi cái ở cuộc sống bình thường cũng như bỏ gia đình, thậm chí có cả pháp tu sống độc cư nữa, không tiếp xúc với ai hết. Như vậy, bạch sư ông có thể khai thị thêm cho con cũng như tất cả mọi người còn  thắc mắc, khi mình xa lìa mọi người như vậy thì mình có thể đem lại  hạnh phúc cho những người mình thân thương nữa hay không?

            Hay lắm. Siddhatta trước khi đi xuất gia có những thao thức, có những bức xúc, có những khổ đau, có những vấn đề không giải quyết được. Vì vậy cho nên sự có mặt của Siddhatta không phải là sự có mặt tươi mát và ngọt ngào. Khi mình đi xuất gia không phải là mình hết thương, không phải là mình không thương cha, thương mẹ, thương gia đình, thương đất nước, không phải như vậy đâu. Mình vẫn thương, nhưng mà mình đi tìm một  phương pháp thương nào có thể đem lại cái hạnh phúc thật sự cho người mình thương. Và đây là vấn đề của sự có mặt, cái phẩm chất của sự có mặt. Nếu mình có mặt nhưng mà sự có mặt của mình không có phẩm chất thì sự có mặt đó không có giá trị lắm. Sự có mặt cau có, bực bội, nặng nề, sự có mặt đó không phải là một tặng phẩm đích thực. Cho nên mình phải tu tập, mình chuyển hóa để đạt tới một sự có mặt trong sáng, tươi mát, ngọt ngào. Sau khi Siddhatta thành đạo rồi, đã trở về thăm quê hương, đã cống hiến cho phụ hoàng cũng như là dòng họ Sakya một sự có mặt hùng vĩ, tươi mát, trong sáng, giải thoát. Như vậy khi mình đi xuất gia không phải là mình không còn thương nữa, mình tiếp tục thương nhưng mà mình muốn cống hiến một sự có mặt có phẩm chất cao hơn là sự có mặt bây giờ, sự có mặt của sự nặng nề, của bức xúc, nó không có phải là một tặng phẩm đáng giá. Cho nên vấn đề không phải là tiếp tục thương hay là không thương. Vấn đề là làm thế nào trong khi thương, mình có thể đem hiến tặng một sự có mặt có phẩm chất cao, trong đó có sự giải thoát, có sự giác ngộ, có sự tươi mát. Thật sự là Siddhatta khi trở về đã trở thành một con người giác ngộ toàn vẹn và đã độ được cho phụ hoàng, đã độ được cho hoàng gia và đã độ được cho đất nước. Thì đó không phải là một sự trốn bỏ mà là một sự trở về để dâng hiến  sự có mặt phẩm chất cao.

Một câu hỏi cuối cùng, chúng ta sẽ hẹn vào những buổi pháp thoại khác.

            Thưa sư ông, con là Huỳnh Văn Nghĩ, con xin có ý kiến như thế này. Hiện thời  văn hóa và kinh tế của tất cả các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam chúng ta nó luôn luôn ảnh hưởng tới đời sống sâu đậm tới nhiều dân tộc. Mà ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, hiện nay là phim ảnh. Vừa rồi cũng như  truớc đó chúng con được nghe báo chí  nói là sư ông có một  phim do một nhà tỉ phú Ấn Độ yểm trợ làm việc. Con kính xin sư ông coi ở Việt Nam chúng ta, nhà nước hiện nay cũng có những cái phim và những cố gắng để phát triển phim ảnh Việt Nam. Sư ông có một đề nghị hay  lời khuyến khích gì không về vấn đề làm phim ảnh Phật giáo, để truyền bá đạo đức của Việt Nam và của thế giới?

            Vâng, câu hỏi hay lắm. Chúng tôi đã có tổ chức một khóa tu riêng cho các nhà đạo diễn điện ảnh, các minh tinh màn ảnh tại Hollywood. Tại vì đời sống của họ cũng có những bức xúc, có những lo lắng, có những sợ hãi rất là lớn. Và khi mà chúng tôi tổ chức khóa tu đó thì có rất nhiều vị giám đốc sản xuất, các vị đạo diễn, các minh tinh màn bạc nổi tiếng tới tham dự khóa tu. Tham dự khóa tu giúp cho họ cởi bỏ rất nhiều khổ đau, lo lắng và nhất là sợ hãi. Chúng tôi cũng mong ước rằng trong tương lai mình có thể một khóa tu như vậy để dành cho giới điện ảnh tại Việt Nam. Tôi nghĩ rằng sớm muộn gì những người trong cái giới điện ảnh cũng sẽ thấy rằng, đời sống có những cái nhiêu khê,  có những khó khăn, có những căng thẳng. Thực tập theo pháp môn đạo Phật có thể giúp cho họ tháo gỡ được những khó khăn đó, những lo lắng đó, những buồn khổ đó và nhất là những sự sợ hãi đó. Nếu có cơ hội thật thuận tiện thì trong một chuyến về nước trong tương lai, chúng ta sẽ cố gắng tổ chức một khóa tu riêng cho các nhà sản xuất và các diễn viên trong lĩnh vực điện ảnh.

 Xin cảm tạ đại chúng, tứ chúng và chúng ta hẹn gặp lại trong những sinh hoạt sắp tới trong các khóa tu và trong những bài thuyết pháp khác.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.