Điểm tin thời sự ngày 6.4.2014 |
Thời sự 2013:
10 |
9 |
8 |
7 |
6 |
5 |
4 |
3 |
2 |
1
|
Trung
Quốc gây rối ở châu Á,
liên minh EU sẽ can dự sâu hơn ở Biển Đông
Tờ Học giả ngoại giao có trụ sở tại Nhật Bản ngày 19/8/2014 đăng tải
bài phân tích với tiêu đề “Tự do hàng hải và Trung Quốc: Châu Âu nên
làm gì?” của chuyên gia Edward Schwarck – một trong những học giả
nghiên cứu đang làm việc tại Cục nghiên cứu châu Á, Viên nghiên cứu
liên vụ Hoàng gia (RUSI).
Nội dung bài viết khẳng định các lợi ích của châu âu tại khu vực
châu Á chính là những lý do, động lực để khối liên minh này sẽ có
những tuyên bố và hàng động để bảo vệ khái niệm quyền tư do hàng
hải.
Tàu vỏ sắt giả danh tàu cá Trung Quốc (bên phải)
đang truy bức tàu cá Việt Nam trên vùng biển Hoàng Sa.
Tàu vỏ sắt giả danh tàu cá Trung Quốc (bên phải) đang truy đuổi tàu
cá Việt Nam trên vùng biển Hoàng Sa.
Học giả Edward Schwarck cho biết tại cuộc họp giữa các bộ trưởng
ngoại giao của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vừa diễn ra
vào đầu tháng 8 vừa qua liên minh châu Âu (EU) đã để ý đến sự thách
thức từ phía Trung Quốc được bộ trưởng ngoại giao nước này là Vương
Nghị đặt ra với chính quyền Mỹ khi quan chức này nói rằng “tình hình
tại khu vực Biển Đông hiện nay cơ bản ổn định, tự do hàng hải không
có bất cứ vấn đề gì phải bàn cãi” bất chấp thực tế là TQ đang gây
quan ngại cao độ cho các quốc gia trong khu vực, quốc tế khi đang
từng bước hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” 10 đoạn, muốn chiếm
và kiểm soát toàn bộ diện tích Biển Đông.
Những tuyên bố và hành động của Trung Quốc về hiện trạng tại khu vực
đã không chỉ khiến cho Mỹ phải vào cuộc mà hiện nay, một bên thứ 3
nữa cũng sẽ không thể không hành động đó chính là EU.
Edward Schwarck nhận định rằng trong tương lai EU sẽ can dự sâu hơn
vào vấn đề Biển Đông để đảm bảo lợi ích của chính các quốc gia trong
khối này bởi các quốc gia trong liên minh EU cũng phụ thuộc rất
nhiều vào sự ổn định, định vượng và an ninh của khu vực đang rất
năng động này.
Theo quan sát của nhà nghiên cứu Edward Schwarck, điều không rõ
ràng, không được bộc lộ một cách công khai trong những tuyên bố của
Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đó chính là sự đối kháng,
cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc trong lĩnh vực quân sự, ảnh hưởng
chính trị chứ không đơn thuần là những vấn đề liên quan đến tàu bè
thương mại hay tự do hàng hải.
Theo cách diễn giải chủ ý của Bắc Kinh đối với Công ước của Liên Hợp
Quốc về Luật Biển (UNCLOS), các hoạt động quân sự trong Vùng đặc
quyền kinh tế (EEZ) của một quốc gia, nơi mở rộng cách thềm lục địa
200 hải lý đều không được phép.
Nếu theo tham vọng lưỡi bò ( tham lam và bất hợp pháp -PV) của TQ
thì quân đội Mỹ và nhiều quốc gia khác cũng không được hoạt động
trên Biển Đông và điều đó không thể chấp nhận.
Hoa Kỳ từng nhiều lần tuyên bố rằng đây là một cách hiểu sai, cố
tình bóp méo bản chất công ước quốc tế của Trung Quốc đối với những
quy định đã được đại đa số các quốc gia trên thế giới công nhận và
vận dụng.
Trên thế giới hiện nay chỉ có duy nhất 2 quốc gia (tất nhiên là có
quan hệ tốt với Bắc Kinh, không có lợi ích tại vùng biển) dường như
đồng ý với các diễn giải của Bắc Kinh.
Theo học giả Edward Schwarck, thực tế thì có rất nhiều khía cạnh có
thể kể ra trong những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ ở Biển
Đông nhưng không có một vấn đề nào có thể gây ra nhiều thù địch và
quan ngại là các hoạt động quân sự giữa Bắc Kinh và Washington tại
khu vực, đặc biệt trong các vùng biển được Bắc Kinh cố quy vào EEZ
của mình.
Vấn đề này cũng là nguồn gốc của tất cả những sự kiện nóng trong
quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực, đáng chú ý nhất là
việc tàu thuyền Trung Quốc áp sát, đe dọa một tàu do thám mang tên
USS Impeccable của Hải quân Mỹ năm 2009 và vụ va chạm gần đây giữa 1
tàu của Trung Quốc và tuần dương hạm tên lửa USS Cowpens xảy ra vào
đầu năm nay.
Sau khi tuyên bố Vùng nhận diện phòng không trên Biển Hoa Đông bị
phản ứng gay gắt thì giờ đây Trung Quốc dường như đang từng bước cố
gắng quản lý được vùng trời nơi tiếp giáp với vùng đảo Senkaku của
Nhật Bản và không ai có thể biết chắc rằng sẽ không xảy ra các vụ va
chạm trên không giữa Trung Quốc và Mỹ giống như những gì đã xảy ra
trên Biển Đông.
Edward Schwarck cho rằng trong khi Mỹ đang tìm cách để bảo vệ quyền
được tiến hành các hoạt động quân sự sau khi xảy ra các biến cố với
đối thủ TQ ở khu vực thì Washington dường như ít đề cập vấn đề “tự
do hàng hải” hơn. Điều này theo Edward Schwarck có thể xuất phát từ
việc Washington thiếu sự ủng hộ một cách rõ ràng từ các quốc gia ở
khu vực.
Các quốc gia như Việt Nam, Philippines, Thái Lan, Ấn Độ và Nhật Bản
tất cả đều đã bày tỏ ủng hộ quyền hoạt động tự do của các tàu thuyền
quân sự của nước ngoài trong các vùng đặc quyền kinh tế trực thuộc.
Những nước này lại là những nước khởi xướng và ủng hộ, vận dụng mạnh
mẽ nhất công ước UNCLOS. Tất cả đều hoài nghi, không chấp nhận các
tuyên bố hàng hải cũng như tính hợp pháp của những tuyên bố của
Trung Quốc.
Theo Edward Schwarck, ngoại trừ các quốc gia này (Việt Nam,
Philippines, Thái Lan, Ấn Độ và Nhật Bản) số còn lại đa phần đều im
lặng về vấn đề “Vùng Đặc Quyền Kinh tế” và đây chính là điều
Washington chưa nhấn mạnh thời gian gần đây.
Học giả Edward Schwarck cho rằng thực tế này cũng chính là một trong
những động lực để Trung Quốc – thông qua ông Vương Nghị đưa ra những
tuyên bố thách thức Mỹ trong khuôn khổ cuộc họp mặt các quan chức
ngoại trưởng ASEAN đầu tháng vừa qua.
Vương Nghị cho rằng “Mỹ là kẻ đứng ngoài khu vực với chính sách
không được các nước khác thừa nhận”.
Nhiều người cho rằng những hoạt động quân sự “không được giải phóng”
hay “tháo cùm” tại các vùng duyên hải tại khu vực châu, đặc biệt là
trên khu vực Biển Đông, Biển Hoa Đông sẽ dẫn đến kết cục các bên thi
triển chính sách ngoại giao pháo hạm hoặc đe dọa chủ quyền tài
nguyên (TQ vừa đưa giàn khoan và tàu hộ tống vào vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam là một ví dụ điển hình).
Không chỉ dừng lại ở đó, Nhật Bản cũng đang tự động phải bước chân
vào giai đoạn trực tiếp chống lại Trung Quốc để đảm bảo an toàn cho
chính mình.
Trong khi còn đó những hồ nghi về khả năng đảm bảo tự do hàng hải
của Washington thì Tokyo có lẽ cũng đang dần tin rằng việc cấm đoán,
trục xuất các hoạt động quân sự ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)
của mình một ngày nào đó sẽ trở nên hữu ích trong việc tạo cơ chế
chống lại những hoạt động mang tính xâm lược xuất phát từ đường bờ
biển của Nhật Bản.
“Luật muốn hiệu quả phải rõ ràng”
Những lợi ích khác nhau ẩn sâu trong những tranh chấp tại khu vực
rất rõ ràng. Thứ nhất, thực hiện được quyền tự do hàng hải đối với
các tàu thuyền hải quan trong các vùng đặc quyền kinh tế của các
nước sẽ góp phần rất lớn, không phải bàn cãi đối với khả năng và
chiến lược hải quân thống trị thế giới của quân đội Mỹ.
Có được tự do hàng hải cũng đảm bảo được sự an toàn cho các tuyến
đường giao thông huyết mạch trên biển trước những thế lực có thể gây
tổn hại như khủng bố, cướp biển hoặc đơn giản là bảo vệ tàu thuyền
trước các quốc gia thù địch, góp phần ổn định hóa các tuyến đường
vận tải biển có giá trị quan trọng, mang lại lợi ích có thể kéo dài
hàng thế kỷ.
Ngày nay, hiện trạng cướp biển, đánh thuế chuyên quyền, độc quyền
thương mại đã được hạn chế và điều này phần nào có được nhờ thực tế
là lực lượng hải quân của các quốc gia trên thế giới được tự do tiến
hành các chiến dịch bảo vệ, áp tải, chống hải tặc…
Thứ hai, bất cứ một điều luật nào muốn được thực thi hiệu quả thì nó
phải rõ ràng. Tự do hàng hải cũng phải được giải thích như trong
luật để các quốc gia cùng tuân theo, không thể mơ hồ.
Nếu không có sự rõ ràng thì quy tắc hay bất điều luật nào cũng có
thể “vấy bùn” lên những công bằng và đương nhiên nó sẽ dẫn đến nhưng
cách cư xử có thể hoặc không thể chấp nhận được.
Theo nguyên tắc đó, cần thiết lập các giới hạn về tự do hàng hải một
cách rõ ràng nhưng chỉ nên thiết lập các giới hạn đó ở những vấn đề
rõ ràng về định tính.
“Tự do hàng hải” là vấn đề rất dễ hiểu, hình dung nhưng “tự do hàng
hải trong từng hoàn cảnh cụ thể” mới là điều gây ra nhiều phiền toái
vì khi đó tàu thuyền quốc tế nằm trong sự quản lý của luật từ những
quốc gia có biển.
Thứ ba, tự do hàng hải trên các vùng biển của thế giới rất quan
trọng trong việc duy trì sự ổn định trong quan hệ với các cường quốc
của thế giới.
Trong khi trong quá khứ, vấn đề vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) đã gây
ra những tranh cãi thì nay về tổng thể quan điểm về vấn đề EEZ của
một chế độ ở một quốc gia có thể cho người ta thấy kẻ thù của họ là
ai cũng như nhận thức về những đường giới hạn đỏ có thể dẫn đến xung
đột.
Trong suốt thời gian chiến tranh lạnh, chính vì cả hai cường quốc là
Nga và Mỹ đều thừa nhận và chấp nhận quyền tự do khai thác hoạt động
quân sự trong các vùng EEZ của nhau nên Moscow và Washington đều tự
do thực hiện các chiến dịch giám sát, trinh thám lẫn nhau, thậm chí
đôi khi các chiến dịch của đối phương được bên còn lại rất “chào
đón”.
Chính sự chấp nhận, thậm chí chào đón và khoan dung của các ông lớn
trên thế giới, điển hình là Nga và Mỹ đã tạo nên một nền tảng chung
trong hệ thống toàn cầu mở, có lợi cho sự phát triển và hạn chế xung
đột đánh tiếc.
Và đây cũng chính là lý do quân đội Mỹ chấp nhận việc một tàu do
thám của Trung Quốc hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của quần
đảo Hawaii của Mỹ giữa lúc lực lượng hải quân đa quốc gia đang tham
gia diễn tập quân sự Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) từ tháng 7
vừa qua.
Đó cũng chính là lý do vì sao Washington tuyên bố là thất vọng khi
thấy Trung Quốc không đáp lại Hoa Kỳ một cách lịch sự nhất.
Châu Âu nên làm gì?
Cũng giống như Hoa Kỳ, liên minh châu Âu (EU) được hưởng lợi ích từ
hoạt động tự do hàng hải tại các vùng biển của khu vực châu Á, trong
đó có Biển Đông và chắc chắn EU sẽ hành động để bảo vệ các lợi ích
của mình tại khu vực – học giả Edward Schwarck khẳng định.
Theo Edward Schwarck, quan điểm của liên minh châu Âu đối vấn đề an
ninh hàng hải khá rõ ràng là một khi các quốc gia coi mình có quyền
thống trị một hay nhiều vùng biển như quyền cố hữu của họ trên đất
liền thì nó không chỉ dẫn đến kết quả là ngưng tắc hoạt động giao
thông biển vốn đang thông suốt mà còn là lý do dẫn đến những cuộc
tranh chấp lãnh thổ nguy hiểm giữa những nước lớn, mạnh và các đối
thủ yếu hơn.
Mặc dù Mỹ có thể sẽ đạt được nhiều mục tiêu và lợi ích an ninh hơn ở
khu vực Đông Á thông qua các cam kết triển khai binh lực, nỗ lực
ngoại giao và các nguồn lực kinh tế nhưng một mình nước Mỹ không thể
tự đặt ra được các quy định mang tính toàn cầu và Washington cần sự
hợp sức của nhiều quốc gia.
Tự do hàng hải là quy tắc cần được cộng đồng quốc tế thừa nhận và
chấp hành, không phải là nỗ lực của bất kỳ một quốc gia riêng lẻ
nào.
Theo Edward Schwarck, xuất phát từ quan điểm này, EU sẽ ủng hộ Mỹ,
sẽ can dự sâu hơn vào vấn đề Biển Đông, Biển Hoa Đông để bảo vệ
quyền tự do hàng hải, bảo vệ lợi ích của chính mình.
EU có tể hỗ trợ tự do hàng hải, ủng hộ Mỹ ở nhiều lĩnh vực
Thứ nhất, Eu có thể kêu gọi các cường quốc mới nổi như Trung Quốc và
Ấn Độ tham gia nhiều hơn vào việc bảo đảm an ninh hàng hải, cụ thể
là việc kêu gọi tiến hành các chiến dịch chung chống hải tặc, giải
cứu thảm họa và di tản công dân, điều đó đồng nghĩa với việc chấn
nhận TQ và các đối tác lớn khác ở khu vực có nhu cầu phát triển hải
quân mạnh, có khả năng hoạt động viễn dương và điều đó là cái giá
rất chông chênh buộc phải trả.
Thứ hai, với tư cách là một bên thứ 3 độc lập với Mỹ, EU có thể tìm
kiếm giải pháp kêu gọi Trung Quốc thảo luận về ý định và mong muốn
cũng như giới hạn cụ thể nếu Bắc Kinh muốn duy trì một hệ thống hàng
hải khép kín (điều này khó chấp nhận với Mỹ -PV).
Theo Edward Schwarck Trung Quốc có những lý do có thể hoặc sẽ không
chấp nhận cách tiếp cận này, có thể những hành động gần đây của TQ
xuất phát từ tâm lý bất ổn, không cảm giác được an toàn cũng như đa
nghi đang lớn mạnh.
Học giả này cho rằng hiện không có bằng chứng cho thấy có cơ
sở cho đề xuất này nếu chiếu theo yêu sách lợi ích của
Bắc Kinh nhưng cũng nhiều dấu hiệu cho thấy khả năng này
cũng có thể xảy ra.
Năm 2014, phát biểu tại diễn đàn an ninh Đối thoại Shangri
La, một quan chức cấp cao của TQ cũng đã nói rằng “là một
quốc gia có quan hệ thương mại toàn cầu, tự do hàng hải
đối với Trung Quốc là rất quan trọng, TQ phụ thuộc rất
nhiều vào điều đó” nay thì không hiểu tại sao Trung Quốc
lại không muốn nước khác có quyền như vậy, không hiểu rằng
TQ sẽ đối phó ra sao nếu các quốc gia ở các vùng biển
khác ngoài châu Á cũng làm giống như TQ ở Biển Đông và
Biển Hoa Đông?
Thứ ba, cuối cùng và cũng là quan trọng nhất, Liên minh châu
Âu buộc phải lên tiếng ủng hộ rộng rãi tự do tiến hành
các hoạt động quân sự trong các vùng EEZ.
Việc làm này cũng đồng nghĩa với việc đứng về phía lập
trường cũng như hành động của nước Mỹ một cách rõ ràng
hơn để ép buộc Bắc Kinh phải thực hiện những quy tắc tương
tự để kết quả cuối cùng là tái đảm bảo an ninh, an toàn
cho các quốc gia khác trong khu vực.
Châu Âu từ trước đến nay đã quen với cảm giác có ít ảnh
hưởng và quyền lực đối với khu vực Đông Á nói riêng và
châu Á nói chung nhưng ở vấn đề là một trong những khu vực
quan trọng, năng động nhất thế giới này, tiếng nói của EU
có lẽ thực sự sẽ cần thiết và có giá trị.
(Theo
Giáo Dục)
|