Uy quyền và Hạnh phúc
-
Tháng
01.2008 - Minh Niệm
biên tập :
Pháp thoại
của Sư ông Làng Mai
ngày
3.05.2007
tại Câu
lạc bộ Giao Lưu Kinh Tế - Hà Nội
Âm thanh MP3:
Phần 1 (12.7MB)
Phần 2 (7.3MB)
Lời hứa chưa thực hiện được
Kính thưa các vị thiện tri thức, kính thưa các vị khách quý. Federic
là một thương gia người Đức, rất có tài và cũng là một người có
trách nhiệm. Anh ta chỉ mới trên bốn mươi tuổi thôi nhưng đã đạt
được những thành quả thật là lớn trong
sự nghiệp doanh thương của anh ta. Claudia lúc ban đầu rất hạnh phúc
được làm vợ của một thương gia tài ba, rất hạnh phúc mỗi khi tổ
chức những buổi tiếp tân, rất bằng lòng trong địa vị phu nhân của
một nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Và hai người tin tưởng rằng họ sẽ có
rất nhiều hạnh phúc trong tương lai.
Nhưng doanh nghiệp của Federic đòi hỏi rất nhiều thì giờ và năng
lượng của ông. Cố nhiên khi mình là một nhà doanh thương hay là một
nhà chính trị thì mình muốn thành công và thành công lớn. Cho nên
doanh nghiệp của Federic giống như là một nhà độc tài, nó muốn
chiếm độc quyền tất cả thì giờ và năng lượng của Federic. Sau một
thời gian thì Claudia cảm thấy rất đơn độc, lẻ loi, vì Federic
không còn thì giờ cho bản thân, cho vợ và cho hai con nữa. Có những
đêm Claudia khóc với chồng, nói rằng anh bận quá và anh không có thì
giờ cho em và cho các con. Anh phải làm sao, anh phải sắp đặt như
thế nào để anh có thì giờ để sống, để có mặt với em, với các con
chứ. Thì Federic trả lời là hiện bây giờ đây không có ai có thể thay
thế anh được, anh là người duy nhất có thể điều khiển đượcdoanh
nghiệp quan trọng này, em hãy chờ, các con hãy chờ. Anh sẽ cố gắng
xếp đặt tìm người phụ tá thay thế và lúc đó anh sẽ có thì giờ nhiều
cho em và cho các con. Federic cứ lặp đi lặp lại lời hứa đó. Nhưng
lâu ngày lâu tháng vẫn chưa có thể thực hiện được.
Một hôm con trai của Federic đi vào nhà thương để mổ tim, cuộc giải
phẩu kéo dài bảy giờ đồng hồ, một mình Cladia ở với con trai và
Federic không thể bỏ công việc để về với con được. Claudia rất buồn
khổ, ngày khác Claudia đi vào trong nhà thương để giải phẩu mộtbướu
thì Federic cũng không về được. Sống trong cô đơn bị bỏ rơi, Claudia
tìm cách khuây khỏa, ghi tên vào một trường đại học để học thêm
mộtbằng tiến sĩ nữa. Cô đã học tâm lý học trị liệu. Sau đó Claudia
cũng đi làm nhà tâm lý trị liệu để giúp cho những người khác. Và
Claudia cũng làm những công việc xã hội từ thiện để cho khuây khỏa.
Nhưng tất cả nhữngđó không đủ làm cho Claudia có hạnh phúc.
Lời hứa của Federic chưa thực hiện được thì một hôm Federic lâm vào
tai nạn xe hơi và qua đời lúc năm mươi mốt tuổi. Và chỉ nội trong ba
hôm là người ta tìm ra được một vị giám đốc khác thay thế. Federic
cứ tưởng rằng mình là người duy nhất có thể điều khiểndoanh nghiệp,
nhưng sự thật không phải như vậy, người khác cũng có khả năng thay
thế được Federic.
Sử dụng quyền lực
Chúng ta thường tin tưởng rằng sự thành công của chúng ta trong sự
nghiệp chính trị, sự nghiệp doanh thương, sự nghiệp khoa học, sự
nghiệp quân sự,
v.v … là nền tảng của hạnh phúc. Và khi chúng ta thành công thì
chúng ta sẽ có rất nhiều uy quyền, vì tiền bạc đưa lại rất nhiều uy
quyền. Và uy quyền có thể đưa lại nhiều danh vọng. Tất cả nhữngđó
chúng ta nghĩ rằng sẽ giúp chúng ta làm được tất cả những gì chúng
ta muốn làm.
Nói tới uy quyền thì ai có nhiều uy quyền bằng tổng thống George
Bush bây giờ ? Hoa Kỳ là một cường quốc có một nền kinh tế và quân
sự rất mạnh. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào con người của tổng thống
Bush, chúng ta thấy rằngquyền lực đó không đủ để làm cho tổng thống
Bush được hạnh phúc. Hoa Kỳ hiện bây giờ đang kẹt vào những tình
huống rất khó khăn, ở
Iraq
chẳng hạn, tôi tin chắc rằng ban đêm ông không ngủ ngon được. Tại vì
mỗi ngày đều có những thanh niên Hoa Kỳ chết ở bên đó và mỗi ngày
đều có hàng chục hàng trăm người chết vìcuộc can thiệp của Hoa Kỳ
vào trong nội bộ của
Iraq,
tình trạng thật là khó khăn, khạc không ra mà nuốt cũng không vào.
Jack Pusso nói rằng người có quyền lực lớn nhất cũng cảm thấy
mình không có đủ quyền lực để làmgì mình muốn. Và khi có quyền lực,
chúng ta hay lạm dụngquyền lực đó, gây ra khổ đau cho chính bản thân
và cho những người khác.
Khi chúng ta làm cha, chúng ta có quyền của người cha. Chúng ta có
thể sử dụngquyền lực đó để bắt đứa con của mình làm theo ý mình. Mà
chúng ta cũng có thể lạm dụngquyền của người cha để gây khổ đau cho
con và gây khổ đau cho chính bản thân. Người thầy có thể lạm dụng
quyền lực của người thầy để áp đặt lên học trò mình nhữngmà học trò
của mình không muốn. Người cảnh sát công lộ, người cán bộ cũng có
thể lạm dụngquyền lực của mình để gây khổ đau cho người khác và để
gây khổ đau cho mình. Quyền lực nhỏ hay lớn cũng là quyền lực. Một
khi mình không biết sử dụngquyền lực đó thì mình gây khổ đau cho
mình và cho những kẻ khác.
Hiện pháp lạc trú
Hôm qua chúng ta đã nghe về phép thực tập an trú trong giây phút
hiện tại. Chúng ta đã nghe rằng có những người không có khả năng
sống trong giây phút hiện tại, họ bị quá khứ ám ảnh, họ luôn luôn
tiếc nuối quá khứ hoặc là sầu thương về quá khứ. Và quá khứ trở
thành mộtngục tù. Có những người khác lại bị tương lai trói buộc, bị
tương lai giam hãm, chỉ nghĩ đến sự thành công của mình trong tương
lai và để hết tất cảthì giờ và năng lượng của mình cho tương lai mà
không có khả năng sống trong giây phút hiện tại.
Trong giáo lý đạo Phật có phương pháp gọi là hiện pháp lạc
trú. Hiện pháp lạc trú nghĩa là chúng ta có thể sống hạnh phúc ngay
trong giây phút hiện tại. Vào đời của đức Thích Ca có một vị thương
gia tên là Anathapindika, một thương gia rất tài ba và thành công.
Thương gia này vốn tên là Sudatta. Dân chúng tặng cho ôngmỹ hiệu
Anathapindika vì ông có một tấm lòng rất nhân từ, ông ta chăm lo
cho tất cả những người cô độc neo đơn, những em bé mồ côi, những cụ
già những người bệnh tật ở trong thành phố tại vương quốc Savatthi.
Mỹ hiệu đó, tiếng Việt là Cấp Cô Độc, trưởng giả Cấp Cô Độc, trưởng
giả tức là một phú gia, Cấp Cô Độc tức là cấp dưỡng cho những người
neo đơn cô độc ở trong xã hội. Ông ta có một tình thương rất lớn.
Ông ta để khá nhiều thì giờ và tiền bạc để thương yêu và trợ giúp
cho dân chúng ở trong nước. Không phải vì vậy mà ông ta nghèo đi.
Tại vì có tình thương có sự tin tưởng của người khác cho nên ông làm
ăn rất thành công. Tuy vậy ông vẫn có thì giờ để đến nghe Phật
thuyết pháp và tu tập, ông cũng đã khuyến khích vợ và các con đến
chùa để nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp. Tất cả đều thực tập theo pháp
môn của Phật dạy. Có một thời kỳ khủng hoảng kinh tế làm ông sạt
nghiệp, đó là lẽ vô thường của sự sống, thế nào cũng có những
thời kỳ như thế. Ông sạt nghiệp nhưng ông không lo sợ, không
buồn khổ. Nhiều bạn của ông đã tới giúp ông gây lại sự nghiệp một
cách rất dể dàng và mau chóng. Ông đã đầu tư vào tình thương, vào
tình bạn, cho nên khi ông thất bại về doanh nghiệp ông không thua
lỗ, ông vẫn có thể đứng lên được trở lại.
Có một lần ông đưa khoảng mấy trăm người bạn trong giới doanh
thương đến để thăm Đức Thế Tôn. Nhân cơ hội này Phật mới giảng cho
các nhà doanh thương một bài giảng mà chúng tôi có dịch ra tiếng
Việt dướitựa đề là Kinh Người Áo Trắng. Ở Ấn Độ những người đệ tử
xuất gia thì mặcmàu khác, còn những người đệ tử tại gia thì mặc áo
trắng, cho nên Kinh Người Áo Trắng nghĩa là kinh dạy cho những người
cư sĩ sống ở trong cuộc đời. Trong kinh này Đức Thế Tôn đã dùng cụm
từ hiện pháp lạc trú tới năm lần. Hiện pháp lạc trú nghĩa là chúng
ta có thể sống an lạc hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại mà
không cần phải nghĩ tới tương lai, hay nghĩ rằng trong tương lai
chúng ta mới có hạnh phúc.
Nguyên
ngữ bằng tiếng Phạn là Drstadharmasukhavihara nghĩa là sống hạnh
phúc ngay trong giây phút hiện tại. Tại vì Đức Thế Tôn biết rằng các
nhà doanh thương hay nghĩ tới tương lai và nghĩ rằng khi mình thành
công hoàn toàn thì mình mới có hạnh phúc mà không biết rằng trong
hiện tại mình đã có dư dã những điều kiện để có hạnh phúc.
Bài tập mà tôi thường hay đưa cho các thiền sinh về vấn đề này là
yêu cầu họ viết lên một mặt trang giấy những điều kiện hạnh phúc mà
họ nghĩ rằng họ chưa có. Bên trang kia những điều kiện hạnh phúc mà
họ đang có. Và tất cả mọi người đều ngạc nhiên khám phá ra rằng
những điều kiện hạnh phúc mình đang có nó quá nhiều. Tại vì mình mãi
miết chạy về tương lai, mình không có ý thức được rằng mình có rất
nhiều điều kiện hạnh phúc trong giây phút hiện tại, giẫm lên trên
những điều kiện đó mà đi. Và mình cứ nghĩ rằng hạnh phúc bây giờ là
chưa được đâu, ta phải cố gắng nhiều nữa thì mới có hạnh phúc được,
bây giờ đến ngày phong lưu, phong lưu là trong tương lai kia, nhưng
mà trong giây phút hiện tại thì không có thể nào phong lưu được.
Hiện pháp lạc trú là một giáo lý rất là căn bản của đạo Phật. Thế
nhưng có rất nhiều Phật tử cứ nghĩ rằng chỉ khi nào mình được sinh
sang cõi Tịnh Độ thì mình mới thật sự có hạnh phúc. Còn trong khi mà
sống trong cõi đời này thì mình phải chịu dựng, chịu đựng và chịu
đựng mà thôi. Nếu chúng ta nghĩ như thế thì chúng ta đi trái với
nguyên tắc căn bản của đạo Phật. Đức Thế Tôn đã từng nói:
Đừng tìm về quá khứ,
Đừng tưởng tới tương lai,
Quá khứ thì không còn,
Tương lai thì chưa tới,
Kẻ thức giả an trú,
Vững chãi và thảnh thơi,
Trong giây phút hiện tại.
Tôi thở vào và tôi ý thức được rằng tôi có hai con mắt còn sáng, tôi
thở ra tôi mĩm cười với hai con mắt còn sáng của tôi. Hai mắt của
tôi là một điều kiện của hạnh phúc, có mộtthiên đường của màu sắc và
của vạn vật. Tôi chỉ cần mở hai con mắt tôi ra là tôi có thể tiếp
xúc được với trời xanh mây trắng, tôi chỉ cần lắng tai nghe là tôi
nghe được chim hót thông reo. Khi mình có hai mắt thì mình có thể đi
vào trong thiên đường của màu sắc của hình ảnh. Chỉ khi nào mình bị
mù rồi, không có thấy gì hết thì mình mới tiếcthiên đường ngày xưa
mà thôi. Cho nên hai mắt của mình là một trong những điều kiện của
hạnh phúc.
Trái tim của tôi, thở vào tôi biết là trái tim của tôi đang có mặt,
thở ra tôi mĩm cười với trái tim tôi. Trái tim tôi là một cơ quan
đang hoạt động bình thường không có vấn đề. Nó làm việc hai mươi bốn
giờ một ngày để nuôi dưỡng tất cả những tế bào trong cơ thể tôi, tôi
còn có thì giờ để ngủ nhưng mà trái tim của tôi nó làm việc hai mươi
bốn giờ đồng hồ không ngưng nghỉ. Khi tôi tiếp xúc với trái tim của
tôi và tôi thấy nó là một trái tim lành mạnh hoạt động bình thường
thì tôi biết rằng nó là một điều kiện của hạnh phúc của tôi. Có
những người không có một trái tim như thế và họ rất là lo lắng, họ
có thể bị đứng tim bất cứ lúc nào, bị khủng hoảng tim bất cứ lúc
nào. Ước mơ sâu sắc nhất của họ có thể là có được một trái tim bình
thường như trái tim của chúng ta. Vậy thì có chánh niệm nghĩ tới
trái tim và biết rằng mình có một trái tim bình thường khỏe mạnh thì
mình biết rằng đó là một điều kiện hạnh phúc thứ hai. Mình biết rằng
mình phải bồi dưỡng, mình phải bảo vệ điều kiện hạnh phúc đó, mình
không nên hút thuốc, không nên uống rượu, không nên thức khuya
quá. Tại vì hút thuốc uống rượu là hành động không thân hữu, không
thân thiện đối với trái tim của mình.
Lá gan của tôi cũng vậy, lá gan đang hoạt động rất tốt, nếu mà tôi
ăn quá nhiều chất mỡ, nhiều chất độc thì tôi hại lá gan của tôi. Nếu
chúng ta nhìn vào nội thân, chúng ta sẽ thấy rằng có không biết bao
nhiêu là điều kiện của hạnh phúc mà tôi đang có. Và nhìn xung quanh
chúng ta có thể thấy được chúng ta có bao nhiêu điều kiện hạnh phúc
đang có mặt. Nếu ta biết ý thức sử dụng những điều kiện đó thì ta có
thể có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Những người biết tu
tập họ sử dụng hơi thở của họ gọi là hơi thở có ý thức, họ sử dụng
bước chân của họ có ý thức để họ trở về với giây phút hiện tại. Mà
khi trở về với giây phút hiện tại thì họ tiếp xúc được với những mầu
nhiệm của sự sống trong giây phút đó. Có thể nuôi dưỡng, có thể chũa
trị được cho thân tâm của họ. Họ thấy rằng những điều kiện hạnh
phúc họ đang có và họ có thể sống hạnh phúc được trong giây phút
hiện tại.
Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta không có quyền thiết kế cho
tương lai. Chúng ta có quyền thiết kế cho tương lai nhưng mà chúng
ta phải làm công việc đó trên nền tảng hạnh phúc hiện tại. Nếu
chúng ta không có hạnh phúc, nếu chúng ta không có an lạc trong giây
phút hiện tại, sự thiết kế của chúng ta sẽ được thực hiện trên căn
bản của lo lắng của sợ hãi, thì những thiết kế đó không phải là
những thiết kế thông minh. Cho nên hạnh phúc trong giây phút hiện
tại là nền tảng cho hạnh phúc của tương lai.
Doanh nghiệp và từ bi
Đạo Phật không chống lại việc làm giàu. Thương gia Cấp Cô Độc và
các bạn của ông vẫn tiếp tục theo đuổi sự nghiệp doanh thương của
mình. Nhưng nhờ tiếp xúc với Đức Thế Tôn. Họ đã đem vào trong đời
sống của họ một chiều hướng tâm linh giúp cho họ sống được hạnh phúc
trong giây phút hiện tại, có thì giờ cho mình có thì giờ cho gia
đình, có thì giờ để chăm sóc những người thương của mình, không
làm như anh chàng Federic ở bên Đức. Claudia đã tới với một khóa tu
của chúng ta, Claudia đã khóc và đã kể lại hết câu chuyện.
Trong báo Fortune, một tờ báo của các nhà doanh thương bên Mỹ,
Fortune có nghĩa là cơ nghiệp, mỗi năm người ta lập ra danh sách một
trăm doanh nghiệp thành công nhất ở trên thế giới, cứ mỗi năm họ
làm một danh sách như thế. Và người ta có thể đầu tư vào những
doanh nghiệp đó. Khi người ta nghiên cứu về một trăm doanh nghiệp
trong bảng danh sách đó thì người ta thấy có một
điểm chung là những doanh nghiệp đó có một chiều hướng từ bi và
tình thương ở trong sự vận hành của chúng nó. Cố nhiên mục đích của
doanh thương là lợi nhuận. Nhưng khi mình điều khiển doanh nghiệp
mình với một trái tim từ bi, với một tinh thần trách nhiệm, với một
chiều hướng tâm linh thì doanh nghiệp đó còn thành công hơn những
doanh nghiệp khác, điều này mới là một điều cần phải nói đến. Doanh
nghiệp đó nghĩ tới môi trường, có ý hướng bảo vệ môi trường. Cho nên
dân chúng rất thích tiêu thụ những
sản phẩm của doanh nghiệp đó, tại vì doanh nghiệp đó biết bảo vệ môi
trường
doanh nghiệp đó biết lo lắng cho các gia đình của tất cả những thành
phần trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp có đủ thì giờ và tiền bạc để
lo lắng cho con
của những công nhân. Khi công nhân có những vấn đề bức xúc về tinh
thần thì họ có bác sĩ tâm lý trị liệu chăm sóc. Nhà lãnh đạo doanh
nghiệp nhìn doanh nghiệp của mình như là một
gia đình của mình và cư xử rất thân ái với tất cả những nhân viên
của doanh nghiệp. Nhà doanh nghiệp đó có thì giờ cho mình, có khả
năng có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, nhà doanh nghiệp đó có
thì giờ để thương yêu để chăm sóc để đùm bọc không những gia đình
của mình mà tất cả
thành viên khác của
doanh nghiệp của mình. Vì vậy đừng nói rằng khi mình có tình thương,
khi mình có ý thức về môi trường khi mình có lòng từ bi, khi mình có
tu tập thì doanh nghiệp của mình ít lợi nhuận hơn, sự thật là trái
lại. Khi mình biết điều khiển
doanh nghiệp mình với trái tim từ bi, với một ý thức về môi trường,
với khả năng tạo không khí hạnh phúc ở trong doanh nghiệp, thì
doanh nghiệp đó có thể thành công hơn những doanh nghiệp khác. Và
tất cả thành viên trong doanh nghiệp đều hành xử theo tinh thần
ăn cây nào rào cây ấy, một
ngạn ngữ Việt
Nam.
Vậy thì phương pháp nào để giúp cho những Federic chuyển hướng, để
giúp cho những Federic trong tương lai đừng đi vào vết chân của
Federic trong quá khứ. Federic cần phải thở vào và phải có ý thức
rằng mình có thể sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại,
mình không cần phải đợi tới tương lai mới có hạnh phúc. Thành công
tuy là quan trọng nhưng
thành công quan trọng nhất là có hạnh phúc cho mình và cho những
người thương của mình ngay trong giây phút hiện tại. Cho nên Federic
phải có thì giờ cho chính mình, cho vợ mình và cho con mình.
Tôi biết có một cậu bé mười hai tuổi, bố nó nói này con ngày mai
hình như là sinh nhật của con phải không. Cậu bé nói đúng như thế đó
bố. Con muốn quà sinh nhựt gì bố mua cho. Thì
chú bé này ngần ngừ không biết trả lời làm sao, bố mình là một người
giàu, rất là giàu, có thể mua cho mình bất cứ
thứ
gì, một chiếc môtô chẳng hạn. Nhưng chú bé cảm thấy mình không cần
gì hết, có một
cái
mình rất cần nhưng mà mình xin chắc không được đâu, đó là sự có mặt
của bố. Bố là một nhà doanh thương rất là giàu nhưng bố không có thì
giờ cho mẹ và cho các con, mình có bố mà giống như là không có bố.
Vì vậy sau mấy phút lưởng lự thì cậu bé đó,
vốn là một cậu bé Mỹ, mới nói rằng “I want you”,
mà con muốn là bố, sự có mặt của bố, vì bố thường không có mặt với
con. Câu nói đó nói lên một sự thật là người ta rất cần tình thương
mà tình thương trước hết là sự chú ý.
Trong đường hướng tu tập mà đức Phật nêu ra thì chúng ta phải có
mặt cho chính chúng ta. Có khi
thân của chúng ta ở đây mà
tâm của chúng ta nó rong ruổi ở nơi khác, nó bị kẹt trong quá khứ,
nó bị kẹt trong tương lai, nó bị kẹt vào trong những dự án, những
lo lắng, những sầu khổ. Và
tâm không có mặt ở đó để mà thấy được những gì đang xãy ra trong
giây phút hiện tại để quản lý, để đáp ứng lại được với những nhu yếu
của chính mình. Xin mời liệt vị thở trong nửa phút trước khi chúng
ta tiếp tục.
Bốn câu thần chú
Khi mình thương yêu ai, thì
món quà quý nhất mà mình có thể tặng cho người mình yêu thương là sự
có mặt của mình, sự có mặt tươi mát của mình. Người cha đó có thể
mua bất cứ một món quà nào cho đứa con. Nhưng đứa con không muốn
món quà nào hết, món quà nó cần thật sự là sự có mặt đích thực của
người cha. Có khi người cha ngồi đó nhưng mà người cha chỉ là
xác không hồn,
hồn của người cha bị con ma tương lai níu kéo và bắt rồi. Thành đứa
bé tới vỗ vào vai của ba nói rằng có ai ở nhà không, để gọi hồn của
ba về. Vậy thì nếu ông bố mà biết tu tập thì ông bố sẽ thở vào một
hơi có ý thức rồi thở ra với một nụ cười có ý thức và đem tâm trở về
với thân, thật sự có mặt trong giây phút hiện tại. Và bước vài bước
đến gần đứa con, để tay trên đầu nó, vai nó, nhìn vào mắt nó và nói
:
Con ơi bố đang có mặt cho con đây này. Đó là món quà quý
nhất mà một người thương có thể hiến tặng cho một người thương.
Tôi xin đề nghị ông chiều nay áp dụng bài thực tập đó, khi về nhà
ông thở vào một hơi thở rất nhẹ nhàng đem tâm trở về với thân,
buông thư và thở ra một hơi, mĩm cười và nhìn bà ông đọc
câu thần chú đó. Câu thần chú này không cần phải đọc bằng tiếng
Phạn, đọc bằng tiếng Việt thôi, em ơi anh đang có mặt thật sự cho
em đây này, đó là món quà rất lớn. Và đó là sự thực tập chánh
niệm, chánh niệm tức là có mặt trong giây phút hiện tại, bà cũng có
thể làm như thế. Bà thở vào một hơi, buông thư thở ra rồi bà mĩm
cười cho tươi thật tươi, bà đi một vài bước cho thảnh thơi rồi bà
đặt tay trên vai ông, bà nói
:
anh ơi, anh có biết là em đang có mặt cho anh đây không, đây là
món quà quý nhất của em cho anh đây này, đó là sự thực tập, đó
là tu đấy, chứ không phải tu tức là đốt hương rồi lạy liên hồi như
thế gọi là tu. Và vì vậy cho nên mình phải có mặt cho mình rồi mình
mới có thể có mặt cho người khác tức là người thương của mình
hơi thở đầu tiên và
hơi thở thứ hai là để cho mình thật sự có mặt. Và khi mà mình thật
sự có mặt rồi mình mới hiến tặng sự có mặt đó cho người khác.
Federic đã không biết làm như thế, các Federic đang có mặt trong
giây phút hiện tại nên nhớ là ngày hôm nay mình phải làm như thế và
các Federic của ngày mai cũng phải thực tập như thế. Đây là
phương pháp của Phật dạy.
Câu thần chú thứ hai cũng rất là mầu nhiệm, nếu quý vị thực tập thì
có hiệu quả liền. Tức là khi mình đã có mặt thật sự rồi thì mình
phải công nhận sự có mặt của người mình thương yêu. Tại vì được
thương yêu tức là được công nhận là đang có mặt. Có thể ông đang lái
xe, một
chiếc
xe rất là sang trọng và bà đang ngồi bên ông. Nhưng mà trong khi ông
lái xe
mà
tâm của ông hoàn toàn nghĩ chuyện khác và ông loại bà ra khỏi
vùng chú ý của ông. Ông nghĩ tới chuyện thành công, ông nghĩ tới
chuyện bè bạn ông nghĩ tới chuyện tương lai mà có một
ông không nghĩ tới là sự có mặt của bà ngay sát bên cạnh ông. Thì
nếu mà bà ngồi như thế thì bà có cảm giác là mình không được chú ý
không được thương yêu. Và nếu ông để bà trong
tình trạng đó lâu ngày thì bà sẽ héo. Và vì vậy cho nên ông phải
thực tập câu thần chú thứ hai, ông trở về với hơi thở, ông tuy đang
lái xe, ông trở về với hơi thở, ông mỉm cười ông nói
: Em
ơi, anh biết là em đang ngồi sát bên anh và anh rất là hạnh phúc,
ông nói như thế. Câu thần chú này có mục đích là công nhận sự có
mặt của người mình thương yêu. Thương yêu có nghĩa là công nhận sự
có mặt của người mình thương. Khi mình bị bỏ rơi, khi mình có cảm
tưởng là người ta không chú ý tới mình, thì mình có cảm tưởng là
mình đang không được thương yêu. Cho nên thương yêu một ai có
nghĩa là công nhận sự có mặt của người đó. Bà cũng vậy, bà cũng
có thể thực tập như thế với ông,
anh
ơi em biết là anh đang có đó bên em trong đời sống của em và em rất
lấy làm hạnh phúc. Đó là câu thần chú, quý vị có thể đọc câu
thần chú đó bằng tiếng Việt, bằng tiếng Pháp, bằng tiếng Anh, không
cần phải đọc bằng tiếng Phạn hay là tiếng Tây Tạng.
Vậy thì câu thần chú thứ nhất hiến tặng sự có mặt của mình cho
người thương, câu thần chú thứ hai công nhận sự có mặt quý giá của
người thương. Tôi có hai câu thần chú nữa muốn tặng cho các nhà
doanh thương, các bậc thiện tri thức, các vị khách quý hôm nay, tại
vì rất là dể thực tập.
Câu thần chú thứ ba là khi người thương của mình đang sầu khổ, đang
héo hắt đang có vấn đề thì mình phải tới hiến tặng sự có mặt ân
cần của mình và mình nói như thế này
:
Anh ơi em biết là anh đang có khó khăn, anh đang khổ. Vì vậy cho
nên em đang có mặt với anh đây. Hoặc là
:
Em ơi hoặc là con ơi bố biết con đang có vấn đề có khó khăn, có
bức xúc, vì vậy cho nên bố đang có mặt với con đây. Đó là món
quà rất lớn, mình chưa làm gì hết nhưng mà sự có mặt của mình và sự
ân cần của mình đã làm lắng dịu rất nhiều đau khổ của người kia rồi.
Rất là dể, câu thần chú thứ ba nó có hiệu lực rất lớn .
Tôi rất muốn trao truyền cho các vị khách quý câu thần chú thứ tư
nhưng mà tôi e ngại câu thần chú thứ tư hơi khó hơn một chút, hơi
khó thực tập hơn một chút. Là tại vì trong chúng ta nó hay có
sự tự ái. Và người nào tự ái nhiều quá thì khó thực tập câu thần chú
này, tự ái ngay đối với người mình thương yêu nhất ở trên đời. Đây
là câu thần chú mình phải sử dụng khi mà mình đau khổ, bản thân mình
đau khổ và mình tin rằng
sự đau khổ này là do người mình yêu thương nhất trên đời tạo ra. Nếu
một người nào khác đó đã nói câu đó, đã làm
điều đó thì mình đã khổ ít thôi. Nhưng mà người đã nói câu đó, đã
làm chuyện đó là người mình yêu thương nhất trên đời cho nên mình
khổ không có biết bao nhiêu mà kể. Trong trường hợp đó mình bị tổn
thương và mình muốn chứng tỏ rằng mình không cần người đó, mình có
thể sống sót mà không cần người đó. Cho nên khi người đó tới đặt tay
trên vai mình hỏi em có sao không, em có khổ không,
mặt em buồn như thế. Thì mình trả lời có gì đâu mà khổ, tại sao tôi
phải khổ, buông tay ra để tôi yên một mình. mình nói như thế đó, tức
là mình tự ái. Tại vì người kia là người mình thương yêu nhất trên
đời mình mà người kia đã nói một câu như thế, đã làm một điều như
thế thì mình quá đau khổ và mình muốn trừng phạt trở lại bằng cách
nói cho người kia biết một cách gián tiếp là tôi không cần anh, một
mình tôi cũng có thể sống sót được, anh xê ra, đó là một cách trừng
phạt. Mình nghĩ rằng thà rằng mình vào trong phòng mình đóng cửa lại
mình khóc còn hơn là mình tới phân bua với người kia. Tại vì người
kia đã nói một câu làm hết tình hết nghĩa, đã làm
cử chỉ làm hết tình hết nghĩa.câu thần chú thứ tư là nó như thế này
:
Anh ơi em đang khổ và em muốn anh giúp em hoặc là Em ơi,
anh đang khổ và anh cần em giúp anh. Nếu mình có tự ái trong
trái tim thì mình sẽ không nói được câu nói đó.
Tri giác sai lầm
Chắc quý vị nhớ chuyện thiếu phụ Nam Xương với chàng Trương chứ gì.
Thiếu phụ Nam Xương đi ra đón chồng với đứa con sinh ra trong khi
chồng ở mặt trận. Hai người ôm nhau khóc sau một thời gian xa
cách, người con trai đã sống sót trở về, hạnh phúc biết bao nhiêu mà
kể. Theo
tục lệ Việt
Nam
là phải cáo với tổ tiên là người con trai đã trở về. Cho nên thiếu
phụ Nam Xương đi ra chợ để đi mua thức ăn làm một mâm cơm cúng đặt
lên bàn thờ. Trong khi đó thì chàng Trương làm quen với em bé. Tại
vì lần đầu tiên thấy được con trai của mình và thuyết phục nó gọi
mình là bố. Nhưng mà thằng bé không chịu và nói
:
Ông ơi, ông đâu phải bố tôi. Bố tôi là người tới mỗi đêm và mẹ
tôi cứ nói chuyện với bố tôi giờ này sang giờ khác và mẹ tôi khóc
với bố tôi nhiều lắm. Và mỗi khi mẹ tôi ngồi xuống thì bố tôi cũng
ngồi xuống và mỗi khi mẹ tôi nằm xuống thì bố tôi cũng nằm xuống.
Khi chàng Trương nghe như thế thì chàng nghĩ ngay rằng có một người
thứ ba đã chen vào trong
đời sống lứa đôi của mình. và từ đó về sau chàng Trương không nói
chuyện được nữa, im lặng hoàn toàn. Đến khi thiếu phụ Nam Xương đi
chợ về bắt đầu làm cơm cúng thì hỏi câu gì chàng Trương cũng không
trả lời và chàng Trương không thèm nhìn vợ vì nghĩ rằng vợ mình
ngoại tình. Và thiếu phụ Nam Xương khổ đau vô cùng, không biết tại
sao từ khi mình đi chợ về chồng mình không thèm nhìn mình, mình hỏi
câu gì không thèm trả lời mình, rất là làm buồn khổ. Chàng Trương
cũng đau khổ nhiều lắm. Khi mâm cơm đã được đặt lên trên bàn thờ rồi
thì chàng Trương trải chiếu, đốt hương khấn vái và lạy xuống bốn
lạy, xong rồi thì cuốn chiếu không cho phép vợ lạy xuống. Tại vì
nghĩ rằng người đàn bà này không xứng đáng để trình diện trước tổ
tiên. Sau khi cuốn chiếu lại rồi, thay vì ngồi xuống và ăn một bữa
cơm đoàn tụ thì chàng Trương bỏ ra quán rượu uống cho say, uống cho
thật say để quên
nỗi khổ niềm đau của mình. và hai giờ khuya mới về. Và cứ tiếp tục
như vậy mỗi ngày và cuối cùng thì thiếu phụ Nam Xương không chịu
đựng được nữa và bà đã nhảy xuống sông tự tử.
Sau
khi nghe vợ chết rồi, chàng Trương mới về để chăm sóc đứa bé. Và bữa
tối đó khi đốt đèn lên thì đứa bé đó nói
:
ông bố tôi đây này và nó chỉ vào bức tường, thì té ra bố nó,
người bố mà nó nói đó chỉ là
ảnh của mẹ nó chiếu lên bức tường mà thôi. Thật ra một hôm thằng
bé ở trong làng về và nói như thế này
:
mẹ ơi đứa bé nào cũng có bố hết mà tại sao con không có bố.
Cắt nghĩa chiến tranh với nghĩa vụ quân sự hơi khó, cho nên thiếu
phụ Nam Xương mới chỉ vào
bóng của mình ở trên tường nói bố con đó, con chắp tay lạy bố ạ đi.
Thì đứa bé nó làm theo và nó nghĩ rằng bố nó là
bóng trên bức tường. Cố nhiên là thiếu phụ Nam Xương đã nói chuyện
với bóng, anh ơi, anh đi lâu quá, một mình em làm thế nào để đủ sức
nuôi con, và thiếu phụ Nam Xương khóc. Khi thiếu phụ Nam Xương ngồi
xuống thì
bóng ngồi xuống, khi bà nằm xuống thì
bóng nằm xuống. Bây giờ sự thật mới bung ra và chàng Trương mới biết
nỗi oan của vợ. Nhưng đã lỡ rồi, người thương đã chết rồi. Đáng lý
câu thần chú thứ tư này chàng Trương phải thực tập hoặc là thiếu phụ
Nam Xương phải thực tập. Thiếu phụ Nam Xương có thể đến với chàng
Trương mà thực tập câu thần chú thứ tư
:
Anh ơi em khổ quá đi, em không biết tại sao từ khi em đi chợ về
cho đến bây giờ anh không nhìn em, em hỏi gì anh cũng không trả lời.
Em đã làm nên
tội tình gì để cho anh đối xử với em tàn nhẫn như vậy, anh giúp em
đi, anh cắt nghĩa cho em đi.
Đó là câu thần chú thứ tư, mình phải nhờ người kia giúp mình. nó chỉ
như thế thôi, một
câu thần chú rất là ngắn. Nếu mà thiếu phụ Nam Xương nói được câu
thần chú đó thì chàng Trương sẽ cắt nghĩa, thằng bé nói trong khi
tôi vắng mặt có một người đàn ông tới mỗi đêm và bà cứ nói chuyện
giờ này sang giờ khác và khóc với nó, rồi khi mà bà ngồi xuống nó
cũng ngồi xuống, bà nằm xuống nó cũng nằm xuống, người đó là ai.
Nếu chàng Trương nói được như thế thì người vợ sẽ có cơ hội để
giải thích vàbi kịch đã không xảy
ra.
Nếu thiếu phụ Nam Xương đã không thực tập câu thần chú thứ tư mà
chàng Trương biết mà thực tập câu thần chú thứ tư
:
Này u nó, thằng bé nó nói là trong khi tôi đi vắng mỗi đêm đều có
người tới và u nó cứ khóc cứ nói chuyện với người đó hàng giờ đồng
hồ và mỗi khi u nó ngồi xuống thì người đó cũng ngồi xuống .v.v. tôi
đau khổ lắm, u nó giúp tôi đi, cắt nghĩa cho tôi người đó là ai.
Thì cố nhiên là người vợ đã có cơ hội giải thích và
nỗi khổ niềm đau đó được căn cứ trên một tri giác sai lầm, sẽ bị
tan biến liền lập tức và hai người tìm lại hạnh phúc rất mau.
Trong đạo Phật có
danh từ vọng tưởng, vọng tưởng có nghĩa là tri giác sai lầm. Mà hầu
hết những
khổ của chúng ta đều phát sinh từ vọng tưởng, những
buồn, những
giận, những
ghét, những
lo, những
ganh của chúng ta trong đời sống hàng ngày đều do vọng tưởng hết.
Trong cuộc sống lứa đôi muốn tránh được những vọng tưởng, chúng ta
phải nhờ người kia giúp ta. Chúng ta phải luôn luôn hỏi trở lại,
chúng ta phải luôn luôn thực tập câu thần chú thứ tư. Sở dĩ người ta
không thực tập, chàng Trương không thực tập, thiếu phụ Nam Xương
không thực tập là vì tất cả có tự ái rất lớn ở trong lòng. Cho
nên tôi không muốn các bạn theo vết xe của thiếu phụ Nam Xương,
của chàng Trương. Tôi muốn các bạn khi khổ đau, nghĩ rằng
khổ đau đó là do người mình thương yêu nhất trên đời làm ra thì mình
phải tới cầu cứu với người đó. Em ơi anh đang khổ, anh cần em
giúp anh, em giải thích cho anh nghe tại sao em đã nói một câu như
thế, em đã làm một việc như thế, đó là câu thần chú thứ tư.
Tất cả những điều thực tập đó đều không khó khăn gì. Nếu chúng ta
thực tập bốn câu thần chú đó thì có thể có hạnh phúc liền trong giây
phút hiện tại. Tôi xin các Federic đang còn may mắn còn sống trong
hiện tại và các Federic trong tương lai đừng có quên sự thực tập
này, đạo Phật rất cao siêu mầu nhiệm nhưng thực tập cũng không khó
khăn gì. Tôi xin chấm dứt ở đây để thì giờ cho những câu hỏi. Xin
cảm ơn liệt vị.
Câu hỏi và trả lời
Có một câu hỏi rất dể trả lời tôi xin trả lời trước là làm thế nào
để có những
bài giảng những CD, những phương pháp, những
tài liệu để mình có thể nương theo tu tập nếu mình chưa có thầy nếu
mình chưa có bạn. Đối với các bạn người Việt thì tôi xin giới thiệu
trang nhà của làng Mai
www.langmai.org. và các bạn Tây
Phương
www.plumvillage.org có không
biết là bao nhiêu là tư liệu ở trên đó, có biết bao nhiêu bài pháp
thoại, bài thiền ca và quý vị có thể tải xuống để làm quà cho các
bạn thân. Ngoài ra những người trẻ có thể đối thoại với các thầy các
sư cô trẻ qua
mạng làng Mai.
Hỏi :
Phương pháp trao truyền mới của thiền sư ở làng Mai có liên quan gì
đến triết học của Hempel, triết học hiển sinh, Lão Tử Kinh Dịch hay
đó chỉ là phương pháp riêng của các thiền sinh làng Mai?
Đáp :
Phương pháp tu học của làng Mai rất thuần túy Phật giáo, phần nghi
lễ không bề bộn, ngắn gọn nhưng phần thực tập thì rất là quan
trọng. Phương pháp của làng Mai căn cứ trên những thiền kinh căn bản
của Phật giáo nguyên thủy như là kinh An ban thủ ý, tức là kinh Thực
tập hơi thở có ý thức, kinh Niệm xứ tức là kinh mà các thầy các sư
cô đều thuộc lòng. Đó là cuốn sách đầu giường để thực tập thiền.
Thiền tức là đi vào nội tâm, đi vào quán sát, không phải là sự thờ
cúng. Kinh dạy về an trú trong hiện tại là kinh Người biết sống một
mình. Làng Mai chúng tôi sử dụng tất cả những kinh căn bản thiền tập
của Phật giáo nguyên thủy và chúng tôi cũng sử dụng những kinh Đại
thừa. Cho nên Phật giáo của làng Mai là Phật giáo có tính cách thống
nhất, nhất quán, không phân phái và rất gần với Phật giáo, đúng theo
Phật giáo thời đức Phật. Cố nhiên là nếu chúng ta đem so sánh thì có
thể có những điểm tương đồng với các nguồn tuệ giác khác. Nhưng mà
việc đó là việc làm của những nhà trí thức nghiên cứu, còn chúng tôi
là những hành giả nhiều hơn là những học giả.
Sự học
của chúng tôi chỉ có mục đích là giúp cho
sự
hành nó thành công. Đạo Phật của làng Mai là
đạo Phật nhập thế, tức là nhắm giải quyết những vấn đề có thật
trong đời sống hàng ngày, của bản thân, của gia đình và của xã hội,
nó không hướng tới một tương lai niết bàn hay cực lạc nào xa vời.
Niết bàn đối với chúng tôi là nền tảng của thực tại, nó có mặt ngay
trong giây phút hiện tại, nếu chúng ta có khả năng quán chiếu sâu
sắc chúng ta có thể tiếp xúc với niết bàn ngay trong giây phút hiện
tại. Niết bàn không phải là một thực tại có thể chỉ định được trong
không gian và thời gian, niết bàn chính là
tự thân của thực tại. Chúng ta có những quan niệm, những ý tưởng
về thực tại. Và niết bàn tức là sự vắng mặt của những quan niệm, của
những ý tưởng đó. Niết bàn chỉ có thể tiếp xúc được một cách trực
tiếp bằng sự quán chiếu. Cho nên niết bàn không phải là đối tượng
của triết học, niết bàn là đối tượng của thực chứng, niết bàn là
thực tại không sinh không diệt, không tới không đi, không có không
không, không còn không mất. Cũng như là một đám mây, chúng ta thấy
bề ngoài thì đám mây có sinh có diệt, nhưng mà kỳ thực tự tánh của
đám mây là không sinh không diệt. Sinh có nghĩa là từ không mà trở
thành có mà diệt tức là từ có mà trở thành không, đó là
quan niệm của có, đó là ý niệm của chúng ta về sinh và về diệt.
Nhưng trên thực tế không có gì từ không trở thành có, mà không có gì
từ có có thể mà trở thành không được. Nhà khoa học Lavoisier của
Pháp có nói một câu giống hệt như là trong kinh Phật, ông ta nói
rằng là
:
không
có gì sinh cũng không có gì diệt. Đám mây có phải từ không trở
thành có không ? Không, đám mây tức là
hậu thân của nước ao nước hồ nước sông nước biển, sức nóng của mặt
trời. Đám mây không phải là từ không mà trở thành có. Vì vậy tự
tính của đám mây là không sinh, đó là sự tiếp nối thôi. Đám mây có
thể chết được không? Không, đám mây không thể nào chết được, đám mây
không có thể nào từ có mà trở thành không được. Đám mây có thể trở
thành mưa có thể trở thành tuyết, có thể trở thành nước đá, nhưng mà
đám mây không có thể nào từ có mà trở thành không được, cho nên tự
tính của đám mây là bất diệt, vô sinh bất diệt. Đứng về phía bề mặt
thì ta thấy có sinh có diệt của đám mây, nhưng mà nếu mà quán chiếu
cho thật sâu sắc thì tự tính của đám mây là không, vô sinh bất diệt.
Và người thương của chúng ta cũng vậy, bố mẹ ta cũng vậy, tự tính
cũng vô sinh bất diệt. Mình tưởng rằng các vị đã diệt không còn nữa,
nhưng kỳ thực đó là một
vọng tưởng, một
tri giác sai lầm. Tổ tiên của ta, người thương của ta bản chất cũng
là vô sinh bất diệt. Và ta có thể tiếp xúc được với người thương của
ta dưới những
biểu hiện khác. Cũng như đám mây mà chúng ta yêu mến bây giờ không
còn trên trời nữa nhưng mà nó đã trở thành mưa. Và nếu ta có thiền
quán, ta có thể nhận diện được sự có mặt của đám mây trong cơn mưa.
Và khi mà chúng ta nâng
cốc lên để uống, chúng ta có thể thấy rằng chúng ta đang uống một
đám mây. Chúng ta thực sự đang uống những đám mây mà chúng ta không
có biết. Cho nên đừng nói người thương của chúng ta xa cách, cõi
dương và cõi âm không tách biệt đâu. Người ta thương đang có đó, có
thể rất là cụ thể nhưng mà dưới một
biểu hiện khác mà ta không có nhận ra được. Ví dụ như khi mà quý vị
gieo một hạt bắp, hạt ngô xuống đất ướt thì mười ngày sau hoặc là
hai mươi ngày sau chúng ta thấy một cây ngô con. Khi cây ngô con
xuất hiện thì chúng ta không thấy hạt ngô nữa và chúng ta nói hạt
ngô đã chết, hạt ngô không còn, kỳ thực không đúng hạt ngô vẫn còn
trong
hình thái mới của nó. Hạt ngô thay hình đổi dạng và nhìn cây ngô
mới, cây ngô con với con mắt thiền quán ta vẫn thấy được
hạt ngô ngày nào. Cho nên người thương của ta cũng thế, đừng có nói
người đó không còn nữa. Người đó vẫn đang còn nhưng mà đã thay hình
đổi dạng và ta phải có con mắt tuệ ta mới nhận diện được sự tiếp nối
của người đó mà thôi. Bản chất của chúng ta là vô sinh bất diệt,
bản chất đó gọi là niết bàn. Và niết bàn không phải là một
thực tại tách rời ra khỏi thế giới của hiện tượng, nó là bản thể của
thế giới hiện tượng. Phật giáo làng Mai là sự thực tập nhiều hơn là
sự thờ cúng. Và chúng tôi đã có các thân hữu thành lập ra rất nhiều
đoàn thể trên thế giới, trên bốn mươi nước có khoảng trên một ngàn
đoàn thể như vậy đang tu như vậy theo pháp môn làng Mai. Và Hà Nội
cũng có một đoàn thể như thế của các bạn nước ngoài gọi là Hà Nội
Community of Mindful Living. Quý vị có thể hỏi được và tham dự,
trong số đó cũng có những người Việt tham dự và tu tập mỗi tuần. Nếu
có thể được xin quý vị đặt những câu hỏi trực tiếp thì vui hơn là
tôi đọc từ tờ giấy ra.
Hỏi :
Kính thưa quý thầy, bản tính của đạo Phật là từ bi vậy nên nhiều
người bảo đạo Phật là tiêu cực. Con biết rằng đạo Phật không tiêu
cực nhưng chưa đủ hiểu biết để tranh luận về vấn đề này. Xin quý
thầy nêu quý thầy nêu rõ thêm về sự đóng góp của đạo Phật trước
những thảm họa mà loài người đang gánh chịu, đó là sự gia tăng bạo
lực khủng bố ở một số quốc gia trên thế giới.
Đáp :
Tôi rất thích những câu hỏi như thế này. Tại vì nó có tính cách thực
dụng, nó thuộc về thực tập. Từ bi là tình thương và từ có nghĩa là
khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người khác, tiếng Phạn là maitri,
tiếng Anh thường dịch là loving happiness, có nghĩa là hiến
tặng niềm vui, hạnh phúc cho người khác và đây là một hành động rất
là tích cực. Khi mình thương ai thì mỗi ngày mình phải tìm cách hiến
tặng
hạnh phúc cho người đó bằng nụ cười bằng
nhìn bằng sự chăm sóc, bằng những lời nói của mình. Và từ ở trong
đạo Phật nó là một trong bốn vô lượng tâm. Vô lượng tâm tức là trái
tim không có biên giới. Tình thương ở trong đạo Phật được phân tích
thành bốn thành phần, một là từ, hai là bi, ba là hỷ, bốn là xả. Và
từ là yếu tố đầu tiên là maitri, maitri có nghĩa là
khả năng hiến tặng hạnh phúc. Và khi mình có hạnh phúc thì mình mới
có khả năng hiến tặng hạnh phúc được, đó là
nguyên tắc. Cho nên tu nghĩa là mình phải có hạnh phúc trong tự
thân. Mà hạnh phúc này không hẳn là phải có tiền hay có uy quyền,
hạnh phúc này là do
khả năng sống, hạnh phúc trong
giây phút hiện tại. Có nhiều khi mình có ý muốn làm cho người kia
hạnh phúc nhưng tại vì mình không hiểu người kia cho nên càng làm
thì người kia càng đau khổ. Một người bố muốn cho con có hạnh phúc
và áp đặt lên trên con những
điều mà đứa con nó đau khổ. Vậy thì
đó tức là thương mà không có hiểu, không có hiểu thì không có thể
nào thương được. Và vì vậy cho nên từ nó đòi hỏi trí tuệ,
phải có thì giờ để tìm hiểu về
người kia, biết người kia có những
khổ đau nào có những
bức xúc nào, có những
khó khăn nào. Thì lúc đó mình mới có thể hiến tặng hạnh phúc cho
người kia được. Nếu chồng mà không hiểu vợ thì không có thể nào làm
cho vợ hạnh phúc trái lại có thể làm cho vợ khổ đau. Nếu vợ mà không
hiểu chồng thì dù có làm gì đi nữa, chồng cũng không có hạnh phúc,
chồng có thể khổ đau hơn. Nếu cha mà không hiểu con sẽ làm cho con
khổ, mẹ mà không hiểu con cũng làm cho con khổ. Cho nên trong đạo
Phật
hiểu là
nền tảng của
thương.
Thứ hai là bi, bi tiếng Phạn là carona,
carona là khả năng lấy ra khỏi người kia
khổ đau của người ấy hoặc là chuyển hóa
khổ đó đi thành niềm vui. Nếu mình có thì giờ, mình sẽ thấy được
nỗi khổ niềm đau của người mình thương và mình phải quán chiếu để
thấy được những
gốc rễ của những
nỗi khổ niềm đau đó. Mà thấy được những
gốc rễ của những
nỗi khổ niềm đau đó thì mình mới có thể lấy ra được. Mà đôi khi nhìn
cho kỹ thì mình thấy rằng những
gốc rễ của
khổ đau đó có thể tới từ mình, cho nên phải hiểu
người kia. Trong đạo Phật khổ tức là sự thật thứ nhất, mà sự thật
thứ nhất là đối tượng của sự quán chiếu, mình nhìn vào đau khổ và
mình phải thấy đượccội nguồn
gốc rễ của khổ. Và khi thấy được thì mình thấy được sự thật thứ hai
tức là tập đế, mà chỉ khi nào thấy đượcsự thật thứ hai là gốc rễ của
khổ đau thì mình mới biết cách cắt đứt những
cội nguồn đó. Cho nên khi mình thương ai mình phải nhìn
nỗi khổ niềm đau của người đó và mình tìm hiểu tại sao người đó có
những
nỗi khổ niềm đau này, mình tìm cho tới cội nguồn. Thì bi
nghĩa là hiểu được những
nỗi khổ niềm đau của người thương và có khả năng đào gốc những
nỗi khổ niềm đau đó. Phải tu nhiều mới làm được chứ không phải là
tội nghiệp mà gọi là bi đâu, thương hại mà gọi là bi
đâu, không phải đâu.
Thứ ba là hỷ, hỷ có nghĩa là hiến tặng niềm vui,
thương người ta mà cứ làm cho người ta khóc mỗi ngày thì đâu có phải
là tình thương đích thực, thương yêu nghĩa là phải hiến tặng hạnh
phúc cho chính mình và cho người thương của mình. Nếu tình yêu mà
không có yếu tố hỷ thì nó không phải là tình yêu chân thật.
Và yêu là một
nghệ thuật,
nghệ thuật đó nó hiến tặng niềm vui cho mình và cho người yêu của
mình. Mỗi ngày phải thực tập mới được, muốn nó chưa đủ.
Và
yếu tố thứ tư của tình yêu trong đạo Phật là xả, xả
có nghĩa là không có loại trừ. Mình phải xem
nỗi khổ niềm đau của người đó cũng là
nỗi khổ niềm đau của mình và hạnh phúc mình đi tìm không phải là
hạnh phúc riêng tư . Trong tình yêu chân thật thì hạnh phúc là hạnh
phúc chung mà khổ đau là khổ đau chung. Mình đi tìm hạnh phúc riêng
cho mình
đó không phải là tình yêu. Tại vì cha mà khổ đau thì con khó mà có
hạnh phúc, con mà khổ đau thì cha khó có hạnh phúc. Vì vậy cho nên
cha lo cho hạnh phúc của con và con lo cho hạnh phúc của cha,
đó gọi là xả, hai người là một không có kỳ thị, không có phân
biệt nữa, không có loại trừ ai ra khỏi
tình yêu của mình
đó gọi là xả ôm lấy tất cả. Và khi hai người yêu nhau thì hai
người đó có một cơ hội để làm cho tình yêu của mình lớn cho đến khi
tình yêu đó nó bao trùm tất cả mọi loài mọi người gọi là tình yêu
đại từ đại bi đại hỷ đại xả. Đức Thế Tôn có đưa ra một
ví dụ rất là đẹp, ngài nói khi mà mình có trái tim không biên giới
thì khổ đau không có lung lạc được mình nữa, khi mình biết thương
yêu rồi thì mình không khổ đau nữa, rất là lạ. Ngài nói rằng nếu
chúng ta có một nắm muối mà chúng ta thả vào trong một
bát và khuấy lên thì nó mặn quá uống không có được nhưng nếu chúng
ta ném
nắm muối đó vào dòng sông thì không có đủ làm cho dòng sông mặn, dù
chúng ta có một thúng muối mà đổ vào dòng sông cũng không có đủ sức
làm cho dòng sông mặn. Tại vì dòng sông nó mênh mông, thì trái tim
của mình nếu mà nó nhỏ bé thì chúng ta sẽ bực tức giận hờn rất là dể
dàng. Nhưng mà nếu trái tim của ta lớn thì những
cái
như vậy không có đủ sức để làm cho chúng ta đau khổ. Cho nên chiến
thuật là làm cho trái tim của mình càng ngày càng lớn. Khi trái tim
của mình càng ngày càng lớn, đã lớn không có biên giới rồi thì không
có gì có thể làm cho mình khổ đau được nữa,
đó gọi là tứ vô lượng tâm, vô lượng tức là
không có đo được nữa, nó là không có biên giới. Thì
tình yêu này,
từ bi này
rất
là tích cực, nó không phải tiêu cực đâu, nó lớn lắm. Và nhà lãnh đạo
doanh thương, nhà lãnh đạo chính trị, các nhà lãnh đạo trên thế giới
mà nếu biết thực tập từ bi hỷ và xả thì sẽ có rất nhiều hạnh
phúc và sẽ làm hạnh phúc cho rất nhiều người. Sở dĩ có chiến tranh
là do chúng ta không chế tác được từ bi, chúng ta không chế tác
được hỷ và xả. Và chúng ta cứ để cho bạo động hận thù lớn lên. Bạo
động hận thù là những chất độc trong người, nó làm cho mình khổ và
nó làm cho người khác khổ. Bạo lực hận thù chỉ có một phương thuốc
chữa được thôi, là từ bi. Cho nên chế tác từ bi là phương cách duy
nhất để mà xóa bỏ hận thù, hận thù trong bản thân, hận thù trong lứa
đôi, hận thù trong gia đình, hận thù trong cộng đồng, trong quốc gia
và trên thế giới. Tôi mong rằng trong tương lai chúng ta có môn học
thực tập ngay trong các trường học từ cấp tiểu học cho đến cấp đại
học dạy về phương pháp thương yêu. Phương pháp thương yêu có thể
viết thành sách nhưng mà phải đem ra thực tập thì mới thành công được
làm thế nào để thương yêu được bản thân, làm thế nào để làm lắng dịu
những
căng thẳng những
đau nhức trong thân, làm thế nào để đối trị và chuyển hóa những
khổ đau nghi ngờ giận hờn trong tâm. Tất cả những
cái
đó đều phải thực tập hết.
Tiếc
thay,
chúng ta không có những môn học, những môn thực tập như thế ở trong
trường học. Tôi nghĩ rằng sau này trong một xã hội lý tưởng thì các
thầy giáo các cô giáo, những người làm cha, những người làm mẹ đều
biết
nghệ thật thương yêu, đều biết
nghệ thuật chế tác từ bi hỷ và xả. Bất cứ người nào thuộc về
một
truyền thống tôn giáo tâm linh nào cũng cần học
phương pháp chế tác tình thương. Và đây là những môn học và những
môn thực tập rất là cụ thể, nó đem lại sự lắng dịu, nó đem lại
sự an ổn, hạnh phúc cho mình sau vài giờ thực tập. Và nếu mình tiếp
tục thì
hạnh phúc đó càng ngày càng lớn, nó rất là khoa học và nó có thể nằm
ở trong chương trình mà bộ quốc gia giáo dục ban hành ra cho cả
nước. Năm ngoái, trong khi thuyết trình ở tại UNESCO
(Organisation des Nation Unies pour l'Education, la Science et la
Culture = Cơ quan Liên Hiệp Quốc về Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa)
nhân dịp lễ Phật đản, tôi có nói rằng UNESCO
nên thành lập một
viện học về hòa bình, trong đó mời thành niên các nước tới và mình
dạy cho họ
cách làm hòa bình từ bản thân đi ra ngoài. Chúng ta đã có những
trường đại học dạy về hòa bình, nhưng mà những
trường đại học hòa bình đó chỉ nghiên cứu đứng về phương diện trí
năng mà thôi, nó không phải là thực tập. Còn viện thực tập hòa bình
này là một
nơi mà chúng ta có thể hạ thủ công phu để học hỏi, để áp
dụng những phương pháp đem lại an lạc cho thân cho tâm
rồi đem lại hòa giải giữa mình với những người trong gia đình,
những người trong cộng đồng và quốc gia. Chúng tôi có hứa với UNESCO
là nếu UNESCO
thiết lập
Peace Academy, thì chúng tôi ở làng Mai chúng tôi sẽ cung cấp những
giáo sư đầu tiên. Chúng tôi có những vị giáo thọ chuyên môn về dạy
những
môn học
đó. Tại vì chúng tôi đã đi tổ chức rất là nhiều khóa thực tập như
thế ở trên thế giới, nhất là Âu châu và Mỹ châu. Chúng tôi cũng đã
mở những
khóa thực tập cho các nhà tâm lý trị liệu, chúng tôi đã mở những
khóa tu tập như thế cho các dân biểu quốc hội Hoa Kỳ. Chúng tôi cũng
đã tổ chức những khóa như thế cho giới cảnh sát công an, cho giới
doanh thương. Và chúng tôi đã học được rất nhiều kinh nghiệm qua
những
khóa tu nhứ thế. Tại vì người nào cũng có thể học được những
phương pháp của đức Phật dạy mà không có cần phải quy y, phải là
Phật tử mới được, mình là người Kitô giáo, mình vẫn là người Kitô
giáo, mình là người Do thái giáo mình vẫn là người Do thái giáo,
mình là người
Cộng
sản mình vẫn là người
Cộng
sản. Mình có thể học tập được từ Phật giáo rất là nhiều, đạo Phật
Việt Nam là một
di sản rất là quý báu của dân tộc Việt Nam, chúng ta chưa biết sử
dụng
di sản đó của chúng ta, chúng ta có thể khai thác rất nhiều, sử dụng
rất nhiều và cống hiến hòa bình an lạc cho đất nước cho dân tộc và
cống hiến hòa bình an lạc cho cả thế giới.
Lời kết thúc của ban tổ chức
Hiện nay thì còn rất nhiều câu hỏi nhưng mà thì giờ đã hết. Chúng ta
đã có hai ngày làm việc thành công với chất lượng rất cao, hội
trường lúc nào cũng đông đúc như một ngày hội. Câu lạc bộ của chúng
ta có
vinh hạnh được thiền sư Thích Nhất Hạnh và đoàn Phật tử làng Mai đến
thăm lần thứ hai và dành trọn hai ngày trong chương trình dày đặc
của đoàn ở Hà Nội. Chúng ta được nghe thiền sư Thích Nhất Hạnh nói
chuyện trong hai buổi sáng mồng hai và chiều mồng ba, đó là hai buổi
nói chuyện hết sức hấp dẫn đầy tính chất uyên bác, đề cập một cách
sâu sắc đến nhiều vấn đề về tôn giáo triết học văn học, tâm lý học
đồng thời cũng giải quyết nhiều vấn đề thiết thực về hạnh phúc của
con người trong cuộc sống. Chúng ta cũng được nghe bài báo cáo của
đoàn Phật tử làng Mai giúp chúng ta hiểu sức thu hút kỳ lạ của đạo
tràng đối với nhiều tôn giáo khác nhau, đối với nhiều tầng lớp khác
nhau trong xã hội Tây Phương và Đông Phương. Một lần nữa thay mặt
toàn thể câu lạc bộ chúng tôi xin chân thành cảm ơn thiền sư Thích
Nhất Hạnh và đoàn Phật tử quốc tế làng Mai. Xin kính chúc thiền sư
và đoàn Phật tử quốc tế làng Mai đầy sức khỏe và một hạnh phúc viên
mãn. Phút chia tay chúng tôi xin phép được bắt chước hai câu Kiều
:
Tiển đưa nhớ buổi hôm nay
Gặp nhau xin hẹn ngày rày năm sau
Cuối cùng thay mặt ban tổ chức chúng tôi xin chân thành cảm ơn tất
cả các vị đã dành thì giờ tham dự hai ngày giao lưu văn hóa tốt đẹp
của chúng ta. Xin cảm ơn nhà doanh nghiệp Vũ Hậu Sam, công ty trách
nhiệm hữu hạn Gia Lộc đã góp phần tài trợ cho cuộc giao lưu văn hóa,
xin cảm ơn nhà hàng ăn chay Thành Tâm đã phục vụ hết lòng đoàn Phật
tử làng Mai trong hai ngày vừa qua. Xin cảm ơn các vị trong ban tổ
chức, ban lể tân của phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam đã
giúp đỡ câu lạc bộ nhiều trong công tác tổ chức. Xin cảm ơn tất cả.
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính
là con đường / There is no way to happiness - happiness is the
way (Thích Nhất Hạnh) |
|