PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

...  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (...  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tớichết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (...  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

 Nghệ thuật sống thiền :

Đường hạnh phúc

  • Tháng 01.2008 - Chân Giác Lưu & Chân An Tịnh biên tập :
    Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 14.04.2007 
    tại chùa Long Sơn - Nha Trang
    Âm thanh MP3:
    Phần 1 (13.7MB) | Phần 2 (12.3MB) 

Chư Tôn, Phật tử Nha Trang đón chào Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng thân làng Mai

Lời khấn nguyện

Kính thưa chư vị tôn đức, kính thưa các thầy, các sư cô, các đạo hữu,

Kỳ này về nước, ngoài những khóa tu, ngoài những buổi pháp thoại, những khóa tu cho giới xuất gia và tại gia, chúng tôi được phép của Thủ tướng chính phủ cộng tác với giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức ba Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan để cầu nguyện cho tất cả các đồng bào chúng ta đã thiệt mạng trong suốt cuộc chiến tranh dai dẳng.

 

Chúng tôi cùng với các vị tôn đức trong giáo hội và các phật tử cư sĩ đã làm việc tay trong tay, trong tình huynh đệ, để tổ chức những trai đàn chẩn tế đó. Chúng tôi đã hoàn tất được Đại Trai đàn Chẩn tế ở chùa Vĩnh Nghiêm thành phố Hồ Chí Minh và Đại Trai đàn Chẩn tế tại Quốc tự Diệu Đế Huế. Và chỉ trong mươi hôm nữa chúng ta sẽ khai mạc Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan tại miền Bắc, huyện Sóc Sơn thành phố Hà Nội.

 

Đã có từ sáu đến bảy triệu đồng bào tử nạn trong cuộc chiến, trong đó có các chiến sĩ của hai miền, các chiến sĩ đã tranh đấu cho độc lập cho tự do, đã bỏ thân mạng một cách không thương tiếc cho tương lai của đất nước, của dân tộc. Họ đã chết một cách rất hào hùng. Nhưng cũng có nhiều người đã chết trong tối tăm, trong oan khổ, trên rừng sâu, ngoài biển cả, trong các trại giam. Những đồng bào của chúng ta chết đi mang theo nhiều oan khổ, nhiều đau xót mà chưa bao giờ được nói lên, được công nhận. Chúng ta là những người còn sống, trong đó cũng có những người đang còn tiếp tục gánh chịu những oan khổ chưa nói lên được. Đại Trai đàn Bình đẳng Giải oan là một cơ hội để cho chúng ta, những người sống, tới gần nhau, công nhận những khổ đau, oan ức đã xảy ra cho quê hương cho đất nước trong suốt mấy mươi năm. Chúng ta cùng có cơ hội để cầu nguyện, để thực tập, để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau của những người thương của chúng ta đã chết và của những đồng bào còn sống nhưng mà những nỗi khổ niềm đau vẫn chưa chuyển hóa được. Điều mầu nhiệm mà chúng tôi nhận thấy trong hai đại trai đàn chẩn tế ở Sài Gòn và ở Huế là tất cả các vị tôn túc, tất cả các vị xuất gia và cư sĩ tại gia đã làm việc hết lòng để cầu nguyện cho tất cả đồng bào nạn nhân của cuộc chiến mà không kể đến thì giờ, tâm lực, tài lực, không có tính toán, làm việc với một tinh thần rất là thánh thiện, không sợ hãi, lo lắng, tranh đua.

 

Kính thưa các thầy các sư cô và các vị phật tử cư sĩ, đây là lời khấn nguyện đã được đọc trong  Đại Trai đàn Chẩn tế Giải oan Bình đẳng tại chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Diệu Đế. Đây là những lời của người còn sống khấn với những người đã chết.

 

Kính thưa liệt vị hương linh,

Quý vị là cha chúng tôi, quý vị là chồng chúng tôi, quý vị là anh trai chúng tôi, là em trai chúng tôi, là con trai chúng tôi. Quý vị cũng là mẹ chúng tôi, là vợ chúng tôi, là chị gái chúng tôi, là em gái chúng tôi, là con gái chúng tôi. Trong cơn binh lửa, trong cảnh bạo loạn, quý vị đã bỏ lại hình hài của quý vị mà đi. Chúng tôi đã đánh mất quý vị. Quý vị hoặc đã chiến đấu dũng cảm cho đất nước và đã chết một cách hào hùng không hề thương tiếc thân mạng, chúng tôi rất hãnh diện về quý vị. Nhưng quý vị cũng có thể bỏ mình trong những hoàn cảnh cực kỳ bi thương, nỗi oan khổ không thể nào nói lên được, trên rừng sâu, trong biển cả, nơi chốn tù đày, chết vì bị bom đạn, hoặc vì kiệt sức hoặc vì bị bức bách, bị hãm hiếp rồi bị sát hại mà không có phương tiện chống cự lại.

 

Có biết bao nhiêu quý vị đã ngã quỵ mà nắm xương tàn không biết đang được chôn vùi ở đâu. Những tai ương mà đất nước và dân tộc ta phải chịu đựng trong bao nhiêu năm tranh đấu cho độc lập và cho tự do, chính quý vị là những người phải gánh chịu nhiều nhất. Chúng tôi những người thân thuộc và đồng bào của quý vị hôm nay tới đây thắp hương tưởng niệm quý vị hoặc thiết lập bàn thờ cho quý vị trước hiên nhà. Trong chúng tôi vẫn còn có những người tiếp tục gánh chịu oan khổ.

 

Nhưng may thay cơn ác mộng đã qua, đất nước đã được hòa bình, dân tộc đang có cơ hội xây dựng và kiến thiết trở lại. Nhờ phước đức tổ tiên chúng tôi hôm nay mới có cơ hội đến với nhau một cách chính thức, chắp tay nguyện cầu Tam Bảo, nhờ pháp lực gia trì thỉnh cầu tất cả liệt vị trở về đoàn tụ cùng nhau cầu nguyện để giải trừ nghiệp cũ, mở ra một vận hội mới, nhìn nhận nhau, ôm lấy nhau, thương lấy nhau như đồng bào ruột thịt, không còn phân biệt Nam Bắc, gái trai già trẻ, chủng tộc, tôn giáo đảng phái và ý thức hệ. Tất cả chúng ta đều là đồng bào của nhau, gặp vận nước rủi ro, trên đường tranh đấu cho độc lập cho tự do bị dồn vào thế đối lập nhau, vì tự vệ mà phải chống đối nhau. Nhưng phước đức tổ tiên để lại vẫn còn. Cho nên hôm nay tất cả chúng ta mới được về lại với nhau để nhìn nhận nhau như con một nhà để cùng hứa với nhau là sẽ học cho thật thuộc bài học của đau thương trong quá khứ.

 

Nguyện từ nay về sau không để cho đất nước bị chia cắt một lần nào nữa. Nguyện từ nay về sau khi có khó khăn nội bộ sẽ không nhờ đến bất cứ một thế lực ngoại bang nào can thiệp nữa. Nguyện từ nay về sau không khởi xướng một cuộc chiến tranh ý thức hệ nào nữa. Nguyện từ nay về sau sẽ không sử dụng vũ khí bên ngoài để tranh đấu với nhau nữa. Nguyện từ nay về sau nỗ lực xây dựng một xã hội thật sự dân chủ để có thể giải quyết tất cả mọi bất đồng bằng những phương thức hòa bình dân chủ mà không sử dụng đến những phương tiện tranh đấu bạo động giữa người đồng bào với nhau.

 

Lạy chư vị tổ tiên huyết thống và chư vị tổ tiên tâm linh chứng minh cho chúng con. Trước mắt quý ngài chúng con xin kính cẩn phát nguyện như thế. Và chúng con biết rằng một phen đã phát nguyện được như thế thì mọi oan ức sẽ được hoàn toàn giải tỏa và những vết thương hằn sâu trong lòng tất cả mọi chúng con sẽ bắt đầu được chữa lành. Hôm nay Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan được thành lập, mọi nhà đều có thiết lập bàn thờ cầu nguyện. Chúng con ngưỡng nguyện ơn trên Tam Bảo độ thoát cho tất cả mọi hương linh để tất cả được nương vào pháp lực vô song của tam bảo mà chuyển hóa siêu thăng.

 

Kính thưa liệt vị hương linh, chúng tôi và các con cháu nguyện sẽ lên đường tiếp tục chí hướng của liệt vị hương linh, chúng tôi nguyện mang quý vị trong trái tim để đi về hướng tình huynh đệ và nghĩa đồng bào và luôn luôn nhớ rằng bầu và bí đều có thể leo chung một giàn và gà cùng một mẹ không nên bao giờ bôi mặt để đá nhau. Và tuệ giác đó của tổ tiên sẽ soi đường chỉ lối cho con cháu chúng ta bây giờ và mãi mãi.

 

Thanh tịnh ba nghiệp :

Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp

Trong suốt những ngày trai đàn chẩn tế thì có rất nhiều đồng bào đã thiết lập bàn linh ở trước hiên nhà, mỗi ngày đều thắp hương nhiều lần và cúng cháo, cúng nước lạnh, cúng gạo muối và các thứ khác. Mỗi ngày họ đều ăn chay, thực tập phóng sanh và làm những việc lành hồi hướng cho đồng bào của mình đã chết trong cuộc chiến. Chúng tôi đã nhận được cả trăm ngàn tên của đồng bào gởi về để cầu siêu. Chúng tôi trong những bài pháp thoại tại các trai đàn (vì mỗi trai đàn có ba bài pháp thoại, mỗi bài pháp thoại một ngày) đã giảng về đề tài người thương tôi chết bây giờ tôi biết đi tìm ở đâu, tôi có thể làm gì được cho cái nghiệp của người thương tôi nhẹ nhàng, để họ có thể chuyển hóa và siêu thăng dễ dàng.

 

Tại đại trai đàn chẩn tế Vĩnh Nghiêm tôi đã thuyết giảng về đề tài đó mà tại trai đàn chẩn tế tại chùa Diệu Đế tôi cũng đã thuyết giảng về đề tài đó. Tôi có căn dặn điều này trong ba ngày của trai đàn chẩn tế: mình phải thực tập làm thế nào để cho thân thanh tịnh, để cho khẩu thanh tịnh, để cho ý thanh tịnh và hồi hương công đức đó mà cầu cho tất cả đồng bào chúng ta được chuyển hóa và siêu thăng. Tôi có đưa ra rất nhiều ví dụ cụ thể để mọi người có thể thực tập được, làm thế nào để ba nghiệp thanh tịnh.

 

Chúng ta hãy hình dung một cây cam, một cây cam khỏe mạnh. Một cây cam tốt tươi thì nó hiến tặng những lá cam rất xanh và những chùm hoa cam rất trắng rất thơm và những trái cam mọng nước. Nếu một cây cam mà không cống hiến được ba cái đó thì nó không phải là một cây cam lành mạnh. Con người của chúng ta cũng vậy. Chúng ta không phải là cây cam, nhưng mà chúng ta có thể hiến tặng được những tư tưởng, những tư tưởng đi đôi với hiểu biết với thương yêu, tha thứ và bao dung. Và những tư tưởng như vậy làm đẹp cho cuộc đời của chính chúng ta và làm đẹp cho thế gian.

 

Trong đạo Phật chúng ta có danh từ chánh tư duy, chánh tư duy là làm phát khởi ra những tư tưởng lành, những tư tưởng đi theo phương hướng của sự tha thứ, chấp nhận,  thương yêu và hiểu biết. Mỗi khi chúng ta phát khởi được một tư tưởng như vậy thì tự nhiên trong người chúng ta thấy khỏe. Đó là những tư tưởng thuộc về diện chánh tư duy. Còn nếu chúng ta phát khởi ra một tư tưởng không lành, những tư tưởng có tính cách hận thù, trách phạt giận dữ, bạo động thì những tư tưởng đó không phải là chánh tư duy. Khi chúng ta phát khởi những tư tưởng tà tư duy như vậy thì sức khỏe chúng ta sẽ từ từ hao mòn và hạnh phúc trong đời chúng ta sẽ từ từ tiêu mòn. Mỗi khi quý vị phát khởi ra được một tư tưởng tha thứ, chấp nhận, thương yêu, yểm trợ thì tự nhiên sức khỏe của quý vị được tăng tiến. Mỗi tư tưởng như vậy có công năng chữa trị thân và tâm của mình. Trong ba ngày của Đại Trai đàn Chẩn tế, chúng ta thực tập đừng phát khởi những tư tưởng hận thù, giận hờn, bực bội, trừng phạt. Chúng ta hãy phát khởi ra những tư tưởng chấp nhận, tha thứ, thương yêu. Và những tư tưởng đó chúng ta hướng về những người thương của chúng ta trong gia đình, chúng ta hướng về chồng, về vợ, về con,  về cha mẹ, về các anh chị em chúng ta. Đó là điều mà chúng tôi đã khuyên và đề nghị với đồng bào thực tập trong suốt ba ngày Đại Trai đàn Chẩn tế.

 

Chúng ta đã hoàn tất được hai Đại Trai đàn Chẩn tế. Chúng ta có một trai đàn chẩn tế thứ ba sẽ được tổ chức ở Hà Nội. Nếu chúng ta chưa thực tập thì chúng ta hãy ghi nhớ ngày tháng của trai đàn đó và chúng ta sẽ thiết lập bàn linh trước hiên nhà, sẽ cúng dường, sẽ cầu nguyện và sẽ thực tập như vậy. Mỗi khi chúng ta nói ra một điều gì thì câu nói đó phải có khả năng, phải có công năng tha thứ, chấp nhận thương yêu, hiểu biết. Đó gọi là chánh ngữ. Chánh tư duy là một phần của bát chánh đạo và chánh ngữ cũng là một phần của bát chánh đạo. Chúng ta nói với ai? Chúng ta nói với con chúng ta, con trai hay con gái, nói với anh chị em chúng ta, chúng ta nói với chồng, với vợ chúng ta, chúng ta nói với cha mẹ chúng ta. Chúng ta có khả năng nói lên những lời chánh ngữ, những lời có công năng chấp nhận, tha thứ, hiểu biết, thương yêu và hỗ trợ. Chúng ta biết rằng chúng ta có thể nói được những câu nói như vậy với người thương. Chúng ta không cần hà tiện nếu chúng ta nhớ lại ngày xưa chúng ta đã từng có những ngày giờ hạnh phúc với nhau. Ngày xưa không bao giờ chúng ta có những tư tưởng tị hiềm, trách phạt, giận dữ, lên án. Ngày xưa ta không có nói với nhau những câu có tính cách trừng phạt, chua chát, hận thù, đay nghiến. Sở dĩ ngày hôm nay chúng ta không  tư duy được như vậy, sở dĩ ngày hôm nay chúng ta không nói được như vậy là tại vì chúng ta không chịu thực tập theo lời đức Thế Tôn dạy. Cho nên trong ba  ngày trai đàn chẩn tế giải oan, chúng ta lấy đó làm một cơ hội để thực tập. Chúng ta hãy nghĩ về người thương của mình với chánh tư duy, chúng ta hãy nói với người thương của mình bằng chánh ngữ. Chúng ta có thể nghĩ lành về họ, chấp nhận họ, tha thứ họ, thương yêu họ. Chúng ta có thể nói những lời lành với họ, chấp nhận họ, tha thứ và thương yêu họ. Chúng ta biết rằng chúng ta có thể nghĩ như vậy và chúng ta có thể nói như vậy, tại sao lâu nay chúng ta không chịu nghĩ như vậy và tại sao lâu nay chúng ta không nói như vậy?

 

Thứ ba là thân nghiệp. Trong ba ngày đại trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan, chúng ta hãy có những hành động, những cử chỉ có công năng bảo hộ, tha thứ, cứu vớt, giúp đỡ, bao dung mà không có trừng phạt, không có sát hại. Chính làm được như vậy thì chúng ta có được rất nhiều công đức để hồi hướng cho những đồng bào tử nạn trong chiến tranh. Nếu cây cam hiến tặng được ba phẩm vật rất là quý giá cho đời là lá cam hoa cam và trái cam thì chúng ta, con người, cũng có thể hiến tặng được cho nhân loại, cho người thương của chúng ta ba phẩm vật quý giá là tư tưởng tốt lành gọi là chánh tư duy, những lời nói tốt lành gọi là chánh ngữ và những hành động tốt lành gọi là chánh nghiệp.

 

Có hiểu mới có thương

Chúng ta có khả năng để nghĩ như vậy, để nói như vậy, để làm như vậy, nhưng mà lâu nay vì bực mình, bực bội, vì khổ đau, chúng ta đã không chịu nghĩ như vậy, không chịu nói như vậy và đã không chịu làm như vậy. Rất là uổng! Chúng ta hãy thử nghĩ về người bạn hôn phối của chúng ta, chúng ta hãy nghĩ về chồng của chúng ta hay là vợ của chúng ta. Người đó đã cùng sống với chúng ta trong một thời gian khá dài, người đó đã từng chia sẽ những khổ đau, những hạnh phúc, những thất bại những thành công với chúng ta. Ban đầu thì chúng ta cảm thấy chúng ta rất có hạnh phúc khi được sống bên nhau. Chúng ta có cảm tưởng rằng nếu không có người kia chắc một mình, mình không có thể thành công được trong đời sống. Hạnh phúc ban đầu giống như một đóa hóa, có rất nhiều hy vọng. Nhưng tại vì chúng ta không có cơ hội học hỏi và tu tập cho nên từ từ hạnh phúc đó bị soi mòn. Chúng ta bắt đầu bực mình với nhau, chúng ta bắt đầu nói những câu không dễ thương với nhau và chúng ta gây ra những nỗi khổ niềm đau cho nhau. Ban đầu những nỗi khổ niềm đau đó nho nhỏ thôi, chúng ta nói không sao. Nhưng  những  nỗi khổ niềm đau chúng ta gây cho nhau bằng lời nói và bằng hành động từ từ dồn chứa. Và có một lúc nào đó ta thấy không có thương người kia được nữa  vì người kia đã làm cho ta khổ đau quá nhiều. Người kia đã nói những câu đay nghiến, người kia đã nói những câu chua chát, buộc tội, lên án, không dễ thương với mình. Và mình đã trả đũa lại bằng những lời nói chua chát, buộc tội, bực bội không kém. Chúng ta đã dại dột làm khổ nhau và làm khổ bản thân mình.

 

Nghĩ lại thì chúng ta sẽ thấy thương người kia rất nhiều. Lâu nay chúng ta đối xử với người kia cũng không tốt đẹp gì mấy, cũng không dịu dàng gì mấy. Chúng ta đã phủ phàng, đã tàn nhẫn, đã cay chua với người bạn hôn phối của chúng ta. Chúng ta đã gây ra những nỗi khổ niềm đau cho người đó và chính những nỗi khổ niềm đau đó cũng làm chúng ta khổ đau. Và người kia cũng đã gây cho chúng ta những nỗi khổ niềm đau tương tự. Chỉ vì tất cả chúng ta không được nhắc nhở, không biết con đường thực tập cho nên chúng ta mới nghĩ về nhau với những tư tưởng không thân thiện như vậy, mới nói với nhau bằng những lời không dễ thương như vậy và mới đối xử với nhau một cách không  nhẹ nhàng, không có thương yêu như vậy.

 

Nếu chúng ta để ra năm hoặc mười phút mà nghĩ về người kia thì chúng ta thấy tội nghiệp cho người kia rất nhiều. Người kia tuy đã có nghĩ, có nói và làm những điều gây khổ đau cho chúng ta nhưng chính chúng ta cũng đã từng nghĩ, nói và làm những điều gây khổ đau cho người đó. Trách nhiệm của chúng ta có thể là tới năm mươi phần trăm. Chúng ta cứ có khuynh hướng nghĩ rằng nếu ta khổ là tại vì người kia. Một trăm phần trăm của nguyên do là tại người đó hết. Nếu mà ta ra thân thể như thế này là tại vì người kia. Chúng ta có thể nói những câu như thế này: Nếu mà tôi không có lấy ổng thì đâu có đến nỗi bây giờ thân thể tôi nó như thế này!. Chúng ta có thể nói: Nếu mà tôi không lấy bả thì bây giờ tôi đâu đến nỗi như thế này!. Chúng ta nói những câu như vậy, nó làm mất hết tình hết nghĩa. Chính ngày xưa chúng ta đã chọn lựa người đó. Tại vì chúng ta thiếu cơ hội để tu học cho nên chúng ta mới vụng dại gây những khổ đau cho nhau.

 

Giữa hai cha con cũng vậy, giữa hai mẹ con cũng vậy, ban đầu thì chúng ta thương em bé của chúng ta như là tự thân của chúng ta. Nhưng khi lớn lên, nó có những tư tưởng độc lập, nó có những hành xử không giống như mình suy nghĩ. Từ từ mình bực mình nó, mình la mắng và trừng phạt nó. Có khi mình nói những câu như là muốn từ nó: Mày không phải là con của tao, con của tao không bao giờ hành xử như vậy, mày muốn đi đâu thì đi, mày không phải con của tao. Mình có nói những câu như vậy.

 

Tôi có biết một ông bác sĩ ở bên Mỹ, ông đã nói với đứa con trai của ông như vậy. Hồi cậu bé còn nhỏ ông nói gì nó phải nghe tại vì nó quá nhỏ. Ông muốn nó suy nghĩ như ông suy nghĩ, ông muốn nó nói năng theo cách ông nói năng và ông muốn nó hành xử theo cách ông hành xử. Và đứa bé phải hoàn toàn làm theo lời cha. Nhưng khi ông cho cậu bé đi học trường Mỹ thì cậu bé bắt đầu học được lối suy tư tự do, nói năng phát biểu ý kiến tự do và có những hành động không đúng như là ông ta chờ đợi. Ban đầu thì ông la mắng, ông trừng phạt, nhưng mà rốt cuộc thì ông không chịu nỗi và ông nói rằng : Mày không phải là con tao! Con tao không có làm như vậy, không có nói như vậy, không có nghĩ như vậy. Mà nếu đứa con nó làm như vậy, nó nghĩ như vậy, nó hành xử như vậy một phần là tại vì nó đi học trường Mỹ và nhiễm theo cách thức xử sự của thanh niên Mỹ. Cố nhiên cách xử sự của thanh niên Mỹ cũng có những cái xấu nhưng cũng có cái tốt. Cũng như là cách xử sự của thanh niên Việt Nam, có cái tốt nhưng mà cũng có cái rất xấu. Vấn đề là mình phải đi theo con để giúp cho nó học được những cái hay, cái đẹp của nền văn hóa mới mà đừng có rước vào những cái xấu, cái ác của nền văn hóa đó.

 

Nhưng ông bận rộn quá, ông không có thì giờ để chăm sóc, để lo lắng, thăm hỏi đứa con. Và cuối cùng ông giận quá ông nói : Mày không phải là con tao, mày đi đâu thì đi. Thì nó bỏ đi thiệt, nó đi theo băng đảng. Có nhiều người cha đã mất con như vậy. Có những đứa con trai, có những đứa con gái đã đi tự tử vì không nói chuyện được với cha,  với mẹ. Ngay ở Việt Nam, tôi đọc báo cũng biết có nhiều thanh niên thiếu nữ Việt Nam có những khó khăn với cha với mẹ, đã nhảy xuống sông tự tử. Có khi nó rủ nhau đi tự tử năm  bảy đứa. Thành ra mình thương con chứ không phải là không thương, nhưng mình không có cơ hội hiểu được nỗi khổ niềm đau, những khó khăn của đứa con. Mình cứ áp đặt lên trên con những cái mà mình muốn và mình làm khổ nó. Trong khi đó mình tin tưởng rằng mình thương con rất nhiều. Cái thương đó là cái thương không có cái hiểu. Trong đạo Phật mình học được một điều rất căn bản là muốn thương thì phải hiểu, phải hiểu trước rồi mới thương được.

 

Có một thứ trái cây rất đắt tiền và có nhiều người muốn cúng dường cho tôi lắm nhưng mà tôi rất sợ không dám ăn, đó là trái sầu riêng. Nếu quý vị muốn thương tôi mà nói thầy phải ăn cho tôi hai trái sầu riêng thì chắc tôi chết luôn. Vì vậy cho nên muốn thương thì phải hiểu. Muốn thương vợ, thương chồng, thương con, thương anh em thì phải hiểu. Mình thích cái đó nhưng mà người thương của mình có thể không thích cái đó. Có một bà mẹ hồi còn trẻ rất là ưa mặc áo đỏ, áo dài đỏ. Nhưng bố mẹ không cho phép mặc áo màu đỏ cho nên khi lớn lên có con gái,  bà bắt buộc đứa con gái phải mặc áo dài màu đỏ. Tại vì đời mình không có thỏa mãn được, bây giờ mình bắt con phải làm thỏa mãn cái nhu yếu của mình. Nhưng mà đứa con gái này nó lại rất ghét mặc áo màu đỏ. Đó là những chi tiếc rất là nhỏ nhưng mà nó chứng tỏ rằng nếu chúng ta không hiểu được thì chúng ta không thể nào thương.

 

Thực tập ái ngữ và lắng nghe

Vì vậy cho nên chúng ta phải có thì giờ ngồi để nói chuyện với nhau. Chúng ta phải có thì giờ để hỏi những câu như thế này, giữa vợ với chồng hay giữa người yêu với người yêu : Anh ơi, tình thương của em có làm cho anh ngột ngạt quá hay không, nói cho em nghe đi!. Con ơi, tình thương của ba đối với con có làm con quá ngột ngạt không? Con  nói cho ba nghe đi!. Em ơi tình thương của anh có làm em ngột ngạt quá hay không? Em nói cho anh nghe đi, tại vì anh có thể áp đặt lên em những cái làm cho em đau khổ. Chúng ta phải có thì giờ ngồi với nhau để hỏi về nhau. Chúng ta có thể nói rằng : em có cảm tưởng là anh hiểu em hay không?. Nếu người vợ nói : Không, em có cảm tưởng là anh không hiểu được em, anh không hiểu được những nỗi khổ niềm đau, những  khó khăn của em cho nên anh đã làm khổ em. Nếu mình muốn biết mình có làm khổ người kia hay không thì mình phải hỏi câu : Con ơi, con có nghĩ rằng là ba hiểu được con không? Ba có hiểu được những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc của con hay không? Và nếu đứa con của quý vị nói : có, ba hiểu con rất là sâu, thì mình là một người cha có hạnh phúc. Hiểu được con thì chắc chắn sẽ thương được con một cách đúng đắn. Còn nếu đứa con nói : Dạ thưa không, ba không hiểu gì về những khó khăn, những khổ đau, những ước vọng, những bức xúc của con hết. Ba chỉ làm cho con khổ thôi tại vì ba không bao giờ lắng nghe con, ba không bao giờ hiểu con. Như vậy thì giữa cha con có một khoảng cách rất lớn, cha không hiểu con thì làm sao mà thương con được.

 

Cho nên giữa người thương với người thương mình phải đặt câu hỏi đó. Tôi có những người đệ tử, tôi không có con nhưng mà tôi có đệ tử tương đương như là con, đệ tử xuất gia và đệ tử tại gia. Và tuy là có đệ tử xuất gia khá đông, đệ tử tại gia khá đông nhưng  tôi cũng có thì giờ để ngồi nói chuyện với các vị, tôi hỏi : Này con, con có giận thầy lần nào chưa? Nếu có, con cho thầy biết con giận thầy vì lý do gì? Tôi hỏi : Con có cảm tưởng là thầy hiểu được những khó khăn của con hay không? Con có cảm tưởng là thầy hiểu được những bức xúc, những khổ đau của con hay không? Tuy tôi không làm cha nhưng mà tôi làm thầy và tôi thực tập như vậy. Quý vị làm cha, làm mẹ, quý vị cũng có thể ngồi với con trai, con gái và đặt những câu hỏi như vậy : Này con trai của ba ơi, con có nghĩ rằng ba hiểu  được những khó khăn, những khổ đau những bức xúc của con hay không? Nếu không thì con nói cho ba nghe để ba hiểu. Ba biết rằng nếu ba không hiểu thì ba chưa có thể thương con đúng phép được. Nếu ông nói được câu đó thì ông giỏi, ông là người phật tử biết hành trì pháp môn ái ngữ và lắng nghe, lắng nghe con và nói với con những lời dịu dàng thân mến. Nếu ông không thực tập hai cái đó: lắng nghe con và nói với con những lời dịu dàng thì ông có thể mất con như chơi.

 

Là người trẻ mà nếu mình có những khó khăn với ba mình, với má mình thì mình cũng phải thực tập. Có thể mình không biết những khó khăn, những bức xúc, những khổ đau của ba mình, mình chỉ nghĩ rằng ba làm khổ mình thôi. Trong khi đó mình không  hiểu được những cái rất sâu trong lòng ông ta. Anh có thể ngồi chơi với ba, chị có thể ngồi chơi với ba với mẹ rồi hỏi như thế này : Ba ơi, con biết ba thương con nhưng mà con không có chắc là ba hiểu được con. Hoặc là mình nói : ba ơi, ba có nghĩ là con hiểu được ba hay không? Ba có nghĩ rằng con hiểu được những khó khăn, những bất đắc chí, những  bức xúc, những buồn khổ của ba hay không?. Nếu là con trai, con gái mà mình chưa ngồi với cha, chưa ngồi với mẹ để hỏi cha mẹ những câu như vậy thì mình chưa phải là đứa con giỏi. Người nào trong chúng ta cũng có một ít khổ đau, một ít bức xúc, một ít khó khăn. Khi thương là mình phải hỏi thăm về những cái đó, chứ hỏi ba mạnh giỏi không thì không  đủ. Chữ mạnh giỏi đó không đủ, mình phải hỏi chi tiết.

 

Những đứa con, những đệ tử của chúng ta tuy là còn nhỏ tuổi nhưng chúng  đã có những khó khăn, những khổ đau và những bức xúc trong lòng rồi. Chúng ta bắt đầu đi thì vừa. Cho nên muốn thực tập thì quý vị phải biết đặt câu hỏi. Có thể tối nay về mình bắt đầu thực tập. Nếu người kia không cùng ở chung trong một nhà, mình có thể dùng điện thoại để thực tập :  allo, ba đó hả, con mới đi chùa về đây, đi chùa vui lắm thưa ba. Này ba, ba có nghĩ rằng con hiểu được những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc của ba hay không? Con nghĩ rằng con chưa hiểu được cho nên con đã nói, đã làm những điều khiến cho ba buồn, ba giận con. Con rất hối hận. Ba nói cho con nghe đi, nói cho con nghe những khó khăn của ba, những bức xúc của ba, những buồn khổ của ba để con hiểu. Mà nếu hiểu được rồi thì con sẽ không có phản ứng, nói năng, hành xử dại dột để làm cho ba khổ thêm. Con đâu muốn làm cho ba khổ. Sở dĩ con phản ứng như vậy là tại vì con dại dột, không hiểu được những nỗi khổ niềm đau, những khó khăn của ba. Nếu anh về nói được câu đó dầu là qua điện thoại thì anh là một người phật tử rất giỏi tại vì anh thực tập được hai cái là ái ngữ hay là nói lời hòa ái và  lắng nghe. Đó là hai sự thực tập rất hay của đức Bồ Tát Quan Thế Âm.

 

Tôi có những người đệ tử trẻ rất giỏi, đôi khi nó mới mười hai tuổi, mưi bốn tuổi mà thực tập rất giỏi. Sau một khóa tu dành cho người trẻ, nó về giúp ba được, giúp má được. Có khi hai cha con suốt cả mấy năm trời không nói chuyện được với nhau, hai cha con giận nhau. Trước khóa tu, trước khi nghe thuyết pháp, thì đứa con đó, con trai hay là con gái, không thể tưởng tượng rằng mình có thể nói được với cha những lời nhẹ nhàng, thương yêu như vậy. Tại vì mình giận cha quá nhiều, mình hận cha rất là nhiều. Có những người trai trẻ hận cha cho đến nỗi phát ngôn như thế này : Cái ông đó hả, tôi không muốn có liên hệ gì với ông đó hết. Họ nói những câu như vậy. Những người trẻ Tây Phương và cũng có những người trẻ Việt Nam dám nói câu như vậy.

 

Trong khi đó sự thực ba mình với mình là một, ở trong mỗi tế bào cơ thể của mình nó có đầy đủ sự có mặt của ba mình. Tất cả những nhiễm thể, những cái gen của ba mình đã được trao truyền cho mình trong từng tế bào cơ thể. Mình là sự tiếp nối của ba, đó là tiếng nói của khoa học, của phật học. Mình làm sao lấy ba ra khỏi mình được, ba có mặt trong từng tế bào cơ thể của mình. Mình là sự tiếp nối của ba. Mình không có đường thoát, chỉ có cách là phải hòa giải với ba trong cơ thể mình để rồi hòa giải với ba ở ngoài cơ thể mình. Đó là hai bước đi mà các chàng trai, các cô gái giận ba hay giận mẹ phải thực tập. Trước khóa tu có những người trẻ đã không tưởng tượng được là họ có thể lắng nghe được cha, lắng nghe được mẹ tại vì cha mẹ không biết nói lời ái ngữ, mỗi khi nói là mắng nhiếc, là chua chát, là lên án, buộc tội. Cho nên những đứa con khó mà có thể lắng nghe được cha mẹ.

 

Khi tới tu với chúng tôi, họ học được, họ có thì giờ quán chiếu để thấy được một ít phần trách nhiệm của họ. Ba mình như vậy, mẹ mình như vậy một phần là do mình chứ không phải hoàn toàn một trăm phần trăm do ổng hay do bả. Điều này rất là dễ thấy tại vì có khi mình cũng đã phản ứng lại một cách chua chát, một cách vô lễ đối với cha mẹ của mình chứ không phải là không có. Những đứa con này, sau một khóa tu cho những người trẻ đã biết trở về nhà lắng nghe cha mẹ và nói những lời nói nhẹ nhàng, dịu dàng với cha mẹ : Ba ơi, con biết là trong mấy năm vừa qua ba có nhiều khó khăn, ba có nhiều khổ đau lắm, ba có nhiều bức xúc lắm. Con đã không giúp được ba mà còn làm cho tình trạng càng ngày càng xấu hơn. Con đã phản ứng, con đã dại dột, đã nói những lời chua chát làm cho ba khổ, ba buồn. Con đã thách thức ba bằng hành động, bằng thái độ của con. Con đã muốn trừng phạt ba bằng cách không thèm nghe lời ba, bằng cách cho ba thấy là con  không cần ba, con cũng xây dựng được cuộc đời của con, những người trai trẻ đôi khi có những cái dại dột như vậy, bây giờ con hối hận lắm, con đâu có muốn làm cho ba khổ. Nhưng tại vì con không hiểu được những khó khăn, những bức xúc, những buồn khổ của ba cho nên con mới phản ứng như vậy. Bây giờ ba phải giúp con. Ba phải nói cho con nghe tất cả những khổ đau, bức xúc, những khó khăn của ba để con đừng có dại dột lập lại những điều mà con đã nói và con đã làm. Ba giúp con đi! Nếu không thì ai giúp con bây giờ?. Nếu anh nói được câu đó, chị nói được câu đó với ba, với mẹ, là anh chị đã có thể tiếp nối được sự nghiệp của Đức Quan Thế Âm rồi đó. Không khó lắm đâu, chỉ cần tu tập năm ngày, bảy ngày là có thể nói và lắng nghe được như vậy. Dầu người kia trong khi nói năng vẫn còn dùng các danh từ, các phương pháp trách cứ, lên án buộc tội nhưng mình thực tập được lắng nghe được, trong đạo Phật lắng nghe gọi là đế thính. Lắng nghe với tâm từ bi như là Đức Quan Thế Âm gọi là bi thính.

 

Lắng nghe có một mục đích duy nhất, mục đích đầu tiên của hạnh lắng nghe là giúp cho người kia có cơ hội nói ra được những nỗi khổ niềm đau trong lòng cho nó nhẹ bớt. Có những người ôm ấp những nỗi khổ niềm đau trong lòng năm này sang năm khác mà không nói ra được với bất cứ ai dầu cho với vợ mình, với chồng mình hay là với con mình. Có những gia đình trong đó cha mẹ và con cái không có nói chuyện được với nhau. Người nào cũng dồn chứa những khổ đau, bức xúc và cuối cùng họ bị bệnh tâm thần. Họ bị trầm cảm và họ phải đi tìm những nhà trị liệu tâm lý để nhờ giải quyết giùm. Theo nguyên tắc, các nhà tâm lý trị liệu phải ngồi đó lắng nghe mình tại vì mình trả tiền cho họ. Mình bắt buột họ phải ngồi lắng nghe mình. Cố nhiên có những nhà tâm lý trị liệu có lòng từ bi, họ có khả năng lắng nghe mình, họ có lý tưởng, họ không phải chỉ vì tiền mà thôi. Nhưng theo nguyên tắc, đi trị bệnh thì mình phải trả tiền và người kia có bổn phận phải lắng nghe và không được cãi lại mình. Nếu cãi lại mình thì mình đâu có tìm tới người đó làm gì. Trong nhà mình đã như vậy rồi, ai cũng không lắng nghe được mình, ai cũng cãi lại mình. Bây giờ mình đi tìm tới ông bác sĩ tâm lý trị liệu mà ông cũng cãi lại như vậy, ông không lắng nghe mình thì tại sao mình phải mất tiền uổng công. Nhưng sự thật là có những ông bác sĩ tâm lý trị liệu lắng nghe vợ con của mình cũng không được nữa. Ông rất giỏi về tâm lý học, ông có nhiều khách. Nhưng mà chính ông lắng nghe bản thân của ông  không được, lắng nghe những người thương trong gia đình cũng không được thì làm sao mà lắng nghe mình cho được. Cho nên khi chúng tôi tổ chức những khóa tu dành cho giới tâm lý trị liệu thì rất đông người tham dự.

 

Trong đạo Phật có một kho tàng tâm lý học rất là sâu sắc là Duy thức học, Duy biểu học. Nếu biết áp dụng thì có thể chữa lành được những vết thương ở trong lòng mình và trong lòng người khác. Những nhà tâm lý trị liệu tới trong khoá tu thật sự học lắng nghe với tâm từ bi. Họ phải tự lắng nghe được họ, họ phải lắng nghe được những người thương của họ trong gia đình thì lúc đó họ mới thành công thật sự đối với những người bệnh tới với họ. Khi mình lắng nghe được một giờ đồng hồ mà thành công,  lắng nghe mà mình không bực bội, khi lắng nghe mà mình vẫn giữ được lòng từ bi trong trái tim thì người kia sẽ bớt khổ rất nhiều. Một giờ đồng hồ thôi, người kia sẽ có cảm tưởng rằng lần đầu tiên trong đời có một người biết lắng nghe và hiểu họ. Thường thường nếu chúng ta không tu thì chúng ta lắng nghe không được, dầu chúng ta có thiện chí muốn lắng nghe. Chúng ta biết rằng lắng nghe được một giờ đồng hồ là người kia nói ra được rất nhiều nỗi khổ niềm đau, đỡ cho người kia lắm. Trên nguyên tắc, trên lý thuyết chúng ta thấy như vậy. Chúng ta có tâm tốt là muốn ngồi lắng nghe người đó. Người đó có thể là cha mình, có thể là chồng mình, là vợ mình, có thể là con mình, mình lắng nghe kẻo tội nghiệp họ. Nhưng mà mình chỉ phát khởi từ tâm trong vòng một vài phút đầu thôi. Tại người kia khi nói có tập khí, có thói quen hay trách móc, hờn giận, lên án, buộc tội và nói với giọng mỉa mai, chua chát. Nếu chúng ta không có tu thiệt thì trong khi nghe như vậy những hạt giống bực bội, giận hờn bị tưới tẩm, nó trào lên và chúng ta đánh mất khả năng lắng nghe của chúng ta, lòng từ bi không còn nữa.

 

Bí quyết thành công của sự thực tập lắng nghe là phải nuôi lòng từ bi, phải duy trì  tâm từ bi trong suốt thời gian lắng nghe bốn mươi lăm phút hay một giờ đồng hồ. Chúng ta phải thở và phải tự nhắc mình câu này : mình ngồi lắng nghe đây chỉ với một mục đích chính duy nhất là cho người kia cơ hội để nói ra những nỗi khổ niềm đau của người đó để  người đó bớt khổ. Vì vậy dù người kia có nói cái giọng xốc óc, lên án, buộc tội, chua chát thì chúng ta vẫn phải lắng nghe như thường. Mà nếu người kia có những tri giác sai lầm, những  nhận thức sai lầm, những thông tin sai lầm thì chúng ta cũng còn thì giờ. Nhưng nếu chúng ta cắt lời, chúng ta cãi lại người đó thì người kia sẽ không thể nói được nữa và buổi lắng nghe trở thành một buổi tranh luận, hư một trăm phần trăm. Trong thời gian lắng nghe bốn mươi lăm phút hoặc một giờ chúng ta phải quyết tâm không cắt lời người đó, không cãi lại người đó dầu họ có những thông tin, những tri giác rất là sai lầm. Chúng ta nghĩ rằng là tội nghiệp quá, họ có tri giác sai lầm quá, nhưng mà nói trong trái tim thôi. Mai mốt có thì giờ mình sẽ giúp cho người này những thông tin để người này có thể điều chỉnh lại những tri giác của họ. Bây giờ đây chưa cần vội, cứ ghi nhận thôi, ghi nhận những điều người đó nói sai, những tri giác sai lầm mà người đó có về họ và  về mình. Mình ghi lại và đem hết tất cả trái tim để lắng nghe người đó. Dầu người đó có nói với  giọng chua chát, khinh bạc hay là có những tri giác sai lầm chúng ta vẫn tiếp tục lắng nghe tại vì tâm từ bi chúng ta duy trì được trong trái tim. Quý vị có thành công hay không là do ở chỗ có duy trì được từ và bi trong trái tim mình trong thời gian bốn mươi lăm phút hay là một giờ đó. Và nếu mình chưa đủ khả năng để lắng nghe, mới nghe có mười lăm phút thôi đã thấy bực bội trong lòng rồi, đã có cảm giác là mình không thể tiếp tục được thì mình không nên gắng. Mình phải xin lỗi người kia : Em xin lỗi anh. Bữa nay em hơi mệt thành ra em chưa có thể tiếp tục lắng nghe anh được nhiều hơn. Em xin hứa là trong ba ngày khi em khỏe hơn, em sẽ ngồi lắng nghe anh thêm nữa. Và anh hứa anh tiếp tục nói cho em nghe những điều trong trái tim của anh. Thường thường trong những khóa tu chúng tôi tổ chức cho thiền sinh Tây Phương thì tới ngày thứ năm là người ta đã có khả năng lắng nghe rồi. Ngày nào cũng được nghe pháp thoại như vậy, ngày nào hạt giống của trách nhiệm, của hiểu  biết, của thương yêu cũng được tưới tẩm. Và đột nhiên mình thấy tội nghiệp người kia, mình cũng có chịu một phần trách nhiệm. Tuy người kia đã từng đối xử tệ bạc với mình, thấy được điều đó thì tự nhiên tâm mình bắt đầu có sự chấp nhận, sự tha thứ. Khi mà có tội nghiệp, tha thứ thì mình bắt đầu lắng nghe được, bắt đầu nói những lời ái ngữ được. Đây là kinh nghiệm trong ba bốn mươi năm hành đạo của chúng tôi. Chúng tôi đã giúp cho hàng ngàn, hàng chục ngàn cặp vợ chồng, cha con, mẹ con hòa giải được với nhau nhờ phương pháp lắng nghe và ái ngữ của Bồ Tát Quan Thế Âm.

 

 

Nối lại truyền thông

Chúng ta là con của nhà giàu mà chúng ta hành xử như là những đứa con của nhà nghèo. Chúng ta có một kho tàng Phật - Pháp rất là sâu sắc mà chúng ta không biết khai thác, không biết đem ra sử dụng để chuyển hóa đời sống hàng ngày của chúng ta. Nội phương pháp lắng nghe và ái ngữ thôi mà áp dụng được thì chúng ta có thể tái lập được truyền thông, đem lại được hòa khí và hạnh phúc trong gia đình. Không cần phải lâu đâu, chỉ cần bảy ngày, mười ngày thực tập là đã có thể thực hiện được. Hãy tưởng tượng một gia đình đó nghèo khổ, làm lụng mệt nhọc trên mấy sào đất và trồng trọt mà không có đủ để nuôi sống gia đình và hãy tưởng tượng là dưới lòng miếng đất đó có chôn một kho vàng. Nếu những  người trong gia đình đào được kho vàng lên thì sẽ trở thành giàu có vô cùng.

 

Chúng ta may mắn được sinh vào trong ngôi nhà Phật-Pháp, dưới đất có vàng mà chúng ta không chịu đào lên. Chúng ta chỉ biết thực tập cầu xin, khấn nguyện, cúng dường mà chúng ta chưa biết đào sâu hơn trong kho tàng Phật giáo để khám phá ra được những  dụng cụ bằng vàng giúp cho chúng ta có thể chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau của chúng ta. Trong đó có hai pháp môn rất là mầu nhiệm mà không khó thực tập bao nhiêu, đó là phương pháp lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng những lời ái ngữ.

 

Tôi có qua hoằng pháp bên Trung Quốc và tôi đã gặp những người phụ nữ đi chùa với mục đích đốt nhang và cầu nguyện mà họ không biết thực tập. Ông chồng đi theo một người đàn bà khác. Chuyện đó hình như cũng xảy ra ở Việt Nam, phải vậy không? Ông chồng đi theo một người đàn bà khác. Để mong ước cho tình trạng đó chấm dứt thì bà này lên chùa cúng dường, đốt hương để cầu nguyện cho người đàn bà kia buông ông chồng của mình ra. Hoặc là ông chồng mình cờ bạc, rượu trà, không để ý gì tới vợ, tới con thì mình lên chùa để cúng dường, cầu mong làm sao cho ông đó bỏ cờ bạc hút sách. Tôi nghĩ rằng lên chùa cầu nguyện như vậy cũng hay. Mình có niềm tin nơi Tam Bảo, mình cầu nguyện như vậy để nhờ ơn trên Tam Bảo phù hộ cho mình và mình yên tâm, mình có hy vọng nơi tương lai. Nhưng mình có thể làm khá hơn như vậy. Về nhà mình phải thực tập làm sao cho mình tươi mát, mình nói năng cho dịu ngọt, cho ngọt ngào, mình biết chăm sóc, biết tha thứ. Cái vũ khí của người đàn bà là ở chỗ tươi mát,  ngọt ngào. Nếu như bà không biết sử dụng hai cái vũ khí đó thì bà mất ông như chơi. Nếu bà chua chát, lên án,  buộc tội, bà phỉ nhỗ ông thì càng làm cho ông bỏ bà rất mau và ông đi theo người đàn bà kia. Cho nên mình phải thực tập, mình phải thực tập lắng nghe, phải thực tập ái ngữ. Có thể ông nhà có những khó khăn, những khổ đau, bức bách mà mình không hiểu được. Mình không phải là tri kỷ của ông tại mình lo làm việc thôi. Mình đầu tắt mặt tối, làm việc quần quật suốt ngày. Mình tưởng như vậy là đủ cái bổn phận của người vợ, người mẹ. Nhưng mà không đủ đâu. Mình nấu ăn, giặt áo cho ổng, mình làm đủ mọi thứ cho ổng, mình sinh con, nuôi con cho ổng, mình làm hết tất cả những cái gì mà một người phụ nữ có thể làm. Nhưng mình không có thì giờ để tìm hiểu ổng, tìm hiểu coi thử ổng có những  khó khăn, những bức xúc nào, khổ đau nào. Mình phải làm tri kỷ của ông mới được :  Anh ơi, hình như độ này anh không có đủ hạnh phúc. Anh nói cho em nghe đi! Anh có những khó khăn nào? Em muốn nghe, em muốn hiểu tất cả những gì xảy ra trong đời sống xã hội,  trong đời sống chức nghiệp của anh. Em muốn chia sẻ với anh những khó khăn, những  đau khổ, bức xúc của anh và em muốn yểm trợ anh. Anh nói cho em nghe đi. Nếu mà mình có thể ngồi với sự tươi mát, sự dịu dàng và những lời nói ái ngữ của mình thì ông sẽ tìm thấy nơi mình một người bạn đường, một người đồng chí. Ông sẽ thổ lộ cho mình tất cả những khó khăn, những khổ đau, bức xúc của ông ta. Hạnh phúc trên đời là có một người hiểu mình. Nếu ông có được bà, người có khả năng hiểu được những khó khăn của ông, yểm trợ cho ông những lúc khó khăn và luôn luôn có mặt những lúc ông gặp khó khăn, thì ông không có thể nào bỏ bà được. Nhưng nếu bà chua chát,  trách móc, bà phàn nàn thì ông sẽ chán. Ông sẽ đi tìm một người có khả năng hiểu được ông, yểm trợ được cho ông trong những lúc ông có khó khăn. Người đó có thể là trẻ hơn bà, nhan sắc còn khá hơn bà và như vậy là bà thất bại rồi. Cho nên cúng dường cầu nguyện bái sám là rất hay nhưng mà chưa đủ. Bà phải biết thực tập, ông phải biết thực tập, hạnh phúc nằm ở trong tay của bà, nằm trong tay của ông.

 

Nếu mình là những đứa con mà thấy cha mẹ lâm vào tình trạng đó, mình cũng có thể thực tập được để đưa cha mẹ tới với nhau, truyền thông với nhau.

 

Thưa quý thầy, thưa quý sư cô, thưa các vị phật tử cư sĩ, ở Tây Phương chúng tôi đã tiếp hàng trăm ngàn, hàng triệu thiền sinh tới tu học. Những người thiền sinh Tây Phương tới chùa họ ít đem theo nhang đèn, xôi, bánh trái để cúng. Họ tới chùa, tới thiền viện là để tìm học những pháp môn tu tập giúp họ tháo gỡ được những khó khăn ở trong lòng và giúp họ tháo gỡ những khó khăn giữa họ và những người trong gia đình, trong cộng đồng. Số những người thiền sinh tới các khóa tu càng ngày càng đông là vì sau khi tiếp nhận được những pháp môn đem về thực tập, họ chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau, tháo gỡ được những khó khăn của họ và tái lập được truyền thông với những người trong gia đình. Họ truyền miệng nhau, người ta đọc sách của mình và tới dự những khóa tu của mình càng ngày càng đông. Có điều là chúng tôi đã đào tạo bốn năm trăm vị giáo thọ xuất gia và tại gia nhưng mà không có đủ để cung ứng cho những người muốn có những khóa tu. Nước nào cũng muốn chúng tôi tới để tổ chức khóa tu nhiều lần trong một năm, có tới năm chục, sáu chục nước như vậy.

 

Trong chùa, nhiều khi chúng ta thấy có hiện tượng thầy trò không có nói chuyện được với nhau, bổn sư và đệ tử có những khó khăn với nhau. Thầy trách đệ tử không hiểu được thầy và đệ tử trách thầy không hiểu được mình và đối xử thô bạo với mình. Chúng ta thấy huynh đệ có những khó khăn với nhau, huynh đệ không có truyền thông được với nhau và khi thầy qua đời thì huynh đệ tranh chấp nhau về cái chùa. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chưa thật sự nắm được những pháp môn tu tập. Nếu chúng ta nắm được những pháp môn tu tập thì trong chùa chúng ta sẽ có thể thiết lập truyền thông tốt giữa thầy bổn sư và đệ tử, chúng ta có thể tái lập truyền thông giữa huynh đệ với nhau. Và khi chúng ta thành công được rồi thì chúng ta có thể giúp được người ở ngoài đời.  

 

Trong các trường cơ bản Phật học, trường Trung cấp Phật học, trong các học viện Phật giáo chúng ta phải làm thế nào để tiếp thu những pháp môn rất là thực tế như là pháp môn thở, đi thiền hành để làm lắng dịu những căng thẳng, đau nhức trong thân và trong tâm. Chúng ta phải học hỏi những pháp môn như là lắng nghe và ái ngữ để tháo gỡ những khó khăn ở trong lòng và tháo gỡ những khó khăn giữa thầy với trò, giữa huynh với đệ, giữa tỷ với muội.

 

 

Áp dụng tuệ giác đạo Phật vào đời sống hằng ngày

Cái học của chúng ta đang còn có tính cách lý thuyết nhiều quá. Khi học Duy thức, thầy chúng ta có thể giảng giải một cách rất là lưu loát về Duy thức học nhưng  khi được hỏi  làm sao áp dụng được Duy thức học vào trong đời sống hàng ngày để tháo gỡ những khó khăn thì thầy chúng ta cũng chưa có thể trả lời được những câu hỏi đó. Chúng ta học kinh Hoa Nghiêm, thấy những tư tưởng ở trong đó thậm thâm vi diệu. Nhưng chúng ta chưa biết cách áp dụng kinh Hoa Nghiêm vào đời sống hàng ngày để tháo gỡ những khó khăn của chúng ta và của cộng đồng chúng ta. Khi chúng ta học kinh Kim Cương chúng ta cảm động vô cùng nhưng mà chúng ta chưa áp dụng được kinh Kim Cương vào trong đời sống hàng ngày.

 

Kinh Kim Cương, Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh là một văn bản rất xưa dạy về nhiều cái rất là hay trong đó có dạy cách bảo hộ môi trường. Có bốn ý niệm mà chúng ta phải chuyển hóa đó là ý niệm về ngã, về nhân, về chúng sanh về thọ giả. Ý niệm về nhân là ý niệm về con người. Nhân ở đây không phải là người khác, nhân ở đây là con người. Phần lớn các nhà chú giải ở Việt Nam hiểu nhân ở đây là người khác. Ngã là mình còn nhân là người khác. Không phải như vậy đâu, chữ nhân ở đây tức là con người. Theo giáo thuyết duyên sinh của đạo Phật con người được làm bằng những yếu tố không phải con người, như một bông hoa được làm băng những yếu tố không phải bông hoa. Nhìn vào bông hoa mình thấy những yếu tố như là mặt trời, đám mây, như là đại địa, hạt giống. Những cái đó mình có thể nói không phải là hoa. Nhưng nếu không có ánh sáng mặt trời, nếu không có đám mây thì làm sao mà cây bông lớn lên được? Nếu không có đất thì làm sao bông lớn lên được?  Nếu không có hạt giống thì làm sao bông phát sinh ra được? Cho nên một bông hoa được làm bằng những yếu tố không phải hoa, đó là mặt trời, là ánh sáng, là cơn mưa, là đám mây, là đại địa, là phân, là hạt giống, là đất.

 

Thì con người cũng vậy. Con người là sinh vật xuất hiện rất trễ trên trái đất. Các loài thảo mộc, các loài động vật và thực vật xuất hiện sớm hơn con người rất nhiều. Nhìn cho kỹ thì thấy rằng con người là do những yếu tố không phải con người làm ra như là các loài khoáng vật, các loài thực vật và các loài động vật. Nhìn vào con người thì chúng ta thấy con người của chúng ta đã được làm bằng những yếu tố đó. Bây giờ lòng tham xui khiến con người phải khai thác thiên nhiên một cách triệt để. Chúng ta đã phá hoại môi trường rất dữ dội. Chúng ta làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất. Chúng ta làm ô nhiễm nước và chúng ta đã phá hoại rừng. Chúng ta đã tưới lên đất, lên sông hồ biển cả biết bao nhiêu là chất độc. Nếu cứ tiếp tục tiêu diệt những yếu tố không phải người đã làm ra con người thì con người cũng sẽ chết mà thôi.

 

Ở trong nền đạo lý Đông Phương chúng ta có Thiên, có Địa rồi có Nhân. Con người nằm giữa trời và đất, trời ở đây mình hiểu là không gian, không gian của chúng ta. Bầu khí quyển của chúng ta đang bị ô nhiễm nặng nề và hiện tượng hâm nóng của trái đất ai cũng biết là rất nguy hiểm. Biển cả chúng ta bị ô nhiễm, sông hồ chúng ta bị ô nhiễm và chính ngay cái văn hóa của chúng ta cũng bị ô nhiễm. Thanh niên của chúng ta rơi vào hầm hố của ma túy, băng đảng, của mãi dâm, của tự tử là tại vì chúng ta tiêu thụ những sản phẩm độc hại ô nhiễm. Muốn bảo hộ con người chúng ta phải bảo hộ môi trường. Chúng ta phải bảo hộ đất, bảo hộ nước, bảo hộ không khí, khoáng chất, bảo hộ thực vật và các loài động vật khác đừng để cho chúng bị diệt chủng vì môi trường xấu.

 

Khi nghiên cứu và giảng dạy kinh Kim Cương, tôi thấy kinh Kim Cương là một văn kiện cổ nhất của nhân loại dạy về phương pháp bảo hộ môi trường. Nói như vậy để kính nhắc các thầy, các vị giáo thọ, các vị ni sư biết rằng là khi chúng ta học một kinh, chúng ta phải luôn luôn đặt câu hỏi là những giáo lý thậm thâm vi diệu trong kinh này làm thế nào áp dụng được vào đời sống hàng ngày hầu tháo gỡ những khó khăn của bản thân, của con người và của nhân loại. Cái học của chúng ta phải là cái học thực tế. Tại Mai thôn đạo tràng chúng tôi không có chủ ý đào tạo ra những lý thuyết gia Phật giáo. Chúng tôi có chủ tâm đào tạo ra những kỹ sư Phật học, tức là những người biết áp dụng đạo Phật vào trong đời sống hàng ngày. Mình có những khổ đau, khó khăn mình phải giải quyết được và mình phải giải quyết những khổ đau, khó khăn đó trong thôn xóm, trong khu phố. Nếu chúng ta muốn thành lập những khu phố văn hóa, những thôn ấp văn hóa không có nạn mãi dâm, nạn ma túy, nạn đĩ điếm, băng đảng thì công tác kiểm soát và trừng phạt không bao giờ ngưng. Chúng ta phải có các thầy, các sư cô, các vị Phật tử giỏi về sự thực tập ái ngữ và lắng nghe. Với những khí giới đó chúng ta đi vào thôn xóm, chúng ta giúp cho các gia đình tổ chức lại, làm thế nào để vợ nói chuyện lại được với chồng, chồng nói chuyện lại được với vợ, làm thế nào để cha nói chuyện được với con, con nói chuyện lại được với cha để cho người trẻ có một niềm tin nơi hạnh phúc gia đình. Có những người trẻ không tin vào hạnh phúc gia đình tại vì cứ thấy ba làm khổ má, ba đay nghiến má, má làm khổ ba, má đay nghiến ba. Khi khổ đau như vậy thì người trẻ tìm ra ngoài để khuây khỏa cho nên mới rơi vào cạm bẫy của ma túy, mãi dâm và băng đảng.

 

Đạo Phật chúng ta có một sứ mạng rất lớn là cứu đời. Chúng ta cứu đời không chỉ bằng những thực tập tín ngưỡng, cúng dường, bái sám. Chúng ta phải khai thác nguồn tuệ giác vĩ đại của đạo Phật, và đem kho vàng đó ra áp dụng ngay trong chùa, trong Phật học Viện, trong trường Cơ Bản Phật học, trong trường trung cấp. Chúng ta phải nhận diện những khó khăn đang có giữa thầy trò, giữa huynh đệ, chúng ta phải giải quyết cho được trước khi chúng ta có thể giải quyết được những vấn đề tương tợ ở trong gia đình, trong xã hội. Đây là một lời mời mọc để các vị tôn túc, các vị giáo thọ, các vị ni trưởng và  các vị cư sĩ chiêm nghiệm.

 

Chúng ta ngồi trên một đống vàng nhưng mà chúng ta không biết khai thác kho vàng đó để đem ra phụng sự đất nước, phụng sự xã hội. Tôi rất trông cậy vào thế hệ các tăng ni sinh trẻ tuổi có thể làm được công việc đó. Chúng ta phải làm mới đạo Phật, chúng ta phải hiện đại hóa đạo Phật. Chúng ta phải đưa ra những cách giảng dạy  và thực tập có khả năng giúp cho con người chuyển hóa, tháo gỡ được những khó khăn trong đời sống cá nhân, trong đời sống gia đình và cộng đồng.

 

***

 

Bây giờ đã chín giờ hai mươi rồi, mình không có thể tiếp tục lâu hơn nữa. Chúng ta đến từ nhiều thành phố, chúng ta đã được ngồi chung với nhau dưới cái mái chùa thân yêu này, chùa Long Sơn. Chúng ta đã được đoàn tụ như một gia đình và đây là những lời chia sẻ lấy từ kinh nghiệm hoằng pháp thực tập chứ không phải là lấy từ sách vở, mong được các vị tôn túc trong giáo hội, các vị giáo thọ trong các trường Phật học, tất cả các thầy các sư cô, các tăng sinh cùng các vị Phật tử chiêm nghiệm. Ở ngoài thanh niên của chúng ta rơi vào những tệ nạn xã hội, rất nhiều ma túy, xì ke, băng đảng, tự tử. Họ đi tìm hạnh phúc nơi sự tiêu thụ mà không có chế tác được tình thương. Những tệ nạn đó bắt đầu xâm nhập vào trong chùa. Chúng ta bắt đầu thấy trong giới tăng sinh trẻ tuổi có những tệ nạn đó và các thầy, các ni sư rất là lo lắng. Cho nên một số các vị tôn túc đang lo nghĩ tới chuyện thiết lập những tòng lâm, những tu viện để cho tất cả các tăng sinh của các học viện được nội trú trong suốt thời gian thụ huấn và thực tập. Nếu trong thời gian bốn năm, năm năm, bảy năm đó mà chúng ta thực tập được các hạnh ái ngữ, lắng nghe và những pháp môn khác để có thể tháo gỡ được những khó khăn của cá nhân, giữa mình với thầy, giữa mình với huynh đệ thì chắc khi tốt nghiệp chúng ta có thể dấn thân vào trong cuộc đời để biến ci xã hội đầy những tệ nạn này thành một xã hội yên vui, để biến ci cõi Ta bà này thành một nơi Tịnh độ.

 

Để chấm dứt buổi pháp thoại hôm nay tôi xin mời thầy Pháp Niệm lên dạy cho chúng ta một bài hát tám câu là bài Sám Hối. Bài này bằng tiếng Việt rất dễ hiểu. Nó phản chiếu được bài pháp thoại tối hôm nay. Trong quá khứ mình đã dại dột, mình đã suy tư theo kiểu tà tư duy, mình đã nói năng những lời không có ái ngữ, không có tha thứ, bao dung, mình đã có những hành động phũ phàng, trừng phạt. Bây giờ mình quyết tâm không lặp lại những lỡ lầm đó. Từ nay trở đi mình sẽ thực tập chánh tư duy, chánh ngữ và chánh nghiệp :

 

Con đã gây ra bao lầm lỡ

Khi nói khi làm khi tu duy

Đam mê hờn giận và ngu si

Nay con cúi đầu xin sám hối

Một lòng con cầu Bụt chứng tri

Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới

Nguyện sống đêm ngày trong chánh niệm

Nguyện không lặp lại lỡ lầm xưa

Nam mô Bồ Tát Cầu Sám Hối.

 

Trong quá khứ mình đã đối xử với huynh đệ, với thầy, với đệ tử của mình, đã đối xử với cha mẹ, vợ con, anh em bằng những tư tưởng không thân thiện, bằng những lời nói cay cú, bằng những hành động trách phạt. Mình biết rằng khổ đau là do ba nghiệp đó. Bây giờ chúng ta chuyển ba nghiệp. Bắt đầu từ ngày hôm nay chúng ta nguyện thực tập nói lời ái ngữ, làm những điều bảo hộ thương yêu, tha thứ và tư duy theo chiều hướng thương yêu, tha thứ, chấp nhận. Bài hát này là một tặng phẩm để quý vị có thể đem về thực tập được. Xin mời thầy Pháp Niệm.

 

Lời cảm tạ của ban tổ chức

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Hòa thượng thiền sư.

Con xin thay mặt ban tổ chức tạ lỗi với Hòa thượng thiền sư hôm nay về âm thanh không được tốt đẹp và cũng mong chư tôn đức tăng ni tha thứ cho trở ngại âm thanh hôm nay. Xin tất cả hoan hỷ tha thứ. Niềm vui sung sướng được gặp Thiền sư hôm nay làm cho lòng chúng con tha thứ tất cả. Chỉ biết rằng ngày hôm nay được gặp niềm vui lớn, được gặp Hòa thượng thiền sư đi xa trở về. Người đi xa bao nhiêu năm nay, ray rứt nhớ mong, nay đã trở về thăm quê vì rằng :

Quê hương  là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người.

Vậy nên ngài đã về đây, đã tới, bây giờ ở đây, vững chãi thảnh thơi, quay về nương tựa và tha thứ cho nhau.

Đây là tịnh độ

Tịnh độ là đây

Mỉm cười chánh niệm

An trú hôm nay

 

Xin một lần nữa thay mặt ban tổ chức, xin cảm tạ ơn này đến Hòa thượng thiền sư và cảm ơn tất cả chư tôn đức tăng ni cùng quý vị phật tử. Xin hẹn ngày mai gặp lại nhau để tiếp tục nghe những lời pháp nhũ của Hòa thượng thiền sư.

 

Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Xin cung thỉnh chư tôn đức cùng tất cả dứng dậy để hồi hướng.

Nguyện đêm công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sinh

Đều trọn thành Phật đạo.

 

Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính là con đường / There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.