Kính
thưa quý vị Tôn Đức, các Thầy, các Sư cô, các Phật tử cư sĩ.
Cách
đây mấy chục năm, tôi có viết một cuốn sách rất mỏng với nhan
đề là: Tương lai Thiền học Việt Nam. Tôi không nhớ là
cuốn sách đó viết vào năm nào, chỉ nhớ sách được viết dưới
hình thức một bức thư cho Hòa thượng Thanh Từ. Nội dung bức
thư với lời văn rất nồng ấm thân hữu. Nếu quý vị có thuận
duyên hãy tìm đọc cuốn sách đó vì bây giờ rất hiếm có. Năm
ngoái về Việt Nam, tôi có cơ hội đến thăm Hòa thượng Thanh Từ
ở thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, ngày hôm đó rất vui. Chúng tôi
đã được Hòa thượng dẫn đi thăm các nơi, cảnh trí trong chùa.

Sen búp xin tặng người - Một vị Bụt tương lai |
Pháp
lữ
đồng môn
Năm nay
về lại Việt Nam là để tham dự lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc.
Trong
thời gian lưu trú tại chùa Bát Nhã, chúng tôi sẽ tìm cơ hội đi
thiền viện Trúc Lâm để thăm Hòa thượng Thanh Từ lần nữa, vì
biết đâu chừng đây là cơ hội cuối cùng gặp lại nhau. Tôi biết
Ngài từ khi còn trẻ, từ Trà Ôn lên với Hòa thượng Thích Thiện
Hoa tại chùa Ấn Quang. Lúc đó Hòa thượng bắt đầu lưu ý đến
thiền học, và tôi cũng đã có dịch một số các bài kệ của các
thiền sư đời Lý, Trần từ chữ Hán ra chữ Việt và đưa Hòa thượng
xem, Ngài rất tâm đắc. Năm 1966 tôi phải rời quê hương để đi
kêu gọi hòa bình và không được về nước. Từ đó trở về sau,
trong nhiều thập niên tôi phải làm việc ở hải ngoại. Hòa
thượng Thanh Từ ở lại trong nước, hai bên đều cùng nhau cố
gắng chấn hưng thiền học. Ngài viết và dịch những cuốn sách về
thiền và cuối cùng chú tâm vào phái thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Ngài lo chuyện thiền ở trong nước, còn tôi thì lại ra lo
chuyện thiền ở ngoài nước.
Ở nước ngoài, tôi có cơ hội tiếp xúc với nhiều tông phái Phật
giáo, nhất là Phật giáo Theravada (Phật giáo Nguyên thủy). Tôi
đã có dịp nghiên cứu trở lại và đi sâu hơn những tác phẩm kinh
thiền Nguyên thủy như kinh Niệm Xứ, kinh An Ban Thủ Ý, kinh
Người Biết Sống Một Mình. Môn thiền mà chúng tôi giảng dạy,
hướng dẫn và thực tập ở nước ngoài có gốc rễ Việt Nam, cũng là
dịp trở về với dòng Thiền Nguyên thủy.
Kết
tập kinh điển
Vì vậy
những kinh như: Tứ Niệm Xứ.
An Ban Thủ Ý rất
là quan trọng. Quý vị nên nhớ thời Thế Tôn còn tại thế thầy
nào cũng thuộc kinh Niệm Xứ, kinh An Ban Thủ Ý. Vì đó là những
“bản kinh gối đầu” của các thầy vào thời ấy. Nói vậy thôi, chứ
thời đó kinh chưa được viết lại, in ra giấy. Mà chỉ theo
phương pháp học “truyền miệng” nên các thầy, cô phải nhớ nằm
lòng. Và giờ đây cũng có nhiều thầy, sư cô trong Nam Tông cũng
học thuộc lòng kinh Niệm Xứ và kinh An Ban Thủ Ý. Vì vậy mà
khi chúng tôi cùng quý thầy, quý sư cô Làng Mai biên tập quyển
Nhật Tụng Thiền Môn Năm 2000, chúng tôi cố tâm đưa kinh
Niệm Xứ và kinh An Ban Thủ Ý tức là kinh Quán Niệm Hơi Thở
vào. Thiền tập ở Tây phương mà chúng tôi hướng dẫn có quan hệ
mật thiết đến kinh An Ban Thủ Ý và kinh Niệm Xứ. Có thể nói
rằng nếu mình không biết nghệ thuật thở, nếu không nắm
bắt được phương pháp thở thì mình không thể thực tập
được thiền. Kinh An Ban Thủ Ý phối hợp với kinh Niệm Xứ thành
một hệ thống, một phương pháp rất vững chải và có hiệu năng.
Chăm sóc thân
và tâm
Kinh Niệm Xứ: Cho
chúng ta biết rằng có bốn lãnh vực mà mình phải nắm cho được.
Trước hết là lãnh vực của thân: gọi là niệm thân. Lãnh
vực thứ hai là mình phải nắm cho được, quán chiếu cho được là
niệm thọ, thọ là những cảm thọ (feelings) của mình,
phải biết cách sử dụng hơi thở để chăm sóc cái thân của
mình, sử dụng hơi thở để chăm sóc cái thọ của mình.
Những cảm thọ dễ chịu hoặc khó chịu và những cảm thọ trung
tính, mình đều phải nhận diện và chăm sóc nó. Những cái vui,
buồn, khổ đau, những cảm xúc như yêu, ghét, giận hờn, tuyệt
vọng mỗi khi phát hiện là mình phải có khả năng nhận diện và
chăm sóc, và cuối cùng chuyển hóa nó. Đứng về phương diện thân
niệm thân thì phải biết rằng trong thân mình có những
cái đau nhức, dồn nén, căng thẳng, và nhất là con người hiện
đại có nhiều căng thẳng, bức xúc trong thân (bây giờ
dùng chữ Stress), và con người của thời đại mới làm việc và lo
lắng rất nhiều nên cứ tiếp tục dồn chứa rất nhiều căng thẳng
trong thân.
Dồn chứa như vậy,
lâu ngày sẽ sinh nhiều thứ bệnh trước là về thân và sau
là về tâm. Cho nên sử dụng hơi thở để buông thư tất cả
những cái căng thẳng trong thân là một phương pháp rất cần
thiết trong thiền, không phải cho các vị xuất gia thôi, mà còn
cho cả các vị tại gia nữa. Trong kinh An Ban Thủ Ý có bài tập
thứ ba: Thở vào tôi có ý thức về toàn thân. Khi thở vào
mình buông bỏ hết mọi suy nghĩ. Nương vào hơi thở để trở về và
nhận diện sự có mặt của cái hình hài thân thể nầy. Thở vào ý
thức toàn thân, làm quen với thân mình và biết rằng trong thân
nầy có những đau nhức, dồn nén căng thẳng. Khi thở ra mình áp
dụng phương pháp bài tập thứ tư trong An Ban Thủ Ý của đức Thế
Tôn là: Khi thở ra tôi buông thư toàn thân, buông bỏ
tất cả những căng thẳng trong toàn thân. Nguyên văn chữ Hán là
an tĩnh thân hành (buông bỏ những căng thẳng). Buông bỏ
để làm an tĩnh lại thân mình. Trong tư thế ngồi hay nằm mình
đều có thể thực tập để nhận diện sự căng thẳng của toàn thân,
phải thực tập để những căng thẳng được buông thư. Chưa thực
tập được điều đó thì chưa có thể đi xa được.
Phương pháp
trị liệu
Khi buông bỏ đuợc
những căng thẳng trong thân rồi, nắm được nghệ thuật, phương
pháp đó rồi thì toàn thân đạt tới trạng thái gọi là khinh
an (nhẹ nhàng thư thới). Khinh an là một trong bảy yếu tố
giải thoát, giác ngộ, và thất bồ đề phần là 7 yếu tố
đưa đến giác ngộ. Sự nhẹ nhàng trong thân và tâm
là một yếu tố rất quan trọng. Người tu hành mà không có nhẹ
nhàng thanh thoát trong thân và tâm, không thấy
an thì người đó không thể giải thoát được. Cho nên nếu mình
cảm thấy trong thân và tâm chưa có sự nhẹ nhàng
thì phải suy nghĩ lại để làm sao cho có. Nếu chưa có thì phải
làm sao có được trong vài ba ngày.
Vì có sự nhẹ
nhàng rồi thì bệnh tật tiêu trừ rất mau. Chỉ cần buông bỏ
những căng thẳng trong thân tâm thì bệnh tật cũng không nảy
sinh, và nếu có sẽ được tiêu trừ. Thành ra thiền có công năng
phòng hộ và trị liệu rất lớn. Trong khi bệnh, có thể mình đang
uống thuốc Bắc, thuốc Nam hay thuốc Tây, nhưng mình đừng nên
tin tưởng hoàn toàn vào thuốc. Vì thuốc chỉ giúp một phần mà
bên cạnh đó mình cần phải tu, phải buông bỏ những dồn nén,
căng thẳng trong thân và tâm, thì từ từ mình có thể chữa trị
được. Có những người mang chứng bệnh hiểm nghèo như: sida, ung
thư nhưng mà có thể sống thêm vài chục năm là vì họ buông bỏ
được những sự căng thẳng trong thân và tâm. Nhất là những
người có quá nhiều công việc bận rộn trong xã hội thì phép tu
thiền nầy sẽ giúp ích rất nhiều. Trong khi mình lái xe, tưới
rau, rửa bát, quét nhà đều có thể tu được, nghĩa là làm sao để
có yếu tố khinh an, nhẹ nhàng trong cuộc sống hàng ngày. Vậy
thì lãnh vực, yếu tố đầu tiên mà mình phải đi vào là thân, gọi
là niệm thân, chửa trị và chăm sóc cho thân.
Nhận diện cảm
thọ
Lãnh vực thứ hai
mà mình phải đi vào là thụ (tức là cảm thọ feelings).
Người tu phải biết trở về và nhận diện cái cảm thụ của mình,
nếu là vui thì biết đây là lạc thụ, khổ thì biết đây là
khổ thụ, xã thì biết đây là xã thụ. Một cảm giác
đau đớn, khó chịu nhức nhối thì mình phải có mặt đó để nhận
diện nó, thở vào tôi biết đây là cảm giác đau đớn, khó chịu đó
là bài tập thứ bảy trong kinh An Ban Thủ Ý. Khi mình có cảm
xúc như sợ hải, lo lắng, ganh tị, tuyệt vọng thì mình phải có
mặt để nhận diện, ôm ấp nó làm cho nó nhẹ ra gọi là an tĩnh
tâm hành. Thân hành là hiện tượng sinh lý, và tâm hành là
hiện tượng tâm lý. Bài tập thứ tư trong kinh An Ban Thủ Ý là
an tĩnh thân hành. Còn bài tập thứ tám trong kinh An
ban Thủ Ý là an tĩnh tâm hành (feelings là cái cảm thọ,
cảm xúc của mình). Người tu phải có khả năng buông bỏ để cho
mình nhẹ ra gọi là an tĩnh thân hành. Tôi thở vào an
tĩnh thân hành, phải làm cho được thì mới là đấng trượng
phu.
Lãnh vực tu học
nguyên văn chữ Hán gọi là niệm xứ. Niệm là quán niệm,
có mặt đó để quan sát. Niệm thân là có mặt đó để quan sát cái
thân của mình. Niệm thụ là có mặt đó để nhận diện và quan sát
những cái cảm thụ của mình và làm cho nó nhẹ đi rất là khoa
học, rất là thực tế mà người tu phải nắm cho được. Hiện giờ
tại các trường y khoa Tây phương đã lợi dụng kinh An Ban Thủ
Ý. Các bác sĩ cũng như y tá đã tìm cách áp dụng các bài tập đó
để chữa trị cho các bệnh nhân và giúp bệnh nhân điều trị được
mau chóng.
Lãnh vực thứ ba
(niệm xứ thứ 3) là quán tâm trong tâm, vì tâm không
phải chỉ có cảm thọ, cảm xúc mà còn có tri giác và bao nhiêu
hiện tượng tâm lý khác. Trong đạo Phật chúng ta có nhiều trạng
thái tâm lý như là tâm sở hay tâm hành. Các thầy
các sư cô khi còn học tiểu học Phật giáo thì phải học thuộc
lòng những tâm hành tốt như: tín, tàm, quý, vô tham, vô
sân, vô si, cần, khinh an, bất phóng dật, v.v... đó là
những tâm sở, tâm hành tốt và những tâm hành xấu như: tham,
sân, si, mạng, nghi, kiến, vô tàm, vô quý v.v…
Nhận diện tâm
hành
Có tất cả 51 Tâm
hành như thế, khi chưa phát hiện thì gọi nó là chủng tử
hay hạt giống. Khi phát hiện thành năng lượng thì gọi là
tâm hành. Thành ra người tu khi mà tâm hành phát hiện, thì
mình phải có mặt để nhận diện để chăm sóc, và cuối cùng chuyển
hóa nó. Đó là lãnh vực thứ ba quán tâm trong tâm, lãnh
vực thứ hai là quán thọ trong thọ, lãnh vực thứ nhất là
quán thân trong thân, và lãnh vực thứ tư là quán
pháp trong pháp. Pháp tức là đối tượng của sự nhận thức;
cái bình nước nóng là một pháp; cái ly, cái bàn, núi non, cây
thông v.v.. đều là pháp. Khi mình thấy cái gì thì cái mình
thấy đó là pháp. Đối tượng của nhận thức thuộc về phạm vi tri
giác. Tri giác tiếng phiên âm là tưởng, tưởng tức là
nhận thức và tưởng là 1 trong 51 tâm sở: biến hành, xúc,
tác ý, tưởng, tư v.v… Tưởng đứng thứ 4 trong lãnh vực của
pháp, là đối tượng của các pháp, nên mình phải quán chiếu các
pháp. Tất cả các pháp đều là đối tượng nhận thức, pháp là đối
tượng của tri giác, của tâm. Mình phải quán chiếu các pháp để
biết các pháp là vô thường, vô ngã, là duyên sinh, là không,
là tương tức. Rồi đi sâu hơn nữa sẽ thấy các pháp đều vô sinh,
là bất diệt. Ban đầu mình tưởng chúng nó là có sinh có diệt,
nhưng đi sâu vào thì sẽ thấy nó là vô sinh, bất diệt. Đi từ
từ, từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu.
Kinh Niệm Xứ đưa
ra 4 lãnh vực tu học mà mình phải đi vào và nắm cho được. Hơi
thở có chánh niệm là một dụng cụ rất hay khi đi vào trong 4
lãnh vực đó nếu mình đem theo được hơi thở có ý thức thì mình
nhận diện, quan sát và chuyển hóa được. Vì vậy kinh Quán Niệm
Hơi Thở đi đôi với kinh Niệm Xứ một cách rất là tuyệt hảo.
Kinh nầy bổ túc cho kinh kia. Mong rằng các học viện Phật giáo
Việt Nam, các thầy, các sư cô trẻ có cơ hội học lại nhiều lần
nữa kinh Niệm Xứ và kinh Quán Niệm Hơi Thở. Những kinh nầy
hiện giờ nguyên bản còn tiếng Pali, mà cũng có bản chữ Hán
trong Hán tạng.
Tôi
đã tìm ra 3 kinh trong A Hàm, trong Tạp A Hàm. Kinh nầy đem
ghép lại thì tương đương với kinh Quán Niệm Hơi Thở trong Tạng
kinh Pali. Thành ra chúng ta phải cám ơn chư Tổ đã gìn giữ các
Pháp của đức Thế Tôn cho chúng ta. Và Nam tông cũng như Bắc
tông cũng còn giữ lại được 2 kinh đó (kinh Niệm Xứ và kinh
Quán Niệm Hơi Thở).
Thói quen và tập khí
Trong chúng ta có những thói quen và tập khí nó làm chủ, mình
tưởng mình là chủ ai dè không phải. Mà chính những tập khí đó
làm chủ và vì những tập khí đó quá mạnh, nhiều khi mạnh hơn
mình nên nó xúi mình nói, mình làm những điều mà mình không
muốn. Đây là những nguyên nhân gây ra đổ vỡ, đau khổ trong bản
thân mình và với những người thân. Sau khi mình nói một câu
hay một hành động như thế rồi, gây đổ vỡ rồi thì lúc đó mình
hối hận và nói: trời ơi mình đã biết trước là đừng nói như
thế, đừng làm như thế, vậy mà tại sao mình đã nói và làm.
Tại vì cái tập khí nó mạnh hơn mình. Do đó việc làm của người
tu là phải nhận diện những cái tập khí, thói quen đó của mình.
Cái thói quen đó có thể là do ông bà cha mẹ truyền lại, nếu
mình chuyển hóa được, thì ông bà cha mẹ trong mình rất hạnh
phúc. Cái mà ông bà cha mẹ chưa làm được, bây giờ con tu hành
và làm được là người con có hiếu nhất. Những cái tập khí, thói
xấu của nhiều đời nhiều kiếp còn di truyền lại. Một dân tộc
cũng vậy, cũng có những cái phong tục tập quán hay, nhưng cũng
có những thói hư tật xấu của dân tộc đó truyền từ đời nầy sang
đời khác. Nếu quán chiếu và nhận diện được nó, thì mình sẽ từ
từ thay đổi được chính mình và xã hội..
Kỳ
nầy về nước tôi có thấy một cuốn sách có nhan đề là: Người
Việt Phẩm Chất - Thói Hư và Tật Xấu. Mình có phẩm chất,
nhưng mình cũng có thói hư tật xấu. Mình phải nhận diện được
những thói hư tật xấu của mình để chuyển hóa cho mình, cho dân
tộc và đất nước mình. Vì nếu chuyển hóa được thì hạnh phúc sẽ
lớn hơn nhiều. Nếu chúng ta sang Đức thì sẽ thấy người Đức học
được một thói quen rất tốt đó là giữ gìn thành phố, công viên
của họ rất sạch sẻ, tinh thần trách nhiệm của họ rất cao. Khi
về Việt Nam mình thấy người Việt dỡ hơn người Đức quá nhiều về
phương diện đó. Và mình giác ngộ sẽ thấy rằng mình có tập khí
vô trách nhiệm đối với xã hội. Cách lái xe của mình bây giờ
tại các thành phố cũng vậy, rất hối hả chạy bạt mạng. Mình
vượt ẩu, mình liều lĩnh trong khi lái xe đó là một thói xấu.
Ngày xưa hình như chưa có thói xấu đó, nhưng mình làm ăn như
thế nào mà trong những thập niên qua mình đã hình thành cái
thói xấu đó rất hối hả, bạt mạng. Không biết trân quý sinh
mạng của chính mình, cũng như sinh mạng của người khác. Đó là
một trong những thói hư tật xấu của tập thể mà mình phải giác
ngộ, phải thay đổi. Pháp luật chỉ là một phần thôi, chứ pháp
luật không thể thay đổi được tập khí của mình được, mà phải tu
thôi.
Truyền thừa kinh nghiệm
Các
bậc cha mẹ, thầy cô giáo, các thầy và các sư cô phải đóng góp
nhiều vào trong sự giáo hóa. Không những bằng miệng thôi mà
phải bằng hành động giáo dục của mình (gọi là thân giáo). Để
mình có thể cùng nhau sửa đổi, chuyển hóa những thói hư tật
xấu đó. Vì những thói hư tật xấu đã giết hại không biết bao
nhiêu là sinh mạng; đã tổn hại không biết bao nhiêu là tiền
bạc, gây ra không biết bao nhiêu là khổ đau. Sau khi mình đã
nói những lời ác ôn, những hành động đổ vỡ đó, mình đã học
được những bài học và sẽ nói: trời ơi sao mình ngu quá, lẽ
ra không nên nói như thế; không nên làm như thế, mà mình lại
vừa nói và làm như thế, là vì những tập khí mạnh hơn thiện
chí của mình. Cho nên tu là phải trở về với hơi thở để nhận
diện tập khí. Mỗi khi tập khí đó bắt đầu trào lên, thì ngay
lập tức mình phải trở về với hơi thở của mình. Thở vào tôi
biết tập khí của tôi đang ló đầu ra và tôi biết rằng kỳ nầy
tập khí không làm gì được tôi đâu. Với hơi thở có ý thức
mình sẽ nắm được tập khí đó và không cho nó xuất hiện. Phương
pháp không phải đánh lộn với tập khí, mà là nhận diện tập khí.
Nhận diện một cách đơn thuần rằng mình đang hiện diện, và ý
thức được tập khí đang ló đầu ra và nó sẽ gây tác hại, cái đó
gọi là giác ngộ. Khi mà giác ngộ đó đủ sáng thì mình có đủ sức
mạnh không để cho những tập khí đó kéo mình đi. Sau khi mình
đã làm cái lầm lỡ, gây đổ vỡ rồi thì mình đến trước bàn Phật,
bàn thờ Ông Bà và phát nguyện rằng: con xin hứa rằng từ đây
về sau con sẽ không làm, không nói như thế nữa. Nhưng vì
mình không chịu tu nên lần sau mỗi khi tập khí đó trào lên,
thì nó lại làm chủ, mình sẽ nói lại những câu nói, hay hành
động gây nên khổ đau, rồi mình lại sẽ hối hận. Cho nên người
tu phải biết nhận diện tập khí, thói quen của mình. Mà năng
lượng có thể nhận diện được những thói quen đó là niệm:
chánh niệm. Niệm tức là khả năng nhận diện những cái đang
xẩy ra trong đó có tập khí.
Liệng sợi tơ sen trói mãnh hổ
Ngày
xưa có một vị thiền sư cư sĩ tên là Tuệ Trung đời Trần, ông là
cư sĩ nhưng tu thiền rất giỏi. Và ông đã để lại Ngữ Lục gọi là
Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục. Vị nầy tên là Trần Quốc
Tung anh ruột của Tướng Trần Hưng Đạo là người đã từng đánh
bại quân Nguyên. Trong những bài kệ của ngài có câu thơ rất
hay là: Liệng sợi tơ sen trói mãnh hổ. (Phóng
trước liên ti phược hổ nhi). Nghĩa là chỉ một sợi giây mỏng
manh như tơ sen, mà có thể trói được một con cọp hung dữ. Đó
là sự luyện tập của thiền, hơi thở của mình nhẹ như một sợi tơ
sen, ấy vậy mà nếu mình luyện tập nó, thì cái hơi thở luyện
tập đó sẽ nhận diện được cái tập khí rất hung dữ như con cọp.
Và chính bằng sợi tơ chánh niệm của hơi thở mà mình trói được
con cọp đó, để nó nằm yên, không cho nó tác oai tác quái.
Liệng sợi tơ sen trói mãnh hổ, và người tu cần phải luyện và
dùng sợi tơ sen đó để trói cái tập khí của mình. Đó là khả
năng nhận thức bất cứ những gì xẩy ra nơi thân và tâm của
mình.
Các phương pháp của thiền
Thiền không phải chỉ là thực tập khi ngồi, vì ngồi lâu sẽ mệt
(tọa cựu thành lao) ai cũng biết như vậy. Trong khi đi, mình
cũng thiền, đứng cũng thiền, nằm cũng thiền, trong khi rửa bát
hay lúc uống trà cũng phải thiền. Thiền 24 giờ mỗi ngày mới
được, nếu ngồi không thì đâu có đủ, vì ngồi lâu thì mệt. Cho
nên có thiền tọa, thiền hành, thiền trà v.v… đủ thứ thiền. Khi
mình lạy xuống thì cũng thiền. Nghĩa là khi nào mình cũng có
mặt thật sự: thân và tâm nhất như. Có mặt trong giây
phút hiện tại để biết những gì xẩy ra cho thân và tâm thì
những lúc đó đều là thiền cả, dù không phải trong tư thế ngồi.
Khi ăn cơm, cái đầu của mình có thể suy nghĩ về quá khứ hay
tương lai, hoặc đang nghĩ đến chuyện sau khi ăn xong! Thì
trong khi ăn như vậy mình không có mặt, không có thiền; trong
khi một người ngồi bên cạnh ăn cơm không nghĩ đến quá khứ,
tương lai người đó thực sự có mặt cho bửa ăn và cho tăng thân
đang ngồi chung quanh, người đó có hạnh phúc, nhẹ nhàng trong
bửa ăn thì người đó có thiền. Mình cũng mặc cái áo màu đó,
ngồi sát cạnh người đó, tuổi tu của mình lớn hơn người đó,
nhưng nếu mình không có mặt trong khi ăn, thì mình không có
thiền. Mình có thiền hay không có thiền là do mình có mặt hay
không có mặt trong bửa ăn. Mình có làm chủ được thân và tâm
của mình trong giây phút đó không? Hay là mình để cho quá khứ,
tương lai kéo mình đi. Cái nầy dễ lắm vì trong giây phút hiện
tại mình có thiền hay không là do chính mình biết thôi đâu cần
ai nói cho mình biết. Cho nên khi lái xe mình cũng có thể
thiền. Lái xe có an lạc, có chú tâm thì mình có hạnh phúc và
có an ninh. Ít gây tai nạn, nếu có là do người khác gây nên.
Khi mình rửa bát (các ông ít ưa rửa bát, hay để các bà rửa vì
nghĩ rằng rửa bát không có hạnh phúc!). Mà kỳ thực các ông
muốn học thiền, thì khi rửa bát các ông cũng sẽ có hạnh phúc.
Mình đứng đó có xà phòng, có nước, có hơi thở và đứng thoải
mái thực tập thở vào thở ra, thấy được rằng mình đang còn
sống, đang còn có mặt cho những người thân, là cột trụ cho gia
đình của mình (mình không bệnh nặng, không nằm liệt giường
liệt chiếu). Trong khi rửa bát mình ý thức được những điều đó
thì mình sẽ có hạnh phúc. Và khi rửa bát thì nghĩ rằng như
mình đang tắm cho một đức Phật còn sơ sinh. Thành ra rửa bát
cũng hay lắm. Ngày xưa đức Thế Tôn cũng tự mình rửa cái bát
sau khi ăn cơm và cố nhiên là khi đức Thế Tôn rửa bát thì có
an lạc. Mình là đệ tử của Ngài thì trong khi rửa bát mình tự
hỏi mình có an lạc hay không? Dầu mình phải rửa đến 100 cái
bát (vì trong chùa có đến 100 Thầy, hay 100 vị khách) thì việc
rữa đó có an lạc hay không là do mình thôi; là do cách sống
của mình trong giây phút đó. Chuyện nầy mình có thể làm được
liền lập tức, không cần đợi đến ngày mai. Khi đi thì mình đi
thiền, không cần phải làm bộ là ta đây đang đi thiền. Chỉ cần
đi tmột cách tự nhiên”t. Xin tặng 4 chữ để quý vị đi thiền
ngày hôm nay (xem phần cuối), vì ngày mai sẽ có rất đông người
từ chùa Trúc Lâm đến, khó mà đi được thiền như thế. Còn tôi
thì đạt được đến trình độ khi có 10.000 người tôi cũng đi được
như thường. Tôi vẫn đi được những bước chân vững chải thảnh
thơi, không bị số đông áp đảo. Khi mình thở vào mình có thể
bước 2 bước và nói: mỗi bước chân, khi thở ra mình cũng
bước hai bước và nói: là sự sống.
Tiếp xúc với sự sống
Mỗi bước chân là sự sống.
Đi như thế nào để mỗi bước chân mình có thể tiếp xúc đuợc với
sự sống. Rất là mầu nhiệm, vì vậy trong 5 giới (ngũ giới),
giới thứ nhất là bảo vệ sự sống. Tại sao phải bảo vệ sự
sống? Bởi vì sự sống hết sức mầu nhiệm, vô giá và khi tiếp xúc
được với sự sống, thì sự sống đó có trong thân và tâm cũng như
chung quanh mình. Sự sống đầy sự mầu nhiệm, con mắt mình là sự
mầu nhiệm, trái tim của mình là sự mầu nhiệm, hai lá phổi của
mình là sự mầu nhiệm. Các nhà sinh học nghiên cứu cơ thể con
người và thấy cái gì cũng mầu nhiệm hết. Mỗi một tế bào trong
cơ thể mình nó tuyệt vời lắm và chung quanh mình cũng thế. Từ
một hạt cát, hạt sỏi cho đến một bông hoa, một bóng mây, ánh
mặt trời đều là mầu nhiệm. Các nhà khoa học nghiên cứu cho
thấy những sự mầu nhiệm đó trong từng hiện tượng. Còn khi mình
đi thì cứ lo nghĩ chuyện nầy đến chuyện kia, quá khứ đến tương
lai. Buồn giận và lo lắng và mình đánh mất mình trong sự buồn
giận lo lắng đó. Không hề tiếp xúc được với sự sống. Nói rằng
mình đang sống thì không đúng lắm, mà phải nói là mình đang
sống nhưng không tiếp xúc được với sự sống mầu nhiệm. Nhà văn
Pháp Albert Camus* nói rằng: có những người đang sống như
là chết; thấy họ giống như sống vậy nhưng mà là như chết, bởi
vì họ không tiếp xúc được với tất cả những cái mầu nhiệm của
nó. Mình là người tu, mỗi bước chân mình phải tiếp xúc
được với sự sống mầu nhiệm. Đừng có đi trên mây, trong lo
lắng, trong giấc mơ (hay đừng mộng du). Đừng đánh mất mình
trong sự tiếc nuối, lo lắng và sợ hãi.
Bước chân dẫm lên thực tại
Mỗi
bước chân phải dẫm lên mảnh đất của sự sống thực tại. Vua Trần
Thái Tông nói: bộ bộ đạp trước thực địa (Mỗi
bước chân của tôi phải dẫm lên mảnh đất của thực tại). Anh đi
trong giấc mơ, còn tôi thì đi trong tỉnh thức. Bộ bộ đạp trước
thực địa, có nghĩa là mỗi bước chân giúp cho chúng ta xúc chạm
vào cái mầu nhiệm của sự sống. Cho nên mình là thiền sinh, mỗi
bước chân là sự sống. Mình tiếp xúc được với sự sống mầu nhiệm
là mình thành công. Mình đừng tuyên bố suông rằng mỗi bước
chân là sự sống bằng miệng, trong khi cái đầu của mình vẫn lo
lắng, suy nghĩ đến chuyện quá khứ và tương lai thì mình là một
con vẹt chứ không phải là thiền sinh. Mỗi bước chân là sự
sống, đi vài ba phút thì phải làm sao bàn chân mình phải
tiếp xúc được với sự sống của mình, mỗi bước chân có chánh
niệm. Bước chân có năng lượng của niệm và định
thì mới tiếp xúc được với sự sống, còn nếu không có niệm và
định thì mình là một bóng ma, mình đang mộng du. Mình đang đi
trên trái đất xinh đẹp nầy mà mình không biết thì rất uổng, vì
đi như thế mỗi bước chân là một phép thần thông, vì mỗi bước
chân là một phép lạ. Mình đang còn sống, hai chân còn khỏe và
mỗi bước tiếp xúc được với trời đất, với sự sống mầu nhiệm thì
mỗi bước chân của mình là một phép lạ rồi. Tưởng tượng rằng
mình đang đau liệt giường liệt chiếu, chỉ còn vài ngày nữa
mình sẽ chết, thì lúc bấy giờ mình muốn đứng dậy bước đi một
bước thôi cũng không được.
Địa hành thần thông
Mỗi
bước chân là vô giá,
bước trong sự tỉnh thức, trong tiệm và định thì sẽ giúp
cho mình một sự sống mầu nhiệm. Thế thì mỗi bước chân là
phép lạ, phép lạ không phải là đi trên than hồng hay trên
mặt nước, phép lạ là đi trên mặt đất. Đây là chữ của thiền sư
Lâm Tế
Địa
hành thần thông,
trong Lâm Tế Lục. Mình là người tu thì phải làm phép lạ trong
khi đi. Mỗi bước chân thì phải tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm
và nó đem lại hạnh phúc liền theo đó, là địa hành thần thông.
Ai nói mình không làm phép thần thông được, chỉ cần một ít
niệm và định là mình có thể đi như một con người tự do. Tự do
nghĩa là không có lo lắng, sầu khổ chiếm cứ lấy mình. Mình đi
như một con người tự do, tự do trong mỗi bước chân mà không là
sự đam mê, hận thù, ganh tị. Đó là sự thực tập của thiền sư
Lâm Tế: địa hành thần thông là như vậy. Mỗi bước chân
là sự sống, quý vị có làm được không? Mỗi bước chân là phép
lạ, phép lạ là đi trên mặt đất chứ không phải đi trên than
hồng, trên mây. Nếu mình quyết tâm thì mình làm được, khi
thành công rồi mỗi bước chân của mình sẽ có một giá trị vô
biên, không thể mua được bằng bất cứ một số tiền nào. Vì vậy
mỗi bước chân là vô giá, là thế đó. Mỗi bước chân có năng
lượng của hạnh phúc vững chãi và thảnh thơi. Nếu mình đi không
được như vậy thì mình thất bại. Mỗi bước chân là sự sống, mỗi
bước chân là phép lạ. Đi như vậy thì con người mình sẽ thanh
thoát và nhẹ nhàng, bởi vì không có phiền não, đi rất thảnh
thơi. Thế nên mỗi bước chân như thế sẽ là một phương tiện trị
liệu làm cho tật bệnh tiêu trừ. Không cần uống thuốc, chỉ cần
đi cho có thảnh thơi, vậy thì mỗi bước chân như thế dẫm vào sự
thực tại, tiếp xúc được với những gì lành mạnh, tươi mát, mầu
nhiệm có tác dụng trị liệu và chuyển hóa.
Thảnh thơi là trị liệu
Mỗi
bước chân là trị liệu,
mình đang đi và biết rằng việc trị liệu đang xẩy ra trong từng
bước chân, nếu mình có bệnh gì và nếu biết đi như thế thì
những bệnh đó sẽ từ từ thuyên giảm. Ai trong chúng ta cũng có
một ít bệnh và thiền đi là một trong những phương pháp trị
liệu thân và tâm. Thiền thở, thiền buông thư, thiền ngồi v.v…
cũng như vậy. Trong khi ngồi thiền mình không có những thứ đó,
thì cái ngồi của mình sẽ trống rỗng, ngồi trong hầm tối. Và
chữ cuối cùng tôi muốn nói là: mỗi bước chân là thảnh
thơi, có nghĩa là không vướng mắc vào những thứ gì
khác. Mình có công việc phật sự phải làm, cố nhiên mình là
phật tử thì phải có nhiều công việc phật sự, nhưng tại sao
phải lo? Làm thì làm tại sao lo? Mình cũng có thể có hạnh phúc
trong khi làm. Nếu đợi đến khi làm xong rồi mới thảnh thơi thì
đến tết
Congo
mình cũng không có thảnh thơi được. Cho nên phải thảnh thơi
ngay bây giờ, trong khi làm mình vẫn có thảnh thơi, không cần
phải đợi. Mỗi bước chân là thảnh thơi, không lo không sợ không
ghen tị, và con người nếu có thảnh thơi như thế thì sẽ có hạnh
phúc ngay lập tức. Ngay cái chuyện tập đi thôi đã mang
lại hạnh phúc và trị liệu cho mình rồi.
Giá trị bước chân chánh niệm
Mỗi
bước chân là sự sống,
mình có thể đi rất chậm, chỉ cần bước thôi là mình đã tiếp xúc
được với sự sống và nếu không tiếp xúc được với sự sống thì
đừng đi nữa, đứng im tại chỗ, đợi đến khi thực sự tiếp xúc
được với sự sống, thì với một nụ cười đắc thắng chúng ta bước
thêm bước nữa.
Mỗi
bước chân là phép lạ,
thấy
rõ ràng khi chưa có phép lạ thì đừng đi nữa, đợi cho đến khi
thấy rằng mình đang làm phép thần thông thì lúc đó mình mới đi
tiếp.
Mỗi
bước chân là trị liệu,
đi như thế nào mà thân và tâm cảm thấy nhẹ nhàng và đang trị
liệu, thì biết rằng mình đang làm đúng. Còn đi như bị ma đuổi
thì lúc đó mình không phải là thiền sư, thiền sinh, không phải
là sự nối tiếp của đấng Thế Tôn.
Đây
là những phương pháp rất hay, không bao giờ buồn ngủ hết. Cũng
có những phép ngồi thiền mà nếu mình quán chiếu như thế nào để
cảm thấy là vui, hạnh phúc thì mình cũng không buồn ngủ. Làm
sao cho sự thực tập của mình đem lại an lạc, chứ không phải là
những cái buồn chán hàng ngày. Làm sao cho việc ngồi thiền
thành ra một lễ hội, không cần nói gì, chỉ cần ngồi với nhau
thôi đã có rất nhiều niềm vui rồi. Trong khi đi thiền như là
một lễ hội, không ca hát nhưng từng bước chân đem lại hạnh
phúc. Ngày xưa tăng đoàn đã từng được đi với Thế Tôn như thế;
đã từng được ngồi với Thế Tôn như thế hạnh phúc rất lớn. Giờ
đây, phật sự nhiều quá không đi được như đức Thế Tôn, không
ngồi được như đức Thế Tôn thì mình chưa tiếp nối được sự
nghiệp của đức Thế Tôn.
Xin
kính chúc chư Tôn Đức, quý Phật tử một ngày Phật Đản vui tươi
hạnh phúc.
Bốn
chữ hôm nay tôi trao truyền lại cho quý vị, coi như là một món
quà:
Sự
sống - Phép lạ.
Trị liệu - Thảnh thơi
☺
-------------------
*Albert
Camus 1913-1960 : nhà văn, nhà báo và là kịch tác gia người
Pháp.
|