HIẾN CHƯƠNG NHÂN
BẢN 2000
Lời kêu gọi
một Chủ nghĩa Nhân bản toàn cầu mới
(Humanist
Manifesto 2000: A Call for a New Planetary Humanism)
I. Lời Mở
Đầu
Chủ nghĩa nhân bản
là một quan điểm đạo đức, khoa học cùng triết lý và đang làm
thay đổi thế giới. Di sản của nó có nguồn gốc từ các triết gia
và thi sĩ thời cổ Hi lạp và La mã, Khổng giáo Trung hoa và
phong trào Carvaka thời cổ Ấn độ. Ròng rã hơn nửa thiên niên
kỷ, các nghệ sĩ, nhà văn, nhà khoa học và nhà tư tưởng nhân
bản hình thành kỷ nguyên hiện đại. Quả thật, chủ nghĩa nhân
bản và chủ nghĩa hiện đại thường được xem có cùng một ý nghĩa;
vì những tư tưởng và giá trị nhân bản biểu lộ niềm tin tưởng
có tính tái tạo vào sức mạnh của con người nhằm giải quyết
những vấn đề của loài người và khuất phục những ranh giới chưa
được thăm dò.
Chủ nghĩa nhân bản
hiện đại đơm hoa kết trái trong thời đại Phục hưng. Nó dẫn tới
sự phát triển của khoa học hiện đại. Trong thời đại Khai sáng,
nó làm nảy sinh những lý tưởng mới về công bằng xã hội và gây
hứng khởi cho cuộc cách mạng dân chủ của thời đại chúng ta.
Chủ nghĩa nhân bản giúp định hình một quan điểm đạo đức mới,
nhấn mạnh vào giá trị của tự do và hạnh phúc cùng những hiệu
quả tốt của các quyền phổ quát của con người.
Những người ký tên
vào bản Hiến Chương này tin rằng chủ nghĩa nhân bản có nhiều
điều cống hiến cho loài người khi chúng ta đối mặt với các vấn
đề của thế kỷ 21 và của tân thiên niên kỷ bắt đầu từ đó. Nhiều
tư tưởng cũ và truyền thống mà loài người thừa kế không còn
thích đáng với các thực tại hiện nay và các cơ hội tương lai.
Chúng ta cần tư duy tươi mới để đối phó với xã hội toàn cầu
đang ló dạng lúc này; và tư duy tươi mới là dấu chỉ tính ưu
việt của chủ nghĩa nhân bản. Do đó, chúng tôi công bố Hiến
Chương Nhân Bản 2000: Lời Kêu Gọi Một Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn
Cầu Mới.
Những khuyến cáo
dưới đây được đưa ra trong khiêm tốn nhưng với niềm xác tín
rằng chúng có thể đóng góp vào cuộc đối thoại giữa các quan
điểm văn hoá, chính trị, kinh tế và tôn giáo khác nhau trên
thế giới. Dù chúng tôi, những người tán đồng tài liệu này,
cùng chia sẻ những nguyên tắc và những giá trị chung, chúng
tôi sẵn sàng sửa đổi quan điểm của mình dưới ánh sáng của kiến
thức mới, những tình huống biến đổi và những vấn đề có thể bất
ngờ phát sinh. Không thể nào tạo được một Hiến Chương bất biến
nhưng thật hữu ích và khôn ngoan khi biên soạn một tài liệu
dùng tạm và để ngỏ cho việc xét duyệt.
DƯA DẪN VÀO HIỆN TẠI
Trong thế kỷ 20, đã
có công bố bốn Hiến Chương và Tuyên ngôn Nhân Bản chính yếu:
Hiến Chương Nhân Bản I, Hiến Chương Nhân Bản II, Tuyên Ngôn
Nhân Bản Thế Tục và Tuyên Ngôn Về Liên Lập.
Hiến Chương Nhân
Bản I xuất hiện năm 1933 vào cao điểm của cuộc suy thoái
kinh tế thế giới lúc ấy. Được tán đồng bởi 34 nhà nhân bản Hoa
kỳ (trong đó có triết gia John Dewey), nó phản ánh những quan
tâm của thời đại ấy, khuyến cáo trước hết một hình thức nhân
bản chủ nghĩa tôn giáo phi thần (nontheistic) như một chọn lựa
cho các tôn giáo thời đại, và thứ đến, nền kinh tế quốc gia và
việc thiết kế xã hội.
Hiến Chương Nhân
Bản II được công bố năm 1973 để ứng xử các vấn đề phát
sinh trên hiện trường thế giới kể từ thời đó: sự trỗi dậy của
chủ nghĩa phát-xít và việc nó bị đánh bại trong Thế Chiến Hai,
sự gia tăng ảnh hưởng và sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lê và chủ
nghĩa Mao, Chiến Tranh Lạnh, sự phục hồi nền kinh tế hậu chiến
tại châu Âu và châu Mỹ, cuộc giải thực tại những khu vực rộng
lớn trên thế giới, việc thành lập Liên Hiệp Quốc, cuộc cách
mạng tính dục, sự tăng trưởng của phong trào phụ nữ, sự đòi
hỏi của thiểu số về quyền bình đẳng và sự xuất hiện của sức
mạnh sinh viên trong các trường đại học.
Bản Hiến Chương ấy
đã kích thích tranh luận rộng rãi. Nó được ký bởi nhiều nhà
dẫn đạo tư tưởng và hành động trên khắp thế giới: Andrei
Sakharov, nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng ở Liên Sô; Julian
Huxley, nguyên Chủ tịch UNESCO; và trong số những người còn
lại có Sidney Hook; Betty Friedan; Gunnar Myrdal; Jacques
Monod; Francis Crick; Margaret Knight; Allan Guttmacher;
Ritchie Calder; và A, Philip Randolph. Nó bảo vệ quyền con
người trên cấp bậc toàn cầu, biện hộ cho quyền được du hành ra
ngoài biên giới quốc gia vào thời điểm mà dân chúng đằng sau
Bức Màn Sắt bị cấm làm điều ấy. Nhiều nhà nhân bản Mác-xít tại
Đông Âu đã tấn công chủ nghĩa nhà nước toàn trị và hoan nghênh
việc bảo vệ dân chủ và quyền con người.
Hiến Chương Nhân
Bản II không còn bảo vệ nền kinh tế qui hoạch nhưng để ngỏ vấn
đề đó cho các hệ thống kinh tế tùy nghi chọn lựa. Do đó, nó
được tán đồng bởi cả những người cấp tiến lẫn những người cổ
động cho tự do kinh tế -những kẻ
bảo vệ thị trường tự do, cũng như bởi cả những người dân chủ
xã hội lẫn những người xã hội chủ nghĩa dân chủ - những kẻ tin
rằng chính quyền nên đóng vai trò to lớn trong hệ thống phúc
lợi xã hội. Nó tìm cách dân chủ hóa các hệ thống kinh tế và
trắc nghiệm xem chúng có làm tăng hay không phúc lợi cho mọi
cá nhân và mọi nhóm.
Hiến Chương Nhân
Bản II được viết ra khi cuộc cách mạng mới về đạo đức dường
như đang nhanh chóng ập tới: nó bảo vệ quyền hạn chế sinh sản,
phá thai, li dị, tự do tính dục giữa người lớn thuận ý, và sự
làm chết không đau. Nó tìm cách bảo vệ quyền của thiểu số, phụ
nữ, người cao niên, trẻ em bị ngược đãi và những kẻ bị thua
thiệt. Nó cổ vũ sự bao dung những lối sống khác nhau và sự
thương lượng ôn hòa giữa những dị biệt, và nó phiền trách
những xung khắc chủng tộc, tôn giáo và giai cấp. Nó kêu gọi
chấm dứt sợ hãi và hận thù. Nó được viết ra theo sau Công Đồng
Vatican II, một công đồng nỗ lực giải phóng Giáo hội Công giáo
La mã. Hiến Chương Nhân Bản II chừa chỗ cho chủ nghĩa nhân bản
tự nhiên lẫn chủ nghĩa nhân bản tôn giáo khai phóng. Hiến
Chương ấy lạc quan về triển vọng của loài người. Nó chỉ rõ
những lợi ích của khoa học và kỹ thuật cho sự thiện hảo của
con người. Nó đoán trước thế kỷ 21 này có thể thành một thế kỷ
nhân bản.
Tuyên Ngôn Nhân Bản
Thế Tục được công bố năm 1980 vì chủ nghĩa nhân bản và đặc
biệt Hiến Chương Nhân Bản II ngày càng bị công kích kịch liệt,
đặc biệt từ những lực lượng tôn giáo bảo căn và lực lượng
chính trị cánh hữu tại Hiệp chúng quốc Hoa kỳ. Nhiều người chỉ
trích đã đề quyết rằng chủ nghĩa nhân bản thế tục là một tôn
giáo. Họ cho rằng việc giảng dạy chủ nghĩa nhân bản thế tục
trong học đường là vi phạm nguyên tắc tách rời giáo hội với
nhà nước và thiết lập một tôn giáo mới. Bản Tuyên Ngôn ấy trả
lời rằng chủ nghĩa nhân bản thế tục diễn tả một chuỗi giá trị
đạo đức và một quan điểm khoa học và triết học phi thần nên
không thể đánh giá nó ngang hàng với đức tin tôn giáo. Việc
giảng dạy quan điểm nhân bản thế tục không thể nào là vi phạm
nguyên tắc tách rời đó. Nó bảo vệ ý tưởng dân chủ rằng nhà
nước thế quyền nên trung lập, không ủng hộ hoặc chống tôn
giáo.
Vào năm 1988, Viện
Quốc Tế Chủ Nghĩa Nhân Bản còn đưa ra tài liệu thứ tư, Tuyên
Ngôn Về Liên Lập (Interdependence), kêu gọi một nền đạo đức
toàn cầu và mới cùng việc xây dựng một cộng đồng thế giới mà
đang ngày càng cấp thiết hơn vì các định chế toàn cầu đang
nhanh chóng tự tiến triển.
TẠI SAO LẠI
CHỦ NGHĨA NHÂN BẢN TOÀN CẦU?
Trong lúc hầu hết
những điều mục của các Hiến Chương và Tuyên Ngôn trước đây vẫn
còn đúng đắn và khả thi, rõ ràng rằng khi thế giới đi vào một
thiên niên kỷ mới thì cần một Hiến Chương mới. Vì dù các Hiến
Chương trước đây lập được nhiều tiến bộ, hiện vẫn xuất hiện
những tình huống mới thách thức chúng ta: chủ nghĩa cộng sản
toàn trị sụp đổ tại Liên bang Sô viết cùng Đông Âu, và lưỡng
khối quyền lực Chiến Tranh Lạnh biến mất trên một qui mô lớn.
Các khu vực mới của quả đất đang nỗ lực trở nên dân chủ hơn dù
nhiều nước vẫn thiếu các định chế dân chủ hữu hiệu. Thêm nữa,
nền kinh tế thế giới thậm chí trở nên toàn cầu hóa hơn. Các
đại tổ hợp công ti quốc tế đang kết hiệp lại và trở thành
xuyên quốc gia, và hiểu theo cách nào đó, mạnh mẽ hơn nhiều
quốc gia trên thế giới. Nga, Trung hoa và các nước khác đang
tìm cách gia nhập thị trường thế giới. Không xứ sở nào có thể
làm chủ vận mệnh kinh tế mình độc lập với những giao thương và
mậu dịch thế giới. Những thay đổi tận gốc ấy xuất hiện rộng
rãi vì sự tăng trưởng quá nhanh của khoa học và kỹ thuật, đặc
biệt cuộc cách mạng tin học dẫn tới một mạng lưới truyền thông
văn hóa và kinh tế trên khắp thế giới. Người ta có thể lập
luận rằng từ khi có Hiến Chương Nhân Bản II tới nay, thế giới
đã xảy ra những biến đổi lớn lao và thậm chí còn lớn lao hơn
những biến đổi của Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ hai thế kỷ trước
đây, hoặc sự phát minh của Gutenberg về con chữ lắp ráp và máy
in. Những hậu quả ấy sẽ tiếp tục tác động rất sâu rộng lên
cuộc sinh tồn toàn cầu.
Tuy thế, khi thế
giới thành một gia đình toàn cầu thì những đối thủ mang tính
tôn giáo sắc tộc đã và đang tìm cách phân chia lãnh thổ thành
những phe phái tranh đoạt. Các tôn giáo bảo căn đang nhen
nhúm, phản bác những nguyên tắc của chủ nghĩa nhân bản cùng
chủ nghĩa thế tục và đòi hỏi trở về lòng sùng đạo của kỷ
nguyên tiền hiện đại. Cũng thế, cái gọi là những niềm tin
huyền bí Thời Đại Mới đang xuất hiện, được khuyến khích bởi
truyền thông đại chúng và đang dai dẳng khuyến mãi một cái
nhìn tâm linh/siêu linh về thực tại. Truyền thông được toàn
cầu hóa. Vô tuyến truyền hình, vô tuyến truyền thanh, điện
ảnh, và các nhà xuất bản sách báo, đều đang bị khống chế bởi
các đại tổ hợp công ti truyền thông vốn hầu như chỉ quan tâm
tới việc quảng cáo và bán hàng hóa cho thị trường thế giới.
Thêm vào đó, trong nhiều trường đại học đã và đang xuất hiện
chủ nghĩa hậu hiện đại, thắc mắc những tiền đề căn bản của
phẩm chất hiện đại và của chủ nghĩa nhân bản, tấn công khoa
học và kỹ thuật, và chất vấn các lý tưởng và các giá trị nhân
bản. Nhiều kiến thị hiện nay về tương lai mang tính bi quan,
thậm chí, tính tận thế. Nhưng chúng tôi phản đối vì chúng tôi
tin rằng có khả năng tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn. Các thực
tế của xã hội toàn cầu là như thế nên phải có Chủ Nghĩa Nhân
Bản Toàn Cầu mới để có thể cung cấp những định hướng có ý
nghĩa cho tương lai.
II. Triển Vọng Một Tương
Lai Tốt Đẹp Hơn
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, chúng ta sở hữu những
phương tiện — được cung cấp bởi khoa học và kỹ thuật — để cải
thiện thân phận con người, tiến tới hạnh phúc và tự do, đồng
thời nâng cao đời sống con người cho hết thảy mọi người trên
hành tinh này. Nhiều người khi nói tới thiên niên kỷ mới này
thì sợ hãi những gì sẽ xảy ra. Nhiều người đưa ra các dự báo
tận thế về những tai ương sắp đến, hoặc tôn giáo hoặc thế tục.
Những người bi quan đưa tay chỉ tới các cuộc chiến tranh tàn
bạo của thế kỷ 20 và cảnh báo rằng những hình thức khủng bố và
bất ổn mới có thể nhấn chìm loài người trong thế kỷ đang tới.
Chúng tôi nghĩ rằng
một đánh giá tích cực và thực tế hơn về triển vọng của loài
người trong thế kỷ 21 là thuận với trình tự. Chúng tôi ao ước
vạch ra rằng bất chấp những bất ổn chính trị quân sự và xã
hội, thế kỷ 21 chứng kiến một số lượng to tát những thành tựu
đầy phúc lợi. Tuy những kẻ khước bác đang thất vọng nhưng sự
sung túc, hoà bình, y tế tốt hơn và việc nâng cao những định
mức của đời sống là một thực tế và có khả năng tiếp tục. Những
thành tựu lớn lao ấy về kỹ thuật, khoa học và xã hội thường bị
bỏ qua. Dù được áp dụng rộng rãi trong thế giới phát triển,
lúc này, những phúc lợi của chúng được cảm thấy gần như khắp
nơi. Chúng tôi cần liệt kê một số:
-
Dược phẩm khoa
học cải thiện sức khỏe một cách lớn lao. Nó giảm đau đớn khổ
sở và nâng tuổi thọ. Sự khám phá các chất kháng sinh và phát
triển thuốc chủng ngừa, các kỹ thuật hiện đại về giải phẫu,
gây mê, dược lý và ứng dụng sinh học di truyền đều đóng góp
vào những tiến bộ trong việc chăm sóc y tế.
-
Những phương tiện
phòng ngừa y tế công cộng, cải thiện việc cung cấp nước và
bố trí hệ thống thoát nước làm giảm rất nhiều phạm vi xúc
tác của bệnh truyền nhiễm. Việc áp dụng rộng rãi những
phương pháp chữa bệnh làm sụt rõ rệt tỉ lệ tử vong của trẻ
em.
-
Cuộc Cách Mạnh
Xanh chuyển biến việc sản xuất lương thực và tăng hoa lợi
thu hoạch, giảm đói và nâng mức dinh dưỡng cho những thành
phần đông đảo trên quả đất.
-
Các phương pháp
hiện đại trong việc sản xuất hàng loạt làm tăng năng suất,
giải phóng người lao động khỏi nhiều hình thức lao dịch thể
xác và khả dĩ tạo những phúc lợi và xa hoa trong hàng hóa và
dịch vụ dành cho người tiêu thụ.
-
Những phương cách
vận chuyển mới thu ngắn khoảng cách và chuyển biến xã hội.
Xe hơi và máy bay khiến con người có khả năng vượt đại lục
và khắc phục sự cô lập về địa dư. Việc nghiên cứu không
trung mở ra cho loài người cuộc phiêu lưu thám hiểm không
gian đầy lý thú.
-
Các phát minh kỹ
thuật làm tăng nhanh và rộng những phương cách truyền thông
mới, trên căn bản khắp thế giới. Cùng với ích lợi của máy
điện thoại, máy fax, máy vô tuyến truyền thanh và máy vô
tuyến truyền hình và việc truyền qua vệ tinh viễn thông, kỹ
thuật máy vi tính chuyển biến tận gốc mọi khía cạnh của đời
sống kinh tế xã hội. Trong thế giới phát triển, không một
văn phòng hoặc nhà riêng nào không bị cuộc cách mạng tin học
chạm tới. Internet và Mạng Lưới Toàn Cầu làm cho có khả năng
thông tin lập tức tới hầu hết mọi nơi trên quả đất.
-
Việc nghiên cứu
khoa học mở rộng kiến thức của chúng ta về vũ trụ và nơi
chốn của loài người bên trong vũ trụ. Hiện nay, việc thẩm
tra con người có khả năng tiến xa và có những phát hiện được
khoa học và lý trí xác nhận, trong khi đó những lý đoán siêu
hình và thần học trước đây thì tới nay đạt rất ít hoặc không
có tiến triển nào. Những khám phá của thiên văn học, vật lý,
lý thuyết tương đối và cơ học lượng tử làm tăng sự am hiểu
của chúng ta về vũ trụ — từ cấp vi hạt tới cấp thiên hà.
Sinh học và di truyền học đóng góp vào kiến thức của chúng
ta về sinh quyển. Lý thuyết của Darwin thế kỷ 19 về sự tuyển
chọn tự nhiên cho chúng ta khả năng am hiểu sự sống tiến hóa
như thế nào. Những khám phá về DNA và sinh học phân tử tiếp
tục vén lộ những cơ chế của diễn biến tiến hóa và của sự
sống tự nó. Khoa học động thái (behavior) và khoa học xã hội
làm sâu sắc thêm kiến thức của chúng ta về các định chế
chính trị và xã hội, kinh tế và văn hóa.
Trong thế kỷ 20
cũng xuất hiện nhiều phát triển tích cực về chính trị và xã
hội và chúng báo điềm lành cho tương lai.
-
Các đế quốc thực
dân thời thế kỷ 19 chỉ còn cách hoàn toàn biến mất.
-
Sự đe dọa của chủ
nghĩa toàn trị bị giảm.
-
Ngày nay, bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được hầu hết các nước trên thế
giới công nhận (nếu không bằng hành động thì cũng bằng lời
nói).
-
Các lý tưởng dân
chủ, tự do và xã hội mở lan truyền rộng rãi ở Đông Âu, châu
Mỹ La tinh, châu Á và châu Phi.
-
Ngày nay, tại
nhiều nước, phụ nữ vui hưởng quyền cá nhân tự quản, các
quyền luật pháp và xã hội, và có chỗ đứng trong nhiều lãnh
vực doanh nghiệp.
-
Khi kinh tế quốc
gia trở nên toàn cầu hóa thì sự thịnh vượng kinh tế được
mang từ châu Âu và Bắc Mỹ tới các phần đất khác trên thế
giới. Thị trường tự do và các phương thế doanh nghiệp mở các
khu vực kém phát triển ra cho đầu tư vốn liếng và phát triển
tư bản.
-
Vấn đề gia tăng
dân số được giải quyết tại các nước thịnh vượng ở châu Âu và
Bắc Mỹ. Tại nhiều khu vực, dân số tăng không phải vì sinh
suất nhưng vì tử suất sụt và tuổi thọ tăng — một sự phát
triển tích cực.
-
Ngày nay, sự gia
tăng giáo dục và biết đọc biết viết cùng bổ túc văn hoá càng
lúc càng có sẵn cho trẻ em trên thế giới dù trong đó vẫn còn
nhiều điều cần thực hiện thêm.
Dù có các xuyên phá
ấy, chúng ta cần thẳng thắn đối mặt với những vấn đề chính
trị, xã hội, kinh tế nghiêm trọng mà thế giới vẫn đương đầu.
Các nhà tiên tri về tận thế đều bi quan; những kẻ theo tiên
tri Giêrêmia đoán trước các bất hạnh và tai ương. Chúng tôi
trả lời rằng chúng ta chỉ có thể giải quyết được các vấn đề ấy
chủ yếu bằng lý trí, khoa học và nỗ lực của con người mà thôi.
-
Tại các vùng rộng
lớn trên thế giới, dân chúng vẫn không được hưởng hoa trái
của sự thịnh vượng; họ tiếp tục héo hon vì nghèo và bệnh,
đặc biệt tại thế giới đang phát triển ở châu Á, châu Phi,
Trung Mỹ và Nam Mỹ. Hàng triệu trẻ em và người lớn đang sống
trong tình cảnh xoay xở với sự thiếu dinh dưỡng, thiếu vệ
sinh và y tế. Điều này cũng đúng với nhiều người dân sống
trong các xã hội được gọi là thịnh vượng.
-
Tại nhiều phần
đất trên thế giới, dân số tiếp tục tăng với tỉ lệ hằng năm
3%. Năm 1900, ước lượng thế giới có khoảng một tỉ bảy trăm
triệu người. Tới năm 2000, dân số lên tới sáu tỉ người. Nếu
tiếp tục đà tăng nhân khẩu hiện nay, trong nửa thế kỷ tới sẽ
có thêm ba tỉ người.
-
Nếu dân số tiếp
tục tăng đúng như dự kiến, sẽ dẫn tới việc giảm trầm trọng
đất canh tác mà tại nhiều nước, tới năm 2050 có thể sụt
xuống còn một sào tây cho mỗi người (đặc biệt tại Ấn độ,
Pakistan, Ethiopia, Nigeria và Iran). Việc cung cấp nước
tưới đã bị đánh thuế quá nặng làm giảm sản lượng hoa lợi;
nhiều dòng sông trên thế giới bắt đầu cạn dần (trong đó có
sông Nile, sông Colorado và sông Hoàng hà ở Trung hoa).
-
Khi dân cư thế
giới dàn rộng và phát triển kỹ nghệ tăng quá nhanh, rừng mưa
nhiệt đới và rừng trồng cây lấy gỗ bị tàn phá. Hằng năm, có
khoảng 2% rừng trên quả đất bị biến mất. Số lượng đó sẽ tiếp
tục nếu không kiên quyết thực hiện biện pháp ngăn chặn.
-
Việc quả đất nóng
dần có thể ngày càng thêm, phần vì hậu quả nạn phá rừng tại
các nước nghèo và việc thải khí cac-bô-nic đi-ô-xit vào khí
quyển, đặc biệt tại các nước thịnh vượng là nơi tiếp tục
phung phí tài nguyên thiên nhiên. Một người trung bình sống
ở Hoa kỳ và các nước phương Tây tiêu thụ cùng gây ô nhiễm
gấp khoảng từ 40 tới 60 lần một người trung bình sống ở thế
giới đang phát triển. Sự tiêu thụ lãng phí ấy thường được
khuyến khích bởi các công ti đang khuếch trương, vốn quan
tâm rất ít tới sự phóng uế làm hại sinh thái.
-
Dân số của các
chủng loại khác đang suy tàn đều đặn; nhiều hình thái thực
vật và động vật đang tuyệt chủng dần — có lẽ đây là cuộc
tuyệt chủng lớn lao nhất kể từ sự biến mất của loài khủng
long 65 triệu năm trước.
-
Nhiều chính quyền
trên thế giới đang đối mặt với các vấn đề kinh tế nghiêm
trọng trong khi dân quê kéo lên tràn ngập thành thị mà trong
số đó, rất nhiều người thất nghiệp và rõ ràng không có khả
năng xoay xở.
-
Thất nghiệp vẫn
là một vấn đề nghiêm trọng tại các nước thịnh vượng ở châu
Âu là nơi hiện không thu dụng hết lao động trẻ, tái trang bị
kỹ thuật, tu nghiệp cho công nhân hoặc tìm việc làm cho họ.
-
Những hiệp ước
trên cấp bậc rộng lớn nhằm tìm cách giải quyết các vấn đề
quốc tế về môi sinh và xã hội mà loài người đang đối phó,
từng được thành tựu trong một chuỗi các hội nghị quốc tế
quan trọng, nhưng các chính phủ không giữ đúng những cam kết
đã được lập ra đó; vài nước giàu không đặt ưu tiên việc giúp
đa số nước nghèo, thậm chí việc giúp người bị ruồng bỏ và
người bị tước quyền sở hữu ngay trong chính xã hội của mình.
-
Dân chủ vẫn còn
yếu hoặc không hiện hữu tại nhiều nước. Tự do báo chí rất
thường bị bịt miệng và các cuộc bầu cử rất thường bị ngăn
trở.
-
Việc không tán
thành quyền bình đẳng của phụ nữ vẫn lan rộng tại hầu hết
các nước trên thế giới.
-
Nhiều khu vực
thuộc địa cũ bị ngập lún trong tình trạng suy sụp kinh tế.
-
Các bệnh từng có
thời được cho là đã bị khống chế, thí dụ bệnh lao và bệnh
sốt rét, nay đang tăng, trong khi đó tại nhiều phần đất rộng
lớn trong thế giới đang phát triển, bệnh AIDS ngày càng
không kiểm soát nổi.
-
Dù thế giới không
còn bị chia thành hai siêu quyền lực, loài người vẫn có đủ
sức mạnh để tự hủy diệt. Những kẻ khủng bố cuồng tín, những
nhà nước bất trị, hoặc thậm chí các cường quốc vẫn có thể
khinh suất gây ra các biến cố có tính tận thế bằng việc thả
lỏng những vũ khí tàn sát hàng loạt.
-
Tại một số khu
vực, niềm tin rằng thị trường tự do sẽ chữa trị hết thảy các
vấn đề xã hội vẫn còn là một đức tin. Tại nhiều nước trên
thế giới, việc làm thế nào cân bằng giữa các đòi hỏi của thị
trường tự do với nhu cầu dành cho các chương trình xã hội
hợp lý nhằm hỗ trợ người bị thiệt thòi và người bị bần cùng
hóa vẫn còn là một vấn đề không được giải quyết.
Chúng tôi cho rằng
những vấn đề ấy là nghiêm trọng và chúng ta cần những phương
thế thích đáng để giải quyết. Chúng tôi tin rằng chỉ có thể
khắc phục chúng bằng trí tuệ có tính phê phán và những nỗ lực
có tính hợp tác. Trong quá khứ, loài người từng đối mặt với
những thách đố và đã kiên trì ứng phó, thậm chí chiến thắng
chúng. Những vấn đề đang xuất hiện lờ mờ đằng chân trời ấy có
lẽ không lớn lao hơn những vấn đề mà tiền nhân của chúng ta
từng đối mặt.
Trên thế giới vẫn
còn những khuynh hướng nguy hiểm khác chưa được nhận ra đầy
đủ. Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới những khuynh hướng chống
khoa học, chống hiện đại, bao gồm sự xuất hiện những tiếng nói
lanh lãnh bảo căn và mù quáng cố chấp hoặc bất bao dung dù
chúng có nguồn gốc tôn giáo, chính trị hoặc bộ lạc. Cũng chính
chúng là những lực lượng chống đối các nỗ lực giải quyết những
vấn đề xã hội hoặc cải thiện thân phận con người tại nhiều
phần đất trên thế giới:
-
Sự cố chấp trong
thái độ tâm linh truyền thống thường khuyến khích những tiếp
cận các vấn đề xã hội theo lối phi hiện thực, thoát ly thực
tế hoặc nghĩ tới một thế giới khác, khắc sâu vào tâm trí sự
thiếu tôn trọng khoa học và thông thường, đều bảo vệ các
định chế xã hội cổ hủ.
-
Nhiều nhóm tôn
giáo và chính trị chống đối việc ngừa thai hoặc việc tài trợ
các chương trình được hoạch định nhằm giảm sinh sản và ổn
định sự gia tăng dân số. Hậu quả là gây trở ngại cho sự phát
triển kinh tế và việc giảm nghèo.
-
Cũng có nhiều lực
lượng như thế chống lại sự giải phóng phụ nữ và muốn giữ cho
nữ giới quị lụy nam giới.
-
Thế giới ngày
càng chứng kiến các xung khắc sắc tộc đầy cay đắng và chúng
làm mãnh liệt thêm những kình chống có tính bộ lạc. Những
chiều kích tôn giáo đối với các xung khắc ấy vẫn chưa được
tường trình rộng rãi: tại Nam tư giữa người Serbe theo Chính
thống giáo, người Croate theo Công giáo La mã, và người Hồi
giáo (tại Bosnia và Kosovo); tại Israel và Palestine giữa
người Do thái giáo chính thống và người Hồi giáo; tại Bắc Ái
nhĩ lan giữa người Tin lành và người Công giáo; tại Tích lan
giữa người Ấn giáo Tamil và người Phật giáo Sinhalese; tại
Punjab và Kashmir giữa người Ấn giáo, người Hồi giáo và
người đạo Sikh; tại Đông Timor giữa người Kitô giáo và người
Hồi giáo.
-
Thế giới đang
quan tâm một cách chính đáng tới sự gia tăng nạn khủng bố và
nạn diệt chủng vốn rất thường được những kẻ yêu nước có tính
sắc tộc hoặc các tín đồ tôn giáo có tính sô-vanh tôn giáo
châm lửa cho bốc cháy thêm lần nữa.
-
Chủ nghĩa đa văn
hóa cổ vũ sự bao dung các truyền thống sắc tộc và tôn giáo
dị biệt và sự thừa nhận quyền tồn tại của chúng. Nhưng chúng
ta cũng thấy tình trạng rạn nứt của xã hội và những đòi hỏi
phân ly cùng cô lập — một cách nực cười — ngay thời điểm lý
thuyết kỳ thị chủng tộc của Quốc xã và phân biệt chủng tộc
tại Nam Phi đã bị bác bỏ hoàn toàn. Sự bất bao dung ấy làm
phát sinh hành động tẩy rửa sắc tộc và những biểu lộ hiểm
độc khác trong hận thù chủng tộc.
-
Tại nhiều nước
phương Tây, xuất hiện cái gọi là hệ tư tưởng hậu hiện đại
vốn phủ nhận tính khách quan của khoa học, phiền trách sự sử
dụng kỹ thuật hiện đại, tấn công quyền con người và nền dân
chủ. Một số hình thức của chủ nghĩa hậu hiện đại khuyến cáo
chủ nghĩa thất bại: trong điều kiện tốt nhất, chúng không
đưa ra chương trình giải quyết các vấn đề của thế giới;
trong điều kiện xấu nhất, chúng phủ định các giải pháp khả
thi hoặc có thể thành tựu. Tác dụng của phong trào mang tính
văn chương triết lý ấy là phản tác dụng, thậm chí có tính hư
vô chủ nghĩa. Chúng tôi nghĩ rằng phong trào ấy lầm lẫn sâu
xa vì khoa học đưa ra những tiêu chuẩn khách quan và hợp lý
cho việc phán xét những tuyên bố chân lý của nó. Quả thật,
khoa học đã trở thành một ngôn ngữ phổ cập, phát biểu với
tất cả mọi người, nam giới cũng như nữ giới, mà không đặt
thành vấn đề bối cảnh văn hóa của mỗi người.
Chúng tôi tin rằng
điều thiết yếu là trình bày một thị kiến có tính chọn lựa về
ngày mai. Chính quyền của các nước và lãnh đạo của các công ti
phải từ bỏ những chính sách ngắn hạn và phải hỗ trợ việc thiết
kế có tính nhìn xa trông rộng. Thông thường, hết thảy các nhà
lãnh đạo đều lơ là lời khuyên tốt nhất của các nhà khoa học
lẫn các nhà nhân bản và đặt chính sách của mình trên nền tảng
cuộc bầu cử sắp tới hoặc vào bản báo cáo thành tích ba tháng
sắp tới. Chính quyền các nước không nên chỉ quan tâm tới những
cân nhắc chính trị và kinh tế cấp thời mà còn nên chú ý tới
nhu cầu của toàn thể hành tinh và tới tương lai lâu bền của
loài người.
Chủ Nghĩa Nhân Bản
Toàn Cầu tìm cách tái khuyến cáo về những mục tiêu lâu dài và
có thể sở đắc. Đó là sự phân biệt chủ yếu giữa chủ nghĩa nhân
bản và những giá trị đạo đức đặt căn bản trên tính cách tôn
giáo, tiền hiện đại. Chủ nghĩa nhân bản phát biểu có hệ thống
những hình ảnh mới và đầy can đảm về tương lai và làm phát
sinh niềm tự tin của loài người vào khả năng giải quyết các
vấn đề ấy bằng những phương thế dựa trên lý trí và quan điểm
tích cực.
Thời đại Khai sáng
thế kỷ 18 tạo niềm hứng khởi cho Hiến Chương này và rõ ràng là
không bị giới hạn bởi thời đại nó xuất hiện. Quan điểm của nó
về Lí Trí như một công cụ chắc chắn hơn là một công cụ dò dẫm
— và có thể sai lầm — nhằm phục vụ mục đích nhân sinh, đã bị
phóng đại. Tuy nhiên niềm xác tín của nó rằng khoa học, lý
trí, dân chủ, giáo dục và các giá trị nhân bản có thể nâng cao
sự tiến bộ của con người thì đối với chúng ta ngày nay vẫn hấp
dẫn lớn lao. Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu mà Hiến Chương này
trình bày thì có tính hậu-hậu hiện đại trong quan điểm của nó.
Nó gợi tới những giá trị tốt nhất của phẩm chất hiện đại, tuy
thế nó tìm cách vượt quá tính chất phủ định của chủ nghĩa hậu
hiện đại và nó hân hoan trông đợi kỷ nguyên thông tin đang
rạng sáng lúc này và tất cả những cái đó báo trước một tương
lai kỳ diệu của loài người.
III. Chủ Nghĩa Tự Nhiên
Khoa Học
Ngày nay, thông điệp độc đáo của chủ nghĩa nhân bản trên hiện
trường thế giới là sự gắn bó của nó với chủ nghĩa tự nhiên có
tính khoa học. Hầu hết những cái nhìn về thế gian được người
ta chấp nhận hôm nay đều có tính tâm linh, thần bí và thần học
thích hợp với chúng. Chúng có nguồn gốc trong các xã hội nông
nghiệp, du mục, tiền đô thị cổ đại chứ không trong nền văn hoá
thông tin toàn cầu hậu kỹ nghệ hoặc công nghệ hiện đại đang ló
dạng lúc này. Chủ nghĩa tự nhiên khoa học khiến cho con người
có khả năng xây dựng cái nhìn chặt chẽ về thế gian, thoát khỏi
những rối rắm của siêu hình hoặc thần học, và đặt căn bản trên
khoa học.
-
Thứ nhất, chủ
nghĩa tự nhiên khoa học gắn bó với một chuỗi những mệnh lệnh
có tính phương pháp học. Đối với chủ nghĩa tự nhiên có tính
phương pháp học, mọi giả thuyết và lý thuyết phải được thử
nghiệm qua qui chiếu với các căn nguyên tự nhiên và các sự
kiện. Nó không chấp nhận việc đưa ra các nguyên cớ thần bí
hoặc những giải thích tiên nghiệm. Các phương pháp của khoa
học thì không phải là không thể sai lầm, nó không trình bày
cho chúng ta những chân lý tuyệt đối và bất biến; tuy thế,
sau khi cân nhắc, chúng là những phương pháp đáng tin cậy
nhất mà chúng ta hiện có, để mở rộng kiến thức và giải quyết
các vấn đề của con người. Chúng đã và đang tác động mạnh mẽ
trong việc làm chuyển biến văn minh thế giới. Ngày nay, các
lãnh vực rộng lớn của công chúng chấp nhận tính chất hữu ích
của các ngành khoa học; người ta thừa nhận rằng khoa học có
những hệ quả tích cực.
Rủi thay, đối với những chuyên ngành nhỏ hẹp, việc áp dụng
các phương pháp khoa học thường bị hạn chế, và đối với quan
điểm của chúng ta về thực tại, việc áp dụng khoa học rộng
rãi hơn bị lơ là. Người theo chủ nghĩa nhân bản xác quyết
rằng chúng ta cần mở rộng phương pháp khoa học tới các lãnh
vực khác trong nỗ lực của con người và rằng không nên có
những hạn chế trong việc nghiên cứu khoa học, trừ phi việc
nghiên cứu ấy xâm phạm quyền con người. Trong quá khứ, những
nỗ lực ngăn chặn sự thẩm tra tự do vì những lý do tôn giáo,
hệ tư tưởng, chính trị và đạo đức đều đã bị thất bại. Không
thể đánh giá thấp các kết quả khả dĩ hữu ích do những khám
phá liên tục của khoa học.
-
Thứ hai, khoa học
cung cấp những cơ hội rất lớn lao cho việc mở rộng kiến thức
của chúng ta về thiên nhiên và động thái của con người. Chủ
nghĩa tự nhiên khoa học thể hiện một quan điểm có tính vũ
trụ dựa trên những giả thuyết và những lý thuyết đã được
kiểm nghiệm. Nó không rút tỉa chủ yếu từ tôn giáo, thi ca,
văn chương hoặc nghệ thuật vì nó tường trình về thực tại —
dù các bộ môn vừa kể là những diễn tả quan trọng sở thích
của con người. Người theo chủ nghĩa tự nhiên khoa học duy
trì một chủ nghĩa duy vật không giảm trừ (nonreductive);
những diễn tiến tự nhiên và những sự kiện được giải thích
thỏa đáng qua qui chiếu với các căn nguyên vật chất. Hình
thức này của chủ nghĩa tự nhiên chừa chỗ cho một vũ trụ đa
nguyên. Dù về mặt căn bản, thiên nhiên mang tính hoá lý tận
gốc rễ, các diễn tiến và các đối tượng tự biểu thị chúng
trên nhiều cấp bậc quan sát: vi hạt, nguyên tử, và phân tử;
gen và tế bào; các bộ phận trong thân thể con người, bông
hoa, cây cối, và thú vật; nhận thức và tri thức về tâm lý;
các định chế văn hóa và xã hội; hành tinh, ngôi sao và thiên
hà. Điều ấy cho phép có những giải thích có tính bối cảnh,
rút ra từ những lãnh vực thẩm tra động thái, xã hội, sinh
học và thiên nhiên. Điều ấy không phủ định nhu cầu thưởng
ngoạn những biểu lộ văn hóa khác nhau, thẩm mỹ và đạo đức
muôn hình muôn vẻ trong kinh nghiệm của con người.
-
Thứ ba, người
theo chủ nghĩa tự nhiên xác quyết rằng có bằng chứng thiếu
khoa học đối với những cắt nghĩa tâm linh về thực tại và sự
mặc nhận các căn nguyên thần bí. Rõ ràng những học thuyết
của người tin theo thuyết tiên nghiệm cổ điển đã diễn tả các
khát vọng sinh tồn và đầy tha thiết của loài người nhằm khắc
phục cái chết. Tuy thế, lý thuyết khoa học về tiến hoá cung
cấp một tường trình dè sẻn hơn về nguồn gốc con người và đặt
căn bản trên bằng chứng rút tỉa từ phạm vi rộng lớn của
nhiều ngành khoa học. Chúng tôi công khai phản bác nỗ lực
của một số ít ỏi các nhà khoa học, thường được quảng bá bởi
truyền thông đại chúng, nhằm áp đặt những giải thích tiên
nghiệm lên trên những hiện tượng tự nhiên. Thậm chí, cả khoa
vũ trụ học với thiết bị nối các máy móc vi tính đạt tiêu
chuẩn lẫn diễn biến tiến hóa cũng không thể cung cấp bằng
chứng thỏa đáng cho họa đồ trí tuệ vốn là bước nhảy vọt của
đức tin vượt ra ngoài bằng chứng dựa trên cơ sở quan sát
hoặc thực nghiệm. Chúng tôi nghĩ rằng nay là thời điểm cho
loài người nắm lấy giai đoạn trưởng thành của mình để bỏ lại
đằng sau lối tư duy thần bí và việc tạo huyền thoại vốn là
những cái thay thế cho kiến thức về tự nhiên đã được thử
nghiệm.
IV. Những Ích Lợi Của Kỹ
Thuật
Người theo chủ nghĩa nhân bản biện hộ trước sau như một cho
giá trị hữu ích của kỹ thuật khoa học đối với phúc lợi của con
người. Các triết gia từ Francis Bacon tới John Dewey đều nhấn
mạnh tới sức mạnh gia tăng trên thiên nhiên mà kiến thức khoa
học cung cấp và cách mà nó có thể đóng góp vô lượng vào tiến
bộ và hạnh phúc của con người.
Với sự ứng dụng các
kỹ thuật mới, xuất hiện những phó sản tiêu cực ngoài dự kiến.
Những người chỉ trích, từ các kẻ lạc hậu của thế kỷ 19 tới các
kẻ theo chủ nghĩa hậu hiện đại của thế kỷ 20, đã và đang phiền
trách các áp dụng kỹ thuật. Người theo chủ nghĩa nhân bản nhận
biết sâu xa rằng một số sáng kiến kỹ thuật có thể gây ra vấn
đề. Rủi thay, những áp dụng kỹ thuật, thông thường chứ chẳng
phải là không bao giờ, bị quyết định bởi những cân nhắc kinh
tế — do sản phẩm có sinh lợi nhuận hay không — hoặỉc bởi những
sử dụng quân sự và chính trị. Có những nguy hiểm sâu rộng và
cố hữu trong việc sử dụng kỹ thuật mà không kiểm soát. Các vũ
khí tàn sát hàng loạt (bom hạt nhân, vũ khí sinh học và hóa
học) vẫn không được cộng đồng thế giới qui định một cách hữu
hiệu. Cũng thế, nhiều xuyên phá trong di truyền học, sinh học
và nghiên cứu y học (thí dụ kỹ thuật di truyền học, nhân bản
vô tính [cloning], thay các bộ phận trong con người, v.v...)
đặt ra những nguy cơ tuy chúng cống hiến những tiềm năng lớn
lao cho y tế và phúc lợi của loài người.
-
Thứ nhất, người
theo chủ nghĩa nhân bản cực lực phản đối những nỗ lực nhằm
giới hạn sự nghiên cứu kỹ thuật hoặc nhằm kiểm duyệt hay thu
hẹp sự thẩm tra khoa học trước khi tiến hành. Thật khó nói
trước rằng một nghiên cứu khoa học sẽ dẫn tới chỗ nào hoặc
đoán trước những lợi ích khả dĩ của nó. Chúng ta nên thận
trọng hành động kiểm duyệt như thế về việc nghiên cứu.
-
Thứ hai, chúng
tôi cho rằng phương cách ứng xử tốt nhất những vấn đề liên
quan tới các áp dụng kỹ thuật là qua những tranh luận có đầy
đủ thông tin chứ không qua việc viện dẫn giáo điều chuyên
chế hoặc hô hào khẩu hiệu sách động. Mỗi sáng kiến kỹ thuật
cần được đánh giá theo tiềm năng nguy hiểm và tiềm năng lợi
ích cho xã hội và môi sinh. Việc này bao hàm một trình độ am
hiểu căn bản nào đó về khoa học.
-
Thứ ba, chúng ta
không thể từ bỏ các giải pháp kỹ thuật. Cấu trúc xã hội và
kinh tế của thế giới đương đại đang ngày càng tùy thuộc thêm
nữa vào sáng kiến kỹ thuật. Để giải quyết những vấn đề của
chúng ta thì không phải bằng việc rút về trạng thái tự nhiên
bình dị mà bằng việc phát triển các kỹ thuật mới nhằm thành
toàn các nhu cầu cùng cứu cánh của loài người và thực hiện
việc đó một cách khôn ngoan và nhân đạo.
-
Thứ tư, phải
khuyến khích các sáng kiến kỹ thuật nhằm giảm hoàn toàn sự
va chạm của con người lên môi sinh.
-
Thứ năm, nên
khích lệ việc truyền bá các kỹ thuật cấp thời có khả năng
cung ứng cho người nghèo, để họ được hưởng lợi ích của cuộc
cách mạng công nghệ.
V. Đạo Đức Và Lí Trí
Theo quan điểm nhân bản, điều thiết yếu là nhận rõ các giá trị
đạo đức cao nhất. Chúng tôi tin rằng sự tăng trưởng kiến thức
khoa học sẽ khiến loài người có khả năng chọn lựa khôn ngoan
hơn. Theo đường lối này thì giữa sự kiện và giá trị, giữa đang
là và nên là (is and ought) không có bức tường nào là không
thể xuyên phá. Việc sử dụng lí trí và nhận thức sẽ khiến chúng
ta thẩm định hữu hiệu hơn các giá trị, dưới ánh sáng của bằng
chứng cụ thể và xét theo các hệ quả của chúng.
Người theo chủ
nghĩa nhân bản bị lên án một cách bất công rằng không có khả
năng đưa ra những nền tảng khả dĩ tồn tại cho các trách nhiệm
đạo đức. Quả thật, người theo chủ nghĩa nhân bản thường bị qui
trách về cái bị cho là suy đồi đạo đức của xã hội. Luận cứ ấy
lầm lẫn sâu xa. Suốt nhiều thế kỷ, các triết gia cung cấp
những nền tảng thế tục vững chắc cho hành động đạo đức nhân
văn. Thêm nữa, có tới hàng triệu người theo chủ nghĩa nhân
bản, không đếm xuể, đã và đang dẫn đầu cuộc sống gương mẫu; họ
là những công dân có trách nhiệm, nuôi dưỡng con cái với sự
chăm sóc đầy thương yêu và đóng góp đầy ý nghĩa vào việc nâng
cao đạo đức của xã hội.
-
Các học thuyết
đạo đức thần học thường phản ánh những khái niệm thừa kế và
tiền khoa học về tự nhiên và về bản tính con người. Những
giới răn đạo đức đầy mâu thuẫn có thể bị rút ra từ di sản ấy
và các tôn giáo khác nhau thường bảo lưu những quan niệm bất
đồng rộng lớn về các vấn đề đạo đức. Người hữu thần và người
theo chủ nghĩa tiên nghiệm đều đã và đang bênh vực và chống
đối chế độ nô lệ, hệ thống đẳng cấp, hình phạt tử hình, nữ
quyền, và chế độ một vợ một chồng. Những người theo tôn giáo
bè phái này thường tàn sát tín đồ trung thành của bè phái
kia mà không bị trừng phạt. Trong quá khứ cũng như trong
hiện tại, nhiều cuộc chiến tranh kinh hoàng được khởi hứng
bởi các giáo điều tôn giáo bất bao dung. Chúng tôi không phủ
định rằng các tín đồ tôn giáo đã và đang làm nhiều việc
thiện, cái chúng tôi phủ định là việc cho rằng lòng mộ đạo
là bảo đảm độc nhất cho đức hạnh.
-
Khắp nơi, người
theo chủ nghĩa nhân bản bảo vệ sự tách rời tôn giáo và nhà
nước. Chúng tôi tin rằng nhà nước nên là thế quyền dù nó ủng
hộ hoặc chống tôn giáo. Như thế, chúng tôi không chấp nhận
các chế độ chính trị thần quyền tìm cách áp đặt luật lệ tôn
giáo hoặc đạo đức độc tôn lên trên hết thảy mọi người. Chúng
tôi tin rằng nhà nước nên để cho sự đa nguyên rộng rãi của
các giá trị đạo đức được cùng nhau hiện hữu.
-
Những nguyên tắc
căn bản về đức hạnh thì có tính cách chung đối với hầu hết
các nền văn minh — dù có tính tôn giáo hay không. Các khuynh
hướng đạo đức đều cắm rễ sâu xa trong bản tính con người và
tiến hoá suốt chiều dài lịch sử loài người. Như thế, đạo đức
nhân bản không đòi hỏi sự đồng thuận về các tiền đề tôn giáo
hoặc thần học — có thể chúng ta không bao giờ đạt được sự
đồng thuận đó — nhưng nó liên quan một cách tối hậu tới
những chọn lựa đạo đức đối với các sở thích, nguyện vọng,
nhu cầu và giá trị mà loài người cùng chia sẻ. Chúng tôi
phán xét chúng dựa theo hệ quả của chúng đối với hạnh phúc
con người và công bằng xã hội. Thực tế, người ta thuộc các
bối cảnh văn hóa xã hội khác nhau đang áp dụng những nguyên
tắc đạo đức tổng quát giống nhau dù những phán đoán đạo đức
cá biệt có thể khác nhau vì những dị biệt trong điều kiện
sống. Như thế thách thức đối với xã hội là làm nổi bật những
cái giống nhau chứ không phải làm nổi bật những cái khác
nhau của chúng ta.
Những nguyên tắc chính của đạo đức nhân bản chủ nghĩa là gì?
-
Thứ nhất, nhân
phẩm và sự tự quản của cá nhân là giá trị trung tâm. Đạo đức
nhân bản chủ nghĩa gắn bó mật thiết tới sự tự do chọn lựa
được gia tăng tối đa: tự do tư tưởng và tự do lương tâm, tâm
trí tự do và tra vấn tự do và quyền của cá nhân theo đuổi
lối sống khi cảm thấy nó thích hợp với mình và không làm hại
tới người khác. Điều này đặc biệt thích đáng trong xã hội
dân chủ là nơi có thể hiện hữu vô số hệ thống các giá trị
cho người ta chọn lựa. Như thế, người theo chủ nghĩa nhân
bản tôn trọng sự đa dạng.
-
Thứ hai, bảo vệ
nhân bản cho quyền tự quyết của cá nhân không có nghĩa rằng
người theo chủ nghĩa nhân bản dung dưỡng bất cứ loại hạnh
kiểm nào của con người. Sự bao dung của người theo chủ nghĩa
nhân bản đối với các lối sống đa dạng không nhất thiết bao
hàm ý nghĩa chấp thuận. Người theo chủ nghĩa nhân bản quả
quyết rằng đi kèm sự gắn bó với xã hội tự do là nhu cầu liên
tục nâng cao trình độ chất lượng của thị hiếu và sự am hiểu
giá trị. Người theo chủ nghĩa nhân bản tin rằng tự do phải
được hành xử có trách nhiệm. Họ nhận biết rằng hết thảy các
cá nhân đều sống trong cộng đồng và rằng có những hành động
nào đó mang tính phá hủy và lầm lạc.
-
Thứ ba, các triết
gia đạo đức nhân bản chủ nghĩa bảo vệ một nền đạo đức xuất
sắc (từ Aristotle và Kant tới John Stuart Mill, John Dewey
và M.N. Roy). Ở đây có biểu lộ sự chừng mực, tiết chế, tự
chế, tự chủ nào đó. Giữa những định chuẩn của sự xuất sắc ấy
là khả năng tự mình chọn lựa và quyết định, óc sáng tạo,
thưởng ngoạn thẩm mỹ, động cơ chín chắn, hợp lẽ phải, và đòi
buộc thành toàn các năng khiếu cao nhất của con người. Chủ
nghĩa nhân bản nhắm làm nổi bật cái tốt đẹp nhất trong con
người để mọi người có được cái tốt nhất trong cuộc sống.
-
Thứ tư, người
theo chủ nghĩa nhân bản thừa nhận trách nhiệm và bổn phận
của chúng ta đối với người khác. Điều này có nghĩa rằng
chúng ta không nên đối xử với những con người khác như những
vật thể chỉ nhằm làm thoả mãn nguyện vọng của chúng ta;
chúng ta phải đánh giá họ là những con người có quyền được
hưởng bình đẳng trong cứu xét. Người theo chủ nghĩa nhân bản
quả quyết rằng “mỗi cá nhân nên được đối xử nhân đạo”. Cũng
thế, họ chấp nhận Luật Vàng rằng “đừng làm cho kẻ khác điều
mà ta không muốn kẻ khác làm cho ta.” Họ chấp nhận huấn thị
có tính kinh thánh rằng chúng ta nên “chấp nhận người lạ ở
giữa chúng ta”, tôn trọng những cái mà họ dị biệt với chúng
ta. Căn cứ vào vô số tín điều tôn giáo, chúng ta đều là
người lạ — tuy thế có thể trở thành bạn hữu — trong một cộng
đồng rộng lớn hơn.
-
Thứ năm, người
theo chủ nghĩa nhân bản tin rằng đức tính cảm thông và đức
tính quan tâm là thiết yếu cho đức hạnh. Điều này hàm ý rằng
chúng ta nên phát triển lòng vị tha, quan tâm tới nhu cầu và
sở thích của người khác. Những nền tảng của đức hạnh đều là
“những chuẩn mực ứng xử đạo đức chung”, nghĩa là, đức tính
đạo đức tổng quát thì được chia sẻ rộng rãi bởi những người
thuộc các bối cảnh tôn giáo và văn hóa khác nhau. Chúng ta
phải nói thật, giữ lời hứa, lương thiện, giản dị, rộng
lượng, xác thực, đáng tin cậy, nghĩa khí, cảm kích, và biết
ơn; không thiên vị, chính trực, và bao dung; chúng ta phải
vượt qua những dị biệt của nhau một cách hợp lý và nỗ lực
hợp tác; chúng ta đừng trộm cắp hoặc làm tổn thương, làm tàn
tật hoặc làm đau đớn kẻ khác. Dù người theo chủ nghĩa nhân
bản kêu gọi giải phóng khỏi luật lệ đạo đức khắt khe và trấn
áp, họ cũng bảo vệ trách nhiệm đạo đức.
-
Thứ sáu, chiếm vị
trí cao trên nghị trình của chủ nghĩa nhân bản là nhu cầu
cung ứng nền giáo dục đạo đức cho trẻ em và thanh thiếu
niên, để phát triển cá tính và kiến thức, hiểu rõ giá trị
của những chuẩn mực ứng xử đạo đức chung, và khuyến khích sự
tăng trưởng đạo đức và khả năng lập luận đạo đức.
-
Thứ bảy, người
theo chủ nghĩa nhân bản khuyến cáo chúng ta sử dụng lí trí
trong khi đề ra các phán đoán đạo đức. Họ lưu ý rằng nhận
thức là thiết yếu trong khi đề ra các chọn lựa đạo đức. Đặc
biệt, nếu sắp giải quyết các tình trạng đạo đức nan giải thì
chúng ta cần dấn mình vào một quá trình cân nhắc thận trọng.
Các nguyên tắc và giá trị con người có thể được minh chứng
tốt nhất dưới ánh sáng của một sự thẩm tra có suy nghĩ chín
chắn. Ở nơi hiện hữu những dị biệt, chúng ta phải thương
lượng chúng tại bất cứ chỗ nào mình có thể, bằng đối thoại
hợp lý.
-
Thứ tám, người
theo chủ nghĩa nhân bản xác quyết rằng chúng ta nên chuẩn bị
để sửa đổi các nguyên tắc và giá trị đạo đức dưới ánh sáng
của thực tại hiện nay và những kỳ vọng tương lai. Chúng ta
cần rút tỉa sự khôn ngoan đạo đức tốt nhất trong quá khứ
nhưng đồng thời triển khai những giải pháp mới cho các vấn
đề đạo đức nan giải, dù cũ hoặc mới.
Thí dụ, cuộc tranh chấp về việc tự nguyện chết không đau
đang ngày càng mạnh mẽ cách riêng trong các xã hội thịnh
vượng, vì kỹ thuật y khoa ngày nay làm chúng ta có khả năng
giữ sống sót kẻ bệnh nặng hết phương cứu chữa mà lý ra có
thể chết sớm hơn. Người theo chủ nghĩa nhân bản lập luận
biện hộ cho cái chết có phẩm cách và quyền của người trưởng
thành có đủ nhận thức cần thiết để từ chối những cứu chữa
của y khoa, nhằm giảm đau khổ không cần thiết và thậm chí
thúc cho mau chết. Họ cũng thừa nhận tầm quan trọng của
phong trào cổ động việc thành lập bệnh viện dành cho người
hấp hối nhằm xoa dịu quá trình hấp hối.
Cũng thế, chúng ta nên được chuẩn bị để lựa chọn một cách
sáng suốt các khả năng sinh sản mới mà có thể trở nên khả
thi do nghiên cứu khoa học — thí dụ thụ tinh nhân tạo trong
ống nghiệm, người mẹ mang thai dùm, kỹ thuật di truyền, cấy
ghép bộ phận con người, và nhân bản vô tính. Ở đây, chúng ta
không thể ngoái nhìn những cái tuyệt đối đạo đức thời quá
khứ để tìm chỉ dẫn. Chúng ta cần tôn trọng quyền tự quyết
trong lựa chọn.
-
Thứ chín, người
theo chủ nghĩa nhân bản lập luận rằng chúng ta nên tôn trọng
tính chất đạo đức của các nguyên tắc. Điều này có nghĩa
cứu cánh không biện minh cho phương tiện; ngược lại, cứu
cánh của chúng ta bị định hình bởi phương tiện của chúng ta,
và có các giới hạn đối với những cái mà chúng ta được phép
làm. Ngày nay, điều này đặc biệt quan trọng khi xem xét các
chế độ độc tài chuyên chế của thế kỷ 20 mà trong đó các hệ
tư tưởng chính trị được tán thành với nhiệt tâm gần như có
tính tôn giáo và những phương thế đạo đức bị thỏa hiệp, nhằm
đạt những cứu cánh hão huyền. Chúng tôi nhận thức một cách
sắc bén về tình trạng khổ đau bi đát giáng xuống trên hàng
triệu người bởi những kẻ muốn bỏ qua cho sự độc dữ cực kỳ
nhằm mục đích giành bằng được cái thiện mà họ giả dụ là lớn
lao hơn.
VI. Gắn Bó Phổ Quát Với
Loài Người Như Một Toàn Bộ
Nhu cầu quan trọng nhất của cộng đồng thế giới ngày nay là
triển khai một Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu mới — một chủ nghĩa
không những tìm cách bảo tồn quyền con người và thăng tiến tự
do của con người cùng nhân phẩm mà còn nhấn mạnh sự gắn bó của
chúng ta với loài người như một toàn bộ.
-
Thứ nhất, nguyên
lý đạo đức cơ bản của Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu là nhu cầu
tôn trọng nhân phẩm và giá trị của hết thảy mọi con người
trong cộng đồng thế giới. Rõ ràng mỗi người đã thừa nhận sẵn
nhiều loại trách nhiệm liên quan tới bối cảnh xã hội của
mình: con người có trách nhiệm với gia đình, bạn hữu, cộng
đồng, thành phố, tỉnh bang, tiểu bang hoặc đất nước mình cư
trú. Tuy thế, chúng ta cần thêm vào các trách nhiệm đó một
gắn bó mới mẻ đang xuất hiện lúc này, đó là trách nhiệm của
chúng ta đối với những con người đang sống ở bên kia biên
giới quốc gia của chúng ta. Lúc này, hơn bao giờ hết, về mặt
đạo đức và về mặt thể xác chúng ta bị nối kết với từng người
trên quả đất, và khi chuông reo báo tử cho một người thì
cũng reo báo tử cho mọi người.
-
Thứ hai, chúng ta
phải hành động để giảm đau khổ của con người và để tăng tổng
số hạnh phúc của loài người tại bất cứ nơi nào có thể làm,
và trách nhiệm này trải rộng ra khắp thế giới. Nguyên tắc
này đã và đang được thừa nhận bởi các tín đồ tôn giáo lẫn
người vô tín ngưỡng. Nó thiết yếu đối với cấu trúc toàn bộ
giá trị đạo đức con người. Không cộng đồng nào có thể tồn
tại lâu dài nếu cộng đồng ấy bỏ qua những vi phạm hàng loạt
các chuẩn mực ứng xử đạo đức chung giữa các phần tử của nó.
Ngày nay, vấn đề liên quan chủ yếu tới phạm vi hành xử
nguyên tắc này. Chúng tôi đề nghị rằng bổn phận đạo đức này
nên được tổng quát hóa: chúng ta không nên chỉ quan tâm tới
phúc lợi của những người sống trong cộng đồng hoặc đất nước
của mình mà còn phải quan tâm tới toàn bộ cộng đồng thế
giới.
-
Thứ ba, chúng ta
nên tránh sự nhấn mạnh quá đáng chủ nghĩa hẹp hòi về đa văn
hóa vốn là cái có thể mang tính phân ly và phá hủy. Chúng ta
nên bao dung sự đa dạng văn hoá, trừ những nơi tự bản thân
nền văn hóa của nó có tính bất bao dung và trấn áp. Đây là
thời điểm để vươn lên trên chủ nghĩa bộ lạc hẹp hòi nhằm tìm
thấy một nền tảng chung. Các thành phố sắc tộc là hậu quả
của tình trạng cô lập địa dư và xã hội thời quá khứ, không
còn thích hợp cho một xã hội mở và toàn cầu là nơi mà sự
tương tác và hôn nhân hợp chủng giữa các thành phố sắc tộc
khác nhau không chỉ có thể xảy ra mà còn đáng được khuyến
khích. Dù lòng trung thành với xứ sở, bộ lạc hoặc nhóm sắc
tộc có thể làm người ta vượt qua sở thích vị kỷ và chủ nghĩa
sô-vanh thái quá giữa các chủng tộc và các quốc gia, nó cũng
thường biến thành tính phá hủy. Như thế, quan tâm đạo đức và
lòng trung thành không nên thu hẹp nội trong lãnh thổ sắc
tộc hoặc biên giới quốc gia. Một nền đạo đức hợp lẽ phải thì
liên kết chúng ta để xây dựng và hỗ trợ những định chế hợp
tác giữa các cá nhân trong các thành phố có nhiều sắc tộc
khác nhau. Chắc chắn nó không làm chúng ta chia rẽ mà làm
chúng ta hòa nhập nhau.
-
Thứ tư, sự tôn
trọng và quan tâm tới con người nên áp dụng bình đẳng cho
hết thảy mọi người. Điều này đưa tới ý nghĩa rằng chúng ta
nên bảo vệ quyền làm người ở khắp nơi. Vì thế, mỗi người
chúng ta đều có bổn phận tiếp tay làm giảm đau khổ của con
người ở bất cứ nơi nào trên thế giới và đóng góp vào sự
thiện chung. Nguyên tắc này biểu lộ ý nghĩa cao cả nhất của
lòng trắc ẩn và lòng từ bi. Nó hàm ý rằng dân chúng sống tại
các quốc gia thịnh vượng có bổn phận làm giảm đau khổ và
tăng phúc lợi của dân chúng sống tại các khu vực bị bần cùng
hóa của thế giới, tại nơi nào họ có thể làm. Cũng thế, nó
còn có ý nghĩa rằng dân chúng sống tại các khu vực ít phát
triển hơn có bổn phận thay thế lòng oán hận sự thịnh vượng
bằng thiện chí hỗ tương. Điều tốt nhất mà người thịnh vượng
có thể làm cho người nghèo khó là tiếp tay với họ để họ tự
lực. Nếu muốn giúp các phần tử nghèo hơn mình trong gia đình
loài người thì người thịnh vượng có thể phải hạn chế sự tiêu
thụ phung phí và sự đam mê lạc thú thái quá của mình.
-
Thứ năm, những
nguyên tắc ấy không chỉ nên áp dụng cho cộng đồng thế giới
hiện nay mà còn cho cộng đồng thế giới tương lai. Chúng ta
có trách nhiệm đối với hậu thế, cả trong tương lai trước mắt
lẫn tương lai xa xăm. Như thế, những con người đạo đức hợp
lẽ phải nhận biết bổn phận của mình trải dài tới hậu duệ của
con cháu mình và tới cộng đồng của hết thảy mọi người, trong
hiện tại lẫn tương lai.
-
Thứ sáu, mỗi thế
hệ có bổn phận, hết sức có thể được, để lại môi trường toàn
cầu mà nó thừa kế, là một nơi tốt đẹp hơn. Chúng ta nên
tránh gây ô nhiễm thái quá và chúng ta nên sử dụng hợp lý
cùng dè sẻn những thứ chúng ta cần, để tránh phung phí các
tài nguyên không tái sinh của quả đất. Vào thời điểm dân số
tăng nhanh và tài nguyên bị tiêu thụ nhanh như hiện nay,
điều này có vẻ là một lý tưởng bất khả thi. Nhưng chúng ta
phải cố gắng vì hành động hôm nay của mình sẽ quyết định số
phận của các thế hệ sắp tới. Chúng ta có thể ngoái nhìn và
phán xét trở lại hành động của tiền nhân chúng ta, và chúng
ta có thể hoan nghênh hoặc qui trách họ vì hành động hữu
trách hoặc tắc trách của họ. Thí dụ, chúng ta có thể chỉ
trích nghiêm khắc những kẻ đã lơ là, làm cạn nguồn dự trữ
dầu hỏa và hơi đốt thiên nhiên hoặc làm kiệt nguồn cung cấp
nước. Ngược lại chúng ta có thể biết ơn các kiến trúc sư và
kỹ sư trong quá khứ vì những bảo tồn thiên nhiên, các thiết
bị lọc nước, các hệ thống ngầm dưới đất, các xa lộ và cầu
cống mà họ đã xây dựng cho chúng ta sử dụng hôm nay.
Chúng ta có thể đồng cảm với thế giới tương lai, và bằng óc
giàu tưởng tượng, dự kiến trong tương lai con người sẽ sống
ra sao, rồi từ đó, chúng ta có thể suy ra bổn phận hôm nay
của mình đối với con người ngày mai. Bổn phận của chúng ta
đối với hậu duệ có xuất xứ phần nào từ lòng biết ơn những hy
sinh tiền nhân đã chịu mà từ đó chúng ta được hưởng lợi hoặc
có thể từ sự lên án của chúng ta đối với các thế hệ trước
đây. Lúc này, các thế hệ tương lai đang cần người phát ngôn
cho họ, phục vụ họ như những người thay mặt họ để bảo vệ các
quyền trong tương lai của họ. Lập luận như thế không phải là
áp đặt một bổn phận bất khả thi, vì hiện nay, thành phần tốt
lành của loài người đang quan tâm đầy đạo đức tới con cháu
mai sau, trong đó có quan tâm về môi sinh. Thậm chí ta còn
có thể lập luận rằng xưa nay, con người lúc nào cũng hào
hứng với chủ nghĩa lý tưởng anh hùng hiến thân cho chính
nghĩa đầy thương yêu vượt quá bản thân mình và cho sự thiện
hảo cao cả hơn của loài người.
-
Thứ bảy, chúng ta
không nên làm điều gì gây nguy cơ cho chính sự sống còn của
các thế hệ tương lai. Chúng ta phải chăm lo giải quyết vấn
đề để xã hội toàn cầu hiện nay không làm suy thoái khí
quyển, nước và đất khiến cho cuộc sống tương lai bị suy kiệt
cùng cực. Chúng ta nên chăm lo giải quyết vấn đề để xã hội
toàn cầu hiện nay không thả lỏng các vũ khí tàn sát hàng
loạt. Vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử, loài người sở
hữu các phương tiện tự hủy diệt. Sự giảm bớt hiện nay của
Chiến Tranh Lạnh không bảo đảm thanh gươm tối hậu của
Damocles sẽ được buông bỏ bởi những đệ tử cuồng tín phục hận
hoặc bởi những kẻ chủ trương chính sách “bên bờ vực chiến
tranh”: cứu vớt thế giới bằng cách để thế giới bị hủy diệt.
Như thế, một Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu mới và khả thi, nhắm
tới một thế giới an toàn, an ninh và tốt đẹp hơn nên là bổn
phận ưu tiên số một của chúng ta, và chúng ta nên làm những gì
có thể làm để tạo nên sự gắn bó đạo đức. Sự gắn bó này nên áp
dụng cho mọi dân tộc trên quả đất dù khác nhau về tín ngưỡng
hoặc theo chủ nghĩa tự nhiên, hữu thần hoặc nhân bản, giàu
hoặc nghèo, thuộc bất cứ chủng tộc, sắc tộc hay quốc tịch nào.
VII. Một Ðạo Luật Toàn Cầu Về Các Quyền Và
Các Trách Nhiệm
Ðể làm tròn sự gắn bó của mình đối với Chủ Nghĩa Nhân Bản
Toàn Cầu, chúng tôi đề nghị một Ðạo Luật Toàn Cầu Về Các
Quyền Và Các Trách Nhiệm; nó thể hiện sự gắn bó toàn cầu
của chúng tôi đối với phúc lợi của loài người như một tổng
thể. Nó kết hiệp làm một với bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền nhưng nó vượt quá bản Tuyên Ngôn ấy bằng
việc đưa ra một số điều mục mới. Nhiều quốc gia riêng rẽ đã
và đang tìm cách thi hành các điều mục này bên trong biên
giới của nước mình. Nhưng có nhu cầu ngày càng tăng về một
Ðạo Luật Toàn Cầu Về Các Quyền Và Các Trách Nhiệm rõ
ràng và đầy đủ để áp dụng cho hết thảy mọi phần tử của loài
người. Việc thực hiện nó sẽ không dễ dàng. Dĩ nhiên nó phụ
thuộc vào vấn đề có đầy đủ các tài nguyên. Dù là cỗ máy năng
động của tăng trưởng và phát triển kinh tế nhưng kinh tế thị
trường không luôn luôn có hiệu quả, và có lẽ cần bổ sung
bằng những chính sách công cộng liên quan tới phúc lợi xã
hội rộng rãi hơn. Những phương cách được chấp nhận để thành
tựu các nguyên tắc của Ðạo Luật này gần như sẽ được
hoạch định trước hết trên lãnh vực tư nhưng lãnh vực công
cũng đóng vai trò của nó. Rõ ràng là sẽ có sự chống đối lớn
lao về chính trị đối với các đề nghị này nhưng ít ra, chúng
ta nên đặt những mục tiêu lâu dài dù ngay lúc này khó đạt
được chúng tại những phần đất nhất định trên thế giới.
-
Thứ nhất, chúng ta nên phấn đấu để chấm dứt nghèo khổ,
suy dinh dưỡng và cung ứng việc chăm sóc y tế và nhà ở thích
đáng cho con người ở mọi nơi trên hành tinh này. Ðiều
này có nghĩa không một người nào bị từ khước lương thực
thích đáng và nước trong lành, và chúng ta nên dốc hết nỗ
lực để tận diệt bệnh truyền nhiễm, bảo đảm vệ sinh đúng qui
cách và bảo đảm tiêu chuẩn tối thiểu về nhà ở cho mọi người.
Ðiều này hoàn toàn là một công tác; tuy thế trên nền tảng
đạo đức, chúng ta phải khẩn trương bắt đầu đảm trách công
tác này.
-
Thứ hai, chúng ta nên phấn đấu để cung ứng sự ổn định
kinh tế và lợi tức thích đáng cho mọi người. Ðiều này có
nghĩa cho con người cơ hội đồng đều để có việc làm, bảo hiểm
thất nghiệp và an sinh xã hội dành cho hưu trí. Nên có những
chương trình đặc biệt huấn luyện kỹ năng cho người tàn tật
để nhờ đó họ có tay nghề và giúp họ kiếm việc làm.
Ở đây, tiền đề căn bản là tự lực: cá nhân cần thực thi những
nỗ lực của chính mình để có lợi tức đủ dùng. Xã hội chỉ có
thể cung cấp cơ hội, bằng phương thế riêng tư hoặc công
cộng.
-
Thứ ba, mọi người nên được bảo vệ khỏi bị chấn thương,
nguy hiểm và chết chóc mà không có lý do xác đáng và không
cần thiết. Mọi thành viên của loài người nên được bảo vệ
khỏi bạo động vật lý, trộm cắp tài sản riêng, và sợ hãi vì
bị hăm dọa (dù bởi cá nhân riêng tư hoặc bởi định chế chính
trị hay xã hội). Mọi người nên được bảo vệ khỏi bị lạm dụng
hay quấy nhiễu tình dục, cưỡng hiếp. Ðối đãi tính dục nên
đặt trên căn bản tự nguyện. Dù trong bất cứ tình huống nào
cũng không nên cho phép việc làm tình hoặc kết hôn với trẻ
em.
Án tử hình là một hình thức trả thù không thể chấp nhận. Nên
thay thế nó bằng hình phạt khác, thí dụ tù chung
thân. Hầu
hết các quốc gia văn minh đều đã cấm hình phạt tử hình.
-
Thứ tư, các cá
nhân nên có quyền sống trong một đơn vị gia đình hoặc một hộ
do họ chọn, hợp với lợi tức của mình và nên được quyền có
con hay không có con. Mỗi cá nhân nên có quyền tự do chọn
người bạn đời nếu muốn, và số lượng con cùng khoảng cách
sinh con. Mọi người nên có quyền nuôi con ruột hay con nuôi,
hoặc có quyền không lập gia đình.
Những ai quyết định nuôi con thì có những đòi hỏi nhất định
và cần thiết cho bổn phận ấy: cha mẹ nên cung ứng môi trường
an toàn và đầy thương yêu cho con. Không nên để con bị cha
mẹ ngược đãi. Không nên để trẻ con và thiếu niên bị buộc
phải làm công việc lao động của người lớn hoặc lao dịch thái
quá. Cha mẹ không nên lơ là hoặc không chịu cung cấp cho con
dinh dưỡng, vệ sinh, chỗ ở, chăm sóc y tế và an toàn thích
hợp.
Cha mẹ không nên không cho con tiếp cận việc giáo dục, bổ
túc văn hóa và kích thích trí tuệ. Dù sự hướng dẫn đạo đức
của cha mẹ là quan trọng, cha mẹ không nên đơn phương áp đặt
quan điểm tôn giáo hoặc các giá trị đạo đức lên trên con
mình hoặc độc tôn nhồi sọ tư tưởng chúng. Trẻ em, thiếu niên
và thanh niên nên mở lòng mình ra trước những quan điểm dị
biệt và phấn khởi khích lệ sự tự mình suy nghĩ. Thậm chí đối
với con trẻ, quan điểm của chúng cũng nên được tôn trọng.
-
Thứ năm, cơ hội
dành cho giáo dục và bổ túc văn hóa nên phổ cập. Mọi người
nên có cơ hội mở mang kiến thức. Ở mức tối thiểu, giáo dục
học đường nên sẵn sàng cung ứng cho mọi đứa trẻ từ những năm
thơ ấu tới tuổi thanh niên. Ngoài ra, cơ hội dành cho giáo
dục phải sẵn sàng cung ứng cho mọi nhóm tuổi, gồm cả việc
học suốt đời dành cho người lớn. Có những định mức tối thiểu
mà mỗi người phải đạt: khả năng đọc, viết và làm toán căn
bản. Các trình độ sở đắc cao hơn thì liên quan tới năng
khiếu và năng lực. Việc nhận vào trường học thuộc bậc giáo
dục cao hơn nên đặt căn bản trên học lực; nơi nào có thể thì
nên cấp học bổng để các học sinh xứng đáng không bị lỡ cơ
hội học hành vì tình trạng túng thiếu tài chính.
-
Mọi trẻ em nên
được dạy một số kỹ năng căn bản có tính thị trường để bảo
đảm chúng có khả năng kiếm được việc làm. Điều này nên bao
gồm một hình thức vỡ lòng nào đó về máy vi tính, mở mang trí
năng văn hóa và khả năng hoạt động trong thế giới thương
mại.
Chương trình học nên đẩy mạnh sự am hiểu các phương pháp
khoa học trong thẩm tra và tư duy phê phán. Không nên đặt
giới hạn cho sự thẩm tra tự do. Giáo dục nên bao gồm sự am
hiểu những giá trị của các khoa học tự nhiên, sinh học và xã
hội. Cũng nên học lý thuyết tiến hóa và các tiêu chuẩn của
sinh thái học.
Học sinh nên học các nguyên tắc về giữ gìn sức khỏe, dinh
dưỡng thích đáng, vệ sinh và thể dục. Trong những điều đó
nên có sự hiểu biết về y học và cách vận hành của cơ thể con
người; nên cung ứng sẵn sàng từ thuở thơ ấu cơ hội giáo dục
tính dục thích hợp. Điều này nên bao gồm thái độ tính dục có
trách nhiệm, kế hoạch hóa gia đình và kỹ thuật ngừa thai.
Học sinh nên học để hiểu rõ giá trị của các truyền thống văn
hóa đa dạng. Điều này nên bao gồm việc học đối chiếu các tôn
giáo, ngôn ngữ và văn hóa và sự thưởng ngoạn những biểu lộ
của nghệ thuật. Học sinh nên học về lịch sử, bắt đầu với
lịch sử của xứ sở và nền văn hóa cá biệt tại nơi chúng sinh
trưởng, nhưng cũng học về các nền văn hóa khác, bao gồm lịch
sử và các nền văn minh thế giới. Cần thực hiện mọi nỗ lực để
triển khai sự “vỡ lòng toàn cầu”, tức là sự nhận biết về môi
sinh. Không nên hạn chế sự học trong chuyên ngành nhỏ hẹp
nhưng nên khuyến khích những nỗ lực để có kiến thức liên
quan tới nhiều lãnh vực học thuật.
-
Thứ sáu, cá nhân
không nên bị phân biệt đối xử vì chủng tộc, nguồn gốc sắc
tộc, quốc tịch, văn hóa, đẳng cấp, giai cấp, tín ngưỡng,
phái tính hoặc định hướng tính dục. Chúng ta cần phát triển
một bản sắc con người thành viên mới trong cộng đồng toàn
cầu. Bản sắc này là ưu tiên trên tất cả những cái khác và có
thể được dùng làm căn bản để hành động nhằm triệt tiêu sự
phân biệt đối xử.
-
Hận thù chủng
tộc, quốc tịch và sắc tộc là vô đạo đức. Hết thảy mọi cá
nhân đều là thành viên chung một chủng loại và vì thế nên
được vui hưởng mọi đặc quyền và mọi cơ hội có sẵn.
-
Đối kháng giai
cấp có thể là nguồn gốc của phân biệt đối xử. Những rào cản
cổ truyền, thí dụ hệ thống đẳng cấp, đã và đang kiềm hãm sự
thăng tiến của hàng triệu người. Một số tìm cách bít kín lỗ
hổng giữa người giàu và người nghèo bằng cách bần cùng hóa
người giàu thay vì cải thiện điều kiện sống của người nghèo.
Một số khác lơ là tình cảnh khốn khó của người nghèo hoặc
tìm cách giữ cho người nghèo sống mãi trong trạng thái tùy
thuộc.
-
Quyền tự do tín
ngưỡng và thực hành tôn giáo hay niềm tin của con người phải
được tôn trọng. Sự tự do tương đương như thế, tức là quyền
không thực hành tôn giáo, nên được dành đầy đủ cho những
người bất đồng tôn giáo, người theo thuyết bất khả tri và
người vô thần, những người mà quan điểm của họ xứng đáng
được tôn trọng không kém.
-
Không nên cho
phép phân biệt đối xử vì phái tính. Nữ giới có quyền được
đối xử bình đẳng với nam giới. Sự phân biệt đối xử trong cơ
hội tìm việc làm, giáo dục và hoạt động văn hóa là quá đáng
không thể chịu đựng được. Xã hội không nên phủ định đồng
tính luyến ái, lưỡng tính luyến ái hoặc quyền bình đẳng được
chuyển đổi phái tính và chuyển đổi tính dục.
-
Thứ bảy, các
nguyên tắc về bình đẳng nên được các cộng đồng văn minh tôn
trọng và theo bốn ý nghĩa chính:
+ Bình đẳng trước pháp luật: Mọi người nên được có
đầy đủ một thủ tục tố tụng thích đáng và sự bảo vệ bình đẳng
trước pháp luật. Phải áp dụng cũng một luật pháp thôi cho
viên chức chính quyền lẫn công dân bình thường. Không kẻ nào
ở bên trên luật pháp. Luật pháp không nên xem xét tới chủng
tộc, màu da, sắc tộc, tín ngưỡng, phái tính hoặc tài sản.
+ Bình đẳng trong cứu xét: Mọi người đều có nhân phẩm
và giá trị ngang nhau và không bị từ khước các phúc lợi và
các quyền được ban cho hết thảy những người khác. Điều này
không phủ định việc xã hội có quyền kiềm chế, trừng phạt
hoặc giam giữ kẻ phạm pháp, sử dụng bạo lực hoặc phạm tội ác
đối với người khác.
+ Thỏa mãn các nhu cầu căn bản: Cá nhân có thể thiếu
tài nguyên, và hoàn toàn không phải do lỗi của họ nếu họ
không có khả năng thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của mình về
thực phẩm, nhà ở, an toàn, chăm sóc y tế, bổ túc văn hóa và
giáo dục. Trong trường hợp đó, nếu xã hội có phương tiện thì
lúc ấy, có bổn phận giúp thỏa mãn các nhu cầu căn bản ở mức
nhiều nhất có thể được. Sự quan tâm tới phúc lợi này liên
quan tới khả năng lao động. Xã hội không nên khuyến khích
lối sống tùy thuộc.
+ Bình đẳng về cơ hội: Trong các xã hội tự do nên có
sân chơi không thiên vị cho mọi người. Trong xã hội mở và tự
do, nên dành cho người lớn và trẻ em cơ hội để thành toàn sở
thích cùng khát vọng và biểu lộ tài năng độc đáo của mình.
-
Thứ tám, mọi
người có quyền sống một cuộc sống tốt lành, theo đuổi hạnh
phúc, thành tựu niềm vui thích sáng tạo và giải trí theo
cách thức riêng của mình trong chừng mực không làm tổn
thương người khác. Nguyên tắc cốt lõi là mỗi người nên có
đầy đủ cơ hội để nhận thức đầy đủ sự thành toàn cuộc đời của
mình đi đôi với tài nguyên của xã hội, nhưng sự nhận thức
thật sự thì tùy thuộc vào cá nhân chứ không vào xã hội. Tuy
thế, hạnh phúc thì tùy thuộc vào lợi tức, tài nguyên và thái
độ của con người, và cá nhân không nên trông mong xã hội
cung cấp các phương tiện làm thỏa mãn những sở thích và
những theo đuổi riêng biệt của mình ở mức độ rộng rãi.
-
Thứ chín, cá nhân
nên có cơ hội thưởng ngoạn và tham gia nghệ thuật — bao gồm
văn chương, thơ, kịch, điêu khắc, múa, âm nhạc và ca hát. Óc
tưởng tượng thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo có thể đóng góp vô
lượng vào sự phong phú hóa đời sống, phát triển năng khiếu
bản thân và hạnh phúc của con người. Xã hội nên khuyến khích
và hỗ trợ nghệ thuật cùng tính chất phổ biến văn hóa rộng
rãi của nó tới mọi khu vực của cộng đồng.
-
Thứ mười, cá nhân
không nên bị kiềm chế thái quá, giới hạn và nghiêm cấm trên
một tầm mức rộng lớn việc thực hành những chọn lựa riêng tư.
Điều này bao gồm tự do tư tưởng và tự do lương tâm — quyền
hoàn toàn tin, hoặc không tin, tự do phát biểu và tự do theo
đuổi lối sống riêng của mình trong chừng mực không gây trở
ngại cho việc thực thi quyền của người khác.
Được gồm vào phần trên là quyền riêng tư:
+ Việc bảo mật của cá nhân nên được tôn trọng.
+ Mọi cá nhân nên được tự do, không bị xâm phạm bởi
các cưỡng bách xã hội hoặc chính trị.
+ Phụ nữ nên có quyền chủ động về thân thể của mình.
Điều này bao gồm tự do sinh sản, tự nguyện ngừa thai và phá
thai.
+ Đôi lứa phối ngẫu nên có thông tin đúng cách về kế
hoạch hóa gia đình và khả năng sử dụng sự thụ tinh nhân tạo
và những chỉ bảo về sinh học di truyền.
+ Người lớn nên được phép kết hôn với kẻ mình muốn,
dù khác bối cảnh chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, giai cấp,
đẳng cấp hoặc quốc tịch.
+ Không nên cấm hôn nhân dị chủng. Nên cho lứa đôi
phối ngẫu cùng phái tính có các quyền giống như lứa đôi khác
phái tính.
+ Sự ưng thuận có đầy đủ thông tin nên là nguyên tắc
dẫn đạo trong y khoa. Cá nhân trưởng thành nên có quyền chọn
hoặc từ khước việc chữa trị y khoa.
+ Cá nhân nên có quyền tham gia các tổ chức thiện
nguyện để chia sẻ những phúc lợi và các hoạt động trong cộng
đồng. Quyền tự do lập hội trong chừng mực hòa bình và bất
bạo động phải được tôn trọng.
VIII. Một Nghị Trình
Toàn Cầu Mới
Nhiều lý tưởng cao cả xuất hiện theo sau Thế Chiến Hai và tìm
được cách biểu lộ trong những công cụ tuyệt vời như bản Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà đang mất dần sức mạnh trên khắp thế
giới. Để tác động lên tương lai loài người, chúng ta cần ngày
càng gia tăng hoạt động qua những trung tâm quyền lực và ảnh
hưởng mới nhằm cổ vũ sự vô tư và ổn định, làm giảm nghèo, giảm
xung khắc và gìn giữ môi trường. Dưới ánh sáng của những tình
huống đang thay đổi, ngày càng thấy rõ một số mục tiêu ưu
tiên:
-
Thứ nhất, an
ninh: Vấn đề xung khắc và chiến tranh khu vực cũng như nguy
cơ tiềm ẩn do vũ khí tàn sát hàng loạt đặt ra đều không được
giải quyết. Suốt 50 năm qua, bạo động liên cộng đồng giữa
các nhóm chủng tộc và tôn giáo trong một vùng và nội chiến
đã đẩy những xung khắc giữa các quốc gia lên mức thái quá về
số lượng và tổn thất nhân mạng. Những xung khắc như thế luôn
luôn phát sinh khi một cộng đồng sắc tộc trong một nước cảm
thấy mình bị đàn áp bởi chính quyền hoặc bởi một cộng đồng
khác, và cảm thấy không có khả năng biểu lộ những bất bình
của mình bằng các phương thế hợp pháp. Hiến Chương Liên Hiệp
Quốc đặc biệt nghiêm cấm can thiệp vào công việc nội bộ của
quốc gia hội viên; do đó cộng đồng quốc tế hoàn toàn thiếu
căn bản pháp lý cho các nỗ lực giải quyết những xung khắc có
tính bộ lạc, chủng tộc hoặc liên cộng đồng trong biên giới
của một quốc gia, trái với ý muốn của tập đoàn cai trị quốc
gia liên hệ. Thêm nữa, bất cứ nỗ lực nào của cộng đồng quốc
tế nhằm giải quyết các xung khắc ấy bằng việc dùng vũ lực
thì hầu như bị cản trở ngay trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp
Quốc vì lá phiếu phủ quyết của một hội viên thường trực có
quan hệ hữu nghị với chính phủ liên hệ. Từ lúc kết thúc
Chiến Tranh Lạnh, Hiệp chúng quốc Hoa kỳ, được sự ủng hộ của
Liên Minh Bắc Đại Tây Dương NATO và các cường quốc phương
Tây khác, thường tìm cách áp đặt hoà bình bằng vũ lực, coi
thường Liên Hiệp Quốc và làm suy yếu nghiêm trọng thẩm quyền
của LHQ.
-
Thứ hai, phát
triển con người: Chúng tôi kêu gọi có những đề nghị táo bạo
và cách tân nhằm tối đa hóa sự tiến bộ của con người trên
cấp độ toàn cầu. Sự chênh lệch giữa các khu vực thịnh vượng
và các khu vực chậm phát triển của hành tinh này là vấn đề
cấp bách hiện nay, không kém trong quá khứ chút nào. Thế
giới phát triển có thể giúp khắc phục vấn đề ấy bằng cung
cấp vốn, viện trợ kỹ thuật và yểm trợ giáo dục.
Chúng ta cần sự nhấn mạnh mới trên phát triển xã hội chứ
không đơn thuần trên phát triển kinh tế, trong khi nhận ra
rằng phát triển kinh tế không luôn luôn dẫn tới phát triển
xã hội và rằng đầu tư trực tiếp vào phát triển xã hội có thể
làm giảm nghèo và đưa dân chúng vào nền kinh tế tiền tệ hơn.
Có nhu cầu yểm trợ các phương tiện gây phúc lợi trực tiếp về
y tế và hạnh phúc cho người nghèo nhất, đặc biệt phụ nữ và
thiếu nữ. Điều này phải bao gồm một số nỗ lực nhằm tạo ổn
định dân số và rồi giảm tỉ lệ gia tăng dân số.
Thông thường, viện trợ phát triển bị các nước cấp viện nhìn
như công cụ của chủ nghĩa ngoại giao đế quốc và của chính
sách mậu dịch. Chiến Tranh Lạnh chấm dứt và theo đó, biến
mất cái nhu cầu cảm thấy cần tranh thủ sự ủng hộ của thế
giới đang phát triển, và cùng với nó là qui mô yểm trợ phát
triển. Khuynh hướng này phải được đảo ngược.
Chúng tôi thúc giục tất cả các quốc gia đã kỹ nghệ hoá chấp
nhận, như một bước đầu, những khuyến cáo do Liên Hiệp Quốc
đưa ra về viện trợ phát triển cho các nước khác, cụ thể là
đóng góp (hoặc bị đánh thuế) hằng năm 0.7% Tổng Sản Lượng
Quốc Nội GDP để viện trợ phát triển, trong đó nên dành 20%
cho phát triển xã hội và trong ngân khoản phát triển xã hội
đó nên dành 20% để yểm trợ vấn đề dân số. Sự yểm trợ ấy nên
gia tăng trong những năm sắp tới.
Cần phải nỗ lực hơn nữa để thu hẹp lỗ hổng kiến thức trong
các nước nghèo nhất, dạy nghề và tu nghiệp cho người thất
nghiệp, nhằm cung ứng điều kiện lao động tốt hơn (đặc biệt
cho phụ nữ và những kẻ bị thiệt thòi quyền lợi) và dành
nhiều tài nguyên hơn cho việc chăm sóc y tế, giáo dục và bổ
túc văn hoá.
Chúng tôi thúc giục tất cả các quốc gia ủng hộ “Chương Trình
Hành Động Cairo” năm 1994 nhằm cung ứng y tế hộ sản phổ quát
và quyền sinh sản, để giúp cải thiện chất lượng cuộc sống
của người nghèo khó và để ổn định sự gia tăng dân số thế
giới. Bản Danh Mục Phát Triển Con Người do Chương Trình Phát
Triển của Liên Hiệp Quốc xuất bản hằng năm nên được cổ động
sử dụng như một thước đo thành tích xã hội của từng nước
đang phát triển. Có vai trò ngày càng tăng của các tổ chức
phi chính phủ (NGOs) tại các nước đang phát triển để hành
động như những đơn vị tiếp nhận trực tiếp viện trợ phát
triển hầu né tránh tham nhũng và trì trệ thư lại như thường
thấy tại nhiều nước. Các tổ chức phi chính phủ phương Tây
đóng vai trò có ý nghĩa to lớn như đơn vị đối tác và máng
xối cho viện trợ phát triển.
-
Thứ ba, công bằng
xã hội: Đạo Luật Toàn Cầu Về Các Quyền Và Các Trách Nhiệm là
trung tâm cho các vấn đề công bằng xã hội. Phải chống lại
những nỗ lực nhằm hợp pháp hóa sự va chạm công bằng xã hội
hoặc nhằm hạn chế phạm vi văn hóa và địa dư của nó. Phải
nhấn mạnh trở lại khả năng ứng dụng của bản Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân Quyền vào phạm vi riêng tư của mỗi hộ, gia đình và
cộng đồng. Chúng tôi đặc biệt thúc giục tất cả các quốc gia
sớm phê chuẩn hết thảy những công ước quốc tế về quyền của
phụ nữ, trẻ em, thiểu số và người bản địa.
-
Thứ tư, sự tăng
trưởng của các đại tổ hợp công ti quốc tế: Hai chục năm qua
đã chứng kiến tình trạng ngày càng gia tăng sự tập trung thế
lực và tài sản vào tay các công ti kinh doanh toàn cầu. Rõ
ràng chúng có đóng góp vào mậu dịch thế giới và phát triển
kinh tế. Thế nhưng luật pháp quốc tế đáp ứng chậm chạp trước
những cấu trúc quyền lực đang tiến hóa gia tốc trong kinh tế
thế giới. Hiện nay, các công ti đa quốc gia có khả năng rộng
lớn để coi thường nguyện vọng của các chính quyền riêng rẽ
trong việc hoạch định chính sách và di chuyển nguồn tài
chính của chúng xuyên qua biên giới các nước và đưa việc chế
xuất tới các thị trường rẻ nhất. Sự tự do ấy được đánh giá
như một tác dụng hữu ích cho thị trường tự do và được các
thị trường tài chính toàn cầu khuyến khích. Nhưng những công
ti ấy cũng có khả năng rộng lớn để tránh việc đóng thuế lợi
nhuận xuất khẩu. Các định chế tài chính có khả năng tránh sự
kiểm soát tài chính bằng việc đặt cơ sở ở những nơi đánh
thuế thấp nhất tại các nước khác, trong khi việc chuyển ngân
quốc tế lên tới một ngàn tỉ Mỹ kim mỗi ngày mà không bị đánh
thuế. Cũng thế, các cá nhân giàu hiện có khả năng tránh việc
trả thuế công bằng đúng với phần chia sẻ của họ.
Bất cứ đề nghị nào nêu ra các vấn đề ấy nhằm hạn chế sự vận
hành của thị trường tự do đều sẽ bị chống đối quyết liệt và
chắc chắn sẽ thất bại. Do đó, cần tới những cải cách giàu
tưởng tượng để bảo đảm rằng tài sản quốc tế, của các công ti
và các cá nhân, đều phải đóng phần chia sẻ của họ một cách
công bằng mà không gây tổn thương cho cỗ máy kinh tế thế
giới.
-
Thứ năm, luật
pháp quốc tế: cộng đồng toàn cầu cần phát triển một hệ thống
công pháp quốc tế vượt quá phạm vi luật pháp của các quốc
gia riêng rẽ. Chúng ta cần biến thế giới vô luật pháp thành
một thế giới có luật pháp mà mọi người có thể hiểu rõ và
theo đó mà hành động.
-
Thứ sáu, môi
sinh: chúng ta cần nhận ra rằng lối sống hiện nay tại Bắc
bán cầu kỹ nghệ hóa là không thể lâu bền và càng ngày sẽ
càng trở nên bấp bênh khi phát triển kinh tế và sức tiêu
dùng mỗi ngày một tăng tại các nước nghèo hơn ở Nam bán cầu
làm tăng thêm sức ép lên môi trường toàn cầu. Mức tiêu thụ
xả láng đã gây sẵn sức ép chưa từng thấy trên môi sinh và
đặt người tiêu dùng trong tình trạng bị làm hại ít nhất tới
hai lần. Vấn đề là nâng cao mức tiêu dùng của một tỉ người
nghèo cực tới nỗi mỗi ngày không có được một bữa ăn thích
đáng, và cùng lúc ấy, tiến hành những mẫu thức tiêu thụ có
khả năng bền vững hơn nhằm giảm thiểu sự phá hoại môi sinh.
Các vấn đề môi trường toàn cầu phải được ứng xử ở cấp bậc
toàn hành tinh: giảm ô nhiễm môi sinh, bao gồm khí các-bon
đi-ô-xít và các khí gây hiệu ứng nhà kính; phát triển các
nhiên liệu có thể thay thế; gầy lại rừng trên đất trụi;
chống quá trình ăn mòn mặt đất tại các khu vực trồng trọt;
tạo điều kiện cho quan hệ hữu nghị bảo vệ môi sinh giữa các
nước; giới hạn việc đánh cá trong những vùng biển quốc tế
nào mà nhiều giống cá đang có nguy cơ bị tuyệt chủng; bảo vệ
các chủng loại đang lâm nguy; giảm thói quen sống tiêu dùng
hoang phí; và cấm hết thảy các vũ khí tàn sát hàng loạt. Như
thế, cần đặt ưu tiên cao các chuẩn mực bảo vệ môi trường cho
cộng đồng toàn cầu.
IX. Cần Các Định Chế
Toàn Cầu
Câu hỏi cấp bách trong thế kỷ 21 là liệu loài người có thể
phát triển được hay không các định chế toàn cầu để xử trí
những vấn đề ấy. Nhiều phương thuốc tốt nhất được thông qua
trên cấp bậc địa phương, quốc gia và khu vực bởi những nỗ lực
tự nguyện, riêng tư và công cộng. Chiến lược này thì tìm giải
pháp qua việc khởi xướng thị trường tự do; chiến lược nọ thì
dùng các cơ sở và các tổ chức thiện nguyện quốc tế để phát
triển xã hội và giáo dục. Tuy thế, chúng tôi tin rằng vẫn tồn
tại nhu cầu phát triển các định chế mới ở cấp bậc toàn cầu để
ứng xử trực tiếp những vấn đề ấy và tập trung vào các nhu cầu
của loài người như một toàn bộ.
Trong hoàn cảnh hậu
Thế Chiến Hai, một số các định chế quốc tế, thí dụ Liên Hiệp
Quốc và Tổ Chức Y Tế Thế Giới, được thành lập để ứng xử những
công tác đó. Rủi thay, đã xuất hiện lỗ hổng to lớn giữa những
phương cách theo đó các định chế ấy hoạt động và những nhu cầu
của một cộng đồng toàn cầu mới. Vì thế, phải khẩn trương
chuyển biến các định chế hiện hành ấy hoặc phải nỗ lực lập ra
các định chế mới.
Những biên giới
chính trị trên thực tế (de facto) của thế giới thì có tính
chất tùy tiện. Chúng ta cần vượt quá chúng. Chúng ta cần tiếp
tục bảo vệ sự tăng trưởng dân chủ tại các quốc gia khác biệt
nhau trong cộng đồng thế giới nhưng đồng thời chúng ta cũng
cần gia tăng quyền xuyên quốc gia của mọi thành viên trong
cộng đồng toàn cầu. Hiện nay, chúng ta cần hơn bao giờ hết một
cơ chế thế giới đại diện cho dân chúng của thế giới hơn là cho
các nhà-nước-quốc-gia.
Không giống tiền
thân của mình là Hội Quốc Liên, Liên Hiệp Quốc đã và đang đóng
vai trò quan trọng trên thế giới nhưng vẫn còn quá nhiều nhu
cầu phải hoàn tất. Để giải quyết những vấn đề trên cấp bậc
xuyên quốc gia và đóng góp vào việc phát triển toàn thế giới,
chúng ta cần chuyển biến Liên Hiệp Quốc, dần dần nhưng kiên
quyết. Một số thay đổi sẽ liên quan tới việc tu chính Hiến
Chương LHQ; một số khác sẽ kéo theo việc chuyển biến tận gốc
cấu trúc của LHQ; những thay đổi này đòi hỏi sự thỏa thuận của
các nước hội viên. Nhưng dù những thay đổi sau này sẽ ra sao
đi nữa, chúng ta nên giữ lại các cơ quan của LHQ đã và đang
kiên quyết cải thiện cuộc sống của hàng triệu người trên hành
tinh này.
Thay đổi tận gốc
nhất hẳn là nâng cao tính hữu hiệu của LHQ bằng việc chuyển
đổi nó từ chỉ là nơi hội họp của các nhà nước có chủ quyền
thành cũng là nơi hội họp của các dân tộc. Từng có tiền lệ cho
một chuyển biến như thế, trong đó có việc tự chuyển đổi của
liên bang gồm các tiểu bang có chủ quyền của Hoa kỳ trước đây
thành hệ thống liên bang hiện nay. Để giải quyết những vấn đề
toàn cầu thì các nhà nước quốc gia phải chuyển giao một số chủ
quyền quốc gia của mình, làm thành một hệ thống thẩm quyền
xuyên quốc gia. Không làm nổi việc đó thì có nguy cơ thế giới
bị khóa chặt trong những xung khắc giữa các nước có chủ quyền
mà mối quan tâm chủ yếu của họ là chủ quyền quốc gia. Chúng ta
có thể không kham nổi sự phí phạm tài nguyên đến thế; nhân dân
thế giới xứng đáng hơn thế. Rõ ràng một hệ thống có tính xuyên
quốc gia như thế sẽ gây ra sự chống đối khắp nơi của các nhà
lãnh đạo chính trị — đặc biệt những kẻ theo chủ nghĩa sô-vanh
dân tộc. Nhưng nó vẫn có thể phát triển tuần tự và đạt kết quả
nếu chúng ta hành động cho một sự đồng ý tổng quát về đạo đức
trên toàn cầu.
Bất cứ hệ thống
xuyên quốc gia mới mẻ nào cũng nên có tính dân chủ và có những
quyền lực giới hạn. Sẽ có tối đa hóa quyền tự quản, phi tập
trung hóa và tự do cho các nhà nước độc lập và các khu vực độc
lập trên thế giới. Cũng sẽ có một hệ thống kiểm tra và tạo cân
bằng như một bảo an chống lại sức mạnh tùy tiện. Hệ thống
xuyên quốc gia sẽ chủ yếu ứng xử các vấn đề chỉ có thể giải
quyết trên cấp bậc toàn cầu, thí dụ như an ninh, việc bảo vệ
quyền con người, phát triển kinh tế xã hội, và việc bảo vệ môi
sinh toàn cầu. Thế thì để thành tựu những mục tiêu ấy, chúng
tôi đề nghị những cải cách dưới đây, hoạt động từ cấu trúc của
Liên Hiệp Quốc:
-
Thứ nhất, vào một
thời điểm nào đó trong tương lai, thế giới cần thành lập một
Quốc Hội Thế Giới hữu hiệu — và việc bầu cử nó đặt căn bản
trên dân số — mà sẽ đại diện cho dân chúng chứ không đại
diện cho các chính phủ của họ. Ý tưởng Quốc Hội Thế Giới thì
tương tự như tiến trình của Quốc Hội Châu Âu dù cái sau vẫn
trong thời kỳ trứng nước. Đại Hội Đồng LHQ hiện nay là nơi
hội họp của các quốc gia. Quốc Hội Thế Giới mới sẽ thông qua
các chính sách pháp chế bằng cung cách dân chủ. Có lẽ một cơ
quan lập pháp gồm hai viện là khả thi nhất cho Quốc Hội Các
Dân Tộc lẫn Đại Hội Đồng các quốc gia. Cấu trúc chi tiết và
chính qui của nó chỉ có thể được hoạch định bởi một hội nghị
duyệt xét hiến chương mà chúng tôi khuyến cáo nên triệu tập
để xem xét tất cả những giải pháp có thể chọn lựa nhằm tăng
thêm sức mạnh cho LHQ và/hoặc bổ sung nó bằng một hệ thống
quốc hội.
-
Thứ hai, thế giới
cần một hệ thống an ninh khả thi để giải quyết những xung
khắc quân sự de dọa nền hòa bình. Để thành tựu mục tiêu này,
chúng ta cần tu chính Hiến Chương LHQ. Như thế, cần bãi bỏ
quyền phủ quyết của Ngũ Cường trong Hội Đồng Bảo An LHQ.
Quyền ấy hiện hữu vì tình huống lịch sử vào lúc chấm dứt Thế
Chiến Hai mà nay không còn thích đáng. Nguyên tắc căn bản
của an ninh thế giới là không một nhà nước đơn độc hoặc liên
minh các nhà nước nào có quyền làm suy yếu sự toàn vẹn lãnh
thổ và chính trị của quốc gia khác bằng hành động gây hấn;
cũng không một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nào được phép
cảnh sát thế giới hoặc đơn phương oanh tạc quốc gia khác mà
không có sự đồng ý của Hội Đồng Bảo An. Thế giới cần một lực
lượng cảnh sát hữu hiệu để bảo vệ các khu vực trên thế giới
khỏi xung khắc và để điều đình các thỏa thuận hòa bình.
Chúng tôi khuyến cáo rằng Hội Đồng Bảo An LHQ, được tuyển cử
bởi Đại Hội Đồng LHQ và Quốc Hội Thế Giới, nên hội đủ ba
phần tư số phiếu khi đưa ra biện pháp nào về an ninh. Điều
này có nghĩa rằng nếu 15 thành viên Hội Đồng Bảo An hiện nay
được giữ lại mà lúc ấy có bốn thành viên trở lên bất đồng
thì không thể đưa ra bất cứ hành động nào.
-
Thứ ba, chúng ta
phải phát triển một Tòa Án Thế Giới hữu hiệu và một Thẩm
Phán Đoàn Quốc Tế có quyền hành thỏa đáng để thực thi luật
lệ của nó. Tòa Án Quốc Tế tại The Hague chuyển động theo
đúng chiều hướng này. Tòa Án này sẽ có quyền xét xử những
xâm phạm quyền con người, tội diệt chủng, các tội ác xuyên
quốc gia và phân xử những tranh chấp, xung khắc quốc tế.
Điều thiết yếu là nhà nước nào chưa thừa nhận thẩm quyền của
nó thì nên được thuyết phục để thừa nhận.
-
Thứ tư, thế giới
cần có cơ quan theo dõi môi sinh toàn cầu trên cấp bậc xuyên
quốc gia. Chúng tôi khuyến cáo củng cố các cơ quan hiện hành
của LHQ và các chương trình liên quan trực tiếp nhất tới môi
trường. Thí dụ, nên cho Chương Trình Môi Sinh LHQ có đủ sức
mạnh để cưỡng bách thực thi các biện pháp chống lại việc làm
ô nhiễm nghiêm trọng sinh thái. Quỹ Dân Số LHQ phải được
dành cho tài khoản đầy đủ để đáp ứng nhu cầu toàn cầu hiện
chưa thỏa đáng về ngừa thai và từ đó, giúp ổn định sự gia
tăng dân số. Nếu các cơ quan ấy tỏ ra không đối phó nổi với
các vấn đề to lớn đó thì cần tạo ra một cơ quan toàn cầu
mạnh mẽ hơn.
-
Thứ năm, chúng
tôi khuyến cáo một hệ thống quốc tế về thuế phải đóng nhằm
giúp các khu vực chậm phát triển của gia đình loài người và
thành toàn các nhu cầu xã hội mà các lực lượng thị trường
không thành toàn. Chúng ta sẽ bắt đầu với thuế đánh trên
Tổng Sản Lượng Quốc Nội của mọi nước; tiền thu được sẽ dùng
để yểm trợ và phát triển kinh tế và xã hội. Đây không phải
là đóng góp tự nguyện mà là một sắc thuế thật sự. Các cơ
quan quan trọng hiện hành của LHQ sẽ được tài trợ bởi tài
khoản quyên góp. Điều này bao gồm Tổ Chức Giáo Dục, Khoa Học
Và Văn Hóa UNESCO của LHQ, Quỹ Nhi Đồng UNICEF của LHQ, và
Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO của LHQ, Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ
Tiền Tệ Thế Giới và các tổ chức khác.
Hiệp ước quốc tế rộng rãi về cải cách thuế là cần thiết để
bảo đảm các công ti đa quốc gia trả phần chia sẻ công bằng
của họ trong gánh nặng thuế khóa toàn cầu. Nên dùng các
khoản khấu trừ thuế làm quà tặng từ thiện cho việc phát
triển con người và xã hội. Sự cưỡng chế đối với việc chuyển
tài khoản quốc tế nên được xem xét nghiêm chỉnh để về phương
diện khác, đánh thuế những tài khoản không đóng thuế và để
giúp tài trợ phát triển xã hội tại các nước nghèo nhất.
Nhiều nhà nước hội viên không chịu đóng lệ phí cho LHQ; đối
với các nhà nước đó, nên khiển trách và áp đặt các biện pháp
mạnh hơn, thí dụ cấm vận. Quỹ này nên tài trợ việc xóa có
chọn lọc gánh nặng nợ nần cho các nước nghèo không có khả
năng trả nợ.
-
Thứ sáu, việc
phát triển các định chế toàn cầu nên bao gồm một thủ tục nào
đó cho sự điều chỉnh các công ti đa quốc gia và các công ti
độc quyền quốc gia. Điều này vượt ngoài những ủy thác hiện
nay cho LHQ. Chúng ta nên khuyến khích kinh tế thị trường tự
do, tuy nhiên chúng ta không thể lơ là các nhu cầu toàn cầu
của loài người như một toàn bộ. Nếu được để yên không kiểm
tra, các đại tổ hợp công ti và các công ti độc quyền hầu như
sẽ làm suy yếu quyền con người, môi trường và sự phát đạt
của các khu vực nhất định trên thế giới. Có thể khắc phục
những chênh lệch cực độ giữa các vùng thịnh vượng và các
vùng chậm phát triển của hành tinh bằng việc khuyến khích sự
tự lực nhưng cũng bằng việc điều tiết sự phồn thịnh của thế
giới nhằm cung cấp vốn, viện trợ kỹ thuật, yểm trợ giáo dục
để phát triển kinh tế và xã hội.
-
Thứ bảy, chúng ta
phải giữ sống động thị trường tự do tư tưởng, tôn trọng sự
đa dạng của các ý kiến, và quan tâm lo lắng tới quyền bất
đồng quan điểm. Như thế, có một nhu cầu bức thiết và đặc
biệt nhằm chống lại sự kiểm soát truyền thông đại chúng dù
bởi chính phủ, bởi lợi nhuận kinh tế đầy thế lực hoặc bởi
các định chế toàn cầu. Các chế độ độc tài sử dụng truyền
thông cho mục đích tuyên truyền, từ khước các quan điểm có
tính chọn lựa. Truyền thông đại chúng trong các xã hội tư
bản thường bị đặt dưới sự độc quyền kiểm soát. Truyền thông
này thường ra sức làm thỏa mãn mẫu số chung thấp nhất nhằm
tối đa hóa lượng người hâm mộ. Các sự kiện bị coi thường
trong việc tiếp nhận không phê phán bất cứ mánh khóe nhảm
nhí Thời Đại Mới nào, và tường thuật các phép lạ thì được
phát sóng nhiều thời gian hơn tường thuật sự xuyên phá mới
nhất của khoa học. Nhiều ngành truyền thông — vô tuyến
truyền hình, vô tuyến truyền thanh, điện ảnh, xuất bản sách
báo — rõ ràng là cảm thấy ít có bổn phận cung cấp nội dung
có căn cứ và có tính giáo dục.
Chúng ta tránh mọi hình thức của chế độ kiểm duyệt, dù được
thực hiện bởi chính quyền, người quảng cáo hoặc sở hữu chủ
truyền thông. Nên khuyến khích sự cạnh tranh trong truyền
thông do sáng tạo của công chúng hoặc do các tổ chức truyền
thông bất vụ lợi, và nên chống lại mọi chuyển động hướng tới
sự độc quyền và sự kiểm soát có tính đầu sỏ. Nên khuyến
khích những phong trào quần chúng tự nguyện theo dõi các
ngành truyền thông nhằm làm cho mọi người biết rõ những
trắng trợn thái quá của chúng. Có nhu cầu đặc biệt mở rộng
việc tiếp cận truyền thông đại chúng. Điều này có nghĩa
không một thế lực độc quyền truyền thông toàn cầu nào hoặc
không một chính phủ nào nên khống chế ngành truyền thông.
Chúng ta cần gia tăng phong trào dân chủ trên khắp thế giới
để bao gồm sự đa dạng và phong phú văn hóa và sự bao dung
phóng khoáng đối với các tư tưởng.
X. Lạc Quan Về Triển
Vọng Của Loài Người
Cuối cùng, và có lẽ quan trọng hơn hết, là thành viên của cộng
đồng loài người trên hành tinh này, chúng ta cần nuôi dưỡng
cảm giác lạc quan về Triển Vọng Của Loài Người. Dù nhiều vấn
đề có thể dường như nan giải, chúng ta có lý do tốt để tin
rằng loài người có thể tập hợp những khả năng tốt nhất của
mình để giải quyết chúng và rằng nhờ thiện chí và dấn thân,
một cuộc sống tốt lành hơn sẽ được sở đắc bởi các thành viên
ngày càng đông đảo trong cộng đồng nhân loại. Chủ Nghĩa Nhân
Bản Toàn Cầu nêu ra những hứa hẹn lớn lao cho loài người.
Chúng tôi ao ước được bồi đắp cảm giác ngạc nhiên và háo hức
về những cơ hội đầy tiềm năng nhằm thực hiện cuộc sống phong
phú cho chúng ta và cho các thế hệ chưa ra đời. Những người có
lý tưởng là những bậc tiền bối của tương lai đó. Chúng ta sẽ
không thành công nếu chúng ta không kiên quyết làm điều đó; và
chúng ta sẽ không kiên quyết làm điều đó nếu chúng ta không có
niềm tự tin rằng mình làm được. Mọi lạc quan mà chúng ta làm
nảy sinh nên đặt căn bản trên những đánh giá thực tế về khả
năng thành tựu, tuy thế, chúng ta cần được thúc đẩy bởi niềm
tin rằng mình khắc phục được nghịch cảnh.
Chủ Nghĩa Nhân Bản
Toàn Cầu không chấp nhận các triết lý hư vô về diệt vong và
tuyệt vọng cùng những kẻ khuyến cáo sự trốn chạy lí trí và tự
do đồng thời ngày càng cay đắng giận dữ trong sợ hãi và linh
tính điềm gở cũng như bị ám ảnh bởi kịch bản ngày tận thế. Xưa
nay, nòi giống loài người luôn luôn đối mặt các thách thức. Đó
là một tiểu thuyết trường thiên và liên tục của cuộc mạo hiểm
toàn cầu. Là người theo chủ nghĩa nhân bản, hôm nay cũng như
trong quá khứ, chúng tôi thúc giục con người đừng tìm sự
cứu độ bên kia bản thân. Một mình chúng ta chịu trách nhiệm về
định mệnh của chính chúng ta, và điều tốt nhất chúng ta có thể
làm là tập trung trí tuệ, lòng can đảm và lòng từ bi để biến
những khát vọng của chúng ta thành hiện thực. Chúng tôi
tin rằng cuộc sống tốt đẹp hơn là khả thi cho mỗi người và cho
mọi người trong xã hội toàn cầu tương lai. Cuộc sống có thể
đầy ý nghĩa cho những ai muốn trang trải trách nhiệm và đảm
đương các nỗ lực hợp tác cần thiết để hoàn thành sự hứa hẹn
của nó. Chúng ta có thể và có bổn phận tiếp tay tạo ra một thế
giới mới của ngày mai. Tương lai ấy có thể lành mạnh cùng
phong phú và nó có thể mở tới những khung cảnh mới mẻ, táo bạo
và đầy phấn khởi. Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Cầu có thể đóng góp
một cách đầy ý nghĩa vào việc phát triển các thái độ tích cực
và rất cần thiết nếu chúng ta nhận ra cơ hội vô song đang chờ
loài người trong thiên niên kỷ thứ ba này và về sau nữa.
Tất cả những người
ký tên vào tài liệu này đều tha thiết tìm kiếm sự hợp tác với
các nền văn hóa đa dạng trên thế giới, kể cả những truyền
thống tôn giáo chính của thế giới. Chúng tôi tin rằng chúng ta
phải khẩn trương phấn đấu cho một nền tảng chung và tìm kiếm
các giá trị đã được chia sẻ. Chúng ta cần bắt tay vào việc
tiếp tục mối quan hệ đầy bao dung và vị tha, không chỉ với
những người đồng ý với chúng ta mà còn với những người có thể
dị biệt. Ở chính giữa sự đa dạng và sự đa nguyên của các
truyền thống, chúng ta cần nhận ra rằng mình đều là thành phần
của một gia đình trải rộng của loài người, đang chung chia nơi
cư trú trên hành tinh này. Chính sự thành công ngày nay của
chúng ta đang đe dọa tương lai sinh tồn của loài người. Một
mình chúng ta chịu trách nhiệm về định mệnh tập thể của chúng
ta. Việc giải quyết các vấn đề của chúng ta đòi hỏi sự hợp tác
và khôn ngoan của hết thảy mọi thành viên trong cộng đồng thế
giới. Chính từ nội lực của mỗi người mà gây ra tác động. Cộng
đồng toàn cầu là chính chúng ta, và mỗi người trong chúng ta
có thể tiếp tay làm nó thăng hoa. Tương lai rộng mở. Những
chọn lựa do chính chúng ta quyết định. Cùng nhau, chúng ta có
thể đưa vào hiện thực các cứu cánh và các lý tưởng cao nhã
nhất của loài người.
Những người tán đồng và ký tên vào Hiến Chương Nhân bản 2000
này không nhất thiết đồng ý với mọi điều mục trong đó. Tuy
thế, chúng tôi chấp nhận những nguyên tắc chính của nó và đưa
nó ra nhằm đóng góp vào cuộc đối thoại đầy xây dựng. Chúng tôi
mời mọi người, nam giới và nữ giới, đang tiêu biểu cho những
truyền thống khác nhau, tham gia với chúng tôi để cùng hoạt
động cho một thế giới tốt lành hơn trong một xã hội toàn cầu
đang ló dạng lúc này.
VỚI SỰ TÁN ĐỒNG
CỦA NHỮNG VỊ DƯỚI ĐÂY
Giáo sư PAUL KURTZ, Đại học New York tại Buffalo, Chủ tịch,
Viện Quốc tế Nhân bản Chủ nghĩa, Hoa Kỳ. ký tên
RICHARD DAWKINS, Đại học Mới, Oxford, Anh. ký tên
EDWARD O. WILSON, Viện Bảo tàng Động vật học Đối chiếu, Đại
học Harvard, HK. ký tên
Sir ARTHUR C. CLARKE, CBE, Tác giả, Viện trưởng, Đại học
Moratuwa, Tích lan; Viện trưởng, Đại học Quốc tế Không gian,
Tích lan. ký tên
STEVE ALICHARD LEAKY, Nhà Nhân chủng học, Cơ quan Đời sống
Hoang dã Kenya, Kenya. ký tên
PAUL D. BOYER, Giải Nobel Hóa học, HK. ký tên
Sir HAROLD W. KROTO, Giải Nobel, Học viện Hóa học, Vật lý và
Khoa học Môi trường, Anh. ký tên
TASLIMA NASRIN, Tác giả, Nhà Đấu tranh cho Nhân quyền,
Bangladesk. ký tên
FERID MURAD, Giải Nobel, Trung tâm Khoa học Y tế Đại học
Texas, Houston, HK. ký tên
BARUJ BENACERAFF, Giải Nobel, Viện Ung thư Dana-Farber, HK. ký
tên
JEAN-MARY LEHN, Giải Nobel, Đại học Louis Pasteur, Pháp. ký
tên
JOSÉ SARAMAGO, Giải Nobel, Tây ban nha. ký tên
ALAN CRANSTON, Cựu Thượng nghị sĩ Liên bang Mỹ, California,
HK. ký tên
DOBRICA COSÍC, Tác giả, Cựu Tổng thống, Cộng hoà Liên bang Nam
tư. ký tên
ETIENNE BAULIEU, Người Khám phá RU486, Viện Khoa học, Inserm,
Pháp. ký tên
JENS C, SKOU, Giải Nobel, Nhà Lý sinh, Đại học Aarhus, Đan
mạch. ký tên
JILL TARTER, Giáo sư Bernard M. Oliver, Học viên SETI, HK. ký
tên
MARIO MOLINA. Giải Nobel Hoá học, HK. ký tên
HERBERT A. HAUPTMAN, Giải Nobel Hóa học, HK. ký tên
ÁC-HEN-TI-NA
HUGO DANIEL ESTRELLA, Hội nghị Pugwash
AI CẬP
MOURAD WAHBA, Chủ tịch Hiệp hội Quốc Tế Averroẻs và Khai sáng;
Sáng lập viên Hiệp hội Triết học Á-Phi
ANH
COLIN BLAKEMORE, Phòng Thí nghiệm Sinh lý học, Đại học Oxford
BERNARD CRICK, Giáo sư danh dự Chính trị học, Học viện
Birkbeck, Đại học London
Lord LIONEL ELVIN, Viện Quí tộc
Sir RAYMOND FIRTH, Giáo sư Nhân chủng học, Đại học London
JIM HERRICK, Biên tập viên Tạp chí NGƯỜI NHÂN BẢN MỚI, Hiệp
hội Báo Chí Người Duy lý
TED HONDERICH, Giáo dư danh dự Triết học Tâm trí và Lý luận,
Đại học College London
ANWAR SHAIKH, Tác giả
HARRY STOPES-ROE, Giáo sư Triết học, Đại học Birmingham
HAZHIR TEIMOURIAN, Nhà văn và Phát thanh viên
JANE WYNNE WILLSON, Cựu Chủ tịch Hiệp hội Nhân bản
LEWIS WOLPERT, Giáo sư Giải phẫu học, Đại học College London
ẤN ĐỘ
G. R. RABU, Giám đốc Điều hành, Hiệp hội Đạo đức và Nhân bản
Quốc tế.
PUSHPA MITRA BHARGAVA, Giám đốc sáng lập, Trung tâm Sinh học
Phân tử và Tế bào, Hyderapad
AMLAN DATTA, Cựu Phó Viện trưởng, Visva Bharati
SANAL EDAMARUKU, Tổng thư ký, Hiệp hội Người Duy lý Ấn độ
NARISETTI INNAIAH, Giáo sư Triết học; Chủ tịch Ủy ban Trẻ em
bị Ngược đãi
H. NARASIMHAIAH, Diễn đàn Khoa học Bangalore, Đại học Quốc
gia.
INDUMATI PARIKH. Giám đốc, Trung tâm Phát triển Con người
M.N.Roy
AVULA SAMBASIVA RAO, Nguyên Chánh án Tối cao Pháp viện Bang
Andhra Pradesh; Nguyên Phó Chủ tịch Đại học Andhra
SIBNARARYAN RAY, Cơ sở Thư viện Raja Rammohun Roy
V. M. TARKUNDE, Chánh Biện lý Toà Thượng thẩm
RAVIPUDI VENKATADRI, Biên tập viên Báo HETUVADI
BA LAN
BARBARA STANOSZ, Biên tập viên Tạp chí BEZ DOGMATU
BA TÂY
JOSÉ LEITE LOPES, Giáo sư danh dự, Trung tâm Nghiên cứu Vật lý
Ba tây
BỈ
JEAN DOOMANGET, Đài Thiên văn Hoàng gia Bỉ, Brussels.
CANADA
ROBERT BUCKMAN, Nhà Vật lý
HENRY MORGENTALIER, Nhà hoạt động cho Quyền Phá thai
MARVIN ZAYED, Tiến sĩ.
COLOMBIA
RUBEN ARDILA, Giáo sư Tâm lý học, Đại học Quốc gia Colombia,
Bogota.
CROATIA
RADOVAN VUDAKINOCÍC, Giáo sư
HÀ LAN
PIETER V. ADMIRAAL
MAX ROOD, Giáo sư Luật, Ruksuniversiteitte Leiden; Nguyên Bộ
trưởng Tư pháp
ROB A.P. TIELMAN, Giáo sư Xã hội học, Đại học Utrecht
HI LẠP
DENNIS V. RAZIS, Hiệp hội Delphi, Athens
HOA KỲ
NORM ALLEN, Jr. Giám đốc, Hội Người Mỹ Gốc Châu Phi Vì Chủ
Nghĩa Nhân bản
DEREK ARAUJO, Chủ tịch Chi nhánh Liên minh Tự do Tư tưởng
KHOREN ARISIAN, Mục sư danh dự Hội Thiên Chúa Một Ngôi
Minneapolis
JOSEPH E. BARNHART, Giáo sư Triết học và Nghiên cứu Tôn giáo,
Đại học North Texas
H. JAMES BIRX, Giáo sư Nhân chủng học, Đại học Canisius
JO ANN BOYSTON, Giáo sư Đặc biệt danh dự, Đại học Southern
Illinois
VERN L. BULLOUGH, Giáo sư Đặc biệt danh dự, Đại học Southern
California
MATT CHERRY, Giám đốc Điều hành, Hội đồng Chủ nghĩa Nhân bản
Thế tục
DANIEL C. DENNETT, Trung tâm Nghiên cứu Nhận thức, Đại học
Tufts
PAUL EDWARDS, Tổng biên tập, TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA TRIẾT HỌC
JAN LOEB EISLER, Phó Chủ tịch Hiệp hội Đạo đức và Nhân bản
Quốc tế
CHARLES W. FAULKNER, Ký giả, Nhà Tâm lý học
ADOLF GRUNBAUM, Giáo sư Triết lý Khoa học về Andrew Mellon,
Đại học Pittsburgh
THOMAS FLYNN, Giám đốc Điều hành, Ủy ban Tu chính Thứ nhất
PETER HARE, Giáo sư Triết học. Đại học Tiểu bang New York tại
Buffalo
JAMES HAUGHT, Biên tập viên CÔNG BÁO CHARLESTON
REID JOHNSON, Chủ nhiệm, Trung tâm Phục vụ Viện Thẩm tra
RICHARD KOSTELANETZ, Tác giả
GERALD A. LARUE, Giáo sư danh dự Môn Nghiên cứu Kinh thánh,
Đại học Southern California
THELMA Z. LAVINE, Giáo sư Môn Robinson, Đại học George Mason
PAUL B. MACCREADY, Kỹ sư, Sáng lập viên/Chủ tịch Công ti Môi
trường Khí quyển – Aerovironment
TIMOTHY J. MADIGAN, Biên tập viên, Đại học Báo chí Rochestor
MICHAEL MARTIN, Giáo sư Triết học, Đại học Boston
MOLLEEN MATSUMURA, Hội đồng Giáo dục Khoa học Quốc gia,
Berkeley
JEAN C. MILLHOLLAND, Giám đốc Điều hành danh dự, Hội đồng Chủ
nghĩa Nhân bản Thế tục
R. LESTER MONDALE, Mục sư danh dự Hội Thiên Chúa Một Ngôi
JOE NICKELL, Hội viên Nghiên cứu Cao cấp, Trung tâm Thẩm tra
ANTHONY B. PINN, Giáo sư Chủ nhiệm Môn Nghiên cứu Tôn giáo,
Phối trí viên Ngành Nghiên cứu Mỹ-Châu Phi, Đại học Macalester
HOWARD RADEST, Cựu Hiệu trưởng, Học hiệu Văn hóa Đạo đức
ARMAN A. SAGINIAN, Giám đốc Điều hành, CHÂN TRỜI MỚI
DAVID SCHAFER, Chuyên viên Nghiên cứu Tâm sinh học, Sở Quản
trị Cựu chiến binh Mỹ (hồi hưu)
THEODORE SCHICK,Jr. Giáo sư Triết học, Đại học Muhlenberg
WARREN ALLEN SMITH, Tác giả
VICTOR J. STENGER, Giáo sư Vật lý, Đai học Hawaii tại Manoa
ROBERT B. TAPP, Giáo sư Giáo dục, Đại học Minnesota; Viện
trưởng Viện Nghiên cứu Nhân bản
RICHARD TAYLOR, Giáo sư Triết học
YERVANT TERZIAN, Giáo sư về David C. Duncan, Bộ môn Khoa học
Vật lý, Đại học Cornell
LIONEL TIGER, Giáo sư Nhân chủng học, Rutgers, Đại học Tiểu
bang New Jersey
LEWIS VAUGHN, Biên tập viên tạp chí FREE INQUIRY
IBN WARRAQ, Tác giả
NA UY
LEVI FRAGELL, Chủ tịch IHEU
BERNT HAGTVET, Phân khoa Khoa học Chính trị, Đại học Oslo
TOVE BEATE PEDERSEN, Tổng Thư ký, Hội Nhân bản Na-uy
NAM TƯ
JOVAN BABIC, Khoa trưởng Phân khoa Triết học, Đại học Belgrade
SVETOZAR STOJANOVIA, Giáo sư và Chủ tịch Viện Triết học, Đại
học Belgrade
NÊ-PAN
GANGA PRASAD SUBEBI, Thư ký, Hiệp hội Nhân bản Nê-pan
NGA
GARRY I. ABELEV, Trung tâm Nghiên cứu Ung thư N.N. Blokhin
YURI NIKOLAEVICH EFREMOV, Viện trưởng, Viện Thiên văn
Sternberg, Đai học Quốc gia Moscow
VITALII GINZBURG, Nhà Vật lý, Hội viên Viện Hàn lâm Khoa học
VALERII KUVAKIN, Giáo sư Triết học Nga, Đại học Quốc gia
Moscow
ALEXANDER V. RAZIN, Giáo sư Đạo đức học, Đại học Quốc gia
Moscow
PHÁP
R.M. BONNET, Cơ quan Không gian Châu Âu
JACQUES BOUREVESSE. Giáo sư Triết, Đại học Pháp
JEAM PIERRE CHANGEUX, Giáo sư Thần kinh sinh học, Đại học
Pháp, Phòng thí nghiệm Thần kinh Phân tử, Viện Pasteur
GÉRARD FUSSMAN, Giáo sư, Đại học Pháp, Paris
JACQUES LE GOF, Chuyên gia Văn minh và Văn học Pháp Trung cổ,
ENESS
JEAN-CLAIRE PECHER, Nhà Thiên văn học, Đại học Pháp; Viện Hàn
lâm Khoa học
EVRY SCHATZMAN, Nhà Thiên văn học, Nguyên Chủ tịch Hội Vật lý
Pháp; Viện Hàn lâm Khoa học
SI-RI
SADIK AL AZM, Giáo sư Triết học, Đại học Damacus
TÂN TÂY LAN
BILL COOKE, Giáo sư Thỉnh giảng, Học viện Kỹ thuật Manakau
TÂY BAN NHA
JOSÉ M. R. DELGADO, Giáo sư Sinh học Thần kinh, Trung tâm
Nghiên cứu Sinh học Thần kinh
ALBERTO HIDALGO TUNÓN, Giáo sư Xã hội học về Kiến thức, Đại
học Ovidedo; Hiệp hội Nghiên cứu Triết học
THỤY ĐIỂN
GEORGE KLEIN, Giáo sư và Trưởng Nhóm Nghiên cứu, Trung tâm Vi
trùng học và U bướu, Viện Karolinska
THỤY SĨ
DIANA BROWN, Đại diện IHEU tại LHQ ở Geneva
RUY W. BROWN, Sáng lập viên, Cơ sở Dân số Thế giới
TRUNG HOA
YOUZHENG LI, Viện Triết học, CASS, Bắc kinh.
ÚC
PHILIP ADAMS, Nhà báo, Nhà bình luận, Đài Phát thanh Quốc gia.
JOHN ARTHUR PASSMORE. Giáo sư Nghiên cứu Lịch sử, Đại học Quốc
gia Úc; Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học.
J.J. C. SMARTT, Giáo sư danh dự, Đại học Quốc gia Úc.
(Danh sách còn tiếp tục)
Người dịch: NGUYỄN ƯỚC
----------------------------------------
Chú thích của người dịch:
+ Phong trào Carvaka: Một trường phái theo chủ
nghĩa duy vật của Ấn độ. Tương truyền được thành lập vào
khoảng thế kỷ 6 trước Công nguyên, bởi một nhân vật có tên là
Carvaka, đệ tử chân truyền của Brhaspati, người được qui cho
là tác giả của Barhaspati Sutra. Cuốn kinh ấy bị thất lạc từ
rất lâu và chỉ được biết tới qua những trích văn của nó trong
những cuốn kinh về sau. Người theo Carvaka nhìn mọi sự, với
tất cả những xuất hiện của chúng, là không chút nào thường
tại; tất cả chỉ là sự biến đổi liên tục; thế nên bản ngã cũng
chỉ thuộc tổng thể vô thường ấy, không hơn không kém. Ở thế
giới bên kia không thiên đàng, không sự giải thoát, không tiểu
ngã (atman). Tiểu ngã có nhập vào đại ngã (brahman) thì cũng
chỉ như muối hoà tan trong nước. Tất cả chỉ là phân hủy và
không thể nào tái tập hợp tính nguyên thủy. Vì thế, cách giải
quyết khôn ngoan và duy nhất là ôm chặt lấy thế gian và cuộc
đời này; sống hết mình nhưng với sự chủ động về mặt đạo đức để
hành vi và thái độ thiện hảo mang lại nhiều hạnh phúc cho mình
và cho mọi người.
+ Thuyết Tiên nghiệm. (Transcendentalism). Một triết
học nhấn mạnh trên những phương cách tư duy và sự lĩnh hội bên
kia thế giới của kinh nghiệm. Đại biểu cho người tiên nghiệm
là một nhóm các nhà văn và triết gia Mỹ giữa thế kỷ 19 như
Emerson, Henry David Thoreau... Niềm tin của họ vào giá trị
đạo đức của trực giác được rút tỉa từ nhận thức luận của Kant,
trong đó ông lập luận rằng những hình thức tiên thiên của nhận
thức (như thời gian, không gian, tương quan nhân quả, các phạm
trù lý luận) có trước kinh nghiệm; không có những hình thức đó
thì con người không có kinh nghiệm và không thể nhận thức. Còn
được gọi là thuyết Siêu nghiệm, siêu cảm giác kinh nghiệm, bao
hàm những gì vượt quá giới hạn nhận thức bằng kinh nghiệm.
+ Chủ nghĩa Nhân bản và Chủ nghĩa Nhân bản Thế tục.
Khởi thủy, Chủ nghĩa Nhân bản là một phong trào được khởi hứng
và đặt nền tảng trên văn hoá thời Phục hưng.
Thời Phục hưng bắt đầu tại Ý vào thế kỷ 15, sang tới tk 16 lan
qua Bắc Âu. Nó tìm cách phục hồi giá trị phổ quát của con
người trong việc làm sống động trở lại ngôn ngữ, triết học,
văn chương, mỹ thuật, thời cổ Hi lạp và La mã; cổ vũ cho quyền
phổ quát của con người; đồng thời chống lại tinh thần khoa học
vụ lợi, triết học kinh viện, giáo điều tôn giáo (đặc biệt Giáo
hội Công giáo La mã), lối sống đam mê buông thả, tranh chấp
chính trị, vv... Những khuôn mặt tiêu biểu về văn học là
Petrarch, Dante, Boccacio, Machiavelli, Eramus,
Shakespeare,vv.; điêu khắc và hội hoạ: Leonardo da Vinci,
Raphael, Michelangelo, Nichola Pisano,vv.; về kiến trúc:
Brunelleschi,vv.
Sau đó tới Thời Ánh sáng, còn gọi là Thời Lí trí, (khoảng từ
năm 1720 tới 1780) tại châu Âu với phong trào trí thức gồm
nhiều nhà văn, nhà tư tưởng và nhà khoa học. Họ nêu vấn nạn về
đức tin cổ truyền và các thành kiến, đặc biệt trong tôn giáo;
nhấn mạnh tính ưu việt của lý trí và của những phương pháp
khoa học nghiêm nhặt, chính xác; mưu tìm sự thay thế các niềm
tin chính thống và độc đoán bằng sự thẩm tra có tính khoa học
và lí trí; đặc biệt, tin vào tự do cá nhân và sự bình đẳng cuả
con người. Những khuôn mặt tiêu biểu cho phong trào này là
Lessing tại Đức; Locke, Hume và Newton tại Anh; Voltaire,
Diderot, D’Alembert, cách riêng J.J. Rousseau và Nhóm Từ điển
Bách khoa tại Pháp. Phong trào này kết thúc với cuộc Cách mạng
Pháp 1789.
Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ bắt đầu tại Anh với việc cải tiến máy
dệt (1733), máy hơi nước (1765) rồi hệ thống sông đào và đường
sắt, đưa tới việc xây dựng nhà máy, cải tiến phương pháp canh
nông, phát triển đô thị và thành lập phong trào nghiệp đoàn để
đấu tranh cải thiện điều kiện làm việc của công nhân. Sau năm
1830, cuộc Cách mạng Kỹ nghệ tương tự diễn ra tại Pháp và Bỉ,
tiếp theo là Đức (1850), Hoa kỳ (1860), Nhật (1870), Nga (kể
từ 1900) rồi tới Ấn độ và Trung hoa... Công cuộc kỹ nghệ hoá
càng diễn ra thì các khái niệm về tôn trọng tự do của con
người và nhân phẩm từng được nêu cao trong hai thời Phục hưng
và Ánh sáng càng trở thành những giá trị và là mục tiêu đấu
tranh cấp bách của tầng lớp lao động và nghèo khổ trên khắp
thế giới.
Tới cuối thế kỷ hai mươi, Chủ nghĩa Nhân bản tuy vẫn giữ những
nét căn bản kể trên nhưng tản thành nhiều khuynh hướng. Việc
định nghĩa chi tiết về trọng tâm và lãnh vực hoạt động cũng
như phương thế thể hiện của chúng thì tùy thuộc ít nhiều vào
người đưa ra câu trả lời đang theo loại chủ nghĩa nhân bản
nào: CNNB Văn chương; CNNB Phục hưng; CNNB Văn hoá; CNNB Triết
lý; CNNB Kitô giáo; CNNB Hiện đại; CNNB Tôn giáo; hoặc CNNB
Thế tục.
Chủ nghĩa Nhân bản Thế tục tăng trưởng mạnh mẽ theo phong trào
duy lý trong thế kỷ 18 và phong trào tự do tư tưởng trong thế
kỷ 19. Ngày nay, có nhiều nhóm nhân bản thế tục tại Bắc Mỹ,
châu Âu và nhiều nước trên thế giới, trong đó có rất nhiều
nghệ sĩ, nhà văn, nhà khoa học và triết gia phi kinh viện cổ
vũ cho triết lý của nó. Việc nó lấy danh xưng CNNB Thế tục có
hàm ý phân biệt với CNNB Vô thần và CNNB Hữu thần, cùng nhấn
mạnh tới tính cách không chống đối cũng không ủng hộ tôn giáo.
Người theo CNNB Thế tục mô tả về chủ trương của họ rằng:
“CNNB Thế tục là một lối suy nghĩ và sống nhằm làm lộ rõ cái
tốt đẹp nhất trong con người để mọi người có thể có được cái
tốt nhất trong cuộc sống. Chủ nghĩa nhân bản thế tục không
chấp nhận những niềm tin siêu hình và độc đoán. Người theo chủ
nghĩa nhân bản thế tục khẳng định rằng chúng ta phải chịu
trách nhiệm về cuộc đời mình, về cộng đồng và thế giới mà mình
sống trong đó. Chủ nghĩa nhân bản thế tục nhấn mạnh về lí trí
và thẩm tra khoa học, tự do cá nhân và trách nhiệm cá nhân,
các giá trị con người và lòng từ bi, nhu cầu bao dung và hợp
tác.”(P. Kurtz)
- Paul Kurtz, triết gia, giải thưởng Nhân bản, người
thảo Hiến Chương Nhân Bản 2000 này. Ông tốt nghiệp Cử nhân Đại
học New York; Cao học và Tiến sĩ Đại học Columbia; hiện là
Giáo sư danh dự Triết học Đại học Tiểu bang New York tại
Buffalo. Ông là phát ngôn viên hàng đầu cho Chủ nghĩa Nhân bản
Thế tục, tác giả 22 cuốn sách về các đề tài triết lý, dưới ánh
sáng của Chủ nghĩa Nhân bản. Ông sáng lập và là Chủ tịch Ủy
ban Điều tra Khoa học Những Tuyên bố về Siêu linh (CSICOP –
Committee for the Scientific Investigation of Claims of the
Paranormal), Chủ tịch Hội đồng Chủ nghĩa Nhân bản Thế tục
(Council for Secular Humanism), Giám đốc Nhà xuất bản
Prometheus Books, Tổng biên tập Quí san Free Inquiry Magazine.
Ông cũng là nguyên Đồng Chủ tịch Hiệp hội Đạo đức và Nhân bản
Quốc tế (IHEU – International Humanist and Ethical Union).
Paul Kurtz đồng thời là thành viên của Hiệp hội Hoa kỳ Thăng
tiến Khoa học (American Association for the Advancement of
Science); Chủ tịch Viện Quốc tế Chủ nghĩa Nhân bản
(International Academy of Humanism).. Ông cũng là người đã
thảo Hiến Chương Nhân Bản II (1973), Tuyên Ngôn Nhân Bản Thế
Tục (1980) và Tuyên Ngôn Về Liên Lập: Một Đạo Đức Toàn Cầu Mới
(1988).
+ Bản tiếng Việt Hiến Chương Nhân Bản 2000 được dịch từ
toàn văn bản tiếng Anh “Humanist Manifesto 2000: A Call for a
New Planetary Humanism” (Hiến Chương Nhân Bản 2000: Lời Kêu
Gọi Một Chủ Nghĩa Nhân Bản Toàn Hành Tinh Và Mới).
Nó được công bố đầu tiên trong Quí san Free Inquiry, số Mùa
thu 1999 (Fall 1999. Vol. 19 No.4), tại Thành phố Buffalo, Hoa
kỳ. Liên lạc: P.O. Box 664, Amherst, NY 14226. ĐT (716)
636-7571 Fax (716) 636-1733.
Sau đó, nó được xuất bản thành sách, cũng vẫn tựa đề “Humanist
Manifesto 2000: A Call for a New Planetary Humanism”. Sách khổ
bỏ túi, 76 trang, Nxb Prometheus Books, tháng Mười hai năm
1999. ISBN: 157392783X. Có thể đặt mua qua internet; truy cập
humanist/manifesto.
Bản Hiến Chương này đã được dịch ra các thứ tiếng Đức, Nga, Na
uy, A rập, Pháp, Tây ban nha, Telugu (Nam Ấn) và nhiều ngôn
ngữ khác.
Muốn có thêm thông tin và những ý kiến phản hồi về bản Hiến
Chương, có thể lên mạng, vào địa chỉ
www.secularhumanism.org/lib/search.php?q=Paul+Kurtz
.
+ Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Muốn có thông tin và
bản chính thức bằng tiếng Việt, cùng các công ước và thỏa ước
phụ đính, có thể lên mạng, vào địa chỉ của Liên Hiệp Quốc
www.un.org/rights
|