.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

... Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh. Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta.

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ. Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi. (...) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh. Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên. Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh.

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tới cái chết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi. Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người. Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”. Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam. (...)

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp. Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa. Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”. Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của thiền sư Nhất Hạnh.

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES


 

 

 

 Nghệ thuật sống thiền :



Pháp thoại vấn đáp

 

  • Tháng Ba 2007 - biên tập: Chân Tịnh Ý
    Pháp thoại ngày 03.3.07  trong khóa tu dành cho cư sĩ từ  28.02.07 đến 4.03.07. tại Bát Nhã, Lâm Đồng,Việt nam.
    Audio MP3 : Phần 1 (13MB)    Phần 2 (10MB) 
     

Kính thưa đại chúng,

Nếu có những câu hỏi mà mình không tiện hỏi giữa công chúng,  những câu hỏi có tính cách riêng tư, thì mình có thể lấy tờ giấy viết câu hỏi xuống, không cần ký tên, nhờ người chuyền lên trên, hoặc bỏ trong cái chuông này. Chuông này là hộp thơ của Thầy. Mailbox. Có thể mình không có cơ hội để hỏi, vì thầy chỉ có thể trả lời được chừng mười mấy câu thôi.

Các thầy, các sư cô xướng tụng bài „ Ba sự quay về“:

„ Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời
Nam mô Buddhaya

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết,
Nam mô Dharmaya.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những ai nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.
Nam mô Shangaya.

Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.
Nam mô Buđhaya.

Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.
Nam mô Dharmaya.

Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập.
Nam mô Shangaya

Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được giác tính, sớm mở lòng bồ đề.
Nam mô Buddhaya

Về nươngPháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.
Nam mô Dharmaya

Về nươngTăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài.
Nam mô Shangaya

Buddham  saranam gacchami
Dharmam saranam gacchami
Shangham saranam gacchami.

 

Thở vào, tôi buông thư tòan thân. Thở ra, tôi mỉm cười với toàn thân.
Buông thư toàn thân, mỉm cười  với toàn thân. (Chuông)

Thở vào, tôi biết tôi đang còn sống. Ở ngoài nắng rất đẹp và núi rừng rất xanh. Thở ra, tôi mỉm cười với sự sống mầu nhiệm.
Thở vào, sự sống có đó. Thở ra, mỉm cười với sự sống mầu nhiệm. (Chuông)

 

Kính thưa đại chúng,

Hôm nay là ngày 3 tháng 3 năm 2007. Chúng ta đang ở tu viện Bát Nhã trong khóa tu dành cho người tại gia. Đây là ngày thứ tư của khóa tu. Chúng ta sẽ có một buổi vấn đáp. Như đã nói, những câu hỏi phải đến từ trái tim, phải có tính cách thiết thực và không nên dài quá. Một câu hỏi hay sẽ làm lợi lạc cho rất nhiều người.

Đây là câu hỏi thứ nhất, vị nào có câu hỏi thì đưa tay lên!

- Kính bạch thầy, kính thưa đại chúng. Con có một nội kết trong lòng mà lâu nay vẫn chưa tìm được lối ra. Hôm nay nhân duyên đến được Bát Nhã,  gặp được thầy,  kính mong thầy chỉ cho con..

Khi con đọc kinh Báo ân, đến đọan Phật tán thán công đức của Đề bà đạt đa, người thường gây những khó khăn và cản trở cho đức Phật từ a tăng tỳ kiếp, khi đó đức thế tôn bảo ngài Xá LợiPhất vào địa ngục thăm ngài Đề bà đạt đa, ngài Đề bà đạt đa có nói với tôn giả Xá Lọi Phất: tôi ở trong này cũng như tôn giả ở trong tam định. Nội kết của con là không biết Đề bà đạt da đã có công đức như thế nào với đức Thế tôn?

Trong thời kỳ hiện nay, con thấy cũng có những việc tương tự. Chính bản thân con cũng có lần vi phạm vào những tội lớn. Dù vô tình hay cố ý con cũng biết đó là trọng tội. Trong thời kỳ hiện tại có nhiều hình tướng khác nhau, với cách nhìn của con cũng khó phân biệt được cái nào là đúng, cái nào sai. Hôm nay xin thầy chỉ cho con một hướng thoát. Khi con  gặp những người như Đề-  bà-  đạ- t đa ở thời kỳ hiện tại, những người có tinh thần phá hoại, thì con phải quán chiếu và hành động như thế nào?

- Đức Thế tôn có nói Đề bà đạt đa, người gây ra những khó khăn cho tăng đoàn, cho đức Thế tôn, cũng đóng góp phần nào đó cho sự lớn mạnh của tăng đoàn,của đức Thế tôn. Điều đó có nghĩa, khi mình tu học mà gặp trở ngại thì mình có cơ duyên vượt thắng trở ngại đó, những trở ngại đó làm cho mình lớn lên.Con đường tu luôn luôn có những trở ngại cũng như một doanh nghiệp thường có những chướng ngại. Có người phá phách, có người bôi xấu, nói oan cho mình. Nhưng nếu mình biết tu thì mình có thể vượt thắng được những điều đó và mình lớn lên.

Như một cây mọc trên sườn núi, toàn đá sỏi, ít đất thịt, nhiều gió mưa, nên nó cắm rễ rất sâu, đứng vững trước mưa gió. Còn những cây mọc trên đồng bằng, đất mềm hơn, khi có gió mạnh nó có thể ngã xuống dễ dàng. Cho nên càng có nhiều trở ngại, càng bị nói xấu, châm biếm, phá hoại, thì sự tu học càng vững mạnh hơn.Vì vậy những người như Đề-bà-đạt-đa trở thành những tăng thượng duyên, tức là những điều kiện giúp cho mình lớn lên. Mình biết ơn người đó. Họ là những nghịch tăng thượng duyên. Nghịch tăng thượng duyên tức là những trở ngại làm cho mình vững mạnh. Trên con đường tu mình có thể gặp những khó khăn như vậy ở khắp nơi, trong gia đình, trong chùa, trong huynh đệ, bạn bè…Người đó ham danh, ham lợi, không tu thiệt, gây ra những khó khăn trong chùa, trong chúng. Nếu mình tu chưa giỏi, thì dễ thối chí. Mình cho đó là những trở ngại khiến mình không tu được. Nhưng nếu quyết tâm thì chính những trở ngại đó giúp cho mình lớn lên vượt thoát, mình không đau khổ với những cái đó, trái lại mình lớn lên và mình coi thường những cái đó.

Như tôi chẳng hạn, trên đường tu của tôi, tôi gặp nhiều khó khăn, chướng ngại lắm. Hằng triệu người nói tôi là cộng sản, hằng triệu người khác nói tôi là  C.I.A. Họ viết bài nói xấu, họ nói tôi có một vợ và hai con, nhưng tôi không hề đau khổ và tôi thấy thương những người đó. Chính những cái đó làm cho mình vững mạnh lên. Ban đầu thì mình hơi buồn thiệt, nhưng nếu mình bị chìm trong những cái đó thì làm sao mình lớn lên được. Cho nên những trở ngại trên đường tu học, có thể giúp mình lớn lên, thành công lớn hơn.

Do đó có một hôm, đức Thế tôn đã tán thán Đề-bà-đạt-đa, nhưng không có nghĩa là đức Thế tôn khuyên, quý vị hãy nên chống tôi, hãy chống phá chánh pháp. Những ai chống phá chánh pháp, phá hoại tăng đoàn, gây khó khăn việc tu hành của người khác thì người đó có tội. Còn đối với mình thì những điều đó giúp mình trưởng thành mau hơn. Chứ không phải đức Thế tôn khuyến khích mọi người làm như Đề-bà-đạt-đa. Câu hỏi thứ hai!
 

Nam mô Bụt Thích ca mâu ni,

Con xin tự giới thiệu con là Nguyễn thị Tâm, pháp danh Tịnh An. Từ khi con còn nhỏ, con đã được diễm phúc đọc cuốn „Nẻo về của ý“ của sư ông và con tự  ứng dụng vào đời sống.

Con thấy  tu theo  pháp môn này con rất hạnh phúc, rất cụ thể, cho chúng con có nghị lực để chúng con chuyển hóa những đau khổ trong cuộc sống trở thành an vui, khó khăn trở thành thuận lợi. Nhưng khi Sư Ông và Tăng doàn ở đây thì chúng con tu học có kết quả, được chừng hai tháng rưởi. Khi Sư Ông và Tăng đoàn đi rồi thì chúng con trở lại phàm phu, vô minh. Nhiều khi con không chấp nhận được chính con.

Sau dây là câu hỏi của con,  truớc kia mới học Phật thì con niệm đức Quán thế âm bồ tát. Sau khi tu tập, thì con niệm Địa tạng vương và Di lặc, như vậy được không?

Câu hỏi là làm sao duy trì sự thực tập sau khi mình đi qua một khóa tu có hạnh phúc, phải không?

Chúng ta thường nghe: ăn cơm có canh, tu hành có bạn. Bạn ở đây là Tăng thân, là đoàn thể. Nếu tu một mình cũng có thể được, nhưng chừng ba bốn tháng sau, sẽ đánh mất sự thực tập của mình. Mình bị cuộc đời xung quanh kéo theo, mình đánh mất sự thực tập của mình. Tu một mình thì khó, nên mình phải tìm bạn. Tổ chức một đoàn thể tu học nơi khu phố hay xóm làng  của mình gọi là Tăng thân. Năm mười ngườì, mười lăm người, mỗi tuần gặp nhau tu một ngày, hoặc nửa ngày, thì gọi là ngày quán niệm. Mình tổ chức y hệt như khóa tu: ngồi thiền mười lăm, hai mươi phút, đi thiền hành chừng nửa giờ, mình cũng nghe pháp thoại, thỉnh cuốn băng của thầy giảng để nghe pháp thoại, nấu cơm, ăn cơm trong chánh niệm, pháp đàm…Cái đó gọi là xây dựng Tăng thân. Muốn đừng đánh mật sự thực tập của mình thì mình phải biết xây dựng một tăng thân ở địa phương.Công trình đó gọi là dựng tăng. Muốn đừng đánh mất sự thực tập, thì phải nương vào tăng thân, Đó là quy y tăng, Dầu chưa xuất gia, nhưng khi có một nhóm cư sĩ, mười người, hai chục người, đó cũng gọi là tăng. Đó là cư sĩ tăng, tại gia tăng.Tăng có nghĩa là đoàn thể tu học, nó từ chữ Shanga. Tiếng Phạn Shanga có nghĩa là một đoàn thể tu học.

Vì vậy nếu quí vị có hạnh phúc trong khóa tu và muốn tiếp tục phương pháp tu này  thì khi về nhà nên thành lập một nhóm tu học tại địa phương và rủ nhau mỗi tuần đến một lần ngồi thiền, đi thiền, ăn cơm chánh niệm nghe pháp thoại, pháp đàm. Hiện nay có nhiều Tăng thân như vậy ở khắp thế giới. Thành phố Luân đôn có mười Tăng thân, thành phố Nửu ước có mười mấy Tăng thân như vậy. Các vị đó họ tới khóa tu với mình, thấy có lợi lạc họ rủ bạn, tổ chức Tăng thân. Nếu tỉnh mình có bảy tám người tới tu, thì trước khi mãn khóa tu mình nên bàn với những người đó sau này về địa phương mình sẽ lập một Tăng thân để tiếp tục tu hành. Đó gọi là dựng tăng. Công đức vộ lượng. Khi có Tăng thân, những người khác ở địa phương sẽ tới nương tựa, tới quy y tăng. Dù chưa có người xuất gia nhưng cũng là tăng, nếu mình có thực tập đàng hoàng. Có ngồi thiền, đi thiền, ăn cơm trong chánh niệm, có giữ im lặng và có nghe pháp thoại.

Còn niệm Bụt, niệm đức Quan thế âm rất tốt, niệm đức Di đà, đức Thích ca cũng đều tốt. Bụt nào cũng là Bụt. Bồ tát nào cũng là Bồ tát. Họ đều là bạn với nhau cả. Khi mình niệm một vị tức thời động tới các vị khác. Câu hỏi thứ ba!
 

Kính bạch Sư ông, gia đình con, vợ chồng con không thể nói chuyện được với nhau ôn hòa. Con biết tu tập, nhưng đứng trước những lời nói xúc phạm, những lời nói chê bai không tôn trọng, con khó kiềm chế lắm. Con đã thực tập hơi thở, con đã quán chiếu thấy chồng con đau khổ và không hài lòng về con nhưng con vẫn chưa nói được lời ái ngữ. Mong Sư Ông giúp con.

- Cái này là tại tu chưa tới, cơm chưa chín.

Khi quán chiếu thật kỹ, mình thấy người kia cũng có nhiều khổ đau, nhiều bức xúc, nhiều khó khăn thì tự nhiên trái tim của mình mềm ra và mình thấy tội nghiệp, từ đó trái tim của mình ứa ra giọt nước của tình thương, cam lộ từ bi. Nếu giọt nước từ bi chưa ứa ra là tại vì cô tu chưa tới, tức là chưa thấy rõ những khổ đau bức xúc của ông ở nhà mà vẫn còn có sự trách móc.Nếu mình biết tại vì người đó có quá nhiều khổ đau cho nên mỗi khi nói ra là những lời nặng nề trách móc, lên án, buộc tội. Mình đã biết cái gốc của những điều đó là từ khổ đau của họ. Nếu người dó không khổ đau thì tự nhiên lời nói của họ sẽ ôn hòa dễ thương. Trái lại vì khổ đau nên nói lời nào cũng chứa đầy „nọc độc.“

Vì trong lòng mình thiếu từ bi, chưa đủ chất liệu thương để bảo hộ cho mình, nên chất độc mới thấm vô. Nếu mình có đủ lòng từ bi, mình sẽ được chính từ bi đó bảo hộ. Dầu người ta có chửi mắng, chê bai gì cũng không thể lọt vào mình. Từ bi là một chất liệu bảo hộ cho mình. Dẫu người kia có la hét, chửi mắng, mình cũng cảm thấy tội nghiệp cho họ. Người sao mà đau khổ quá! người sao mà không nói được một lời thương yêu! mình không còn là nạn nhân của những lời thô bạo ấy nữa. Tại vì mình đã được lòng từ bi che chở và mình chỉ mỉm cười. Nếu mình còn đau khổ vì những lời nói đó tức là mình chưa đủ xót thương người kia. Mẹ ơi nhìn lại để thương ba nhiều hơn, Ba cũng có nhiều đau khổ lắm  mà mẹ không thấy được hết những đau khổ đó của ba cho nên mẹ mới chua chát, buộc tội ba nên chính mẹ cũng đau khổ. Nếu mẹ thấy được ba đau khổ,khó khăn, bức xúc như vậy, thì mẹ sẽ thương ba, và dù ba có nói gì chăng nữa, mẹ cũng không khổ đâu.

Câu trả lời là vì mình tu chưa chín. Mình chỉ mới thấy được sơ sơ những khó khăn, đau khổ của người kia thôi, mình chưa thấy được hết. Khi thấy được hết, mình sẽ tội nghiệp, cái hiểu sẽ đưa tới cái thương. Hiểu đây là hiểu những khổ đau của người kia. Hiểu dược rồi thì tim mình sẽ ứa ra chất tình thương, chất tội nghiệp. Chất liệu đó cũng quay về bảo hộ mình trước những lời nói không dễ thưong.

Hãy công phu thêm, hãy đi tới thêm vài bước nữa. Đừng nên đòi hỏi người kia thay đổi, mình phải tự thay đổi mình trước. Mình phải tươi mát, dịu dàng trước.Khi mình đã thay đổi, đã trở nên tươi mát, nhẹ nhàng, không trách móc, thì tự nhiên người đó sẽ thay đổi. Hạnh phúc, hóa bình bắt đầu từ chính bản thân mình. Chuyển hóa bắt đầu từ bản thân. Bà phải tự chuyển hóa mình trước, phải tự trở thành tươi mát, dịu dàng, dễ chịu. Rồi ra ông sẽ rất cần đến bà. Ông sẽ thấy bà là đóa hoa tươi mát. Ông sẽ mắc cở và sẽ thay đổi. Đừng chờ đợi ông thay đổi khi chính bà chưa trở thành tươi mát, dịu dàng. Đó cũng là vũ khí của người phụ nữ. Đánh mất nó, người phụ nữ không còn hạnh phúc nữa và cũng không thể giúp người khác có hạnh phúc. Tu tập như thế nào để khôi phục lại sự tươi mát, dịu dàng của mình, để mình có thể hiểu được, thương được và nói được những lời ái ngữ với người kia, chắc chắn người kia sẽ thay đổi. Câu hỏi kế tiếp!

 

- Kính thưa đại chúng, con đang làm việc tại vườn quốc gia „Cát Tiên“, một vườn quốc gia lớn của Việt nam, đang được chính phủ đề nghị UNESCO công nhận là di sản thế giới. Con đang làm công tác gíáo dục  môi trường cho các trường học và cộng đồng xung quanh. Xin Sư Ông soi sáng giúp cho con thêm những phương pháp, những kinh nghiệm qua tuệ gíác của đạo Bụt để đưa những tuệ giác của đạo Bụt về  môi trường vào trường học và cộng đồng xung quanh Cát Tiên. Con cảm ơn Sư Ông nhiều.

- Có một mối liên hệ mật thiết giữa con người và những loài cầm thú, cỏ cây và đất đá. Con người sinh ra từ các lòai khác.Con người xuất hiện rất trễ trên trái đất. Trước hết là loài thảo mộc, đến các loài động vật khác mới đến loài người xuất hiện. Cái gốc của con người nằm ở các loài khoáng vật, các loài thực vật và các loài động vật khác. Nếu mình không bảo hộ môi trường, không bảo hộ các loài động vật, không bảo hộ các loài thực vật, mình tàn phá làm cho các động vật bị diệt chủng. Mình phá rừng, hủy diệt cây cối, sử dụng toàn xi măng, làm ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí và cả đất đá…tức mình đã làm hư nền tảng sự sống của chính mình. Nếu vậy tương lai mình cũng bị tiêu diệt. Bảo hộ môi trường tức là bảo vệ con người. Đó là cái thấy rất sâu của đạo Bụt.

Trong kinh Kim Cương, đức Thế tôn có nói có bốn ý niệm mà mình phải chuyển hóa. Đó là ý niệm về ngã, về con người, về chúng sanh và về thọ mạng.

Ý niệm về ngã là một ý niệm nguy hiểm, nó chia cách giữa mình với người khác. Ví dụ như mình với cha mình thật ra không phải là hai người khác nhau. Mình là sự tiếp nối của cha mình. Trong mình có cha mình. Nếu mình nghĩ mình là một người khác, cha mình là một người khác, hoàn toàn không đúng. Nó là sự tiếp nối lẫn nhau như cây bắp tiếp nối hạt bắp. Vì vậy cần lấy ý niệm ngã ra.

Ý niệm thứ hai, ý niệm nhân cũng vậy. Con người được làm bằng những yếu tố không phải con người. Đó là các loài động vật, thực vật và khóang vật. Con người sẽ không sống được nếu thiếu các loài đó. Vì vậy con người khôn khéo thì phải bảo hộ các loài động vật, thực vật, khoáng vật. Kinh Kim Cương là một văn bản xưa nhất của thế giới dạy về bảo vệ môi trường. Người Việt mình ý thức bảo vệ sinh môi còn rất thấp. Đi xe hơi tôi thấy bao ny lông vứt đầy cả. Tôi cũng thấy mình đã khai thác rừng, chặt đốn cây quá nhiều. Mình đã làm ô nhiểm sông hồ…chẳng khác nào mình đang tự hủy hoại. Con người tự tử một cách từ từ khi làm như vậy. Nếu các loài bị diệt chủng, sông hồ bị ô nhiễm, cây cối bị chặt phá thì con người không tồn tại lâu được. Bảo hộ sinh môi là công việc của tất cả mọi người. Trong gia đình, cha mẹ phải nhắc nhủ con cái về bảo vệ sinh môi, trường học, thầy cô giáo phải nói chuyện với học trò. Trong thôn làng, khu phố phải cần những buổi họp để giáo dục về sinh môi.

Các thành phô ở Đức rất sạch. Họ đã bắt đầu giảm sử dụng bao ny lông. Tại vì bao ny lông chuyển hóa trở lại thành chất hữu cơ rất lâu. Có khi cần cả trăm năm. Đi chợ họ xách một túi vải. Vì vậy nếu mình dùng chén dĩa bằng plastic để ăn cơm, không tốt. Dùng chén bát bằng đất sành, ăn xong lại rữa thì tốt hơn. Chuyến về trước cũng như lần này tôi thấy ý thức về sinh môi của người Việt mình còn thấp. Tôi kêu gọi các bậc phụ huynh,các thầy cô giáo, các vị trong ủy ban nhân dân, các vị trong quốc hội, các vị lãnh đạo nhà nước,.. mỗi người phải đóng góp phần mình để nâng cao ý thức về sinh môi.

Chúng ta đang cố gắng gìn giữ một số „Lâm viên quốc gia“ như rừng Cúc phương để bảo tồn sinh môi. Điều đó rất tốt. Nếu có những dự án mở xa lộ ngang qua những khu rừng như vậy, chúng ta phải chống lại. Chúng ta phải tranh đấu để bảo vệ sinh môi.

Ở các nước như Pháp, Đức, Anh người ta bảo hộ sinh môi kỹ lắm. Họ có những hội bảo hộ thú vật, vì thú vật bị nhiều khổ đau. Thú vật bị giết, bị đem làm đồ thí nghiệm. Ở Anh có mặt trận giải phóng thú vật „Animal Liberate Front“ và mình nghe tiếng đau thương của thú vật. Đất nước mình có gốc gác Phật giáo. Ngày xưa tổ tiên mình xây dựng trên nền tảng từ bi của đạo Phật mà bây giờ mình không làm được như các nước Âu châu, thi rất dở. Người Phật tử cần đóng góp thật nhiều trong việc giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ môi sinh. Câu hỏi tiếp!
 

Kính bạch Sư Ông, con muốn hỏi Sư Ông có nhận người xuất gia lớn tuổi hay không?  Bởi vì con thấy ở đây hầu hết là trẻ. Hỏi thăm thì các vị cho biết, thầy chỉ nhận dưới ba mươi tuổi. Con thì có ý nguyện xuất gia đã lâu, sư phụ của con cũng khuyên con đi tìm nơi thuận duyên mà ở. Con muốn ở lại đây nhưng lại nghe nói đây không nhận người lớn tuổi.

Câu trả lời của tôi cũng ngắn gọn lắm. Mỗi địa phương có quy luật riêng của địa phương đó. Thành ra muốn xuất gia ở đây thì phải hỏi các thầy, các sư cô ở đây.

Có chỗ họ cho mức tối đa là bốn mươi tuổi. Ở tu viện Bát Nhã hình như ít hơn. Quý vị phải hỏi thầy viện chủ, các thầy giáo thọ, các sư cô giáo thọ ở đây để biết rõ chi tiết. Tôi không muốn trả lời thay cho họ, vì tôi hay bị mềm lòng lắm.

 

Thầy trả lời hai câu hỏi được viết trên giấy:

- Kính bạch Thầy, con có một con trai đang yêu một cô gái theo đạo Công giáo. Gia đình và cả họ hàng ai cũng phản đối. Cháu buồn chán bi quan không thiết sống nữa. Bây giờ con phải làm sao đây?

- Con lớn lên trong một gia đình Phật giáo nhưng lại thương một người khác đạo. Vì khác đạo cho nên gia đình anh ấy không cho tụi con đến vói nhau. Chúng con đang đau khổ và không biết làm sao cho gia đình anh chấp thuận.Con không biết nếu mình theo đạo của anh thì con có mắc vào tội phản bội tâm linh và tổ tiên của mình hay không?

- Mình sống với một người cố chấp thì khó lắm. Gia đình kia sẽ là gia đình bên chồng hay bên vợ của mình. Mình sẽ có liên hệ với gia đình đó. Nếu họ cố chấp, thì mình sẽ đau khổ dài dài tại vì ảnh đâu chỉ một mình, ảnh còn cả gia đình nữa. Thương ảnh, mình phải thương cả gia đình của ảnh. Nếu họ cố chấp trong khi mình lớn lên từ truyền thống cởi mở, sợ mình chịu không nổi. Nguyên tắc là phải chấp nhận nhau: bên này chấp nhận bên kia, bên kia chấp nhận bên này. Khi mình thương một người Công giáo, mình không bắt người đó phải bỏ đạo để theo đạo Phật. Anh cứ tiếp tục là người Công giáo, em chấp nhận. Nhưng nếu thực sự thương em, thì anh cũng phải học đạo Phật, tại vì đó là đạo của em. Anh giữ đạo của anh, nhưng anh cũng cần biết sơ qua đạo của em và anh cũng sẽ học để biết sơ qua đạo của anh. Ngày chủ nhật hai đứa sẽ đi nhà thờ chung, nhưng ngày rằm, anh cũng phải đi chùa với em chung. Cái đó là phải chăng, phải không ? Khi sanh con ra cho nó đủ hai gốc rể, cho nó tự do. Ở Tây phương có rất nhiều người Công giáo,Tin lành, Do thái tới học với thầy, họ rất được hạnh phúc và thầy luôn luôn khuyên họ đừng bỏ cái gốc của họ. Nếu mình là người Do thái, thì mình cứ giữ gốc Do thái, Mình là người Tin lành, thì cứ giữ gốc Tin lành, mình là người Công giáo, thì cứ giữ gốc Công gíáo. Mình tu tập đạo Phật, rồi mình sẽ có cái nhìn sâu hơn, rộng hơn, thoáng hơn về đạo gốc của mình. Chín mươi phần trăm những người đến tu học ở làng Mai là nhưng người có gốc Công giáo, Tin lành hay Do thái giáo. Bên đó làm gì có sẵn Phật tử. Đó là vùng văn hóa Thiên chúa giáo, Do thái giáo mà. Nhưng họ học hỏi và thực tập theo đạo Phật thì họ chuyển hóa được những khổ đau của họ, họ trở thành cởi mở  và họ làm cho truyền thống của họ cởi mở thêm, không độc đoán, không cứng nhắc như trước.

 Trong một buổi hội thảo tại Hán thành, Đại Hàn giữa Phật giáo, Tin lành và Cơ đốc giáo, tôi có đưa ra một giải pháp.Tôi nói rằng giải pháp của tôi đưa ra, nếu quý vị cần một trăm năm để chấp nhận, thì cũng chưa dài đâu, vì chúng ta đã khổ đau cả ngàn năm nay rồi. Nếu cần một trăm năm để đi đến quyết định này thì cũng đáng. Tôi đề nghị người nào vẫn giữ đạo của người đó, nhưng người này phải học thêm đạo của người kia. Thay vì có một gốc rễ, mình có hai gốc rễ, mình sẽ giàu có hơn. Tại vì Công gíáo cũng có những cái hay, trong Phật gíáo cũng có những cái hay. Là người Công giáo, học đạo Phật, mình hiểu được những cái hay của đạo Phật, mình thấy rõ Công giáo của mình hơn. Là người Phật tử, vẫn giữ đạo Phật của mình, nhưng học thêm Cơ đốc giáo, để thấy cái hay của Cơ đốc giáo. Khi mình tiếp xúc, so sánh mình hiểu được Phật giáo của mình nhiều hơn. Thành ra khi đi chùa, đi cả hai đứa, khi đi nhà thờ, cũng đi cả hai đứa  và không có ranh giới, cố chấp nữa. Nếu không sẽ khổ đau suốt đời  Khi sanh con ra cho nó tự do, khuyên nó có hai gốc rễ, thì thế giới sẽ có hòa bình, tại vì các tôn giáo chống đối lẫn nhau đưa tới đau khổ rất nhiều, như giữa Hồi giáo và Ấn độ giáo, giữa Cơ đốc và Tin lành, Do thái và Hồi giáo …Chiến tranh thì rất đau khổ.

Năm 1962 tôi có một cô đệ tử làm việc trong viện Đại học Vạn Hạnh. Cô yêu một anh chàng Công giáo. Gia đình anh chàng không chịu, mà gia đình của cô cũng nhất định không bằng lòng. Hai đứa thì thương nhau quá. Chưa có ai đồng ý cho cô bé lấy người con trai đó cả. Các thầy các sư cô ở Sài gòn cũng không cho phép, gia đình cũng không cho phép, cô đành than thở với tôi. Tôi nói, đạo Phật ra đời đâu phải để làm cho con đau khổ, thầy cho con cưới người đó, nhưng con phải giữ tam quy, ngũ giới, năm phép thực tập của con. Bên ngoài con có thể không còn danh hiệu phật tử, nhưng trong trái tim luôn luôn đức Phật còn sống. Con mang trái tim phật tử mà đi. Thầy không muốn con đau khổ vì Phật giáo. Phật giáo ra đời để cho con người hạnh phúc mà. Cô ta mừng quá. Lần đầu tiên có một thầy cho phép nó cưới anh chàng Công gíáo.

Nhưng sáng hôm sau cô ta trở về. Cô ta nói, trời ơi, con thuộc một truyền thống tâm linh rộng rãi bao la, nhân ái cởi mở như vậy mà con nở bỏ đi theo truyền thống khác, từ khước nếp sống tâm linh đẹp đẻ đó, con không chịu đâu. Thôi con không lấy anh đó nữa. Khi mình cấm không cho cô lấy thì cô đau khổ, quyết lấy. Khi cho phép thì cô không lấy nữa. Cô đó đang có mặt ngày hôm nay ở đây. Lớn tuổi rồi. Ngày xưa cô đó mặc áo tím, bây giờ hình như đang mặc áo nâu. Câu hỏi tiếp!
 

Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni Phật
Con kính bạch Sư Ông, kính bạch chư tăng ni…

Pháp danh con là Minh Hoàng,năm nay con59 tuổi, xin Sư Ông cho con ý kiến để con có thể giúp đỡ người mẹ của bạn con. Bà đã hơn tám mươi tuổi. Bạn con cho đến nay vẫn chưa lập gia đình, đã từng theo học các khóa tu, hiểu được những lời sư ông dạy về lắng nghe và ái ngữ

Nhưng cô bạn của con rất khổ sở vì người mẹ không vui lòng về cô. Bà đã già nhưng khi nào cũng rơm rớm nước mắt, vì bà nghĩ các con không thương bà. Con cũng có ứng dụng nhưng điều đã học để khuyên bà, chăm sóc bà…Bạn của con cố gắng nói với mẹ bằng lời ái ngữ để mẹ không buồn, nhưng bà mẹ từ khước, bảo bà không có người con như vậy. Xin Sư ông giúp cho con cách để con có thể giúp bà…

Quí vị có nghe câu hỏi rõ ràng không?

Thưa Sư ông. Câu hỏi của cô đó cũng có phần tương tự giống con. Khi dùng ái ngữ, mình có chờ đợi không, chờ đợi cho người đó chuyển hóa và yêu thương mình. Nếu dùng ái ngữ mà họ vẫn không hiểu và không chuyển hóa được, thì sự chờ đợi đó là bao lâu ?

Mình nói một câu ái ngữ có thể là chưa đủ nhưng đã bắt đầu có kết quả rồi, làm cho người kia ngạc nhiên rồi. Vì lâu nay mình thường nói toàn „ác ngữ“. Nay nói ái ngữ, tuy họ chưa thay đổi nhưng trong người dã có sự ngạc nhiên. Nếu tiếp tục như vậy, một ngày nào đó, người đó sẽ thay đổi. Mình vẫn giữ sự tươi mát, vẫn nói ái ngữ dù người kia có nói gì nặng nề, có những cử chỉ không dể thương, mình cũng chỉ nói lời ái ngữ, mai kia thế nào người đó cũng sẽ thay đổi. Chỉ sợ câu nói của mình chưa thật sự ái ngữ.Câu nói ái ngữ, không phải là câu ngoại giao, nó phải tới từ trái tim. Chỉ khi nào mình tội nghiệp được người đó, thương được người đó, mình chấp nhận được người đó, thì lời nói của mình mới thật sự là ái ngữ. Chứ không phải là giả bộ ái ngữ, giả bộ thì người kia họ biết ngay. Nụ cười cũng phải từ trái tim, chứ không phải là nụ cười của bộ ngoại giao. Câu hỏi kế!
 

- Nam mô đức bổn sư Bụt Thích ca mâu ni,
Con kính bạch Sư ông,
Con kính bạch quý thầy, quý sư cô và toàn thể đại chúng.
Con muốn xuất gia, nhưng mẹ con không đồng ý.
Sư ông giúp con làm cách nào để mẹ con cho con đi xuất gia.  
Xin cảm ơn đại chúng đã lắng nghe.

Ngày xưa, thầy muốn di xuất gia cũng phải chuẩn bị đến hai năm. Kiên nhẫn tìm cách cho mẹ đồng ý, vì mẹ hay ba mình nghĩ rằng đi xuất gia là khổ lắm, đi tu là khổ lắm. Ý đó nằm sâu trong đầu của bà. Làm sao cho ý đó lung lay thì mới được. Cách hay nhất là làm sao để mẹ mình tiếp xúc đươc với các sư cô trẻ trung, hạnh phúc, mắt sáng, nụ cười tươi giúp đời được rất nhiều  Ai bảo đi tu là khổ, đi tu sứớng lắm chứ. Nếu đi tu mà thành công thì mình giúp được không biết bao nhiêu người. Nhiều thầy, nhiều sư cô trong đạo tràng Mai thôn đã thành công. Mới hăm lăm, hăm bảy tuổi mà đã giúp được không biết bao nhiêu người, không chỉ trong khóa tu, mà cả những gia đình ở ngoài đời. Những cặp vợ chồng  hòa giải với nhau, cha con nối lại truyền thông với nhau.

 Vì vậy cách hay nhất là làm sao để mẹ mình có cơ hội tiếp xúc với các thầy, các sư cô như vậy, lúc đó mẹ mới bỏ cái quan niệm“ đi tu là khổ“. Khi gia đình đầu tư một ngừơi con vào tăng đoàn, gia đình đó có phước lắm. Hai ngàn năm nay, chuyện đó đã xảy ra thường xuyên. Có những gia đình có một người con, hai người con, ba người con vào tu. Cái lợi rất lớn, cứu giúp được biết bao nhiêu người. Nếu mình thật sự có bồ đề tâm, thật sự yêu mến đời sống xuất gia, thì mình phải kiên nhẫn, từ từ giúp mẹ thấy được đời sống của người xuất gia là đời sống rất đẹp, có nhiều tự do, chứ không phải đi làm nô lệ cho một người, rồi bị người đó đàn áp, khống chế. Lúc đó ba mẹ sẽ đồng ý và sẽ yểm trợ cho mình đi xuất gia.

Ở đây có nhiều sư cô, sư chú được ba mẹ yểm trợ cho đi xuất gia, rất hạnh phúc. Khi mình xuất gia rồi, thời gian sau ba mẹ cũng tới tu chung với mình, hạnh phúc lắm. Trong hội chúng này, có nhiều ba mẹ của các thầy, các sư cô đến tu. Một thời gian có nhiều ba mẹ cũng muốn xuất gia luôn theo con và trở thành sư em của con. Câu hỏi kế!
 

- Thưa thầy cho con hỏi một câu hỏi ngắn. Thầy nghĩ thế nào về những hình thức tội phạm phát triển và những bản án tử hình cũng như những người chấp pháp phải đứng ở vị trí phán xét các án tử hình đó và cả những cảnh sát phải quyết định bắn những tội phạm nguy hiểm đang uy hiếp những người khác? Cũng như con một ngày nào đó phải chọn lựa giữa việc cứu hay không cứu một người mà con biết rằng cứu người đó sẽ hại tới người khác, trong khi con không đủ lực để phòng hộ cho bản thân con hay  chuyển hóa người đó. Con cảm ơn thầy.

- Có một con đường gọi là bất bạo động, tức là không dùng đến bạo lực. mà dùng tình thương trí tuệ và hùng lực để giải quyết những vấn đề. Khi mình giết một người, bắn một người, có thể là do mình quá sợ hãi mà mình làm như vậy. Thật ra tình trạng có thể không nguy hiểm đến mức mình phải bắn người đó. Mình thường nói là vì tự vệ hoặc bảo hộ cho những người khác nên mình phải bắn những người kia. Có nhiều cảnh sát làm như vậy. Trong người họ có quá nhiều  sự sợ hãi, có nhiều bực tức nên khi có cơ hội, họ bắn liền. Họ lấy cớ là tự vệ hoặc bảo hộ những người khác, cái đó rất tội nghiệp. Nếu mình không có bực tức, sợ hãi, nếu mình có trí tuệ, có sự bình tĩnh, mình không cần súng nhưng vẫn giải quyết được rất nhiều vấn dề. Thầy đã từng tổ chức các khóa tu cho giới công an, cảnh sát ở Hoa kỳ. Thầy được biết đời sống của họ rất căng thẳng, có nhiều lo lắng, có nhiều sợ hãi. Họ mặc đồng phục, và sử dụng đồng phục đó để làm cho người khác sợ. Cảnh sát không còn là bạn dân mà trở thành một cái gì dân ghét. Tại vì họ không có chất liệu hiểu và thương, không có chất liệu của sự trầm tĩnh, sự sáng suốt. Có những người cảnh sát có những cái đó, nhưng có nhiều người thiếu những đức tính đó. Người dân ghét cảnh sát và gọi cảnh sát là „pig“- có nghĩa là con heo-  Nhiều cảnh sát giận quá, dán lên trên xe cảnh sát câu heo rất là đẹp: Pig are beautiful Có những cảnh sát không giỏi, họ lợi dụng đồng phục và quyền năng cảnh sát làm cho người ta sợ mà tuân phục. Đến khi về nhà cũng làm cảnh sát với vợ và con, rất là dại. Lẽ ra khi về nhà mình phải cởi chiếc áo cảnh sát ra, trở lại người chồng dể thương, người con dể thương. Nhưng nhiều khi do tập khí quen, về nhà cũng sử dụng luôn quyền lực cảnh sát với mẹ, với vợ và con. Có những cảnh sát buổi sáng mặc đồng phục, mang súng nhưng không biết buổi chiều mình có thể trở về hay không, vì băng đảng quá nhiều, tội phạm nhiều. Ở những xã hội tiêu thụ nhiều, giàu có như vậy, không hẳn là hạnh phúc, vì các tệ nạn xã hội phát sinh cũng nhiều. Tôi được biết số cảnh sát ở Mỹ dùng chính súng của mình để tự tử rất lớn, đông hơn số cảnh sát bị băng đảng tội phạm bắn. Vì vậy mình biết trong con người cảnh sát, có nhiều căng thẳng, nhiều sợ hãi nhiều khổ đau. Khi gặp một người cầm dao hoặc súng, nếu mình không sợ hãi, không bị căng thẳng, người cảnh sát có thể dùng sự thông minh, lời ái ngữ…để khuyên người kia dừng lại, không dùng súng,dao nữa và giải quyết bằng đường lối bất bạo động. Có nhiều cảnh sát làm được như vậy, nhưng số đông khác không có khả năng đó, tại vì họ không đủ chất liệu trầm tĩnh, thông minh, không đủ chất liệu của sự bất bạo động. họ lạm dụng súng và quyền uy của họ.

Bất bạo động là tinh thần của Phật giáo. Mình có thể bất bạo động một trăm phần trăm khi mình đã vững vàng, nếu chưa thật sự vững vàng mình cũng có thể bất bạo động đến một mức nào đó. Ba mươi, bốn mươi, năm mươi phần trăm hay hơn nữa…Một vị chỉ huy cảnh sát hay quân đội cũng có thể thực tập bất bạo động. Đánh giặc thì bên địch bị giết rồi, nhưng làm cách nào đó để có thể bảo vệ được thường dân. Như vậy là trong bạo động nó có một ít bất bạo động.Có những người không thương tiếc mạng sống của thường dân, miễn đánh thắng là được, thì họ bạo động một trăm phần trăm. Những tướng sĩ có chất liệu từ bi, ngay cả trong khi đánh giặc cũng tìm cách không làm hại đến sinh mạng của những người vô tội. Vì vậy vấn đề đặt ra là mình có đi trên con đường bất bạo động hay không? Hôm nay mình chỉ thực tập được bảy mươi phần trăm bất bạo động, còn ba mươi phần trăm bạo động. Nhưng ngày mai có thể khá hơn, mình thực tập được tám mươi phần trăm bất bạo động và cứ như vậy mà từ từ đi tói. Vấn đề là mình có đi tới trên con đường đó không, chứ bất bạo động cả trăm phần trăm, cái đó hơi khó.

Trong khi mình nói một câu, có thể có bạo động trong câu nói đó. Nếu câu nói phát xuất từ sự bực mình, từ sự giận dữ, nó gây khổ đau cho người kia và cũng gây khổ đau cho mình. Vì vậy những tư tưởng của mình, những lời nói của mình, những hành động của mình có thể bạo động nhiều hay bạo động ít, nó là „tam nghiệp“ : thân khẩu ý. Người Phật tử phải tu tập thế nào để bất bạo động mỗi ngày mỗi lớn lên và bạo động mỗi ngày một ít lại. Một người Phật tử lý tưởng là hòan toàn bất bạo động, như đức Thế tôn. Một người như thế, không chấp nhận án tử hình, không chấp nhận sự trừng phạt và nhà tù trở thành nơi giáo dục, để giúp chuyển hóa những người tù. Tuy nhà tù giam giữ để những người đó khỏi gây tác hại nhưng mình biến nhà tù thành nơi thương yêu. Người cai tù phải được học hỏi để thương được phạm nhân, biết thực tập ái ngữ, lắng nghe để thương được phạm nhân và làm cho phạm nhân chuyển hóa. Tu tập để ngày càng bất bạo động là hướng đi của nền văn minh.

Đời Lý, Trần là những thời đại rất văn minh, được hướng dẫn bởi tinh thần từ bi của đạo Phật.

Sau khi vua quan nhà Trần đánh bại quân Mông cổ, thám tử trình ra một chiếc rương những văn thư của các quan có liên lạc với giặc, muốn đầu hàng giặc. Có một ông quan đề nghị mở rương ra, để trừng phạt những người không trung thành với triều đình, với đất nước. Vua Trần không bằng lòng. Ngài nói, mục đích của mình là đánh đuổi quân xâm lược, mục đích của mình là dành lại nền độc lập, thì mình đã mãn nguyện rồi. Bây giờ không cần làm những chuyện đó, nên đem rương này, đốt đi cho mọi người an tâm.

Đó là hành động không trừng phạt, một hành động bất bạo động đã từng xảy ra trong đời Trần. Bây giờ chưa chắc mình đã làm được như cha ông của mình đã từng làm.

Có lần trong khi vua Trần chạy trốn quân giặc, gặp một người chèo thuyền đi ngược lại, hỏi có thấy quân giặc đi về hướng nào không? Người đó trả lời „đi tìm mấy người ăn xoài mà hỏi, đừng hỏi tôi. Đây là một vị quan trong triều. Vì trước đó vua mở cuộc vui, mời các quan đến ăn xoài mà quên mời ông ta. Ông này giữ mối hận đó cho đến khi vua chạy trốn giặc.Hỏi mấy người ăn xoài đó, hỏi tôi làm chi! Sau khi đuổi giặc xong, có đề nghị đem ông này ra để trị tội, thì nhà vua bảo, cái đó là lỗi tại Trẩm. Đó là bất bạo động.

Khi vua Trần Nhân Tôn, tức Trúc Lâm đại sĩ  (ngày xưa mình có ông vua xuất gia) tịch rồi, thiền sư Pháp Loa tổ chức hỏa thiêu ở trên núi, tro của ngài đem về kinh đô để làm lễ quốc táng. Dân chúng vào đại nội tham dự buổi lễ rất đông, vì ai cũng rất thương vua. Đến giờ rước linh cửu, dân đông quá, linh cửu không đi được. Thường tình, quân lính sẽ dùng ngựa và roi để mở đường, nhưng các quan không dùng cách như vậy, mà thay vào đó, tổ chức hát tuồng, hát chèo để dân chúng bị thu hút, xúm lại xem, rảnh đường ra,  linh cửu di chuyển được. Đó là một việc làm đầy tính bất bạo động.

Có lần có những ông già cả ngày chơi cờ ngoài đường mà không làm gì hết. Hỏi giấy tờ cũng chẳng có giấy tờ gì. Không có chứng minh nhân dân. Vua Trần nói, như vậy là đất nước thanh bình, những ông già ngồi chơi đánh cờ với nhau ngoài đường đâu cần giấy tờ gì. Đó là tiếng nói của những người bất bạo động.

 Là con cháu của những người đó, chúng ta cần nhớ là chúng ta phải học hỏi ở cha ông mình rất nhiều nữa. Riêng Thầy, không bao giờ thầy muốn có án tử hình. Những người tù cần sự giúp đỡ. Nhà tù phải trở thành nhà của tình thương, Nên mở những lớp huấn luyện giúp các cai tù, các nhân viên, học ái ngữ lắng nghe để chăm sóc người tù. Nơi đó không phải là trừng phạt mà là giúp họ tu tập để chuyển hóa. Chúng ta có nguồn gốc bất bạo động trong nền văn hóa, chúng ta nên đi theo nguồn gốc đó. Niềm hạnh phúc sẽ rất lớn.

Chúng ta đã hết giờ. Ngày mai chúng ta có lễ Bông hồng cài áo. Thượng tọa viện chủ với sự giúp sức của các nghệ nhân đã xây dựng được công trường Bông Hồng Cài Áo đầu tiên trên nước Việt nam để tôn vinh những người cha và  những người mẹ. Ngày mai chúng ta sẽ làm lễ khánh thành công trường. Chúng ta sẽ mặc áo thật đẹp. Sẽ có một bài diễn văn đọc khánh thành để tôn vinh công trường với người cha “Công cha như núi Thái sơn,“ tôn vinh người mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Chúng ta hy vọng trên đất nước Việt nam sẽ còn có những công trường Bông Hồng Cài Áo như vậy để  nuôi dưỡng tình nghĩa của chúng ta. Đó là chứng tích của một nền văn minh. Sau đó chúng ta sẽ có một bài pháp thoại cuối cùng. Những câu hỏi chưa được trả lời ngày hôm nay, thầy sẽ tìm cách trả lời trong bài pháp thoại đó.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.