Chúng ta ai cũng sẵn
sàng bỏ ra sáu hay tám năm để giật một mảnh bằng. Chúng ta tin
rằng mảnh bằng đó rất thiết yếu cho hạnh phúc. Ít người trong
chúng ta chịu để ra ba tháng, sáu tháng hay một năm để tập luyện
cho mình có khả năng đối trị với nỗi buồn cơn giận, để có thể
lắng nghe bằng tâm từ bi và sử dụng được ngôn từ hòa ái. Tôi
thấy có nhiều người có bằng cấp và địa vị xã hội cao nhưng không
có hạnh phúc. Còn những người có khả năng tu tập kia lại có rất
nhiều hạnh phúc và có thể tạo dựng hạnh phúc cho thật nhiều
người. Nếu bạn có khả năng chuyển hóa được cơn giận, nỗi buồn và
niềm thất vọng, nếu bạn sử dụng được các pháp lắng nghe và ái
ngữ, bạn sẽ trở thành chàng hiệp sĩ tạo được hạnh phúc cho không
biết bao nhiêu người! Tôi đã thực tập, và tôi đã đào tạo được
những thế hệ người trẻ làm được việc ấy. Hạnh phúc của chúng tôi
lớn lắm, dù trên bước đường hành đạo giúp đời chúng tôi cũng vẫn
gặp nhiều trở ngại, nhưng vì chúng tôi không đi riêng rẽ, chúng
tôi luôn luôn tập đi như một dòng sông, nên nhờ dựa vào
nhau chúng tôi luôn luôn vượt thắng được những khó khăn và trở
ngại ấy. Chúng tôi đã từng tổ chức những khóa thực tập cho giới
trị liệu tâm lý, giới bảo hộ sinh môi, giới cán sự xã hội, giới
giáo chức, giới sinh viên, giới y sĩ và y tá, giới cựu chiến
binh, giới thương gia, giới chính trị gia, giới dân biểu quốc
hội, giới cảnh sát, giới luật gia, giới văn nghệ sĩ, giới tài tử
điện ảnh, v.v... Chúng tôi cũng đã đi vào các nhà giam để mở
những lớp thực tập, giúp cho người ta tìm thấy được an lạc và
niềm vui sống trong khi còn ở trong tù. Trong thế giới chúng ta,
giới nào cũng có khó khăn và khổ đau. Đem vào đời sống xã hội và
chức nghiệp một chiều hướng đạo đức tâm linh, đó là một điều cần
thiết. Giới nào có thực tập đều cũng thừa hưởng được nhiều lợi
lạc. Họ thư giãn ra, họ tháo gỡ được niềm đau nỗi khổ của họ, họ
nói được những lời yêu thương và hòa giải... Chúng tôi rất mong
ước bạn trực tiếp chứng kiến được những chuyển hóa ấy để bạn có
thêm niềm tin.
Đạo đức không phải là tôn giáo
Những tệ đoan xã hội, những hủ bại phong hóa, những
tham nhũng dành giật, những trác táng liều lĩnh mà bạn trông
thấy trong xã hội bây giờ... sẽ không thể nào xóa bỏ được nếu
không có được một giấc mơ, một niềm tin, một lý tưởng. Những
thời đại huy hoàng nhất của lịch sử dân tộc ta là những thời đại
trong đó quốc dân có một niềm tin. Quốc dân không thể một
ngày không có niềm tin. Mà niềm tin ở đây không hẳn phải là
niềm tin nơi một chủ thuyết hay một tôn giáo. Cuồng tín nơi chủ
thuyết hay cuồng tín nơi tôn giáo có thể đem lại bạo động, chiến
tranh và căm thù. Ta phải có một đường hướng tâm linh, một nền
tảng đạo đức. Đạo đức không phải là tôn giáo, dù rằng trong tôn
giáo có thể có đạo đức. Cha ông ta đã biết tìm trong các truyền
thống tâm linh những yếu tố đạo đức có khả năng làm kim chỉ nam
cho cả một dân tộc. Các vua Lý, Trần đã làm được như thế và
không bao giờ họ rơi vào lưới mê tín hoặc cuồng tín. Chúng ta
hãy biết thừa hưởng được kinh nghiệm của cha ông.
Vua A dục (Ashoka) là
ông vua đã thống nhất toàn cõi Ấn Độ. Với cách sống của ông cùng
những thông điệp khắc trên các trụ đá dựng lên khắp nơi trong
đất nước, vua đã nỗ lực xây dựng một niềm tin nơi hướng đi nhân
ái và bất bạo động. Trụ đá của vua dựng ở vườn Lumbini (bây giờ
là Rummindai, Nepal), nơi Bụt Thích Ca giáng sinh, mang những
dòng chữ Brahmi và ngôn ngữ Magadhi, còn đứng vững cho đến ngày
nay. Vua A dục đã chứng tỏ khả năng thống nhất đất nước mà
cũng chứng tỏ được khả năng thống nhất lòng người.
Thông điệp từ bi và
bất bạo động đã được vua truyền đi khắp nước, không phải dưới
dạng tôn giáo mà dưới dạng đạo đức. Thời ấy có ít nhất là sáu
truyền thống tôn giáo ở Ấn độ, và tuy vua là một Phật tử thuần
thành, tự mình thực tập năm giới, nhưng những thông điệp từ bi
và bất bạo động được cho khắc trên các trụ đá lại có tính cách
vượt lên trên mọi hình thức tôn giáo. Nhờ sự hành trì năm giới
và sống theo tinh thần ấy nên vua đã trở thành hình ảnh gương
mẫu của một vị bồ tát tại gia, và nhờ vua mà đạo Bụt trước đó
chỉ có mặt ở một vòng đai miền Trung Ấn độ từ nước Anga phía
Đông đến nước Avanti phía Tây, đã lan xuống miền Nam, đi lên
miền Bắc và trở thành một truyền thống có mặt ở toàn cõi Ấn độ.
Vua còn yểm trợ sự thành lập những phái đoàn đem đạo Bụt đi tới
các quốc gia khác trên thế giới, tới các quốc gia Hy lạp và Ai
cập. Con trai của vua, thái tử Mahinda, đã nhận trách vụ đem đạo
Bụt xuống đảo Lanka tức là Tích lan ngày nay.
Các vua Lý và Trần
của chúng ta cũng đã từng hành xử theo nếp sống ấy. Từ vua Lý
Thái Tổ đến vua Trần Nghệ Tông, vua nào cũng trì trai, giữ giới,
thực tập theo tinh thần từ bi, bất bạo động và cũng thống nhất
được đất nước và nhân tâm bằng con đường đạo lý. Có người nói từ
bi quá thì mình sẽ yếu. Điều này hoàn toàn sai lạc. Sử gia Hoàng
Xuân Hãn đã viết câu này trong sách Lý Thường Kiệt: 'Đời Lý
có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó chính
là ảnh hưởng của đạo Phật.' Thuần từ không có nghĩa là yếu
kém. Thuần từ đưa đến sự thống nhất lòng người, đưa đến đoàn kết
dân tộc. Võ công đời Lý rất hiển hách. Các cuộc bình Chiêm và
phạt Tống sở dĩ luôn luôn thành công là tại nhờ lòng người thống
nhất, biết trọng đạo đức, biết tin yêu nhau. Đời Trần cũng hùng
mạnh như đời Lý, không những rạng rỡ về phía võ công mà còn về
phía văn học. Các vua Trần đều có thực tập năm giới, lại có cả
một ông vua nhường ngôi cho con để đi xuất gia, đó là vua Trần
Nhân Tông. Đã xuất gia rồi mà vua (pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ)
vẫn tiếp tục phục vụ cho đất nước về phương diện đạo đức như
thường. Nhà chí sĩ Phan Chu Trinh đã nói
[1] : 'Nay bà con ta thử xét: đời Trần
tại sao dân tộc ta hùng dũng như vậy? Quân Nguyên thắng cả Á và
Âu, nuốt trọn Trung Hoa mà qua đến nước ta thì bại tẩu. Nào bị
cướp giáo ở Chương Dương Độ, nào bị bắt trói ở Bạch Đằng, như
vậy chẳng phải nhờ đạo Phật ở ta thời đó rất thịnh ư?'
Đạo Bụt rất thịnh ở
đời Lý, đời Trần, nhưng đạo Bụt không chủ trương độc tôn, đạo
Bụt luôn luôn mở rộng để ôm lấy các truyền thống khác như Khổng
giáo và Lão giáo. Thái độ cởi mở và bao dung ấy đã chinh phục
được lòng người, đã đưa tới sự đồng tâm đồng chí của cả một dân
tộc.
-----------------------
[1] Nguyễn Hiến
Lê, Đông Kinh Nghĩa Thục, Lá Bối, 1974.
|