PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

...  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (...  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tớichết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (...  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES

 

 Nghệ thuật sống thiền :

Bốn phép tuỳ niệm (tt.)
(Làm đẹp con người và xã hội)

  • Tháng 08.2008 - Chân Giác Lưu phiên tả & biên tập :
    Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 5.06.2008 trong mùa An Cư 2008 tại tu viện Bát Nhã - Bảo Lộc (Lâm Đồng)
    [Chân Minh hiệu đính và cập nhựt ngày 13.10.2008]
     

Kính thưa đại chúng,
Hôm nay là ngày mồng năm tháng sáu dương lịch, năm hai ngàn không trăm lẽ tám. Chúng ta đang ở tại thiền đường Cánh đại bàng, tu viện Bát nhã, Bảo lộc, Lâm đồng trong khóa An cư kiết hạ. Hôm nay chúng ta học tiếp về niệm giới.


Nhiếp luật nghi giới.

Giới là sīla, được định nghĩa là giữ gìn giới luật và uy nghi, bảo hộ tất cả những gì tốt lành và phụng sự cho các loài chúng sanh. Chữ Hán gọi là Nhiếp luật nghi giới, Nhất thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới.

Trước hết là bảo hộ giới luật và uy nghi. Khi chúng ta tiếp nhận giới, ví dụ như là năm giới, thì chúng ta nguyện sẽ giữ năm giới đó toàn đẹp, đừng làm bể, đừng phá giới. Chúng ta phải trì giới, tức là giữ cho nó được nguyên vẹn. Giữ giới được nguyên vẹn thì ta được nguyên vẹn. Giới bị bể nát thì ta cũng bị bể nát theo. Giới có công năng hộ trì, bảo bọc. Có một ông lớn trong nhà nước xin tôi hộ niệm cho ông. Tôi nói: Tôi hộ niệm thì được rồi, nhưng mà ông phải giữ giới. Nếu ông không giữ giới thì việc hộ niệm của tôi không có hiệu quả. Mỗi hai tuần ông phải tụng đọc năm giới, như vậy việc hộ niệm của tôi sẽ có kết quả chắc chắn.

Ông ấy đã tổ chức tụng giới mỗi hai tuần. Giới là năng lượng bảo hộ, che chở. Khi mình tụng giới, mình sống theo giới, thì mình được bảo hộ, được che chở. Cho nên mình giữ cho giới được nguyên đẹp. Lỡ có gì sứt mẻ một chút thì phải sám hối, làm cho nó nguyên vẹn trở lại.

Trong giới có luật và có uy nghi. Uy nghi cũng là giới nhưng thuộc về phần chi tiết, hình thức. Uy nghi có công năng phòng ngừa và làm cho đẹp. Chúng ta thường nói tới bốn uy nghi, tức là đi-đứng-nằm-ngồi, bốn tư thế của thân hình mình. Đi cũng phải có uy nghi, đứng cũng phải có uy nghi, nằm cũng phải có uy nghi và ngồi cũng phải ngồi cho uy nghi. Có uy nghi thì đi cũng đẹp, đứng cũng cũng đẹp, nằm cũng đẹp mà ngồi cũng đẹp. Mình thấy rất rõ, uy nghi đó là chánh niệm. Hễ có chánh niệm thì đi cũng uy nghi, cũng đẹp, đứng cũng đẹp, ngồi cũng đẹp mà nằm cũng đẹp. Thành ra  uy nghi làm cho mình đẹp.


Tĩnh lặng - uy nghi (Rừng sồi Xóm Thượng mùa hè 2005)

Uy nghi cũng có công năng bảo hộ cho mình, ngăn ngừa cho mình. Khi mình lái xe ban hôm ban khuya, đi đến đèn đỏ. Mục đích của đèn đỏ là để cho mình dừng lại, đừng phóng tới. Nhưng  đôi khi mình thấy bên kia đâu có xe, bên nọ không có xe, phóng tới chắc cũng không sao. Rồi mình mình bẻ luật mình phóng. Có thể là không có gì xẩy ra hết. Nhưng mà cũng có thể xẩy ra tai nạn.

Có thể mình nói tại sao không có xe mà mình cứ chịu chết đứng ở đây đợi cho đèn xanh rồi mới đi. Mình cứ đi đại, không sao đâu! Mình đâu có thấy xe gì đâu? Vậy là mình đã bẻ cái uy nghi, mà bẻ uy nghi thì rất là nguy hiểm. Ví dụ như một người tu, một sư cô hay một sư chú đi ra ngoài, đi chợ hay đi dạo phố thì uy nghi là không bao giờ được đi một người. Đi một người cũng có thể đi về không sao. Nhưng mà uy nghi bắt buộc phải đi với ít nhất là một người khác, như là với đệ nhị thân. Người đó sẽ nhắc nhở, sẽ bảo hộ, cứu trợ mình khi mình gặp tai nạn. Có khi mình thấy cái uy nghi đó không cần thiết nhưng mà vì đó là uy nghi mình phải theo thôi. Một sư cô hay một sư chú đi ra ngoài, không được đi một mình mà phải đi với một người thứ hai, phải có uy nghi.

Ở Làng Mai, khi mình lên mạng internet thì cũng phải đi hai người. Đó là uy nghi của Làng Mai. Đi lên internet cũng nguy hiểm, cũng có thể đi vào những vùng nguy hiểm. Vì vậy cho nên trong số những uy nghi của các thầy, các sư cô Làng Mai là mỗi khi lên mạng internet thì không được đi một mình, phải đi với một người khác mới được. Dầu là mình tìm những tài liệu để học hỏi cũng vậy, cũng phải đi hai người. Uy nghi bảo hộ cho mình. Đi một mình, có thể một chuyến không sao, hai chuyến không sao, nhưng đi tới chuyến thứ ba thì ma bắt. Trong internet có những con ma, ghê lắm. Có một con yêu râu xanh ở bên Pháp, nó giăng lưới ở trong internet. Nó năm mươi mấy tuổi nhưng đóng vai một chàng thanh niên hai mươi bốn tuổi, một sinh viên, và nó giăng lưới bắt được nhiều cô gái vị thành niên. Thành thử rất là nguy hiểm! Biết bao nhiêu chàng trai vị thành niên và cô gái vị thành niên đi lên mạng bị cuốn hút theo. Cha mẹ có thể cùng đi với con, đi theo với con, đi chơi với con, đi lên internet. Còn ở trong giới xuất gia thì mình phải đi với thầy, với sư chị, với sư anh . Đó là uy nghi!

Uy nghi phòng ngừa, bảo hộ và làm cho mình đẹp hơn. Có giới luật và có uy nghi, có hai cái. Uy nghi được gọi là học pháp. Các thầy có cả trăm uy nghi. Các sư chú, các sư cô mới đi xuất gia cũng có gần cả trăm uy nghi. Chúng ta phải học giới luật và uy nghi cho kỹ, chữ Hán gọi là nhiếp luật nghi. Nhiếp luật nghi giới, tức là ôm lấy, giữ lấy, đừng để cho rơi rụng những giới luật cùng những uy nghi và bảo hộ những gì đẹp và lành.


Nhiếp thiện pháp giới.
Tất cả những cái gì đẹp, tất cả những cái gì lành, tất cả những cái gì thiện, mình phải phát tâm bảo hộ giữ gìn đừng để cho tán thất. Ví dụ như dòng sông của mình rất đẹp, mình đừng làm cho nó ô nhiễm. Ngọn núi của mình rất hào hùng, mình đừng bắn đá để lấy làm nhà. Biển cả, mình đừng làm cho ô nhiễm. Những tập tục đẹp đẽ trong gia đình, trong làng xóm, mình giữ lại, đừng để cho nó hư hao. Đi phải thưa, về phải trình! Có rất nhiều cái đẹp, có rất nhiều cái lành. Thấy người hoạn nạn thì phải giúp đỡ. Thấy người té thì phải tới nâng dậy. Thấy người có tai nạn thì phải nhào vô để cứu giúp. Đó là bảo hộ những cái gì đẹp và lành.

Giới không chỉ là không làm những điều ác mà giới có nghĩa là phải làm những điều lành. Bất cứ điều lành nào mà mình làm được thì mình phải làm, không làm tức là phạm giới. Ví dụ như có hai người đánh nhau. Một người đang đả thương người khác mà mình đứng dững dưng ở ngoài, không can thiệp là mình phạm giới. Tuy là mình không có giết, không có đánh, nhưng mà mình đứng quan sát bên ngoài như một kẻ bàng quan mà không can thiệp, đó là phạm giới tiếng Pháp gọi là non intervention, non intervention thì phạm giới. Thành ra tuy mình không làm ác mà người ta làm ác mình không cố gắng để ngăn lại thì mình cũng phạm giới. Giới không phải chỉ là bảo hộ luật và nghi mà còn là bảo hộ những gì đẹp và lành. Làm tất cả những gì đẹp và lành gọi là nhiếp thiện pháp. 


Nhiêu ích hữu tình giới.
Nghĩa thứ nhất của giới là nhiếp luật nghi giới, nghĩa thứ hai là nhiếp thiện pháp giới, và nghĩa thứ ba của giới là phụng sự cho mọi loài tức là mình phải làm ích lợi, làm vơi bớt những khổ đau của các loài mà trước là loài người. Làm vơi bớt những khổ đau của những người khác và đem lại cho họ niềm vui sống cái đó gọi là nhiêu ích hữu tình.

Vậy thì phạm vi hành trì của giới rất là rộng. Trước hết phải bảo hộ luật và nghi (giới luật và uy nghi) đừng để cho sứt mẻ.

Giới pháp của Đức Thế tôn là luật nghi chánh niệm mà chúng con đang hành trì, là giới thân nguyên vẹn, là giới thân không bao giờ bị sứt mẻ. Đừng để cho nó bị sứt mẻ. Hể nó hơi bị cái gì thì phải sám hối, phải làm nguyên trở lại, làm lành trở lại. Phương pháp sám hối trước đại chúng rất là hay. Nó bị sứt mẻ một chút là phải làm cho nó nguyên vẹn trở lại liền. Làm với cái tâm.

Vì vậy cho nên người ta nói là: Giới là không làm những điều ác và phải làm những điều lành. Giới là làm những điều lành, là bảo hộ những gì đẹp và lành đang có, đừng để cho nó tan nát. Giới là làm bất cứ điều gì có thể để cho mọi loài chúng sanh thêm vui và bớt khổ. Giới có nghĩa như vậy.

Giới có ba nhóm gọi là tam tụ, tam tụ tịnh giới,  ba bó. Bó thứ nhất, giống như là bó hoa, là duy trì luật và nghi. Bó thứ hai là bảo hộ cái gì đẹp và lành và bó hoa thứ ba là phụng sự cho chúng sanh. Uy nghi của mình là trong khi nghe pháp là phải tắt điện thoại di động, nếu không là nó làm nhiễu hại cho sự chú tâm của đại chúng.

Khi mình nghe nói tới ba mặt của giới, ba bó hoa, ba nhóm giới thì mình thấy phạm vi của giới rất là rộng. Giới rất là tích cực, một mặt nó bảo hộ, một mặt nó xây dựng. 


Ngũ căn, ngũ lực.
Và chúng ta hôm qua đã nói tới giới- định- tuệ, tam học. Tam học là ba sự rèn luyện hay ba sự tập luyện. Tam học là ba ngành, ba môn tập luyện. Chúng ta cũng biết rằng giới định tuệ tức là niệm định tuệ. Niệm đưa tới định và giới. Vì là niệm cho nên có định. Trong giáo lý ngũ căn, ngũ lực thì chúng ta thấy rất rõ. Ngũ căn là: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Niềm tin nó đưa lại sự chuyên cần. Khi mình có niềm tin nơi chánh pháp thì mình có cái năng lượng của sự chuyện cần. Và khi mình có chuyên cần thì năng lượng chánh niệm của mình phát triển. Khi năng lượng niệm hùng hậu thì đưa tới năng lượng của định và khi năng lượng của định hùng hậu thì đưa tới tuệ. Một khi có tuệ rồi thì đức tin càng lớn thêm nữa. Đó gọi là ngũ lực tức là năm loại năng lượng.

Người tu là người phải có khả năng chế tác năm loại năng lượng này trong đời sống của mình, chế tác niềm tin cho mình và cho người khác, chế tác sự siêng năng cần mẫn. Khi chế tác được năng lượng của niệm, của định và của tuệ thì người tu trở thành một người rất giàu có, giàu có năm năng lượng đó. Năm năng lượng đó đem lại rất nhiều hạnh phúc và giúp cho mình cứu được không biết bao nhiêu người.

Ngoài đời người ta đi tìm những năng lượng khác như tiền tài, quyền lực, danh vọng, nữ sắc. Còn mình là người tu, mình đi tìm năm năng lượng tín, tấn, niệm, định, tuệ. Mỗi ngày mình phải làm giàu thêm năm năng lượng này. Ngày nào mình không làm giàu thêm được là một ngày uổng phí. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân, mỗi khi rửa rau, mỗi khi đặt tọa cụ là mình phải có niệm và định, nếu không thì không khác gì người đi làm thuê. Nhưng đi làm thuê thì người ta có được lương, còn mình thì có lương gì đâu. Cái lương của mình là ngũ lực, tức là năm cái nguồn năng lượng nó làm cho mình trở thành ra năm cái nguồn năng lượng thánh thiện, mình trở thành một đạo sư, mình có thể cứu đời, độ người được. Vậy thì ngay ở trong ngũ căn ngũ lực mình thấy rõ ràng có bộ ba niệm-định-tuệ. Niệm ở đây, nói là giới cũng được: tín, tấn, giới, định, tuệ cũng được, không sai. Mình có thể nói như thế này: Phạm vi của niệm rất rộng và giới nằm gọn ở trong niệm. Giới có nhiếp luật nghi, nhiếp thiện pháp và nhiêu ích hữu tình tức ba diện hành trì hay ba diện hoạt động là bảo hộ luật nghi, bảo hộ tất cả những gì đẹp lành, làm được bất cứ cái gì để cho chúng sanh bớt khổ và được an vui. Đó là giới và giới nằm trong niệm. 


Bốn niệm xứ.
Chúng ta biết rằng niệm rất là rộng. Chúng ta niệm Bụt, chúng ta niệm Pháp, chúng ta niệm Tăng và còn nhiều niệm nữa. Trong kinh Niệm xứ thì chúng ta niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp, có bốn niệm xứ. Trước hết chúng ta thấy trùng hai chữ pháp. Chữ pháp trong niệm Bụt - niệm Pháp - Niệm Tăng - niệm Giới là giáo pháp của Đức Thế tôn còn chữ pháp trong bốn niệm xứ là thế giới của hiện tượng, thế giới của những tri giác. Thí dụ ngọn bút này là một pháp, bàn tay này là một pháp, tiếng chuông là một pháp, mặt trời là một pháp, cây thông là một pháp, gọi là vạn pháp. Vạn pháp là đối tượng của nhận thức của mình, là đối tượng của tri giác. Cho nên chữ Pháp trong Phật-Pháp-Tăng không phải là chữ pháp trong bốn niệm xứ hay bốn lĩnh vực của sự thực tập chánh niệm mà lĩnh vực thứ nhất là thân thể mình.

Quán chiếu về thân thể mình gọi là niệm thân. Và sau đó mình đi sang lĩnh vực thứ hai của quán niệm đó là niệm thọ, tức là những cảm giác, cảm xúc.

Quán chiếu về những cảm giác dễ chịu, những cảm giác khó chịu hay những cảm giác trung tính gọi là niệm thọ.

Niệm tâm có nghĩa là, khi có những tâm hành như như buồn, giận, lo, sợ, vui, khổ, thương, ghét hiện ra thì mình phải quán chiếu, phải nhận diện nó. Đó gọi là niệm tâm.

Nhận diện những sự vật gọi là niệm pháp, pháp là những đối tượng của tri giác mình. Cuốn sách, cái gối ngồi, cái nhà, dòng sông, mặt trời, mặt trăng đều là pháp hết, đều là đối tượng của tâm. Đối tượng của tâm gọi là pháp. Thấy là thấy cái gì, nghe là nghe cái gì? Pháp gồm có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Pháp tức là đối tượng của tâm.

Như vậy thì niệm tức là giới và giới tức là niệm. Niệm cũng là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. 


Giới làm đẹp con người và xã hội.

Hôm trước chúng ta có nói rằng, trong khóa tu an cư kiết hạ năm ngày thì các thầy, các sư cô, các sư chú được đọc hai cuốn sách và phải đọc như là đọc kinh vậy. Cuốn sách thứ nhất là Người Việt, nói về những phẩm chất, những thói hư tật xấu của người Việt. Khi đọc thì mình thấy có những thói hư tật xấu làm cho mình đau khổ và làm cho xã hội mình không đẹp. Thấy được như vậy để sửa chữa và giới luật uy nghi phải được đem ra sử dụng để có thể xóa bỏ những thói hư tật xấu đó.

Sự phát triển kinh tế và kỹ thuật đưa tới những tệ nạn xã hội như ma túy, bạo động trong gia đình, trong học đường, trong xã hội, đĩ điếm, say sưa, tự tử, ly dị, tan nát gia đình. Bạo động (đánh, chửi, chém, giết), tham nhũng và nhiều tệ nạn khác làm cho xã hội mình, gia đình mình bị khổ đau.

Các nhà chính trị cũng cố gắng làm thế nào để những tệ nạn xã hội đó được phòng ngừa, được xóa bỏ. Những tôn giáo, những nhà đạo đức cũng cố gắng làm thế nào cho nó đừng lan tràn. Sự thật là mỗi ngày một lan tràn nhiều hơn những chuyện say rượu, đánh vợ, đánh con và tạo ra những tai nạn ở trên đường giao thông. Tai nạn giao thông bây giờ có nhiều trở lại, mỗi năm có mười mấy ngàn người chết ở trên đường lộ vì tai nạn lưu thông. Mỗi lần có một người chết như vậy là biết bao nhiêu người đau khổ, tốn rất là nhiều tiền. Đó là một tệ nạn xã hội. Uống rượu say, lái xe ẩu, không có tinh thần trách nhiệm, đó là những thói hư tật xấu của mình. 

Con đường thực tập trong đạo Phật là giới. Khi mình thọ giới là mình nguyện diệt trừ những tệ nạn đó ngay trong bản thân và trong gia đình mình. Phải có những biện pháp rất cụ thể để áp dụng được liền lập tức. Nếu áp dụng được vài ba tuần là đã có những thay đổi rất lớn trong bản thân và trong gia đình. Khi thọ giới mình phải quỳ xuống, phải có sự chứng kiến của nhiều thầy, nhiều sư cô và một số đông phật tử để chứng minh cho mình. Thọ giới về là mình thực tập chứ không phải để có điệp hộ giới cất vào trong rương và khi nào trời ẩm quá thì đem ra phơi.

Hiện bây giờ, như ngày hôm qua tôi có nói, nhà nước có chính sách lập những ấp, những thôn văn hóa, những khu phố văn hóa nghĩa là những khu phố ở trong đó không có tệ nạn xã hội. Đó là chính sách mình cần phải yểm trợ. Yểm trợ bằng cách gì? Không có lý mình giơ tay lên hoan hô thôi thì đủ sao?

Mình tưởng tượng vòng tròn này là một ấp hay một xã và trong đó có ủy ban nhân dân xã. Ông chủ tịch ủy ban nhân dân, những người khác cộng tác với ông như những công an, những cảnh sát, những người có liên hệ tới nhà nước thì họ có bổn phận phải có hồ sơ của từng hộ. Họ phải biết rằng hộ này có bao nhiêu người và tên là gì? Có những người ở hợp pháp hay không hợp pháp? Họ phải biết, họ bắt buộc phải biết! Những người công an có phận sự phải cho những tin tức rất là rõ ràng, rất là chính xác để kiểm soát. Khi trong ấp, trong xã xẩy ra chuyện ăn cắp, hay bạo động thì hội đồng nhân dân xã, ông chủ tịch, những người công an phải biết để bắt, để ngăn ngừa lại. Thường thường pháp luật là như vậy: kiểm soát và trừng phạt. Kiểm soát và trừng phạt đạt tới một kết quả nào đó, nhưng cũng chưa đủ.

Trong xã có một ngôi chùa, một ngôi chùa xứng đáng với ý nghĩa của một ngôi chùa, nghĩa là trong đó có tu, có các thầy hoặc là có các sư cô biết tu. Trong chùa mà có thực tập giới rất là đàng hoàng thì chùa đó mới đúng là một cái chùa và những người phật tử ở trong xã hay là trong ấp tới chùa để tiếp nhận giới đem về thực tập.  

Phương pháp của chùa khác với phương pháp của nhà nước là chùa không có kiểm soát không có trừng phạt mà chỉ yêu cần người ta tự nguyện thôi. Không có ép buộc! Chỉ tự nguyện thôi! Anh thọ giới hay không thọ giới đó là do anh, tôi không ép anh được. Tôi chỉ gây cảm hứng cho anh thọ giới. Rôi nói rằng nếu anh thọ giới thì anh có con đường tâm linh và anh sẽ được bảo hộ. Thực tập giới anh sẽ được bảo hộ và anh bảo hộ được gia đình anh. Anh có thể xóa được những tệ nạn hiện đang có trong gia đình anh, anh có thể xóa những tệ nạn đó ở trong khu phố của anh. Vấn đề này là vấn đề của tự nguyện. Mình tu là vì mình muốn tu chứ không ai bắt mình phải tu. Không có vấn đề kiểm soát, không có vấn đề trừng phạt mà chỉ có tự nguyện mà thôi.
 

Tội tùng tâm khởi tùng tâm sám.
Theo nguyên tắc của truyền thống Phật giáo Việt nam, mỗi ngày rằm và mồng một là phải đi chùa một lần để sám hối, để làm cho mới lại. Nếu có một vài nứt rạn, vài sứt mẻ trong giới mình thọ thì ngày rằm, ngày mồng một, mình lên chùa để làm mới lại, làm nó nguyên vẹn trở lại. Thành thử các thầy, các sư cô trong chùa phải tổ chức mỗi tháng hai lần những buổi tụng giới, những buổi sám hối để cho phật tử trong thôn xóm hay trong xã tới. Sám hối tức là nói thiệt với Phật, với Pháp, với Tăng là trong mười lăm ngày vừa qua con thực tập chưa được giỏi. Vì vậy cho nên con đã nói một câu quá nặng nề đối với đứa con trai của con và nó bỏ nhà đi ba ngày rồi. Con rất hối hận! Con xin hứa với Bụt, với Pháp, với Tăng là trong những tuần tới con sẽ không nói những lời chửi mắng nặng nề đối với con của con nữa. Và khi phát nguyện xong rồi thì cái sứt mẻ đó, cái nứt rạn đó lành liền. Đó là pháp môn sám hối. Sám hối tức là làm mới trở lại. Khi chúng tôi giảng dạy ở Tây phương thì chúng tôi không dùng chữ sám hối mà chúng tôi dùng chữ làm mới. Làm mới trở lại. Tiếng Anh là beginning a new. Làm mới lại! Chữ sám hối đối với họ hơi nặng. Đổi mới lại! Mình có những lỗi lầm, mình có những vụng về trong quá khứ thì bây giờ mình đổi mới trở lại. Trước hết là đổi cái tâm. Tâm mình phát nguyện là không lập lại, mà khi tâm phát nguyện rồi thì những lầm lỡ trong quá khứ tiêu, gọi là tội tùng tâm khởi tùng tâm diệt.

Những lỗi lầm từ tâm mà ra và cũng nhờ tâm mà được tiêu. Thành ra chính mình dùng cái tâm đó xóa bỏ những cái vụng về trước. Mình làm cho cái bị nứt rạn trở thành nguyên vẹn trở lại, gương vỡ lại lành. Với cách làm mới, cách sám hối đó thì gương có tan vỡ cũng lành lại trở lại được. Rất là hay! Đó gọi là gương vỡ lại lành. 

Nguyên tắc thực tập ở trong chùa, không phải là kiểm soát không phải là trừng phạt mà là tự nguyện và sách tấn. Sách tấn tức là khuyên nhủ, là động viên, để cho người kia có thêm năng lượng của sự chuyên cần. Nếu quý vị không ưa chữ sám hối, thấy chữ sám hối nặng nề, thì có thể dùng chữ làm mới. Tối hôm nay là lễ làm mới, các thầy, các sư cô phải tổ chức như thế nào tất cả mọi người đều trở thành mới tinh sau  buổi lễ đó. Những vụng về, những nứt rạng, những sứt mẻ về giới của mình, nhờ buổi thức tập đó mà lành lặn trở lại.  Phải thực tập cho có hiệu quả!

Sám hối phải là tới cầu xin ngài tha tội mà phải phát nguyện là trong những tuần tới con sẽ không nói như vậy nữa, con sẽ không làm như vậy nữa, con sẽ không gây đổ nát như vậy nữa. Phát nguyện do cái tâm của mình! Chứ còn xin không có đủ, xin ngài tha tội không có đủ tại vì đức Thế tôn dạy là tất cả đều do tâm của mình. Chính vì cái tâm cho nên mình đã làm đổ vỡ thì bây giờ phải lấy cái tâm làm cho lành trở lại. Tội tùng tâm diệt, tội tùng tâm sám là như vậy. Rất là hay ! Đạo Phật rất là hay ở chổ này!

Chữ tội đây có nghĩa là vụng về, dại dột. Tội tùng tâm khởi, tùng tâm sám có nghĩa là cái vụng về đó từ tâm mà phát khởi ra và cũng từ tâm mà được lành lặn trở lại.

Hay lắm! Tất cả đều do tâm mình hết. Tâm mình phát nguyện cho dõng mãnh, cho thiệt là mạnh thì sự lành lặng, sự đổi mới tới rất là mau. Mỗi tháng hai lần các thầy các sư cô phải làm sao cho khéo để sau buổi làm mới đó, sau buổi học hỏi đó, buổi phát nguyện đó, người ta ra về thấy họ mới tinh. Tại vì chúng ta là con người, chúng ta không hoàn hảo được, thỉnh thoảng chúng ta cũng có một vài vụng về. Vụng về, dại dột thì mình phát nguyện sau nầy mình bớt vụng về, bớt dại dột, thế thôi . 

Theo tôi thì trong chùa cũng phải có hồ sơ của những gia đình phật tử. Không phải là để kiểm soát mà để biết rõ tình trạng từng gia đình để mình có thể độ được họ. Gia đình bác X có hai đứa con, có bà vợ, ông chồng. Tánh tình ông chồng như vậy, tánh tình bà vợ như vậy, tánh tình đứa con như vậy. Mình biết rõ được những khó khăn, những khổ đau của từng người.

Nếu các thầy, các sư cô trong chùa có hồ sơ thì các thầy, các sư cô giúp cho gia đình đó rất dễ. Người ta tới một đám đông mà mình chỉ giảng tổng quát cho mọi người thì lợi ít hơn. Cũng như bác sĩ, y sĩ có hồ sơ của từng bệnh nhân, có hình phổi, có hình của tâm điện đồ. Mình biết rõ người đó, họ nói lên cái gì thì mình hiểu liền. Gia đình kia cũng vậy, nếu bà vợ hay bà mẹ đến than phiền thì mình biết liền là đứa con có khó khăn như thế này. Khi mình thấy được những khó khăn, những bức xúc của những người trong gia đình thì mình biết những pháp nào, pháp thực tập nào mình cần đưa ra để giúp được cho những người trong gia đình đó. Vì vậy mình cũng nên có hồ sơ của từng gia đình phật tử cũng như một bác sĩ có hồ sơ của từng bệnh nhân, không phải để kiểm soát mà là để giúp đỡ. Một ngôi chùa lý tưởng sau này là phải như vậy. Mình chỉ có hồ sơ của những người phật tử bổn đạo của chùa thôi, mà chính bổn đạo của chùa cung cấp cho mình chứ mình không phải tới dò hỏi.  


Không phân biệt.
Có thể có những người không phải là phật tử, không phải là bổn đạo của chùa, những người không thuộc đạo Phật, họ theo đạo Tin lành, đạo Công giáo nhưng họ có cảm tình với đạo Phật, họ ưa đi chùa. Không phải là mình chỉ giúp cho người phật tử. Nếu những người thiên chúa giáo, những người Tin lành hay Do thái giáo tới để xin tham vấn về những vấn đề khó khăn trong gia đình, trong tâm lý họ thì mình không được kỳ thị. Mình phải giúp họ như mình giúp những người phật tử. Còn nếu mình nói, anh phải qui y đi, phải là phật tử đi,  phải có pháp danh đi thì tôi mới giúp, như vậy thì mình không phải là phật tử lắm.

Phật giáo rất là cởi mở, rất là không kỳ thị. Nếu anh phân biệt, đây là phật tử, đây không là phật tử, tôi chỉ giúp phật tử thôi, tôi không giúp những người không phải là phật tử, thì anh chưa phải là phật tử thiệt. Phật tử thiệt thì không còn kỳ thị, không được kỳ  thị như vậy.

Nếu anh đi tổ chức cứu trợ nạn lụt thì tới nơi anh phải phát quà cho hết mọi người, phật tử cũng phát mà không phải phật tử cũng phát, những người dễ thương cũng phát mà những người không dễ thương cũng phát. Lúc đó anh mới là phật tử. Nếu anh kỳ thị, anh nói: Đây là tổ chức phật giáo. Tôi phải phát cho phật tử trước, còn dư tôi mới phát cho Tin lành, Công giáo. Như vậy anh không phải là tổ chức phật giáo! Phật giáo tức là không phân biệt, không kỳ thị. Cho nên trong ấp, trong khu phố, trong xã đó, cố nhiên là mình phải lo cho phật tử bổn đạo. Nhưng nếu những người không phải là phật tử bổn đạo cần tới mình thì mình giúp hết lòng. Mỗi lần giúp  như vậy, nếu mình có tài liệu về họ thì cũng nên ghi nhớ để sau này mình giúp cho dễ. Mỗi khi bệnh nhân tới ông bác sĩ phải rút hồ sơ ra coi lại. Chỉ trong hai phút thôi là ông biết, ông nhớ lại tình trạng, thành thử ông làm việc rất là dễ. Còn nếu mình không có hồ sơ thì phải hỏi lại từ đầu, mất thì giờ vô cùng. Về sau một ngôi chùa trong xã, trong khu phố phải tổ chức như vậy. Các thầy, các sư cô trong chùa phải đóng vai trò chủ trì cho từng gia đình. Nếu các thầy, các sư cô bận quá, bận cầu an, cầu siêu, lo tổ chức lễ thì làm sao phụng sự chúng sanh được, làm sao nhiêu ích hữu tình được?

Trong xã có lãnh đạo chính trị và có lãnh đạo tinh thần và hai việc này không xen vào nhau. Một bên thì phải kiểm soát, có khả năng trừng phạt. Còn bên này không kiểm soát, không trừng phạt, chỉ tự nguyện và sách tấn thôi.  


Giới làm đẹp cho môi trường và xã hội.
Hôm trước ở Hà Nội, trong một buổi phỏng vấn với hãng Việt Nam Net, trong một khóa tu nào đó hình như họ có hỏi tôi nghĩ sao về vấn đề tai nạn giao thông, trong một năm mà chết mười mấy ngàn người. Hơi nhiều, hơi tốn kém! Tôi nói, có lẽ mình phải làm giống như bên Phật giáo. Cứ mỗi sáu tháng tất cả những người có bằng lái xe phải tới tụng giới, tức là ôn lại luật lệ đi đường và xét lại coi trong sáu tháng qua mình đã bị phạt mấy lần, đã bị dọa rút bằng lái chưa? Cứ mười lăm ngày họ phải tụng giới một lần gọi là giới lái xe. Nếu ông chủ tịch xã là phật tử thì ông có thể áp dụng Phật giáo vào việc điều hành xã. Ông không nói là tụng giới, ông nói những người có bằng lái xe mỗi nửa tháng gặp nhau một lần để nhắc nhở nhau không lái ẩu, đừng vượt ẩu, đừng uống rượu. Như vậy thì bề ngoài tuy không phải là đạo Phật nhưng mà bên trong rất là Phật. Bên nhà nước cũng có thể làm giống như mình tụng giới bên nầy vậy. Mỗi mười lăm ngày họp tất cả những người có bằng lái xe lại, kiểm điểm và nhắc nhở nhau: Khi lái xe có uống rượu không? Có vượt ẩu không? Mỗi người tự nói đi! Đó cũng là tu học. Nếu bên nhà nước chưa làm thì bên nhà chùa làm đi! Mình tụng giới rồi nhưng mình cũng có thể nhắc nhở thêm. Đó là một tệ nạn xã hội: Lái xe ẩu! Bên Tây phương người ta không lái xe ẩu như vậy, không đến nỗi như vậy! 

Cũng như chuyện xả rác. Tại các nước Tây phương như nước Đức, nước Anh, đâu có chuyện xả rác ghê gớm như vậy! Có một lần mình đi tắm ở bãi biển Bình Định, không biết có cái gì cứ xô sát vào người mình? Lúc đó trời chưa sáng. Khi trời sáng thì mình thấy bao nylon vứt đầy cả bãi biển. Đó là không có tinh thần trách nhiệm! Hiện bây giờ có nhiều nước Tây phương không dùng bao plastic nữa. Họ dùng bao có thể chuyển hóa lại rất dễ. Mình thiếu tinh thần trách nhiệm, mình không thương đất, mình không thương rừng, mình không thương nước mình, không thương con cháu mình. Nếu mình thật sự thương con cháu thì mình phải giữ môi trường cho sạch, cho đẹp. Mình thiếu tinh thần trách nhiệm nhiều lắm! Có rất nhiều thói hư tật xấu, có nhiều tệ nạn xã hội. Mà tu là để làm gì? Tu là để quét sạch những tệ nạn xã hội, những thói hư tật xấu đó. 

Mỗi thầy, mỗi sư cô, sư chú trong khi tu phải có nguyện lớn là mình tu không phải là để cho riêng mình mà mình tu cho cả đất nước, cả xã hội. Mình phải tổ chức môi trường của mình trong khu phố làm sao để mình có thể đóng góp tối đa cho hạnh phúc, cho sự lành mạnh, sự sạch sẽ, sự đẹp đẽ của khu phố, của thôn ấp. Vai trò của mỗi chùa là như vậy, là làm đẹp cho khu phố mình, làm đẹp cho thôn ấp mình. Làm cho cái đẹp, cái lành được giữ lại; chuyển hóa cái không đẹp, không lành để nó trở đẹp lành. Đó là nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới. 


Học đường là một gia đình thứ hai.
Các thầy, các sư cô phải biết rằng, con nít có thể có nhiều khó khăn. Nếu con nít không có hạnh phúc trong gia đình thì vô trường học nó cũng phá, nó không có hạnh phúc. Thành ra trong chùa mình phải có liện hệ tốt với phụ huynh. Nếu phụ huynh giữ được năm giới, không nói những lời cay chua, mắng nhiếc, đánh đập con cái thì đỡ cho đứa con quá đi! Nếu trong quá khứ, đứa con đó bị dày vò, bị đánh đập, bị hành hạ thì khi vô trường nó cũng không học thành công được. Thầy giáo gặp những đứa như vậy rất là khó dạy! Vì vậy cho nên các thầy, các sư cô trong chùa phải có liện hệ tốt với thầy giáo và cô giáo để giúp họ tu tập  theo năm giới. Thầy giáo, cô giáo có khả năng để trở thành phụ huynh của các em nầy. Tụi nó không có cơ hội để được thương yêu và học hỏi trong gia đình thì nó có cơ hội thứ hai là học đường. Học đường là một thứ gia đình thứ hai. Và khi các cháu lên chùa thì chùa là một gia đình thứ ba, một cơ hội thứ ba cho nó. Khi lên chùa thì các cháu hưởng được không khí trong lành hưởng được cái nhìn từ ái và bàn tay dịu hiền của các thầy, các sư cô. Vì vậy cho nên ngôi chùa trong thôn xóm là một yếu tố xây dựng rất đắc lực cho văn hóa, đạo đức và hạnh phúc của khu phố hay của thôn ấp.

Trong trường Trung cấp Phật học hay trong Học viện Phật giáo mình có bàn luận vấn đề nầy không? Mình có đào tạo các thầy, các sư cô ra để làm được việc nầy hay không hay là chỉ để dạy lý thuyết trong Kinh, trong Luật thôi? Những Kinh Luật đem áp dụng vào trường hợp nầy như thế nào? Quí vị học Duy Thức, học Pháp Hoa, học Lăng Nghiêm, học Nhân Minh áp dụng vào trường hợp nầy như thế nào? Phải đặt câu hỏi đó! Cố nhiên nếu chùa chỉ có một thầy trụ trì thôi thì không thể nào làm được việc nầy. Thầy trụ trì bận rộn rất nhiều, nội tiếp khách hành hương là đã hết thì giờ rồi. Một ngôi chùa mà chỉ có một vị trụ trì trong đó để tiếp khách hành hương thì ngôi chùa nầy không làm được sứ mạng mà đức Thế Tôn giao phó. Một ngôi chùa phải có ít nhất là sáu thầy hay mười thầy sống như là một gia đình tâm linh. Mình chia ra tại vì mình phải phụ trách dân trong xóm, trong làng. Mình phải lo hạnh phúc cho họ, đó gọi là nhiêu ích hữu tình giới. 

Giới pháp của Đức Thế Tôn, luật nghi mà chúng con đang hành trì là giới thân nguyên vẹn, là giới thân không bao giờ bị sứt mẻ, là giới thân không bao giờ bị nhiểm ô, là giới thân không bao giờ bị tì vết, là giới thân không bao giờ bị hỗn tạp, là giới thân được người thức giả ngợi khen và hâm mộ. Khi mình giữ giới thì mọi người đều kính phục, đều hâm mộ tại vì mình đẹp, mình hiền, mình có khả năng giúp đời. 


Là giới thân có công năng bảo vệ tự do.
Tự do là nền tảng để bảo vệ hạnh phúc. Tự do đây là tự do đối với hệ lụy. Ví dụ như không uống rượu là mình có tự do, không bị vướng vào vòng  ma túy là mình có tự do. Vướng vào vòng ma túy là mất tự do, đến khi cơn nghiền nổi lên thì mình tìm đủ mọi cách để có tiền mua thuốc, đôi khi mình ăn cắp, đôi khi mình giết người. Vì vậy cho nên, không nghiền ma túy là có tự do. Không nghiền rượu là có tự do, không bị sân si, biết sử dụng lắng nghe và ái ngữ là có tự do. Nếu không thì mình bị sân si, bạo động xâm chiếm, mình nói những lời ác độc, cay cú, mình đánh vợ, đuổi con, đó là không có tự do. Tự do là tự do đối với những phiền não như đam mê, tham đắm, giận hờn, ngu si. Và giới có công năng bảo vệ tự do. Có người không biết, nói: giữ giới là mất tự do, không được làm cái nầy, không được làm cái kia. Tại vì làm cái nầy, làm cái kia thì phá vỡ hạnh phúc, phá vỡ tự do cho nên thực tập giới là bảo vệ tự do. Mà còn tự do tức là còn hạnh phúc, còn nguyên vẹn. Nói giữ giới là mất tự do là ngược lại với sự thật, giữ giới tức là bảo vệ tự do. 


Là giới thân đưa tới sự không sợ hãi
.

Giữ giới thì mình không có sợ hãi. Mình không nói dối, mình không ăn cắp, mình không vướng vào ma túy nên mình không có sợ hãi, mình có vô úy. Chính những người phạm giới mới sợ hãi. Họ có thể bị bắt, bị bỏ tù, bị hành hạ, bị trả thù. Còn mình giữ giới là mình không có sự sợ hãi. Cho nên giới cho mình sự tự do, cho mình sự vô úy, không sợ hãi. Chúng ta là những người đã từng giữ giới, chúng ta biết rằng chúng ta không cần phải sợ gì nữa hết.

Là giới thân đưa tới chánh định, là giới thân đưa tới tuệ giác. Giới là niệm, cho nên giới đưa tới chánh định, đưa tới tuệ.

Là giới thân đưa tới giải thoát và hạnh phúc đời đời. Cho nên niệm giới rất quan trọng, niệm giới là giữ giới.

Xin quí vị về đọc lại bốn phép tùy niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới. Niệm bao gồm tất cả.


Đoàn Thanh Niên Phật Tử.

Bên Âu Châu, chúng tôi đang thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Tử Âu Châu thực tập năm giới, lấy năm giới làm lý tưởng của đời mình. Đoàn Thanh Niên Phật Tử Âu Châu gồm những người trẻ Anh, Pháp, Ý, Đức, Tây Ban Nha, Hòa Lan. Bên đó ít người Việt lắm, có dăm ba người thôi. Thực tập năm giới là vốn liếng để đi vào xã hội, giúp xã hội trở nên lành mạnh và có tình thương. Xã hội bây giờ không lành mạnh, xã hội bây giờ ốm đau, có rất nhiều bạo động, nhiều hận thù. Cho nên Đoàn Thanh Niên Phật tử Âu Châu phục vụ cho một xã hội lành mạnh  và có có tình thương. Đó là đoàn thể mà chúng tôi đang thành lập tại các nước bên Âu Châu.

Ở Việt Nam chúng ta cũng cũng có thể làm như vậy. Bất cứ ở đâu chúng ta cũng phải có một tăng thân trẻ. Bát Nhã có một tăng thân trẻ gồm có người xuất gia và người tại gia. Tăng thân trẻ đó phải nắm vững lấy giới gọi là trì giới thì lúc đó đi vào cuộc đời sẽ giúp cho cuộc đời trở thành lành mạnh và có nhiều tình thương. Trì là nắm cho vững. Trì là cầm lấy cho vững, đừng để nó rơi xuống, đừng để nó tan nát. Nếu chúng ta thành công được như một người tu là tại vì chúng ta nắm vững được giới.

Còn tiếp...

 

Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính là con đường / There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.