Tháo gỡ những tri giác
sai lầm
-
Tháng
02.2008 - Chân Giác Lưu & Chân An Tịnh
biên tập :
Pháp thoại
của Sư ông Làng Mai
ngày
2.03.2007
tại
tu viện Bát Nhã (Lâm Đồng)
Âm
thanh MP3 :
Phần 1 (13MB)
Phần 2 (12.6MB)
Kính thưa đại chúng hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu bằng bài xướng tụng
Tào Khê. Sau đó thì các thầy các sư cô sẽ tụng Tâm Kinh Bát Nhã
bằng tiếng Anh.
Tào khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Cành dương nước Cam Lộ
Làm sống dậy mùa xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn, lòng
Nam mô Bồ Tát Cam Lộ vị.
Bài này ca tụng đức Bồ Tát Quan Thế Âm. Trong bình tịnh thủy của
ngài có nước Cam Lộ. Khi chúng ta nhận được một giọt nước cam lồ
trong bình tịnh thủy đó thì chúng ta hết đói khát. Chúng ta không
phải đói cơm đói gạo, chúng ta đói tình thương, đói hiểu biết. Chúng
ta thấy cuộc đời là khổ tại chúng ta có cảm tưởng chưa có ai thương
mình, chưa có ai hiểu mình. Chúng ta đi quanh quẩn, đi lang thang để
kiếm chát một ít hiểu biết và thương yêu.
Những người nào không được nuôi dưỡng bằng sự hiểu biết và thương
yêu thì những người đó đói, đói hiểu và đói thương. Đức Quan Thế Âm
có rất nhiều hiểu biết và thương yêu. Tượng trưng cho hiểu biết và
thương yêu là những giọt nước cam lồ tịnh thủy ở trong bình của
ngài. Đó là cam lồ của tình thương.
Tào khê một dòng biếc
Tào Khê là một dòng suối, Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. Đức
Quan Thế Âm có đó nhưng tại mình không biết tới suối Tào Khê vốc
nước để uống nên mình cứ đói khát suốt đời, đói hiểu và đói thương.
Mình trở thành những cô hồn đi vất vưỡng,
đi tìm một chút hiểu, đi kiếm một chút thương. Tào khê một dòng biếc
là dòng suối thương. Nó có đó mà mình cứ quanh quẩn không tìm tới
được dòng suối Tào Khê đó. Trong bài ca dao Việt Nam :
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai
Đêm đêm tưởng giải ngân hà
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ
Dòng suối Tào Khê, sự có mặt của đức Quan Thế Âm Bồ tát vẫn có đó
nhưng mình vẫn đói, vẫn khát như thường. Thành ra mình phải mở lòng
ra mới tiếp nhận được suối cam lồ đó.
Tào khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Bao nhiêu đau khổ bao nhiêu gió bụi của cuộc đời, chỉ cần một giọt
nước là ngài tẩy sạch hết tất cả những khổ đau, những oan hận của
mình.
Tào khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Cành dương rưới Cam Lộ
Làm sống dậy mùa xuân
Mình tưởng là đã mùa xuân chết rồi, không có hy vọng, không có niềm
vui.
Mình tưởng mình là một
cây khô. Ai dè khi được rải lên một giọt nước của đức Bồ tát Quan
Thế Âm thì mình sống dậy như một mùa xuân, mình cười được, vui được
và thương được. Mình thấy đời đáng sống. Mình không còn muốn tự tử
nữa.
Cành dương nước Cam Lộ
Làm sống dậy mùa xuân
Đề hồ trong cổ họng
Lâu nay mình sống như một cô hồn, như một con ma đói. Cổ họng mình
nhỏ như cây kim mình, không nuốt được một chút hiểu, một chút
thương nào hết. Nhưng khi một giọt nước của đức Quan Thế Âm Bồ Tát
rơi được vào trong cổ họng thì cổ họng lớn lên, trở lại hình thức
bình thường, lúc đó mình bắt đầu mình nuốt được. Những khô khan,
những đói khát mình được thỏa mãn. Đề hồ là chất cam lồ ngọt ngào
của tình thương, của hiểu biết. Nó tới cổ họng và làm lắng dịu muôn
lòng. Mình lắng lại, mình dịu lại, không còn bốc cháy, không còn khổ
đau nữa.
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng
Nếu muôn người, triệu người có được một chút hiểu và chút thương thì
họ thấy tâm hồn lắng dịu lại.
Nam mô Bồ Tát Thanh Lương Địa
Khắp nơi đều có sự tươi mát. Thanh Lương Địa là vị Bồ Tát đem sự
tươi mát đến khắp nơi, đó là Bồ Tát Quan Thế Âm. Thanh lương địa là
một cái tên khác của đức Bồ Tát Quan Thế Âm. Ngài đi tới đâu thì cây
cối xanh tới đó, tươi mát tới đó. Và lòng người khô héo tươi trở
lại. Nó làm sống dậy cả mùa xuân. Mình tưởng là mùa xuân đã chết
rồi, ai ngờ nhờ một giọt nước từ bi của hiểu và thương mà mùa
xuân sống dậy. Mình thấy đời đáng sống, mình không còn tuyệt vọng
nữa. Đó là một bài ngợi khen đức Quan Thế Âm. Ngày xưa trì tụng
bằng chữ Hán, bây giờ mình trì tụng bằng tiếng Việt rất dễ.
Tào khê một dòng biếc
Chảy mãi về phương Đông
Quan Âm bình nước tịnh
Tẩy sạch dấu phong trần
Cành dương nước Cam Lộ
Làm sống dậy mùa xuân
Đề hồ trong cổ họng
Làm lắng dịu muôn lòng
Nam mô Bồ Tát Cam Lộ vị
Sau đó mình sẽ nghe bài Tâm kinh Bát Nhã, Quán tự tại bồ tát hành
thâm bát nhã ba la mật đa bằng tiếng Anh. Các thầy, các sư cô làng
Mai thực tập với người Tây Phương, tụng tiếng Việt họ không hiểu
cho nên phải tụng bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Đức. Hôm nay
có lẽ lần đầu tiên quí vị nghe tụng Tâm Kinh Bát Nhã bằng tiếng Anh.
***
Thực tập theo dõi hơi thở
Ngồi giữa gió xuân, quý vị ngồi cho hạnh phúc, ngồi cho thoải mái.
Tôi đang thở vào và tôi biết rằng tôi đang thở vào
Tôi đang thở ra và tôi biết là tôi đang thở ra
Vào, ra
...
Thở vào tôi thấy hơi thở vào của tôi đã sâu hơn
Thở ra tôi thấy hơi thở ra của tôi đã chậm hơn
Sâu hơn, chậm hơn
...
Thở vào tôi thấy khỏe quá
Thở ra tôi thấy nhẹ quá
Khỏe quá, nhẹ quá
...
Thở vào tôi ý thức toàn thân
Thở ra tôi buông thư toàn thân
Ý thức toàn thân, buông thư toàn thân
...
Thở vào tôi buông thư toàn thân
Thở ra tôi mỉm cười với toàn thân
Buông thư toàn mỉm cười với toàn thân
...
Thở vào tôi biết rằng tôi đang được ngồi với thầy, với các bạn tu ở
Bát Nhã
Thở ra tôi cảm thấy hạnh phúc sung sướng
Ý thức đang được ngồi với thầy và các bạn tu, cảm thấy hạnh phúc
thoải mái.
***
Làm lắng dịu thân tâm
Kính thưa đại chúng hôm nay là ngày 2.03.2007, chúng ta đang ở tại
tu viện Bát Nhã
-
Bảo Lộc
-
Lâm Đồng trong khóa tu dành riêng cho những người cư sĩ tại gia.
Hôm qua chúng ta đã nói tới sự thực tập buông thư để lấy ra khỏi
thân tâm những căng thẳng và đau nhức. Bên Mỹ có một bác sĩ tên là
John Kabat Zinn. Ông ta thiết lập một bệnh viện tại trường đại học
Harvard để chăm sóc bệnh nhân bằng phương pháp buông thư mà ông ta
đã học được trong đạo Phật. Ngày xưa tôi đã từng mở những khóa tu
cho thiền sinh Hoa Kỳ.
Trong khóa tu tại tiểu bang Massachusetts thì ông bác sĩ đó có tới
tu học với tôi. Ông đã nghiên cứu, thực tập, thí nghiệm và đã giúp
cho các bệnh nhân thực tập buông thư. Và khi bệnh nhân thực tập
buông thư được rồi đó thì bệnh của họ bắt đầu thuyên giảm. Có những
trường hợp các bác sĩ khác đã chạy rồi, chịu thua rồi thì mới gửi
bệnh nhân tới cho ông và ông chữa trị cho họ được. Tại vì các bác sĩ
khác chỉ trị bằng phương pháp phẫu
thuật hoặc tiêm thuốc. Nhưng ông bác sĩ này biết cách giúp cho người
bệnh buông thư. Viện của ông gọi là Viện giảm thiểu sự căng thẳng.
Các bác sĩ và y tá có tập luyện đàng hoàng, họ nói chuyện với bệnh
nhân rất ngọt ngào, coi bệnh nhân như là những người tới thực tập.
Vì vậy cho nên bệnh nhân cảm thấy rất được an ủi, được đối xử như
một con người toàn vẹn. Dầu họ đi không được, lết không được, ăn
không được nhưng mà vẫn được tiếp xử một cách rất trang trọng như
một con người toàn vẹn. Nhân cách mình được tôn trọng. Họ cảm thấy
rất được an ủi và họ tập buông thư, tập thở, tập ngồi, tập đi. Nhờ
như vậy họ buông thả được. Sự căng thẳng trong cơ thể của họ giảm
thiểu được và thuốc men có thể bắt đầu có tác dụng. Sự căng thẳng
ngăn cản không cho sự trị liệu xảy ra dễ dàng.
Mình là người Phật tử,
trong đời sống hàng ngày mình phải biết thực tập buông thư. Mình
phải thực tập đi như thế nào mà thoải mái. Mình thực tập ngồi như
thế nào mà thoải mái. Mình thực tập nằm như thế nào mà thoải mái.
Mình phải biết nắm lấy hơi thở mà thở và buông thư toàn thân. Điều
đó rất quan trọng! Những lúc mà mình có những phiền muộn, giận
hờn, lo lắng, sợ hãi thì trong tâm mình có sự căng thẳng và trong
thân mình cũng có sự căng thẳng. Hể thân có sự cẳng thẳng thì tâm
cũng bị căng thẳng, mà hể tâm có sự căng thẳng thì thân cũng co rúm
lại, cũng có sự căng thẳng. Thân và tâm dính với nhau, cái này căng
thẳng thì cái kia cũng căng thẳng, cái này thư giản thì cái kia cũng
được thư giản. Khi mình thư giản được thân thì tâm cũng thư giản
lại. Và khi mình thư giản được tâm thì thân nó cũng thư giản trở
lại. Rất là hay! Phương pháp của chúng ta là phải chăm sóc bản thân
mình trước, thương yêu lấy bản thân của mình trước rồi mới có thể
chăm sóc và thương yêu người kia. Nếu mình thất bại trong sự chăm
sóc bản thân thì mình không thể nào chăm sóc và thương yêu người
khác được. Nếu không chăm sóc bản thân thì mình có
quá nhiều căng thẳng trong thân và trong tâm, có nhiều sân si, bực
bội nên mình thương không có được. Mình nói những lời rất nặng nề,
những lời có tính cách trách phạt, lên án, trách móc, buộc tội nên
người kia khổ. Trong người mình có sự căng thẳng, bực bội cho nên
mình không có khả năng nói được những lời nhẹ nhàng và thương yêu.
Mình không có khả năng có được những cử chỉ ưu ái, nhẹ nhàng và
thương yêu. Mình muốn thương cũng không có thương được. Vì vậy cho
nên Đức Thế Tôn dạy chúng ta phải trở về thương lấy cái tự thân của
mình, chăm sóc cái tự thân của mình. Khi mình chăm sóc được tự thân
của mình rồi, mình biết buông thư, biết mỉm cười, biết có hạnh phúc,
thì lúc đó mình mới có thể thương yêu và chăm sóc người khác.
Không phải muốn thương là mình thương được đâu. Một người cha rất
muốn thương con. Nhưng tại người cha không có tu tập, người cha có
nhiều bực tức, nhiều bất đắc chí, nhiều bức xúc cho nên càng thương
thì đứa con càng khổ. Đứa con cảm thấy mình không được thương. Trong
khi trong người cha có tình thương mà không biểu lộ ra được tại vì
ông bị xâm chiếm bởi những bức xúc, những bực tức. Người cha không
thương mình được thì người cha cũng sẽ không thương con của mình
được. Mình là đứa con, mình muốn thương cha thì mình cũng phải lo
cho thân, cho tâm mình trước. Khi mình tươi mát nhẹ nhàng thì mình
có thể giúp cha được. Nếu không thì mình cứ trách móc ông ta thôi,
mình trách móc ông là nguồn gốc của những đau khổ, những khó khăn
của mình. Giữa hai cha con không còn có sự truyền thông nữa, hai cha
con nói chuyện với nhau không được.
Tu trước hết là phải trở về thương lấy mình, chăm sóc lấy thân và
tâm của mình. Hôm nay chúng ta nói về sự chăm sóc tâm tại vì trong
tâm mình có những năng lượng tiêu cực như là sự giận hờn, sự oán
thù, sự lo lắng, sự sợ hãi. Sự lo lắng ở trong chúng ta rất là
nhiều. Chúng ta lo từ chuyện này đến chuyện kia, suốt ngày cứ lo
lắng. Chúng ta là Nguyễn thị Lo, Lê văn Lo. Chúng ta sợ hãi tương
lai, chúng ta là Trần văn Sợ, Lý thị Sợ. Ai trong chúng ta cũng có
tên là sợ và lo hết. Thành ra mình phải gọi cái tên đó ra và mình
mỉm cười với nó: ”Anh Trần văn Lo ơi! Tại sao anh phải lo nhiều quá
vậy? Chị Lê thị Sợ ơi! Tại sao chị phải lo quá vậy? “.
Anh Trần văn Lo, chị Lê thị Sợ nằm ở đâu? Nó nằm ngay ở trong lòng
mình đó. Mình phải kêu tên nó và phải nói: ”Thôi đừng lo nữa!”.
Thầy đã dạy là phải trở về với giây phút hiện tại, tiếp xúc với
những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại. Mình quá lo
lắng, quá sợ hãi cho nên đời mình không có hạnh phúc. Mình có những
giận hờn, bức xúc, bực bội và khi những bức xúc, giận hờn, bực bội
đó từ ở dưới trào lên thì nó làm cho mình đau khổ. Mình không có
hạnh phúc. Mình bị trấn ngự bởi cái sợ, cái giận, cái buồn. Đức Thế
Tôn dạy khi nào cái buồn, cái sợ, cái giận trào lên thì mình đừng
nói gì hết, đừng làm gì hết. Mình phải chăm sóc nó. Chăm sóc như thế
nào? Cũng giống như khi lúc tay
trái
mình xắt gọt mà bị thương thì tay phải phải buông dao ra, rửa sạch
rồi đi băng bó cho tay trái. Tay trái là mình và tay phải cũng là
mình, có một cái cần được chăm sóc và một cái có khả năng chăm sóc.
Chế tác năng lượng chánh niệm
Khi mình dùng hơi thở và bước chân để chế tác ra niệm thì niệm trở
về làm lắng dịu tâm và thân của mình. Niệm là một từ rất
quan trọng trong đạo Phật. Niệm là ý thức được, thấy được, nhận diện
được cái gì đang xảy. Niệm hơi thở có nghĩa là trong khi thở mình
biết được là hơi thở đang xảy ra, mình có ý thức được đang có một
hơi thở vào, mình ý thức được có một hơi thở ra. Đó gọi là niệm hơi
thở. Hôm qua tôi đã nói có một kinh gọi là kinh Quán Niệm Hơi Thở,
trong đó Đức Thế Tôn dạy chúng ta mười sáu bài tập để quán niệm hơi
thở rất là hay. Hay lắm! Hiện bây giờ các nhà khoa học, các nhà tâm
lý trị liệu, các bác sĩ ở Tây Phương cũng có nhiều người đang học
hỏi kinh nầy, áp dụng để chữa trị cho những bệnh nhân của họ, cho
những người cần được giúp đỡ và chữa trị.
Tôi đã dịch kinh Quán Niệm Hơi Thở từ chữ Hán ra tiếng Việt, tiếng
Anh. Tôi cũng dịch kinh nầy từ tiếng Pali ra tiếng Việt và tiếng
Anh. Tôi đã chú giải và nêu ra những bài tập rất cụ thể. Những sách
đó đã được dịch ra ba bốn chục thứ tiếng. Hiện bây giờ thế giới đang
thực tập kinh Quán Niệm Hơi Thở rất nhiều. Kinh Quán Niệm Hơi Thở có
mặt tại Việt Nam từ thế kỷ thứ ba rồi.
Đầu thế kỷ thứ ba, chúng ta có một thiền sư tên là thiền sư Tăng
Hội. Cha ngài là người Khương Cư miền Bắc
Ấn
Độ, mẹ là một người Việt Nam. Cha của thầy Tăng Hội từ miền Bắc Ấn
Độ di cư xuống miền Nam Ấn Độ. Ông là một thương gia trẻ và ông đã
theo thuyền đi qua Việt Nam để buôn bán. Khi tới Việt Nam thì ông
thấy đất này dễ thương cho nên ông không trở về Ấn Độ nữa. Ông ở lại
và cưới một cô gái Việt Nam, đã sanh ra một chú bé, chú bé đó là
Tăng Hội. Ngài mười một tuổi thì đi xuất gia và trở thành một thầy
rất là giỏi. Sau khi đã giảng dạy và hành đạo tại Giao Châu tức là
Việt Nam mấy mươi năm thì ngài bắt đầu đi qua Trung Quốc để giảng
dạy. Thiền sư Tăng Hội là Tổ sư thiền của Việt Nam mà cũng là vị
thiền sư đầu tiên qua bên Trung Quốc để giảng dạy, sớm hơn Tổ sư Bồ
Đề Đạt Ma ba trăm năm. Đó là đầu của thế kỷ thứ ba.
Nói như vậy để quý vị biết rằng ở Việt Nam ta đã có kinh Quán Niệm
Hơi Thở từ đầu thế kỷ thứ ba lận. Thiền sư Tăng Hội đã viết bài tựa
cho kinh An Ban Thủ Ý, kinh Quán Niệm Hơi Thở và bài tựa đó bây giờ
cũng còn. Tôi đã dịch bài tựa đó trong sách Việt Nam Phật
Giáo
Sử
Luận
cuốn một. Hiện bây giờ có nhiều người đang thực tập theo kinh Quán
Niệm Hơi Thở để chữa trị thân và tâm.
Hôm qua mình nói về chữa trị thân, hôm nay mình nói về chữa trị tâm.
Mỗi khi cơn giận trào lên thì mình phải biết chăm sóc cái giận cũng
như khi tay trái bị đứt thì tay phải tới giúp. Khi cục giận bắt đầu
trào lên thì cái gì phải tới để giúp cái giận? Cái đó gọi là
chánh niệm. Chánh niệm là một năng lượng. Cái giận cũng là một
năng lượng, năng lượng đó có tính cách phá hoại. Còn niệm là một
năng lượng có tính cách xây dựng và trị liệu. Năng lượng đó chúng ta
phải chế tác ra. Trong khi đi thiền thì mỗi bước chân phải đặt trong
chánh niệm, đi bước nào là ý thức bước đó. Đi bước nào cũng có vững
chãi, thảnh thơi, an lạc, không suy nghĩ miên man về quá khứ, về
tương lai. Trong khi đi như vậy mình chế tác chánh niệm. Trong khi
ngồi thở vào, thở ra, khỏe, nhẹ, sâu, chậm thì mình cũng chế tác
năng lượng chánh niệm. Khi tưới rau mà có ý thức thì mình cũng chế
tác chánh niệm. Trong khi lái xe mà mình an trú trong giây phút hiện
tại thì mình cũng chế tác chánh niệm. Chính năng lượng chánh niệm đó
tới nhận diện cái năng lượng giận. Nó ôm ấp và chuyển hóa năng
lượng nầy. Nó làm dịu xuống năng lượng của cái giận.
Bây giờ tôi xin lấy một ví dụ cho dễ
hiểu,
ví dụ một bà mẹ với một em bé. Em bé đang khóc. Mình không biết tại
sao nó khóc. Em bé mới có mấy tháng, nó đang khóc, có lẽ là nó đang
đói, đang bị sốt hay là cái tả nó quấn quá chặt. Trong bếp bà mẹ
nghe tiếng con khóc thì bà buông chảo buông xoong xuống đi vào để
coi thử tại sao em bé khóc. Bà ẳm em bé lên, bà ôm em trong hai tay
một cách rất là dịu dàng. Bà chưa biết em bé khóc vì lý do gì, nhưng
mà việc đầu tiên là bà bế em bé lên và bà ôm rất là nhẹ nhàng. Rồi
bà sờ đầu của em bé coi thử nó có sốt hay không, em bé có phải vì
đói mà khóc hay không? Có hai giai đoạn, thứ nhất là mình ôm lấy em
bé, thứ hai là mình nhìn cho sâu để coi nguyên do nào làm em bé
khóc.
Cái giận cũng vậy. Khi cơn giận từ dưới trào lên thì lúc đó nếu là
người có thực tập thì mình trở về với hơi thở. Mình thở vào, mình
thở ra. Thở vào tôi biết rằng trong tôi cái giận đang dâng lên. Thở
ra tôi đang ôm ấp cái giận một cách rất là nhẹ nhàng, êm dịu, một
cách hiền lành như bà mẹ ôm lấy đứa con.
Hay
là ở chỗ mình không coi cái giận là kẻ thù, mình coi cái giận là em
bé đang đau khổ tại vì cái giận này cũng là mình mà chánh niệm này
cũng là mình. Cơn giận là một cục bên tay trái và chánh niệm là một
đóa hoa bên tay mặt. Khi mà cơn giận trào lên thì phải có đóa hoa
chánh niệm biểu hiện. Đóa hoa chánh niệm tới để nhận diện.
Thở vào tôi biết đây là cái giận
Thở ra tôi đang chăm sóc và ôm ấp cái giận của tôi
Giống hệt như bà mẹ, năng lượng chánh niệm rất là bất bạo động.
Nó không có mục đích đánh phá trừ diệt mà nó chỉ nhận diện, ôm ấp mà
thôi. Rất là nhẹ nhàng! Đó là phương pháp của Bụt dạy : một mặt là
năng lượng số một tức là năng lượng của sự giận hờn, một mặt là năng
lượng của chánh niệm mà mình chế tác nhờ phương pháp thở và đi
thiền. Năng lượng thứ hai mình mời lên để chăm sóc năng lượng thứ
nhất. Công tác đầu tiên là nhận diện sự có mặt của cái giận và ôm
lấy cái giận một cách nhẹ nhàng.
Bà mẹ làm như vậy đó. Bà chưa biết vì lý do gì em bé khóc nhưng bà
cứ ôm lấy một cách rất là dịu dàng. Năng lượng thương yêu nhẹ nhàng
của bà mẹ bắt đầu thấm vào em bé tuy là bà mẹ chưa biết em bé đau
khổ vì vấn đề gì. Nhưng khi ôm nhẹ nhàng như vậy thì năng lượng nhẹ
nhàng của bà mẹ bắt đầu đi vào trong em bé và em bé cảm thấy đỡ
khổ. Nó bớt khổ, cảm thấy nhẹ nhàng và nó dịu xuống.
Niềm đau nỗi khổ còn đó nhưng mà nó dịu xuống. Danh từ chuyên môn
gọi là chỉ. Trong thiền có hai chữ là chỉ và quán.
Chỉ có nghĩa là làm ngừng lại, làm lắng dịu xuống. Khi mình thực
tập làm cho thân lắng dịu xuống, đó là chỉ. Khi có cái giận, cái
buồn, cái lo mình làm cho nó dịu xuống, đó cũng là chỉ, tiếng Phạn
là Samatha, dịch ra tiếng Hán Việt là chỉ, dịch ra tiếng Nôm là
ngưng lại, làm lắng dịu lại, an tịnh lại, êm dịu lại. Chữ êm dịu
lại rất hay, làm cho êm dịu xuống.
Cái đau nhức của thân cũng vậy. Nếu mình ôm ấp mình vuốt ve thì nó
cũng dịu xuống. Cái đau nhức về tâm cũng vậy. Cái giận, cái buồn,
cái lo có cường độ một trăm phần trăm, nhưng khi có chánh niệm tới
nhận diện, ôm ấp thì nó xuống chín mươi phần trăm, tám mươi phần
trăm, bảy mươi phần trăm. Có sự thuyên giảm, sự lắng dịu. Cái giận
tuy còn đó nhưng mà cường độ thì đã giảm thiểu. Nhưng phải có cái
đóa hoa của chánh niệm để làm việc đó. Người không tu thì không có
đóa hoa chánh niệm. Người tu thì mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi khi
tưới rau, mỗi khi nấu cơm, đều làm trong chánh niệm. Người không tu
thì nấu cơm không có chánh niệm, rửa rau không có chánh niệm. Còn
người tu thì súc miệng, đánh răng có chánh niệm mà rửa chén cũng
phải có chánh niệm. Cái khác nhau giữa người không tu và người tu là
ở chỗ đó.
Các sư cô, các sư chú, các thầy ở trong chùa được dạy là bất cứ làm
một việc gì cũng phải đem tâm mình vào việc đó để có chánh niệm. Tôi
đang rửa rau, tôi biết rằng tôi đang rửa rau. Tôi đang nấu cơm cho
đại chúng, tôi biết là tôi đang nấu cơm cho đại chúng. Tôi rửa rau
với tình thương, tôi nấu cơm bằng tình thương, lúc đó là mình sống
chánh niệm. Còn nếu rửa rau mà mình lo nghĩ chuyện năm ngoái, chuyện
sang năm, buồn giận đủ thứ thì mình không phải là người tu.
Niệm tức là tâm mình có mặt trong cái giây phút đó. Khi tâm mình
không có mặt thì gọi là thất niệm. Thất là đánh mất như là thất sủng
là hết ân sủng, thất đức là mất đức. Thất niệm tức là không có niệm.
Mình là người xuất gia thì ngày đầu tiên thầy đã dạy mình đi phải có
ý tứ, mỗi bước chân phải để cái tâm vào đó. Vì vậy cho nên các thầy,
các sư cô đi rất đẹp tại vì họ đi trong chánh niệm. Nếu thấy một
thầy hay một sư cô đi hấp tấp như bị ma đuổi thì mình biết rằng
người đó không có thực tập đàng hoàng. Nhưng là người cư sĩ mình
cũng có thể làm được như vậy. Nếu có thực tập thì người cư sĩ cũng
có thể đi trong chánh niệm. Mỗi bước chân tỏa chiếu được sự thong
dong, sự thảnh thơi và khi nhìn thì mình biết được liền lập tức.
Khi dạy con gái các bà mẹ cũng hay dạy như vậy. Con làm cái gì cũng
phải có ý tứ, đừng có bộp chộp. Làm cái gì cũng phải có ý có tứ là
chánh niệm đó! Nếu đi vội vã không để ý để tứ thì cô con gái đó
không đẹp. Công-dung-ngôn-hạnh : con gái đi, đứng, nằm, ngồi gì đều
phải có ý có tứ, các bà mẹ đều dạy con gái như vậy hết. Đáng lý ta
phải dạy con trai cũng như vậy mới đúng. Con trai cũng cần phải đẹp,
con trai đi đứng nằm ngồi cũng phải đẹp. Trong chùa, các sư cô phải
đi đứng nằm ngồi cho có ý tứ, có chánh niệm, nhưng mà các thầy cũng
phải như vậy. Cho nên nhìn một người đi thì mình biết người đó có tu
hay là không, đi từng bước chân thong thả, thong dong, nhẹ nhàng,
chánh niệm. Chánh niệm tức là có ý có tứ. Trong kinh điển của nho
giáo đó gọi là tâm tại. Tâm có mặt gọi là tâm tại. Còn tâm bất tại
tức là tâm đi đâu rồi chỉ có thân ở đây thôi.
Khi tâm không có đó thì nhìn mà không thấy, nghe mà không có nghe,
ngửi mà không biết mùi, ăn mà không biết vị. “Tâm bất tại yên thị
như bất kiến, thính như bất văn, thực như bất tri kỳ vị”, đó là
trong sách luận ngữ. Trong đạo nho cũng có nói về chánh niệm. Khi mà
tâm mình không có đó thì mình nhìn mình cũng không thấy, người đó sờ
sờ trước mặt mà mình cũng không có thấy, lỗ tai rõ ràng nghe mà
mình không biết là mình nghe gì và khi ăn mình không biết là mình
đang ăn gì.
Còn tâm mà có mặt tức là có niệm. Nhìn cái gì mình thấy cái đó, nghe
cái gì thì mình biết được cái đó, nếm cái gì mình biết cái đó. Thở
vào mình biết mình thở vào, thở ra biết thở ra, rửa rau biết là mình
rửa rau, nấu cơm biết là mình nấu cơm, lái xe biết là mình lái xe.
Đó là sự thực tập căn bản trong chùa.
Nhờ thực tập thiền, thở trong chánh niệm (thiền tức là chánh niệm),
thực tập đi từng bước trong chánh niệm, thực tập lái xe, nấu cơm,
rửa bát trong chánh niệm mà mình có cái năng lượng cần thiết để nhận
diện, ôm ấp và làm dịu xuống những nỗi khổ niềm đau của mình. Nếu
không có chánh niệm thì không có tu. Tu là phải chế tác được năng
lượng số hai là chánh niệm. Năng lượng chánh niệm giống như ánh sáng
mặt trời. Nó tới ôm ấp cây cỏ. Nhờ có ánh sáng mặt trời mà cây cỏ
làm ra được màu xanh. Buổi sáng bông sen còn úp, nó không chịu nở.
Nhưng mặt trời lên chiếu ánh sáng xuống. Ánh sáng tới chiếu vào, ôm
ấp bông sen và những quang tử (proton) bắt đầu thấm vào trong bông
sen. Một giờ đồng hồ sau bông sen chịu không nổi phải nở ra.
Cái giận của mình cũng vậy. Nó là một cục cứng như đá vậy. Nhưng nếu
mình đưa chánh niệm tới nhận diện và ôm ấp thì năng lượng chánh niệm
từ từ đi vô trong. Năng lượng số hai từ từ thấm vào vùng năng lượng
thứ nhất. Rồi năng lượng thứ nhất từ từ rã ra và mình có sự thuyên
giảm, lắng dịu, êm dịu bớt. Tuy là năng lượng thứ nhất còn đó nhưng
mà nó không còn cường độ của lúc ban đầu. Quý vị hãy nhớ cái ví dụ
của bà mẹ ôm đứa con. Khi bà mẹ ôm đứa con thì bà chưa biết tại sao
nó khóc. Nhưng mà ngay trong khi ôm thì sự dịu dàng của bà mẹ thấm
vào cơ thể của đứa con. Đứa con tuy là chưa hết đau nhưng mà nó dịu
xuống được. Sau đó bà mẹ nhìn cho kỹ thì thấy nguyên nhân: hoặc là
con sốt hoặc là nó đói hoặc là tả của nó chật quá. Khi thấy rồi thì
sửa rất là mau. Nếu nó đói thì cho nó bình sữa, nếu nó sốt thì cho
nó uống cái gì đó, nếu tả nó siết quá thì mình bọc nó trở lại. Đó là
giai đoạn thứ hai.
Giai đoạn thứ nhất là chỉ. Chỉ là làm cho lắng dịu. Giai đoạn
thứ hai là quán. Quán là nhìn để tìm rõ nguyên nhân, cội
nguồn, gốc rễ của nó. Thiền là như vậy. Thiền có thiền chỉ
và thiền quán. Thiền chỉ nhắm tới sự làm lắng dịu những khổ
đau và thiền quán có tác dụng nhìn sâu để thấy được gốc rễ
rồi từ từ chặt nó đi.
Tháo gỡ những tri giác sai lầm
Thường thường cái giận của mình có gốc rễ của sự hiểu lầm gọi là
tri giác sai lầm. Tôi xin đưa ra một ví dụ cho biết là vì một
tri giác sai lầm mà người ta có thể khổ trên mười năm. Có anh chàng
đó có việc phải đi xa. Trước khi anh đi thì bà vợ có mang mà anh
không biết. Khi anh về thì bà vợ đã sanh ra một đứa con ba tuổi. Khi
về thì anh ta nghe xóm làng nói là cái anh láng giềng rất là dễ
thương. Ngày nào anh hàng xóm cũng qua nhà để giúp đỡ trong thời
gian anh vắng mặt. Cho nên anh chàng này mới có ý là đứa con không
phải là của mình, nó là con của ông hàng xóm.
Đó là tri giác mà là tri giác sai lầm. Tội nghiệp không! Nhưng anh
không nói ra, anh rất đau khổ trong lòng nghĩ rằng trong khi mình
đi khỏi vợ mình đã ngoại tình. Đứa con này không phải là con của
mình, nó là con của hàng xóm, nhưng anh không nói ra. Vì vậy cho nên
anh không nhìn ông hàng xóm, cũng không nhìn, không nói chuyện với
vợ. Anh giữ nỗi khổ niềm đau đó trong mười năm và lạnh nhạt với vợ,
hất hủi con tại vì nghĩ đây không phải là con của mình. Chuyện đó
kéo dài trong mười năm, mười năm mình làm mình đau khổ, mười năm
mình làm cho vợ mình đau khổ, mười năm mình làm cho con mình đau
khổ, mình hất hủi nó. Cho tới một bữa đó có một người bạn tới, anh
ta mới nhìn thấy đứa bé thì nói : ”Trời ơi ! Nó giống anh như đúc”.
Lúc đó anh mới tin rằng đứa con này là của anh. Anh đã lạnh nhạt, đã
làm khổ vợ, làm khổ anh, làm khổ con trong mười năm chỉ vì một tri
giác sai lầm.
Ở trong kinh, tri giác sai lầm gọi là vọng tưởng điên đảo.
Trong Tâm Kinh Bát Nhã gọi là vọng tưởng điên đảo. Điên đảo tức là
chổng ngược lại, là có mà nói không, là trên mà nói dưới, thẳng mà
nói xiên, đúng mà nói sai. Điên đảo tức là chổng ngược lại, lộn
ngược lại. Vọng tưởng tức là tri giác sai lầm. Tưởng là tri giác.
Mình là con người, mình chưa phải là thánh thì mình còn nhiều tri
giác sai lầm, còn nhiều vọng tưởng. Hầu hết khổ đau của mình đều có
gốc rễ từ tri giác sai lầm, từ nơi vọng tưởng. Mình đa nghi, mình
sớn sác. Mình không thể truyền thông với người kia, mình không nói
chuyện được với người kia.
Chuyện thiếu phụ Nam Xương là một bài học lớn cho tất cả chúng ta.
Cũng là vấn đề đứa con chứ không có gì hết. Chàng Trương biết đứa
nhỏ là con của mình. Trong khi mình đi ra biên giới để đánh giặc thì
vợ mình hạ sanh ra đứa con và anh chàng biết nó là con của mình.
Ngày mà anh ta được giải ngũ thì thiếu phụ Nam Xương ra đón ở cổng
làng. Hai vợ chồng mừng mừng tủi tủi, ôm nhau khóc. Khi anh sống sót
trở về, theo truyền thống Việt Nam là phải cáo việc nầy với tổ
tiên. Vì vậy người vợ xin phép đi ra chợ mua một ít thức ăn về sắm
một mâm cơm để cúng ông bà tổ tiên. Trong khi đó thì chàng Trương
thuyết phục đứa bé kêu mình là bố: ”Con, con kêu bố là bố đi!” Thằng
nhỏ không chịu: ”Ông đâu phải là bố tôi! Bố tôi là người khác. Đêm
nào bố tôi cũng tới hết đó! Mẹ tôi nói chuyện với bố tôi giờ này
sang giờ khác, còn khóc nữa. Mỗi khi bố tôi ngồi xuống mẹ tôi cũng
ngồi xuống. Mỗi khi bố tôi nằm xuống cũng mẹ tôi nằm xuống luôn”.
Thằng bé nói như vậy đó nhưng mình biết sự thật là đâu có ai tới
đâu. Chỉ là cái bữa đó thẳng nhỏ đi chơi về nói: ”Mẹ ơi ! Đứa nào
trong xóm cũng có bố. Tại sao con không có bố?" Thằng bé còn nhỏ
quá, cắt nghĩa bố con đang ra chiến trường thì khó thành ra thiếu
phụ Nam Xương mới chỉ cái bóng của mình ở trên vách vì cái đèn dầu
chiếu cái hình của mình trên vách: ”Bố con đây này. Con chắp tay lạy
bố ạ đi!” Thì thằng nhỏ chắp tay: ”Lạy bố ạ.” Cố nhiên thiếu phụ
Nam Xương nhớ chồng nên nói chuyện với chồng: ”Anh ơi! Anh đi lâu
quá như vậy? Ở nhà một mình em, em đâu có thể nào lo lắng cho con
được. Anh đi đến bao giờ mới về? Và người thiếu phụ đó rất trung
kiên với chồng, nàng khóc. Cố nhiên khi người thiếu phụ ngồi xuống
thì cái bóng đó ngồi xuống và khi người thiếu phụ nằm xuống thì cái
bóng nằm xuống.
Chỉ có vậy thôi mà khi nghe đứa con nít nói thì anh ta nghi là trong
thời gian mình ở chiến tuyến, có một người đàn ông đã chen vào trong
gia can của mình. Vì vậy nên khi vợ đi chợ về anh ta không nhìn bà
vợ nữa. Trong lòng anh đau khổ rất nhiều, anh có tri giác sai lầm.
Trái tim của anh trở thành một khối nước đá lạnh băng. Bà vợ đi chợ
về hí hửng, hạnh phúc. Anh ta không thèm dòm nữa, vợ hỏi gì anh ta
cũng không trả lời. Anh ta quá đau khổ, đau khổ vì một tri giác sai
lầm, nghĩ rằng vợ mình là một người ngoại tình. Khi mâm cơm cúng đặt
lên trên bàn thờ rồi thì anh phải cúng thôi. Anh ta đốt ba cây nhang
anh ta khấn vái : ”Con đã về. Xin cáo với tổ tiên, ông bà cha mẹ
biết”. Sau khi anh lạy xuống trước bàn thờ tổ tiên thì anh cuốn
chiếu lại, anh không cho bà vợ lạy. Anh nghĩ cái con đàn bà này
không xứng đáng để lạy trước tổ tiên. Anh ta cuốn chiếu lại. Rồi
thay vì dọn xuống cả gia đình cùng ăn cơm chung thì anh ta bỏ đi vào
trong quán rượu. Anh ta uống say để quên đi nỗi khổ niềm đau ở trong
lòng.
Thiếu phụ Nam Xương rất tủi thân, không biết mình đã làm ra tội
tình gì mà từ khi đi chợ về anh không có nhìn mình nữa, không nói
chuyện với mình nữa. Mình hỏi câu gì anh cũng không trả lời. Tại
sao như vậy? Nàng không hiểu được. Hai người đều đau khổ và đứa con
cũng không hiểu tại sao. Anh ta đi vào trong quán rượu, anh ta ở đó
suốt ngày. Anh ta muốn nhận chìm nỗi khổ niềm đau mình trong rượu,
uống cho say để quên hết. Anh ta đi tới hai giờ sáng mới về, ngủ cho
tới mười một giờ sáng rồi lại đi vô quán rượu nữa. Anh ta không thèm
ăn cơm, không thèm nói chuyện với thiếu phụ Nam Xương.
Cuối cùng thiếu phụ Nam Xương chịu không nổi nữa nhảy xuống sông tự
tử. Khi nghe thiếu phụ Nam Xương tự tử rồi thì anh ta mới về để
chăm sóc đứa con. Bữa tối đó đi tìm đèn thắp lên thì thằng nhỏ nó
nói : ”Ông ơi ông! Bố tôi đây nè, bố tôi đêm nào cũng về như vậy
hết. Mẹ tôi cứ nói chuyện với bố rồi mẹ tôi khóc. Mỗi khi bố tôi
ngồi xuống thì mẹ tôi cũng ngồi xuống, mỗi khi bố tôi nằm xuống thì
mẹ tôi cũng nằm xuống”.
Bây giờ chàng Trương mới hết tri giác sai lầm. Sự thật mới bung ra
là không có người đàn ông nào xen vào trong gia can của anh hết. Chỉ
có cái tri giác sai lầm của mình thôi. Nhưng bây giờ đã trể rồi.
Chúng ta khổ phần lớn là vì tri giác sai lầm. Chúng ta buộc tội
nhau, đổ lổi cho nhau tại vì chúng ta không nói chuyện với nhau
được. Giả sử chàng Trương với thiếu phụ Nam Xương tới khóa tu thì
tôi sẽ dạy như thế này: ”Này quý vị, quý vị có những nỗi khổ niềm
đau, quý vị phải nói chuyện với nhau”. Thiếu phụ Nam Xương trong khi
đau khổ, tuyệt vọng như vậy, nếu mà biết tu thì đi rửa tay rồi tới
ngồi bên chồng : ”Anh à, em có câu này để hỏi anh. Rất là cần thiết!
Đây là vấn đề sống chết của em. Em khổ lắm, em đau buốn lắm. Em
không hiểu tại sao từ khi em đi chợ về cho đến bây giờ anh không
nhìn em, không nói chuyện với em, mà em hỏi câu gì anh cũng không
trả lời. Anh, em đã làm nên tội tình gì đáng để bị anh đối xử một
cách tàn tệ như vậy? Em có lỗi gì anh nói đi! Nếu em có lỗi gì thì
anh cho em biết chứ anh cứ lạnh nhạt như một khối nước đá như vậy
thì em khổ lắm”. Nếu mà người vợ tới nói được với người chồng những
câu đó thì người chồng sẽ có cơ hội hỏi : ”Thằng nhỏ nó nói mỗi đêm
đều có người tới. Người đó là ai? Lúc đó thiếu phụ Nam Xương mới có
cơ hội giải thích, cái tri giác sai lầm mới tan biến. Tại vì thiếu
phụ Nam Xương không tới khóa tu nên không biết thực tập lời ái ngữ.
Đừng tưởng thiếu phụ Nam Xương là chuyện ngày xưa, nàng có thể đang
ngồi ở trong này lắm đó và có thể đang ôm một mối hận đối với chồng
mà nói chuyện với chồng không được. Thiếu phụ Nam Xương đang ngồi
đây này, phải về nói với chồng hoặc là phải dùng điện thoại di động
mà nói với chồng: ”Anh ơi em khổ quá đi! Có nhiều khi em muốn tự tử.
Em không biết tại sao anh đã đối xử với em như vậy? Tại sao anh đã
nói với em những lời như vậy? Anh đã đối xử với em tàn tệ như vậy?
Em có làm nên tội tình gì khiến cho anh đối xử với em như vậy hay
không? Em đã khổ từ mấy tháng nay!” Phải thực tập câu đó. Nếu tới
khóa tu mà thiếu phụ Nam Xương không học được bài học này thì uổng
cơm, uổng công những người đang nấu cơm, dọn dẹp, quét thiền đường
cho mình. Thiếu phụ Nam Xương nhớ phải thực tập như vậy.
Nếu mình là chàng Trương đang ngồi đâu đây thì chàng cũng đang khổ
lắm. Chàng Trương cũng đang nghi vợ mình có những lỗi này, có những
tệ bạc kia mà chàng nói chuyện với vợ không được. Theo nguyên tắc
thì chàng Trương phải tới với thiếu phụ Nam Xương nói như thế này:
”Em, anh đau khổ quá, anh chịu không nổi, chắc anh chết quá! Em có
biết hay không chứ anh đau khổ từ bữa chiều hôm qua cho đến bây giờ.
Anh có cảm giác là mình không muốn sống nữa. Trong khi em đi chợ thì
thằng nhỏ nó nói như vậy đó. Nó nói là có một người đàn ông tối đêm
nào cũng tới. Chuyện đó có thiệt không? Em giải thích đi! Tại sao em
đối xử với anh như vậy? Anh là một người rất là chung tình. Tại sao
em đối xử với anh như vậy?”. Mình phải tới với người kia để hỏi
thẳng thì bà vợ của mình sẽ có cơ hội giải thích: ”Đâu có ai đâu!”
Rồi mới cắt nghĩa cho mình thì cái bi kịch đã không xảy ra.
Thực tập lắng nghe và ái ngữ
Phần lớn bi kịch
xảy
ra giữa hai người là do tri giác sai lầm, do vọng tưởng điên
đão. Chúng ta người nào cũng có tri giác sai lầm. Chính các thầy,
các sư cô cũng có tri giác sai lầm. Nhưng nhờ tu thành ra họ luôn
luôn soi sáng cho nhau, làm mới với nhau, sử dụng lời nói ái ngữ với
phương pháp lắng nghe nhau. Có hai điều mình phải nắm cho vững là sử
dụng ái ngữ, không chửi mắng, trách móc, mình nói rất nhẹ
nhàng: ”Anh ơi ! Em khổ lắm, em như muốn tự tử vậy đó. Nếu anh không
giúp em thì làm sao được! Anh phải giúp em. Anh nói cho em nghe đi.
Tại sao từ khi em đi chợ về anh không nhìn em nữa, anh không có nói
chuyện với em nữa? Mỗi khi em hỏi câu gì anh cũng không trả lời?
Em đã làm nên tội tình gì khiến anh đối xử với em tàn tệ như vậy?”
Câu nói đó không phải là trách móc, là chửi mắng, nguyền rủa mà gọi
là ái ngữ.
Người đàn ông cũng có thể dùng ái ngữ. Người đàn ông không
nói: ”Mày là một đứa ngoại tình. Mày không xứng đáng ở trong nhà
này, mày đi đi. Không có nói như vậy, người đàn ông nói ái ngữ:
”Này em! Anh đau khổ quá chừng. Ngày trước anh tin em là một người
đàn bà trung kiên. Trong đời anh chỉ có một mình em thôi thì anh tin
rằng em cũng nghĩ như vậy. Nhưng mà anh đau khổ quá đi! Chắc anh
chết quá! Thằng nhỏ hồi nãy trong khi em đi chợ đã nói như vậy đó.
Nó nói mỗi đêm đều có một người đàn ông tới, thì người đàn ông đó
là ai? Em có thể cắt nghĩa cho anh được hay không?. Thì đó là nói
lời ái ngữ.
Thường thường khi một người khác, bất cứ người nào khác mà nói câu
đó hay là làm điều đó thì mình đau khổ rất ít. Nhưng mà bây giờ
người nói câu đó, làm điều đó lại là người mình thương nhất trên đời
nên mình đau khổ rất nhiều. Câu đó mà người khác nói thì mình không
đến nổi bị tổn thương lớn như vậy. Nhưng mà chính người mình thương
nhất trên đời nói câu nói đó cho nên mình mới đau khổ cùng cực. Nếu
một người nào đó ở ngoài làm chuyện đó thì mình cũng khổ nhưng mà
khổ rất ít, còn đây chính là người mình tin cậy, thương yêu nhất
trên đời mà lại làm cho mình cái vố đó thì làm sao mình chịu đựng
cho nổi. Nhưng thay vì lên án, chửi mắng thì mình sử dụng ái ngữ:
”Anh ơi! Em đã làm nên tội tình gì khiến cho anh đối xử với em như
vậy? Anh giúp em đi! Anh cắt nghĩa tại sao đi!”. Đó gọi là ái ngữ.
Mà đó là lời của Đức Thế Tôn dạy: mình phải dùng ái ngữ và
sử dụng phép lắng nghe.
Có nhiều ông chồng không có khả năng lắng nghe vợ. Có nhiều ông cha
không lắng nghe được con. Có nhiều người không sử dụng được ái ngữ
và nói ra một điều gì thì người kia dội liền không thể tiếp tục nghe
được. Ái ngữ và lắng nghe là hai pháp môn hết
sức mầu nhiệm. Nó tái lập được truyền thông giữa người và
người, giữa cha và con, giữa vợ và chồng.
Ví dụ anh có vấn đề với ba, anh không nói chuyện được với ba. Hai
cha con không nói chuyện với nhau được, cứ nói những câu nhát gừng
thôi. Bây giờ học được, biết rằng ba giận mình lắm, nhưng mà mình
cũng trách ba nhiều lắm. Tối nay mình về mình thở cho khỏe, cho nhẹ.
Mình thấy ba cũng có những khổ đau, bức xúc, bực bội không chuyển
hóa được cho nên ba nói ra những câu mất tình mất nghĩa đối với
mình. Mình cũng dở quá, mình cũng phản ứng lại. Đôi khi mình nói
hổn, mình tẩy chay ba để trả thù. Và mình làm cho tình trạng đó
càng ngày càng khó khăn hơn. Anh có thể về thưa với ba: ”Ba ơi! Con
biết là mấy năm nay ba khổ lắm. Ba có nhiều lo lắng, nhiều bức xúc,
ba bực mình về con lắm. Nhưng con đã không có giúp được ba mà lại
còn làm cho tình trạng tệ lên. Con đã hỗn hào, đã cãi lại và đã tẩy
chay ba. Con đã không thèm để ý tới ba. Con đâu có muốn làm cho ba
khổ. Nhưng mà tại vì con chưa học được, chưa thấy được những khó
khăn, những khổ đau của ba nên con dại dột con đã nói và làm những
điều khiến cho tình trạng nặng nề hơn. Con xin lỗi ba. Ba nói cho
con nghe đi, tất cả những khó khăn, bức xúc, khổ đau của ba. Con
muốn hiểu để con đừng dại dột tiếp tục như vậy nữa”. Đứa con nói
được câu như vậy thì gọi là ái ngữ.
Mà không tu thì không nói được như vậy. Tu trong năm ngày thì có thể
nói được. Đó là theo kinh nghiệm của tôi. Có những cặp vợ chồng, có
nhiều cặp cha con không nhìn mặt nhau được, không nói chuyện với
nhau được. Nhưng họ tới tu với tôi năm ngày thì có thể nói được.
Ngày nào họ cũng có nghe pháp thoại như vậy, ngày nào cũng tưới tẫm
hạt giống của tình nghĩa, của ân nghĩa. Tôi có viết những thư pháp
rất là nhẹ nhàng :
ba ơi
nhìn lại để thương mẹ nhiều hơn / mẹ ơi nhìn lại để thương ba
nhiều hơn.
Mình giận như vậy đó, nhưng mà khi người đó chết mình khóc hết nước
mắt. Mình không có đủ nước mắt để mà khóc. Cho nên mình phải tu,
phải biết phần trách nhiệm của mình trong đó. Nếu tình trạng nặng
nề, bế tắc là tại vì mình một phần chứ không phải tại người kia một
trăm phần trăm. Quý vị nên nhớ chuyện đó. Giữa ông và bà nếu có bế
tắc, nặng nề không phải chỉ do người kia một trăm phần trăm đâu.
Ông cũng trách nhiệm khoảng ba bốn chục phần trăm hoặc và bà cũng
trách nhiệm ba bốn chục phần trăm. Nếu giữa hai cha con có nặng nề,
bế tắc thì đừng nói là do ba một trăm phần trăm hay là do con mình
một trăm phần trăm. Không có đúng! Mình đều chịu chung một phần nào
trách nhiệm. Thấy được điều đó thì mình thương người kia: ”Ba ơi con
biết là trong mấy năm qua ba đau khổ lắm, bức xúc lắm, bực bội
lắm. Con đã không giúp được ba mà còn dại dột phản ứng để cho tình
trạng nặng nề thêm. Con đâu có muốn làm cho ba khổ, tại con dại
thôi, tại con không hiểu được những đau khổ, bức xúc của ba. Ba
thương con, ba nói cho con nghe những khổ đau, khó khăn của ba, ba
nói những dại dột của con để con từ rày về sau không có tái phạm”.
Nói như vậy gọi là ái ngữ.
Ba mình sẽ nói và trong khi ba nói thì mình ngồi nghe. Có thể ba nói
những điều rất là sai sự thật. Có thể ba nói những điều rất là oan
ức. Ba có rất nhiều tri giác sai lầm về ba và về mình, nhưng mà
mình cứ nghe như thường. Mình ghi nhận những điều ba nói. Ba có thể
lên án, buộc tội, trách móc mình. Trong khi ba nói mình thấy là ba
không biết, không thấy rõ vấn đề, ba có nhiều tri giác sai lầm.
Nhưng mình không cắt đứt lời ba, mình cứ để cho ba nói. Mình nói:
”Tội nghiệp ba quá! Ba nói thêm nữa”. Để cho ông xổ ra hết tất cả
cái bầu tâm sự cho ông khỏe, đó gọi là làm lắng dịu. Đó là thiền chỉ
làm lắng dịu. Rồi những cái hiểu sai của ông, những sai lầm của ông
thì mai mốt có thì giờ, mình sẽ từ từ giúp ông điều chỉnh nhận thức
của ông lại. Nhưng bây giờ mình chỉ lắng nghe thôi.
Lắng
nghe tức là đế thính, một pháp môn rất hay của đạo
Phật, bắt đầu bằng ái ngữ rồi lắng nghe: ”Anh ơi em biết là
trong những năm vừa qua anh rất khổ, rất bức xúc, rất khó chịu.
Em biết chứ phải không phải không biết đâu, em biết là anh rất đau
khổ. Em đã không giúp được anh bớt khổ mà còn làm cho tình trạng
tệ thêm. Em đã nói những lời, đã phản ứng, đã chua chát, em đã làm
cho anh khổ thêm. Em hối hận lắm. Đó tại vì em không biết được những
nỗi khổ niềm đau, những khó khăn của anh. Bây giờ anh giúp em đi.
Anh nói cho em nghe tất cả những khổ đau, khó khăn, bức xúc của anh
để em hiểu và không có tiếp tục làm những lỗi lầm vụng dại như xưa
nay”. Bà phải nói được như vậy với ông tại vì bà là đệ tử của đức
Quan Thế Âm Bồ Tát. Bà phải học hạnh lắng nghe của đức Quan Thế Âm
Bồ Tát. Quan Thế Âm là lắng nghe tiếng đau thương của cuộc đời.
Trong khi lắng nghe mình thấy người kia có nhiều tri giác sai lầm
quá, tội nghiệp, khổ là tại vì tri giác sai lầm. Cha có tri giác sai
lầm mà con cũng có tri giác sai lầm. Vợ có tri giác sai lầm mà chồng
cũng có tri giác sai lầm. Mình là người, mình đâu phải là thánh. Có
tri giác sai lầm hay hiểu lầm là chuyện rất là thường. Chàng Trương,
thiếu phụ Nam Xương đều là nạn nhân của tri giác sai lầm. Khi lắng
nghe mình thấy được tri giác sai lầm của người kia và mình cũng có
cảm tưởng, cũng thấy được có một vài điểm mà cha mình nói đúng. Mình
có dại dột, có vụng về thiệt. Những lỗi mà mình thấy thì mình tự hứa
rằng mình sẽ xin lỗi ba sau này. Nhưng bây giờ mình không xin lỗi
ngay, bây giờ là lúc đang lắng nghe. Khi thấy ba mình có những hiểu
lầm, có những tri giác sai lầm, mình cũng không nói liền, mình không
nói ba nói sai. Nói như vậy thì ba mất hứng, ba không nói nữa. Mình
nói: ”Tội nghiệp ba quá! Ba nói cho con nghe đi “, và mình nghe cho
hết. Nếu anh nghe ba được một giờ đồng hồ thì ba đở khổ nhiều lắm.
Bây giờ anh có khả năng lắng nghe học được trong khóa tu. Trước đó
anh lắng nghe ba không được, anh nghe vài câu là dội liền. Nhưng
bây giờ tới tu năm ngày thì về anh lắng nghe ba được. Nghe như vậy
gọi là nghe với tâm từ bi hay bi thính, nghe cho người kia
bớt khổ.
Tái lập truyền thông
Lạy đức Bồ Tát Quan Thế Âm, con nguyện học theo hạnh của ngài, biết
lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Đức Quan Thế Âm chỉ cần lắng
nghe thôi và lắng nghe bằng tất cả trái tim nên người ta bớt khổ
nhiều lắm. Dầu người kia trong khi nói có những tri giác sai lầm,
có ý hướng muốn trách móc, lên án, buộc tội, dù lời nói người kia có
chua chát thì mình vẫn có thể lắng nghe được. Mình lắng nghe là để
giúp cho người đó bớt khổ. Mình là con trai, con gái, mình hãy tập
lắng nghe cha, hãy tập lắng nghe mẹ mình. Chỉ cần một giờ đồng hồ là
tình trạng đã thay đổi rồi nếu mình biết lắng nghe. Sau đó một ngày
hoặc hai ngày thì mình mới cung cấp cho ba, cho mẹ, cho chồng hay
cho vợ một ít những thông tin mà người đó cần để điều chỉnh lại sự
nhận thức của họ. ”Anh ơi hôm kia anh nói như vậy đó nhưng sự thực
nó vậy nè, để em nói cho anh nghe”. Rồi mình nói cho người đó biết
sự thật để người đó biết là họ có tri giác sai lầm. Nhưng mình không
đưa ra quá nhiều thông tin cùng một lúc, tại vì người kia sợ tiếp
nhận không nổi. Khi người kia thấy họ có sai lầm chút đỉnh thì họ
chấp nhận rất dễ dàng. Nhưng mà nếu mình nói anh sai một trăm phần
trăm, những điều anh nói hoàn toàn sai hết thì khó cho người kia
chấp nhận lắm. Mỗi ngày mình tiết ra một chút ít sự thật để cho
người kia điều chỉnh lại nhận thức. Trong vòng mười ngày là người
kia điều chỉnh được nhận thức. Khi nhận thức không còn sai lầm thì
người kia không giận, không buồn, không trách nữa. Đó là phương
pháp tu mà tôi tin người nào cũng có thể làm được.
Có một bà người Thiên chúa giáo, người Công giáo. Bà là một người
trí thức, bà có bằng tiến sĩ, ông chồng cũng có bằng tiến sĩ và ba
đứa con học ở đại học Hoa Thịnh Đốn. Hai vợ chồng không nói chuyện
được với nhau và ba đứa con cũng không dám tới gần cha tại vì ông nổ
rất là dễ dàng. Ông la ông hét, ông đập bàn, đập ghế. Vì bà vợ và ba
đứa con không ai dám tới gần cho nên ông có cảm tưởng mình bị vợ con
tẩy chay. Sự thật vợ con không tẩy chay ông. Họ sợ quá thôi, ông như
trái bom, tới gần nó nổ một cái tan xác nên họ tránh. Tới bữa đó bà
chán lắm rồi, bà muốn tự tử, thấy cuộc đời không có niềm vui gì hết.
Chồng mình hành hạ mình quá đi, đối xử với mình tệ bạc quá, chỉ biết
la mắng, buộc tội, lên án, không nói được một lời dịu dàng
dễ
thương như ngày xưa.
Ngày xưa khi chưa cưới sao ông nói dịu dàng dễ thương như vậy, còn
bây giờ không có được một lời như vậy. Bà ta có một người bạn Phật
tử, bà chỉ chơi được với bà Phật tử đó thôi. Bà gọi điện thoại nói:
”Chắc em phải tự tử, em phải chết. Sống như thế này không có lạc
thú. Bà Phật tử mới nói: ”Khoan đã chị. Chị tới thăm em đi. Em nói
với chị điều này trước rồi chị muốn chết thì chết”. Bà Phật tử đó
học theo pháp môn làng Mai. Bà biết thực tập thở, thực tập mỉm cười,
thực tập thiền đi, bà biết nhận diện ôm ấp những khó khăn và những
khổ đau trong lòng. Có một cuốn băng của thầy gọi là nghệ thuật gỡ
bom. Người kia giống như trái bom, tới gần lôi thôi nó nổ. Nhưng mà
mình có cách gỡ bom. Mình sử dụng phương pháp ái ngữ và lắng nghe
để lấy ra những bực bội, những tri giác sai lầm của người kia thì
giống như mình gỡ trái bom. Bà Phật tử này rất muốn bà bạn Thiên
chúa nghe cuốn băng đó để về thực tập mà giải quyết vấn đề. Nhưng bà
Thiên chúa rất cố chấp. Bà nghĩ mình là người Công giáo mà nghe pháp
thoại thì đâu có đúng thành ra thường thường bà từ chối. Bữa đó khi
bà đi taxi tới thì bà Phật tử nói: ”Chị cứ nói đi nói lại em là
người bạn duy nhất của chị, em nghi chuyện này không có thiệt. Tại
sao không thiệt?. Tại vì nếu em là người bạn duy nhất trên đời của
chị thì chị đã thỏa mãn cái yêu cầu của em rồi. Điều yêu cầu duy
nhất của em là chị nghe cuốn băng này của thầy em. Chị nghe được
cuốn băng này của thầy em thì chị về giải quyết vấn đề gia đình của
chị được. Vậy mà chị không thèm nghe, như vậy em đâu phải là người
bạn duy nhất trong đời chị đâu”. Bà đạo Thiên chúa mới nghĩ rằng:
”Chà, thôi mình ráng nghe một chút đi rồi mình chết cũng không
sao”. Bà nói : ”ok, đưa cái băng ra đây”.
Đó là băng cassette một giờ rưỡi nói về nghệ thuật lắng nghe và ái
ngữ, giúp cho người kia nói ra hết những nỗi khổ niềm đau rồi mình
giúp cho họ điều chỉnh nhận thức. Trong chúng ta có nhiều người là
thiếu phụ Nam Xương hay là chàng Trương lắm. Nếu không tu học thì sẽ
đi vào thế bế tắc của hai người. Thành ra dự khóa tu này về mình
phải làm liền. Bà đạo Thiên Chúa là một người thông minh. Nghe cuốn
băng xong thì niềm hy vọng nảy sinh trong tâm hồn bà. Bà thấy được
rằng lỗi không phải một trăm phần trăm là do ông mà ít nhất là có ba
bốn chục phần trăm do mình. Mình cũng dữ lắm, mình cũng phản ứng,
cũng chua chát, cũng buộc tội trở lại chứ đâu có thua gì đâu. Ngày
xưa khi chưa cưới mình nói với ông những lời dịu dàng. Nhưng bây giờ
mỗi khi nói mình cũng nói dữ như bà chằng vậy. Thành ra mình cũng có
lỗi một phần nào. Đó là sự giác ngộ. Bà muốn về để áp dụng những
điều trong cuốn băng dạy. Bà Phật tử nói: ”Chưa được đâu chị ơi! Chị
phải tu ít nhất là năm ngày thì chị mới có đủ sức. Lắng nghe và ái
ngữ phải thực tập năm ngày thì mới có thể làm được. Thầy em sắp qua,
thầy sẽ mở hai khóa tu, một khóa bằng tiếng Việt và một khóa bằng
tiếng Anh. Em mời chị ghi tên tham dự khóa tu bằng tiếng Việt và
xong khóa đó thì chị có thể về giúp anh được”. Bà đạo Thiên chúa
chấp nhận ghi tên vào khóa tu.
Trong khóa tu, mỗi ngày bà đều nghe pháp thoại như vậy, mỗi ngày cái
hạt giống của ân tình, của kỷ niệm, của hạnh phúc được tưới tẩm.
Mình nhớ lại ngày xưa hai người đã có những thời gian có hạnh phúc
nhưng làm ăn sao đó mà bây giờ nó trở thành địa ngục. Và mình có hy
vọng có thể phục hồi lại được cái thiên đường hạnh phúc của tình yêu
ngày xưa. Trong năm ngày bà thực tập đi từng bước rất thảnh thơi,
ôm ấp nỗi khổ niềm đau, sử dụng khả năng lắng nghe và ái ngữ. Sau
khóa tu về bà đã thành công, bà rất lặng lẽ bà rất là nhẹ nhàng. Bà
tới bên ông, ngồi xuống và bà bắt đầu áp dụng cái phương pháp ái ngữ
: ”Ông ơi, tôi biết năm sáu năm nay ông khổ lắm, bức xúc lắm, ông
bực bội chúng tôi lắm. Ông có những khó khăn, có những lo lắng,
những buồn khổ. Tại vì tôi với mấy đứa không hiểu được những điều đó
cho nên chúng tôi mới nói, mới phản ứng, mới cư xử làm cho ông càng
ngày càng khổ thêm. Tôi đâu có muốn làm cho ông khổ đâu. Nhưng tại
vì tôi không biết được hết những nỗi khổ niềm đau, những khó khăn,
bức xúc của ông cho nên tôi mới dại dột phản ứng lại một cách chua
chát, nặng nề như vậy. Tôi không bao giờ muốn cho ông khổ, tại tôi
dại dột, tôi chưa biết được những nỗi khổ niềm đau của ông. Bây giờ
ông phải giúp tôi, ông nói cho tôi nghe những khó khăn, bức xúc,
những nỗi khổ niềm đau của ông. Ông nói cho tôi nghe những dại dột,
lầm lỡ của tôi để từ nay về sau tôi không có lặp lại nữa”. Bà nói
được như vậy mà trước khóa tu chắc chắn là bà nói không được, sử
dụng không được cái ngôn từ hòa ái gọi là ái ngữ đó. Cho nên tu bốn
ngày năm ngày là cần lắm.
Khi bà nói được như vậy rồi thì ông bật ra khóc như một đứa con
nít. Năm bảy năm nay có bao giờ bà nói với ông những lời nhẹ nhàng
như vậy đâu. Bà nói lời nào cũng chua chát, buộc tội mà bây giờ bà
nói được như vậy. Ông khóc. Bà thấy ông khóc thì bà biết trái tim
của ông đã mở ra rồi. Bà nói: ”Tội nghiệp em mà anh. Anh nói cho em
đi, tất cả những khó khăn, những khổ đau, bức xúc, những tuyệt vọng
của anh để em nghe, để em đừng có dại dột làm như mấy năm vừa rồi
nữa. Anh phải giúp em, một mình em không thể nào làm được chuyện
này”. Đêm đó ông nói cho bà nghe hết. Và cố nhiên bà thấy có một vài
điều ông nói là đúng sự thật. Mình đã có dại dột thiệt, có dữ dằn
thiệt. Nhưng mà ông cũng có rất nhiều tri giác sai lầm. Bà nói:
”Tội nghiệp ông quá, vậy mà em không biết”.
Bà lắng nghe luôn hai ba tiếng đồng hồ và khuya đó hai người hòa
giải được với nhau, ôm lấy nhau mà khóc. Đó là người Thiên chúa
giáo, không phải Phật tử. Sự thành công của bà là dụ ông ghi tên vào
khóa tu thứ hai bằng tiếng Anh. Và ông cũng tu rất đàng hoàng.
Phải nói rằng bà Thiên chúa đó tu rất giỏi tại vì đối với bà đây là
vấn đề sống chết của mình. Bà đã muốn tự tử rồi. Còn mình là Phật tử
mà đôi khi mình tu sơ sơ, tu khơi khơi, không có đầu tư một trăm
phần trăm thân và tâm vào chuyện tu. Ngồi thiền cũng vậy, đi thiền
cũng vậy mà ăn cơm cũng vậy, mình không có tu bằng hết cả con người
của mình. Sau khi ông ta tham dự được khóa tu đó rồi, ngày chót
trong buổi thiền trà, ngồi vòng tròn, ông đã nói ra những câu rất có
tình có nghĩa. Ông nói như thế này: ”Thưa đại chúng, tôi xin giới
thiệu với đại chúng một vị Bồ Tát của đời tôi, người đã làm tất cả
cho tôi vậy mà tôi đã đối xử một người đó một cách rất là tệ bạc,
nhà tôi”. Ông nói như vậy đó, nếu không có bà thì không có ngày hôm
nay. Sau đó hai ông bà đã rủ được ba cháu tới dự một ngày tu quán
niệm. Gia đình đó hòa giải với nhau được và họ có lại hạnh phúc.
Tôi thấy gia đình Thiên chúa giáo đó làm được, mà họ chỉ tu có năm
ngày thôi thì tại sao mình làm không được? Mình là con nhà Phật từ
lâu rồi, phương pháp tu cũng không có khó gì hết, không khó gì mấy:
nhận diện những nỗi khổ niềm đau, làm cho nó êm dịu bớt, học nói lời
ái ngữ hoặc học lắng nghe mà đừng có cắt đứt lời người ta, thiết lập
lại được sự truyền thông giữa cha và con, giữa vợ và chồng. Nếu ông
có con trai hay con gái và có những khó khăn với con trai hay con
gái thì ông cũng nói như vậy: ”Này con, ba biết là trong những năm
vừa qua con cũng có những nỗi khổ niềm đau của con. Nhưng tại vì ba
không biết rõ cho nên ba hay la con, hay trách móc con. Con nói đi,
con có những bức xúc nào, khó khăn nào trong cuộc đời của con, trong
gia đình trong học đường hay trong xã hội? Con nói cho ba nghe đi!
Ba đâu có muốn làm khổ con. Tại vì ba chưa thấy được những khó khăn,
những nỗi khổ niềm đau của con, con nói cho ba nghe đi”. Nghe
vậy thì tự nhiên mình có hứng mình nói cho ba nghe, rồi ba sẽ hiểu
mình hơn. Và nếu mình có tri giác sai lầm về ba, ba sẽ sửa cho mình.
Trong những năm hành đạo ở Tây Phương chúng tôi đã giúp được cho vô
số những cặp cha con, cặp vợ chồng tái lập được truyền thông, đem
lại hạnh phúc gia đình, hòa giải với nhau. Có những lúc người cha
và người mẹ không tới được khóa tu nhưng đứa con trai hay đứa con
gái tới được. Thì sau khi tu một khóa năm ngày hay bảy ngày người
con trai hay người con gái đó về giúp cha giúp mẹ hòa giải được với
nhau. Hồi nãy tôi có nói đến cái điện thoại di động. Tôi xin kể một
chuyện trong khóa tu cho người Đức.
Miền Bắc nước Đức có một thành phố gọi là Oldenburg. Thường thường,
cứ hai năm một lần tôi có khóa tu cho người Đức. Có khoảng sáu trăm
người tới tu. Bữa đó là tới ngày thứ năm của khóa tu rồi, chỉ còn
một ngày chót nữa là ngày thứ sáu thôi. Sau buổi pháp thoại thì tôi
nói rằng: ”Thưa các đạo hữu. Chúng ta đã tu tới ngày thứ năm, quý vị
đã học và đã thực tập. Vậy thì đã đến lúc quý vị phải áp dụng vào để
hòa giải với người thân của quý vị. Nếu người thân đó là vợ, chồng,
con mình hay là cha mình mẹ mình thì quý vị phải thực tập hòa giải
cho được. Tôi cho quý vị kỳ hạn từ mười một giờ sáng hôm nay cho
đến mười hai giờ khuya đêm nay phải làm cho xong chuyện hòa giải,
phải sử dụng phép ái ngữ và lắng nghe. Nếu người đó có trong khóa
tu thì rất dễ tại vì người đó đã được tưới tẩm những hạt giống của
ân tình, của hiểu và thương. Con nếu những người đó không tới được
thì quý vị được phép sử dụng điện thoại di động. Sáng hôm sau có bốn
người Đức, bốn anh chàng khoảng ba chục tới ba mươi lăm tuổi lên báo
cáo là hôm qua, trước mười hai giờ khuya họ đã hòa giải được với cha
họ bằng điện thoại di động, sử dụng ái ngữ và nói giống hệt như câu
nói mà họ đã học trong khóa tu: ”Ba ơi lâu nay con đã làm cho ba
khổ. Con dại dột tại vì con không biết những khó khăn, những khổ
đau, buồn tủi của ba. Con đã phản ứng một cách dại dột. Ba nói cho
con nghe đi, con đâu muốn làm cho ba khổ”. Bên kia người cha đã nói,
người con đã xin lỗi và hai cha con đã hòa giải được qua điện thoại
di động.
Trong khóa tu ở Hồng Kông, ở Ma Cao cũng có nhiều bà, nhiều ông báo
cáo rằng họ đã dùng điện thoại di động mà hòa giải được với vợ hay
là chồng của họ.Rất là hay! Chúng ta có những kho tàng chánh pháp,
có những phương pháp thực tập rất là hay mà chúng ta không biết sử
dụng. Vì vậy cho nên trong khóa tu này quý vị nên học hỏi cho thấu
đáo phương pháp ôm ấp nỗi khổ niềm đau, làm lắng dịu nỗi khổ niềm
đau để mình có thể thực tập được ái ngữ và lắng nghe. Nếu làm được
thì thế nào cũng hòa giải được ở trong gia đình và tìm lại hạnh
phúc. Tội nghiệp cho các cháu! Nếu mà ông bà làm khổ nhau thì các
cháu không có niềm tin nơi nếp sống gia đình, các cháu sẽ đi tìm sự
khuây khỏa ở ngoài và nó sẽ rơi vào cạm bẫy của ma túy, băng đảng,
đĩ điếm. Những tệ nạn xã hội đó càng ngày càng nhiều là tại vì trong
gia đình không có hạnh phúc. Muốn gia đình có hạnh phúc là phải tái
lập truyền thông, phải hòa giải.
Trong nền đạo lý của chúng ta có những phương pháp thực tập. Thực
tập trong năm ngày, mười ngày mình có thể thành công được. Các thầy
các sư cô đã được học những phương pháp như vậy. Quý vị tới tham vấn
các thầy các sư cô để hỏi thêm. Chúng ta tổ chức những nhóm pháp đàm
và trong mỗi nhóm pháp đàm có một vài thầy, một vài sư cô. Quý vị
bàn những câu chuyện này, nó rất có ích lợi,
và học hỏi nắm vững pháp môn thực tập để về phục hồi được hòa khí
và hạnh phúc trong gia đình.
Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính
là con đường / There is no way to happiness - happiness is the
way (Thích Nhất Hạnh) |
|