Kính thưa các vị khách quí, kính thưa đại chúng,
Chúng ta có thể mô tả sự thực tập trong đạo Phật như là một
nghệ thuật sống an lạc và xây dựng hòa bình trong xã hội trên
toàn thế giới. Là một Phật tử, là sự tiếp nối của Đức Thế Tôn,
chúng ta phải học được nghệ thuật sống an lạc và xây dựng hòa
bình trong gia đình, trong cộng đồng, trong xã hội của chúng
ta.

Hàng ngàn thính chúng với hơn 70 quốc tịch lắng nghe
Thiền Sư thuyết giảng. |
Làm lắng dịu những căng thẳng trong thân
Nếu nhìn sâu vào bản thân mình, chúng ta thấy rằng trong đó đã
có sẵn những mầm móng của chiến tranh. Mỗi người trong chúng
ta, ai cũng có sự căng thẳng trong thân, ai cũng có những cảm
xúc như sợ hãi, bạo động, hận thù, tuyệt vọng, ai cũng có
những tư duy và những tri giác sai lầm. Đó có thể xem là những
mầm móng của chiến tranh. Tu tập trong đạo Phật là để nhận
diện được những yếu tố tiêu cực trong mình để có thể chăm sóc
và chuyển hóa nó.
Khi trở về với hơi thở, thở vào, thở ra và ý thức được toàn
thân của mình thì chúng ta nhận ra rằng trong thân mình có rất
nhiều căng thẳng và đau nhức. Chúng ta phải làm thế nào để làm
lắng dịu những căng thẳng, những đau nhức đó? Trong kinh Quán
Niệm Hơi Thở (Satipatthanasutta), Bụt có dạy cho chúng
ta phương pháp thực tập buông thư những căng thẳng trong thân.
Đó là bài tập thứ ba và thứ tư trong kinh Quán Niệm Hơi Thở:
Thở vào, tôi ý thức được toàn thân tôi với những căng thẳng
trong nó. Thở ra, tôi buông thư hết những căng thẳng trong
thân tôi.
Chỉ cần tập thở như vậy trong vài phút thì chúng ta có thể làm
lắng dịu những căng thẳng trong thân mình. Những căng thẳng
đó, nếu bị chất chứa và dồn nén trong thân, thì nó sẽ làm phát
sinh ra nhiều chứng bệnh.
Các nhà khoa học hiện đại nhận thấy rằng, nếu chúng ta có khả
năng buông thư những căng thẳng trong thân thì cơ thể của
chúng ta sẽ có cơ hội để tự chữa lành những chứng bệnh. Chúng
ta không cần sử dụng nhiều thuốc men. Chúng ta chỉ cần buông
bỏ những căng thẳng thì thân chúng ta tự nhiên có khả năng trị
lành bệnh tật. Chúng ta có thể hòa giải với cơ thể của mình và
khi chúng ta hòa giải được với cơ thể của mình rồi thì chúng
ta cũng có thể hòa giải được với cảm thọ của mình.
Làm lắng dịu những căng thẳng trong tâm
Chúng ta có những cảm thọ khó chịu hay những cảm xúc khổ đau
mà chúng ta không biết làm thế nào để xử lý? Bụt dạy chúng ta
kinh Quán Niệm Hơi Thở, chỉ cho chúng ta phương pháp nhận
diện, ôm ấp, làm lắng dịu để có thể chuyển hóa những cảm thọ
khó chịu hay những cảm xúc đau khổ của mình.
Bài tập thứ bảy là: Thở vào, tôi nhận diện những cảm thọ và
cảm xúc đau khổ trong tôi. Và bài tập thứ tám là: Thở
ra, tôi buông thư những căng thẳng trong cảm thọ của tôi, tôi
học nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa những cảm xúc như sợ hãi,
giận hờn, hận thù, ganh tị, tuyệt vọng trong tôi.
Điều đó rất quan trọng! Đó là cách trở về hòa giải với mình,
chăm sóc thân mình, chăm sóc cảm thọ và cảm xúc của mình. Bụt
dạy chúng ta phương pháp nhận diện những tâm hành của mình
trong đó có tưởng hay tri giác. Chúng ta có rất nhiều
vọng tưởng tức tri giác sai lầm. Tri giác sai lầm đưa tới lời
nói sai lầm và hành động sai lầm. Đó là nguyên nhân gây ra sự
xung đột giữa chúng ta, giữa những người cùng một nhóm, giữa
những nhóm trong cùng một quốc gia và giữa những quốc gia với
nhau.
Sống an lạc trong gia đình và trong học đường
Vì vậy cho nên phương pháp thực tập đầu tiên trong đạo Bụt là
trở về với chính mình, nhận diện được những căng thẳng, đau
khổ, bức xúc trong mình để có thể lập lại bình an trong thân
và trong tâm của mình.
Nếu cha mẹ có tu tập thì có thể đem lại hạnh phúc cho con cái
mình và cho gia đình mình. Những người con được lớn lên trong
một gia đình như vậy thì sẽ biết cách nhận diện và xử lý những
căng thẳng, những khó khăn trong thân cũng như trong tâm mình.
Cha mẹ phải thực tập để có thể dạy cho con cái nghệ thuật sống
an lạc.
Trong học đường các thầy, các cô giáo cũng có thể giúp được
cho học sinh, những em không có cơ hội thực tập trong gia
đình, không được học thương yêu và ban tặng niềm vui cho những
người thân của mình. Nếu các thầy, các cô biết phương pháp
thực tập thì có thể giúp cho học sinh có một cơ hội thứ hai.
Học đường sẽ trở thành gia đình thứ hai và các thầy cô giáo sẽ
trở thành cha mẹ thứ hai của các em. Hiện nay chúng ta có rất
nhiều khó khăn trong gia đình và trong học đường. Có rất nhiều
hiểu lầm, giận hờn, bạo động trong gia đình và học đường. Vì
vậy cho nên các bậc phụ huynh và các thầy giáo hay cô giáo
phải học nghệ thuật sống an lạc để giúp cho con em mình và cho
học trò mình cũng được sống an lạc.
Chúng tôi hy vọng các vị thuộc ngành giáo dục nên quán chiếu
vấn đề và đem áp dụng phương pháp thực tập có nguồn gốc đạo
Bụt nầy vào trong gia đình và học đường.
Thực tập lắng nghe và ái ngữ
Trong 30 năm giảng dạy tại các nước Tây phương, chúng tôi đã
cống hiến cho các bạn Tây phương phương pháp sống an lạc nầy.
Nhiều người đã thực tập và áp dụng được thành công. Họ đã về
hòa giải được với cha mẹ, con cái, vợ chồng của mình và đã tìm
lại được hạnh phúc.
Chúng tôi cũng chia sẻ phương pháp lắng nghe với tâm từ bi và
dùng ái ngữ để lập lại truyền thông. Hiện nay chúng ta có
nhiều phương tiện truyền thông rất tinh vi nhưng sự truyền
thông giữa vợ chồng, giữa cha con, giữa mẹ con thì trở nên khó
khăn hơn. Chúng tôi đã chứng kiến nhiều trường hợp cha không
nói chuyện được với con, con không lắng nghe được cha. Nếu
không có sự truyền thông với nhau thì làm sao có thể tháo gỡ
tri giác sai lầm để hòa giải lại với nhau?
Tại Làng Mai, Pháp quốc, trong nhiều năm qua, chúng tôi có bảo
trợ những nhóm người Palestinean và Do Thái sang tu tập với
chúng tôi. Chúng tôi cũng đã học hỏi rất nhiều nơi họ. Khi mới
đến thì họ không nhìn mặt nhau được tại vì họ có quá nhiều đau
khổ, quá nhiều sợ hãi, hận thù và nghi kỵ.
Trước tiên, tăng thân Làng Mai giúp họ làm lắng dịu những căng
thẳng trong thân. Họ tập thở, tập đi, tập ngồi trong chánh
niệm. Họ tập nhận diện những nỗi khổ niềm đau và làm lắng dịu
những cảm xúc của mình bằng phương pháp buông thư hoàn toàn
theo lời Bụt dạy.
Sau khi cả hai nhóm đều thực tập được một tuần lễ thì họ được
hướng dẫn thực tập phương pháp lắng nghe và dùng ái ngữ. Khi
chúng ta đau khổ thì chúng ta có khuynh hướng làm cho người
kia cũng đau khổ như mình. Nhưng nếu mình biết dùng ái ngữ tức
là những lời nói không có tính cách trách móc, lên án, buộc
tội thì mình có thể giải bày cho người kia biết nỗi khổ niềm
đau, những khó khăn và những mong ước của mình. Và nếu mình là
người lắng nghe thì mình phải trở về với hơi thở, mình thở vào
thở ra, mình phải nhớ rằng lắng nghe là một pháp môn tu tập để
chế tác tình thương. Chỉ cần lắng nghe một giờ đồng hồ thôi
thì chúng ta đã làm cho người kia bớt khổ nhiều lắm rồi.
Trong Phật giáo đại thừa có Đức Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị
Bồ Tát có khả năng lắng nghe với tâm từ bi. Nếu chúng ta học
được hạnh lắng nghe của Bồ Tát Quan Thế Âm thì chỉ trong vài
ngày là chúng ta có thể lắng nghe được người kia hay nhóm kia.
Chúng ta biết rằng, chúng ta chỉ cần lắng nghe trong một hay
hai giờ đồng hồ thì người kia đã đỡ khổ nhiều lắm rồi. Người
kia có thể không có lời nói dễ thương, không ai có thể lắng
nghe người đó được. Nhưng bây giờ mình đã học được hạnh lắng
nghe của Đức Quan Thế Âm, mình có thể lắng nghe họ với tâm từ
bi và như thế thì mình đã giúp được họ nhiều lắm rồi. Người
kia hay phía bên kia có dịp nói ra hết tất cả nỗi khổ niềm
đau, tất cả những khó khăn của họ và nhóm người bên đây
(Palestinean hay người Israeli) chỉ im lặng nghe thôi. Tăng
thân Làng Mai ngồi kế bên để yểm trợ cho họ trong sự thực tập.
Sau khi thực tập như vậy độ chừng một giờ đồng hồ thì tình
trạng thay đổi hẳn. Ai cũng nhận ra rằng: Những người phía bên
kia, người lớn và cả trẻ con, họ cũng đau khổ y hệt như mình
vậy! Vì vậy cho nên lần đầu tiên mình nhìn được người phía bên
kia bằng con mắt thương. Người kia cũng là một con người như
mình vậy! Trước đó mình tưởng rằng chỉ có mình là khổ thôi,
người kia không có khổ gì hết, người kia chỉ muốn làm mình khổ
thôi. Bây giờ, sau vài lần thực tập lắng nghe nhau thì mình
nhận ra rằng người kia cũng khổ rất nhiều y như mình vậy. Biết
được điều đó thì cả hai bên cảm thấy đỡ khổ rồi.
Cuối cùng, sau muời ngày thực tập thì hai nhóm đã có thể nắm
tay nhau đi thiền hành. Họ có thể ngồi chia sẻ với nhau trong
tình huynh đệ. Những nhóm người Palestinean và Do Thái thực
tập luôn luôn thành công. Đến cuối khóa tu thì hai bên lên báo
cáo thành quả tu tập của họ với đại chúng. Họ hứa khi trở về
nhà sẽ tổ chức những tăng thân tức những nhóm tu học để những
người Palestinean hay người Do Thái trong nước đến tu tập cho
bớt khổ.
Cái thấy vô ngã và tương tức
Chúng ta biết rằng, nếu muốn có lời nói đúng đắn (chánh ngữ)
và hành động đúng đắn (chánh nghiệp) thì chúng ta phải có một
cái thấy đúng đắn (chánh kiến). Cái thấy đúng đắn là cái thấy
của duyên khởi, của vô ngả và tương tức. Người có tu tập phải
luôn luôn nhớ đem tuệ giác đó áp dụng vào trong đời sống hằng
ngày. Trong khi nhìn, trong khi nghe, chúng ta cũng phải tiếp
xúc được với tuệ giác của duyên khởi, vô ngã và tương tức.
Ví dụ như một cặp cha con, nếu quán chiếu cho kỹ thì mình thấy
người con là sự tiếp của người cha. Nếu con tập thở có chánh
niệm và nhìn sâu vào cơ thể mình thì sẽ thấy cha có mặt trong
từng tế bào cơ thể mình. Cha không chỉ ở ngoài con mà cha còn
có mặt ở trong con. Mẹ cũng vậy, mẹ cũng có mặt ở trong con.
Nếu cha nhìn sâu vào cơ thể mình thì cha cũng sẽ thấy con mình
có mặt trong mình. Nếu con đau khổ thì cha cũng đau khổ. Con
không thể nào thật sự có hạnh phúc nếu cha đau khổ và cha
không thể nào thật sự có hạnh phúc nếu con đau khổ. Vì vậy cho
nên, đau khổ không phải là vấn đề của một cá nhân. Nếu mình
khổ thì con mình khổ và cha mình cũng khổ. Nếu con mình có
hạnh phúc thì mình cũng có hạnh phúc.
Trong ánh sáng của vô ngã và tương tức thì đau khổ không phải
là vấn đề của một cá nhân. Đau khổ là đau khổ chung của con và
của cha. Đó là tuệ giác của vô ngã và tương tức. Chúng ta biết
rằng tất cả mọi thứ đều có liên quan mật thiết với nhau. Sự an
lành của loài vật rất cần thiết cho sự an lành của con người.
Sự an lành của các loài cỏ cây và đất đá là điều kiện để con
người được sống an lành. Vì vậy cho nên bảo vệ môi trường và
bảo vệ các loài trên trái đất là bảo vệ con người. Đó là tuệ
giác của tương tức.
Không phải chỉ có đạo Phật mới có tuệ giác đó mà các truyền
thống tôn giáo không phải Phật giáo cũng có. Có những Phật tử
có tiếp xúc với giáo lý tương tức nhưng không áp dụng được tuệ
giác đó vào đời sống của mình. Là người xuất gia mà mình quên
mình là người xuất gia, mình tiếp tục chạy theo quyền hành,
danh vọng, mình chỉ muốn xây chùa thật lớn. Mình không có khả
năng sống an lạc và đem lại bình an trong đoàn thể xuất gia
của mình. Mình không có bình an trong mình, mình không sống an
lạc được với các sư anh, sư chị, sư em của mình. Mình không
thật sự tu tập như một người xuất gia.
Áp dụng sự thực tập năm giới vào đời sống hằng ngày
Là cư sĩ, chúng ta đã thọ năm giới, nhưng chúng ta quá bận
rộn, chúng ta không áp dụng sự thực tập năm giới vào đời sống
hằng ngày. Tháng 3 năm 2000 cơ quan UNESCO có công bố một bản
tuyên cáo gọi là Manifesto 2000. Trong bản tuyên cáo có sáu
điểm để xiển dương hòa bình. Liên Hiệp Quốc tuyên bố, trong
thập niên đầu của thế kỷ 21 chúng ta sẽ cố gắng xiển dương và
xây dựng một nền văn hóa hòa bình và bất bạo động. Tôi được cơ
hội ngồi chung với các vị đã được giải Nobel hòa bình để thảo
ra bản tuyên cáo 2000. Trong đó, có sáu điểm để thực tập và
Manifesto 2000 đã thu được 75 triệu chữ ký trong đó có chữ ký
của nhiều vị nguyên thủ quốc gia như thủ tướng v.v... Sáu điểm
của Manifesto rất tương tự với năm giới của Phật giáo. Nếu mọi
người đều thực tập theo sáu điểm của Manifesto hay theo năm
giới của Phật giáo thì chúng ta sẽ có bình an trong chúng ta
và hòa bình trên toàn thế giới.
Nhưng trên thực tế, sau khi ký xong bản tuyên cáo thì quí vị
không có cơ hội để thực hành. Quí vị đồng ý với bản tuyên cáo,
quí vị biết rất rõ đó là một bước để dẫn đến hòa bình nhưng
quí vị không có dịp sống đúng theo sáu điểm của bản tuyên cáo
và áp dụng sáu điểm đó vào trong đời sống hằng ngày. Đó là một
sự thiếu sót của chúng ta!
Theo truyền thống Phật giáo thì sau khi thọ năm giới xong, quí
vị được khuyến khích họp với nhau lại hai tuần một lần để tụng
giới, dự pháp đàm về năm giới hầu học cách áp dụng tốt sự thực
tập năm giới vào đời sống hằng ngày. Không phải là chúng ta
không có đường đi, chúng ta có đường đi nhưng không nhận ra
được mình trên con đường đó để cùng đi với nhau như một dòng
sông. Vì vậy cho nên tôi đề nghị là chúng ta phải thấy mình là
một thành phần của tăng thân. Gia đình mình có thể là một tăng
thân, lớp học mình có thể là một tăng thân, cơ quan làm việc
có thể trở thành một tăng thân, ủy ban nhân dân có thể trở
thành một tăng thân, quốc hội có thể trở thành một tăng thân
để chúng ta có cơ hội thực tập sáu điểm của Manifesto 2000.
Bảo vệ sự sống của mọi loài
Giới thứ nhất trong năm giới là giới bảo vệ sự sống, không
những sự sống của con người mà luôn cả sự sống của các loài
thú, các loài cỏ cây và đất đá. Đó là sự thực tập để bảo vệ
môi trường. Muốn cho loài người được an lành thì chúng ta phải
bảo vệ những loài vật, cả những loài cỏ cây và đất đá. Để có
thể thực tập sâu sắc giới thứ nhất chúng ta phải học giới thứ
năm tức là giới tiêu thụ có ý thức và sản xuất có ý thức. Nếu
chúng ta khai thác quá mức nguồn tài nguyên của trái đất thì
chúng ta sẽ gây ra những tổn hại lớn. Vì muốn làm giàu người
ta sản xuất ra những loại thực phẩm mà khi mình tiêu thụ nó
thì mình đưa vào cơ thể và tâm hồn mình những chất độc như hận
thù, bạo động, sợ hãi. Đó là đầu độc thân và tâm bằng con
đường tiêu thụ. Chúng ta phải tiêu thụ có ý thức, không chấp
nhận tiêu thụ và sản xuất những chất độc hại có thể tạo ra sự
xung đột, bệnh tật, căng thẳng, hận thù, sợ hãi trong thân và
trong tâm mình. Đó là phương pháp rất hay để tự bảo vệ mình,
bảo vệ gia đình, cộng đồng và xã hội mình. Nếu không thực tập
tiêu thụ có ý thức thì chúng ta sẽ không có con đường thoát.
Chúng ta phải sản xuất có ý thức, không sản xuất những sản
phẩm có chất độc. Chúng ta phải tiêu thụ có ý thức, không tiêu
thụ những chất độc hại.
Thực tập giới thứ nhất có thể đem lại hòa bình. Các nhà lập
pháp nên quan tâm đến điều đó. Họ phải ban hành những luật lệ
cấm sản xuất những loại sản phẩm có thể đưa vào trong cơ thể
và tâm hồn con người những độc tố như sợ hãi, giận dữ, hận thù
hay tuyệt vọng.
Các bậc phụ huynh và các nhà giáo dục thực tập cũng chưa đủ,
tôi nghĩ các doanh nhân và các nhà chính trị cũng phải cùng
thực tập. Các vị phải giúp chúng ta, hoặc bằng cách ban hành
những luật lệ cấm sản xuất những loại sản phẩm có độc tố hoặc
bằng cách giáo dục con người trong việc tiêu thụ, chỉ nên tiêu
thụ những chất lành mạnh cho thân và tâm của mình.
Không bóc lột con người và trái đất
Giới thứ hai rất là rõ ràng: Không bóc lột con người, không
bóc lột hành tinh trái đất. Nếu chúng ta bóc lột, lợi dụng con
người và trái đất, chúng ta không nghĩ đến tương lai của con
cháu chúng ta thì chúng ta không có chánh tư duy như
Bụt dạy. Chánh tư duy là gì? Chánh tư duy là tư duy song hành
với tuệ giác của tương tức và vô ngã. Anh là tôi và tôi là
anh. Chánh tư duy là tư duy đi đôi với hiểu và thương, với bao
dung và tha thứ.
Khi mà chúng ta vừa chế tác ra một tư tưởng của chánh tư duy
thì tư tưởng đó đã có khả năng nuôi dưỡng thân và tâm của
chúng ta, tư tưởng đó cũng có tác dụng nuôi dưỡng trên thế
giới và trên hành tinh của chúng ta. Là Phật tử, chúng ta phải
có khả năng chế tác ra nhiều tư tưởng như vậy, tư tưởng của
chánh tư duy, tư tưởng của hiểu và thương, của bao dung và tha
thứ. Khi thực tập được chánh tư duy thì lời nói của chúng ta
là chánh ngữ, là lời nói đem lại sự hiểu biết và niềm hy vọng
cho anh chị em chúng ta. Hành động của chúng ta cũng sẽ là
chánh nghiệp. Chánh kiến là căn bản và từ đó chúng ta
có chánh tư duy, chánh ngữ và chánh nghiệp.
Đó là phương pháp thực tập để xây dựng hòa bình.
Chúng ta bàn rất nhiều về hòa bình nhưng chúng ta chưa hành
động đủ để xây dựng hòa bình.
Đức Thế Tôn đã ban tặng cho chúng pháp môn thực tập thì mình
cũng phải dâng tặng lại cho Đức Thế Tôn sự tu tập của mình. Ba
nghiệp mà mình tạo ra bằng sự thực tập chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp là phẩm vật mình cúng dường Đức Thế Tôn mỗi
ngày. Đó là cách mình bày tỏ lòng biết ơn đối với Bụt, Thầy
của mình.
Sống đơn giản, ít tiêu thụ mà có hạnh phúc
Tại tu viện Lộc Uyển ở tiểu bang California, chúng tôi ngưng
không sử dụng điện của thành phố, chúng tôi chỉ sử dụng năng
lượng mặt trời. Hàng trăm người trong tu viện chỉ sống nhờ vào
năng lượng mặt trời. Chúng tôi dùng dầu thực vật để chạy xe và
cùng với các cư sĩ chúng tôi thực tập một ngày không xe hơi
(carfree day) trong một tuần. Một ngày không sử dụng xe hơi là
một ngày không làm ô nhiểm môi trường, đó cũng là phẩm vật
chúng ta cúng dường lên Đức Thế Tôn. Chúng tôi cùng các cư sĩ
đã cúng dường lên Đức Thế Tôn 60.000 ngày không xe
hơi.
Ngày 22 tháng 9 là ngày không xe hơi quốc tế,
chúng tôi hy vọng tới ngày đó chúng tôi có thể cúng dường lên
Đức Thế Tôn 100.000 ngày không xe hơi Nếu không
sử dụng xe hơi mà sử dụng xe gắn máy thì chúng ta cũng có thể
cúng dường Bụt một ngày không xe gắn máy trong tuần.
Chúng ta có thể bày tỏ tình thương của chúng ta đối với hành
tinh nầy bằng cách sử dụng điện ít hơn, sử dụng dầu khí ít
hơn. Chúng ta biết rất rõ là dầu khí không đủ cung cấp cho tất
cả mọi người. Những nước như Ấn Độ hay Trung Quốc có rất đông
dân cư. Nếu mỗi người dân đều muốn có một chiếc xe hơi thì
không thể nào có đủ dầu khí để cung cấp cho mọi người. Ý thức
được như vậy là giác ngộ rồi, đó là chánh tư duy. Sống giản
dị, ít tiêu thụ là con đường thoát duy nhất của chúng ta!
Chúng ta, những người Phật tử nên bắt đầu đưa sự giảng dạy và
thực tập lối sống đó vào cộng đồng của mình.
Trong những tu viện của chúng tôi ở Âu Châu và Mỹ Châu, không
nguời nào có xe hơi riêng, có laptop riêng, điện thoại riêng
hay trương mục ngân hàng riêng. Nhưng chúng tôi sống rất hạnh
phúc! Qua sự tu tập, chúng tôi biết rằng hạnh phúc có thể có
được nếu chúng ta được nuôi dưỡng bởi tình huynh đệ, được nuôi
dưỡng bằng tình thương. Chúng ta không cần phải tiêu thụ nhiều
mới có hạnh phúc.
Nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng nếu mình không có nhiều
tiền, không có quyền hành to hay danh vọng lớn thì mình sẽ
không có hạnh phúc. Nhưng khi nhìn lại xung quanh thì tôi thấy
có rất nhiều người có quyền hành to, có rất nhiều tiền nhưng
họ cũng đau khổ cực kỳ và có một số người đã tự tử. Tôi cũng
thấy có những huynh đệ đồng tu của tôi, họ không có xe hơi,
không có trương mục ngân hàng, không có máy vi tính riêng
nhưng họ lại rất hạnh phúc. Điều đó có nghĩa là sống đơn giản
mà có hạnh phúc là cái có thể có được. Đó là điều Bụt dạy ta:
Sống giản dị, ít tiêu thụ, để thì giờ chăm sóc cho mình nhiều
hơn.
Sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại
Kính thưa các anh chị em, kính thưa các vị khách quí,
Chúng ta được cùng ngồi với nhau ở đây để tán dương Đức Thế
Tôn, Thầy của chúng ta. Điều đó rất là hay, rất là đẹp! Tôi đề
nghị là để tỏ lòng biết ơn đối với Thầy của mình, chúng ta cố
gắng sống theo đúng con đường Ngài đã chỉ cho chúng ta, để thì
giờ chăm sóc thân mình, thì giờ thương yêu và chăm sóc những
người xung quanh mình. Vì vậy cho nên chúng ta nên bớt lại thì
giờ chạy theo cái mà ta gọi là thành công trong sự nghiệp dù
đó là giàu sang, uy quyền hay danh vọng.
Hạnh phúc có thể có được nếu chúng ta trở về với giây phút
hiện tại, trở về hơi thở, ý thức rằng mình đang còn sống và
những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt trong ta và xung quanh
ta. Chúng ta chỉ cần ngồi yên, buông thư, thì có thể tiếp xúc
được với những mầu nhiệm của sự sống. Nó có công năng trị liệu
và nuôi dưỡng chúng ta và hạnh phúc có thể tới liền trong phút
giây hiện tại.
Đức Thế Tôn dạy chúng ta giáo lý Hiện pháp lạc trú tức
là sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại (Drstadharma
sukhavihara). Trong thời Bụt còn tại thế, có một nhà doanh
thương tên là
Anāthapindika.
Ông đã theo học được ở
Bụt rất nhiều và cố gắng áp dụng những điều đã học vào trong
đời sống gia đình, vì vậy cho nên gia đình của ông rất hạnh
phúc. Một hôm ông dẫn 500 doanh nhân bạn của ông đến nghe Bụt
giảng. Trong bài thuyết pháp cho các doanh nhân hôm đó Bụt đã
lập lại cụm từ Hiện pháp lạc trú đến năm lần.
Bụt biết rất rõ là các nhà doanh thương thường hay lo lắng,
suy nghĩ nhiều về tương lai, họ lo cho sự thành công của họ
trong tương lai. Họ không có thì giờ cho chính họ, không có
thì giờ cho con cái và gia đình họ. Bụt muốn nhắc nhở cho các
doanh nhân là hạnh phúc đã có mặt bây giờ và ở đây. Chúng ta
chỉ cần thở có chánh niệm và trở về với giây phút hiện tại thì
chúng ta sẽ nhận diện được những điều kiện của hạnh phúc đang
có mặt bây giờ và ở đây. Chăm sóc hiện tại cũng là chăm sóc
tương lai vì tương lai được làm bằng những chất liệu của hiện
tại. Chúng ta đầu tư 100% vào hiện tại, làm tất cả những gì
cần phải làm, không làm những gì có hại cho mình trong hiện
tại và trong tương lai. Chăm sóc thật tốt cho hiện tại để có
một tương lai tốt đẹp vì tương lai được làm bằng chất liệu của
hiện tại. Cố nhiên là chúng ta có quyền thiết kế cho tương
lai, nhưng chúng ta không cần phải lo lắng quá cho tương lai,
chúng ta không sợ hãi tương lai. Chúng ta không đánh mất mình
trong sự sợ hãi, nỗi hoang mang cho tương lai. Đó là điều mà
Đức Thế Tôn muốn nói với chúng ta: Sống hạnh phúc trong hiện
tại, chúng ta đã có đầy đủ những điều kiện để có hạnh phúc
trong hiện tại. Đó là thông điệp mà chúng ta có thể gửi đến
các bạn của chúng ta, những người Phật tử cũng như những người
không phải Phật tử.
Thực tập hơi thở
Tôi xin mời các vị khách quí và đại chúng hãy ngồi cho thoải
mái trong một hay hai phút để nhận diện được hạnh phúc đang có
mặt bây giờ và ở đây. Chúng ta không cần chạy đi tìm hạnh phúc
trong tương lai. Được ngồi chung với nhau như một gia đình tâm
linh là một điều rất mầu nhiệm! Chúng ta ngồi ở đây với Đức
Thế Tôn! Chúng ta hãy vui hưởng sự có mặt của nhau!
Thở vào, tôi mời ba trong tôi cùng thở vào với tôi / Thở ra,
tôi mời mẹ trong tôi cùng thở ra với tôi.
Thở vào, con cảm thấy nhẹ, ba có cảm thấy nhẹ như con không? /
Thở ra, con cảm thấy tự do, mẹ có cảm thấy tự do như con
không?
Thở vào, tôi thấy Bụt có mặt trong từng tế bào cơ thể tôi tại
vì tôi là học trò, tôi là sự tiếp nối của Ngài / Thở ra, tôi
mỉm cười với Bụt trong từng tế bào cơ thể tôi.
Hứa với Bụt
Con xin hứa với Đức Thế Tôn rằng con sẽ là sự tiếp nối tốt đẹp
của Ngài. Trong khi đi mỗi bước chân của con đều có vững chãi,
thảnh thơi, an lạc. Khi thở thì mỗi hơi thở của con đều đem
lại bình an, êm dịu cho thân tâm. Khi nói thì con sẽ dùng lời
ái ngữ. Trong khi lắng nghe con sẽ nuôi dưỡng tâm từ bi để
giúp cho người vơi bớt nỗi khổ niềm đau. Con xin nguyện nối
lại truyền thông với chính mình, với những người trong gia
đình và trong cộng đồng của con. Con biết là làm như vậy là
yểm trợ cho việc xây dựng hòa bình trong xã hội con.
|