.

PSN
BỘ MỚI 2009
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Ngươi không phải là một tạo sinh, mà là sự biểu hiện
 CHƯƠNG MỤC

Tư Tưởng

Văn hóa

Giáo Dục

n Học

Diễn Đàn

Chính Luận

Ký Sự - Xã Hội

Khoa Học & Môi Trường

Việt Nam trong dòng thời sự

Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt

 TƯ LIỆU

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền

Thế Nào Là Dân Chủ ?

Các Vấn Ðề Dân Chủ

 TỦ SÁCH

Sophie Quinn-Judge: Hồ Chí Minh những năm chưa được biết đến

Vũ Hữu San: Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa

Lê Minh Văn: Về một NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM

Mao, câu chuyện không được biết

Gene Sharp: Từ Độc Tài đến Dân Chủ

Vũ Thư Hiên: Đêm giữa ban ngày

 Tư Tưởng


Triết học khoa học

  • PSN - 21.02.2009 | Nguyễn Ước

I. Triết học và khoa học

II. Tổng quan lịch sử

III. Lý thuyết và quan sát

IV. Ðặc tính của khoa học

V. Hệ qui chiếu

VI. Tạo được khác biệt

VII. Chứng cớ trước và sau

VIII. Dị giáo, chính thống hoặc mưu lợi

I. Triết học và khoa học

Triết học khoa học khảo sát các phương pháp được khoa học sử dụng trong đó có cách lập giả thuyết và đề ra định luật từ chứng cớ cùng các cơ sở để có thể dựa vào đó mà chứng minh cho một lời phát biểu khoa học về thế giới.

Cả hai song hành Trên nguyên tắc, triết học và khoa học không đối lập nhau. Trái lại, trong nhiều phạm vi, hai bộ môn ấy hoạt động song song vì cả hai đều tìm cách am hiển bản tính cùng cấu trúc của thế giới. Trong khi các ngành khoa học chuyên biệt thực hiện công tác đó bằng cách thu thập dữ liệu từ bên trong lãnh vực đặc thù của mình và đề ra các lý thuyết tổng quát nhằm hiểu rõ chúng, triết học có khuynh hướng quan tâm tới quá trình đề ra các lý thuyết ấy và thiết lập cách chúng liên quan với nhau để hình thành quan điểm tổng thể. Trong chương 2, chúng ta đã thấy siêu hình học là công tác am hiểu các cấu trúc cơ bản của thực tại nằm đằng sau mọi khám phá của các ngành khoa học chuyên biệt.

Một thành phần chính yếu của toàn bộ triết học là quá trình phân tích ngôn ngữ được sử dụng và các tiêu chuẩn chân lý được chấp nhận. Trong khi các ngành khoa học chuyên biệt dùng "ngôn ngữ cấp một": phát biểu một cách trực tiếp các quan sát sinh vật học, hóa học hoặc vật lý học, thì triết học dùng "ngôn ngữ cấp hai": khảo sát những gì người ta có ý nói về các vấn đề ấy. Triết học thực hiện công tác đó bằng cách xem xét cặn kẽ những gì được phát biểu và ngôn ngữ được dùng dù chính xác hay không vẫn phản ánh thực tại mà nó ngụ ý diễn tả không.

và hỗ trợ nhau Ngày nay, nhà khoa học có khuynh hướng hoạt động trong lãnh vực chuyên môn, thí dụ một ngành cá biệt nào đó của vật lý học, vì không ai có khả năng sở hữu toàn bộ kiến thức chi tiết trong tình trạng nghiên cứu đương thời về mọi khía cạnh muôn hình muôn vẻ của khoa học. Do đó, giờ đây, các nhà khoa học, nhà toán học và triết gia có thể được xem như đang hoạt động trong các môn học khác nhau, dù môn học này quan tâm tới và có thể thu lợi từ thành quả nghiên cứu của môn học kia. Có điều không phải thời nào cũng thế; nguyên thủy, người ta xem vật lý học là "triết học tự nhiên", và còn nữa, một số tên tuổi vĩ đại nhất trong triết học có liên hệ tới toán học và khoa học.

Aristotle khảo sát và hệ thống hóa các ngành khoa học đa dạng. Ông tiến hành công tác đó theo một lược đồ tổng thể của triết học. Descartes, Leibniz, Blaise Pascal (1623-1662) và Russell đều vừa là nhà toán học vừa là triết gia. Thật thế, trong cuốn Principa Mathematica (Các nguyên lý toán học, 1910-1913), Russell và Alfred N. Whitehead (1861-1947) lập luận rằng toán học là một triển khai của luận lý học suy diễn (deductive logic). Bacon, Locke và những người khác, chịu ảnh hưởng sự nổi lên của phương pháp khoa học hiện đại, đều quan tâm tới việc cung cấp cho nó một căn bản triết học suy tưởng, còn gọi là lý đoán.

Kant viết cuốn A General Natural History and Theory of the Heavens (Ðại cương lịch sử và lý thuyết tự nhiên về các tầng trời, 1755) trong đó ông thăm dò nguồn gốc khả dĩ của thái dương hệ. Một số phong trào triết học, thí dụ, thuyết thực chứng luận lý (logical positism), trong những năm đầu thế kỷ 20, chịu ảnh hưởng của khoa học và phương pháp khoa học trong việc thiết lập chứng cớ. Do đó, nhiều triết gia đã được chúng ta xem xét trong chương 2 có thể xuất hiện trở lại trong phần có liên quan tới khoa học này – phần lớn là vì tri thức khoa học và các phương pháp của nó đóng vai trò rất quan trọng trong sự đánh giá tổng quát của chúng ta về phạm vi và phương pháp của tri thức con người.

Tuy thế, nhằm đặt vấn đề đúng với triển vọng của nó, chúng ta sẽ đưa ra một cái nhìn tổng quát và ngắn gọn về bối cảnh lịch sử trong đó một số triết gia đã sống với những bình luận về khoa học hoặc bản thân họ chịu ảnh hưởng của nó.

 

II. Tổng quan lịch sử

Lịch sử tư tưởng Tây phương cho thấy có hai chuyển đổi chính trong quan điểm về thế giới; cả hai đều ảnh hưởng quan trọng lên cách thức mà triết học và khoa học liên quan với nhau. Do đó, chúng ta có thể chia quá trình diễn tiến của triết học và khoa học Tây phương thành ba thời kỳ tổng quát:

1. Tư tưởng thời Hi Lạp cổ đại và thời trung cổ;

2. Thế giới quan mang bản sắc Newton;

3. Khoa học từ thế kỷ 20.

Sự phân chia như thế dù sao cũng không tránh khỏi có phần gượng ép vì nó đã giản dị hóa một quá trình biến đổi rất phức tạp.

 

1. Tư tưởng thời Hi Lạp cổ đại và thời trung cổ

Năm 529 sau C.N., hoàng đế Justinian của Byzantium – nửa phía đông của đế quốc La Mã với kinh đô Constantinople, nay là Istambul của Thổ Nhĩ Kỳ – hạ chiếu chỉ đóng cửa trường Academy tại Athens do Plato thành lập tám thế kỷ trước, và nghiêm cấm việc giảng dạy triết học nhằm tạo thêm lợi thế cho Kitô giáo.

Từ trước đó, Plato đã có ảnh hưởng lên quá trình diễn tiến cùng nội dung triển khai các học thuyết của tôn giáo đó, và các thành tố trong tư tưởng của vị triết gia Hi Lạp cổ đại này vẫn tiếp tục có mặt trong thần học Kitô giáo, đặc biệt ý tưởng của Plato về sự tương phản giữa thế giới lý tưởng của các hình thái và thế giới hữu hạn của kinh nghiệm.

Còn các tác phẩm của Aristotle ban đầu được giữ gìn ở Byzantium và tiếp đó, được người A Rập bảo quản. Cho mãi tới thế kỷ 13, chúng mới được châu Âu tái khám phá khi có các bản dịch đầu tiên từ tiếng A Rập sang tiếng La-tin.

Do đó, chỉ từ thế kỷ 13, với các nhà tư tưởng như Thomas Aquinas (1225-1274), Duns Scotus (1266-1308) và William of Ockham (k.1285-1349), tư tưởng Hi Lạp cổ đại mới bắt đầu được thăm dò thêm lần nữa một cách có hệ thống. Từ thời điểm đó, phần lớn triết học là triển khai hoặc phản bác công trình của người Hi Lạp. Mãi cho tới thời Descartes vào nửa đầu thế kỷ 17, triết học mới thêm lần nữa khởi hành từ những nguyên lý đệ nhất. Sự kiện ấy trùng hợp với chuyển động của khoa học vào giai đoạn thứ hai của nó.

Aristotle sắp xếp các ngành khoa học khác nhau và phân chia sinh vật thành các loại và chủng loại đa dạng. Và rồi quá trình phân loại như thế trở thành một đặc tính chính yếu của khoa học. Lý thuyết của ông về tri thức đặt căn bản trên các cảm giác và tùy thuộc vào sự lặp đi lặp lại sau đó.

a. Cảm giác lặp lại chính chúng - đưa tới nhận thức;

b. Nhận thức lặp lại chính chúng - đưa tới kinh nghiệm;

c. Kinh nghiệm lặp lại chính chúng - đưa tới tri thức.

Như thế, chúng ta thấy tri thức là cái triển khai từ nhận thức đã được thiết lập và kinh nghiệm vật chất. Chúng đến với chúng ta qua giác quan - một đặc tính quan trọng của triết lý khoa học.

Aristotle còn thiết lập các ý tưởng về không gian, thời gian và quan hệ nhân quả, bao gồm ý tưởng về động lực đầu tiên - cái trở thành nền tảng cho luận cứ mang tính vũ trụ luận (cosmology), về sự hiện hữu của Thượng đế. Ông đề ra bốn "nguyên nhân", theo đó phân biệt giữa chất liệu, dạng thức nó đi tới, tác nhân của biến đổi và cứu cánh tối hậu hay mục đích mà vì đó nó được dự kiến.

Aristotle cho rằng sức mạnh của sự vật chính là tiềm năng của nó. Mỗi vật có một tiềm năng và có một nơi yên nghỉ: ngọn lửa bốc lên một cách tự nhiên, ngược lại, các vật nặng thì rơi xuống. Ðối với ông, những thay đổi không liên quan tới các sức mạnh tổng quát như trọng lực - cái về sau thuộc lược đồ Newton, nhưng liên quan tới sự kiện các vật cá biệt đều có cứu cánh, do bởi tự thân bản tính của nó.

Chúng ta hãy xem vài thí dụ về ảnh hưởng của Plato và Aristotle.

Ðối với Plato, các "hình thái" vô hình thì có thật hơn các sự vật riêng lẻ được chúng ta biết tới bằng giác quan. Phương cách tư duy ấy - về sau được Kitô giáo hậu thuẫn - dẫn tới ý tưởng rằng lý trí và các khái niệm nhận thức có thể quyết định một sự vật hiên hữu hay không, và rằng những quan sát nào có vẻ mâu thuẫn với ý tưởng ấy đều đương nhiên sai lầm.

Vũ trụ học và thiên văn học (astronomy) cho ta các thí dụ về lập trường ấy: Nicolas Copernicus (1473-1543) và sau đó, Galileo Galilei (1564-1642) đưa ra quan điểm về vũ trụ, theo đó, trái đất xoay chung quanh mặt trời chứ không phải mặt trời xoay chung quanh trái đất.

Quan điểm ấy bị chống đối bởi những kẻ mà ý tưởng về vũ trụ của họ có xuất xứ từ Claudius Ptolemaneus, thường gọi là Ptolemy. Ông là nhà thiên văn, địa lý và toán học Hi Lạp làm việc tại thư viện vĩ đại Alexandria (Ai Cập). Ðược đánh giá là nhà thiên văn học vĩ đại nhất cuối thời cổ đại, tác phẩm của ông có tên là Almagest (Cái vĩ đại nhất) là một bản tóm tắt quan trọng nhất quan điểm của ông về thiên văn học. Ông cho rằng trái đất được bao quanh bởi các hành tinh chuyển động theo hình thật tròn.

Chủ trương ấy được thịnh hành từ năm 127 tới năm 141 hoặc 151 sau C.N., và khống chế cho tới thế kỷ 16 bất chấp sự xuất hiện quan điểm của Copernicus. Ptolemy còn biên soạn cuốn Geographia (Ðịa lý), trong đó gồm một bản liệt kê các địa điểm với đầy đủ kinh tuyến và vĩ tuyếân, viết về thang âm nhạc và niên đại lịch sử, thiết lập nhiều bản đồ, kể cả bản đồ thế giới.

Công trình của Copernicus và Galileo bị thách đố, và Galileo suýt chút nữa lên dàn hỏa, không phải vì các quan sát của họ bị xem là sai lầm nhưng vì người ta tin tưởng các quan sát của mình hơn là sẵn lòng quyết định cái đáng lẽ phải là vậy. Johannes Kepler (1571-1630), nhà thiên văn học người Ðức, từng kết luận rằng quỹ đạo của sao Hỏa có hình trái xoan cân xứng (ê-lip), trong khi đó toàn bộ chuyển động trên bầu trời được người đương thời nghĩ là toàn hảo, và do đó, nó phải là hình tròn.

Các nhà thiên văn ấy phấn đấu chống lại bối cảnh thẩm quyền tôn giáo vốn xem các khái niệm Hi Lạp có quyền ưu tiên tuyệt đối, vượt lên trên quan sát và chứng cớ thực nghiệm. Nói cách khác, hệ thống tư tưởng trung cổ trước đó sử dụng phép suy diễn (deduction). Từ các ý tưởng sẵn có, nó diễn dịch cái mà họ cho là nó phải xảy ra, tương phản với phép qui nạp (induction) về sau, vốn đạt tới lý thuyết từ các quan sát.

Cùng với khuynh hướng tìm kiếm lý thuyết và sự toàn hảo thay vì chấp nhận kết quả của quan sát, có một khuynh hướng khác xuất phát từ Aristotle. Theo ý tưởng của ông về nguyên nhân tối hậu, người ta cho rằng mỗi sự vật được dự kiến cho một cứu cánh đặc thù. Nếu cái gì đó rơi xuống đất, nó tìm kiếm cứu cánh và nơi chốn tự nhiên của nó trong khi rơi xuống. Như thế, trong bối cảnh tôn giáo, người ta có thể nói rằng điều gì đó xảy ra là do ý của Thiên Chúa muốn nó xảy ra như thế, và do bởi nó đã được dự kiến cho cứu cánh đó. Do đó, không có nhu cầu tìm kiếm các nguyên lý hoặc định luật khoa học để áp dụng đồng đều cho mọi sự.

Nhìn lại Ðêm trường trung cổ Ngang đây, chúng ta dừng lại một chút để ngoái lại nhìn một quan điểm có phần nào đã trở thành định kiến về "Ðêm trường trung cổ" (Dark Ages).

Ðó là thuật ngữ thường dùng để diễn tả một thời kỳ của châu Âu từ thế kỷ thứ 5 cho tới thế kỷ 11, tính từ khi đế quốc La Mã sụp đổ tới những cuộc di dân tiếp đó, những cuộc xâm lăng của người Goths (gốc Ðức) và các dân tộc khác, cùng với tình trạng bị xem là man rợ và thiếu học vấn. Kiến thức đã có từ thời cổ La Mã chỉ tồn tại trong một ít tu viện và các trường học của nhà thờ chánh tòa, trong khi đó gần như biến mất toàn bộ kiến thức thu lượm được trong thời cổ Hi Lạp. Nhiều kỹ năng nghệ thuật và kỹ thuật bị bỏ lơ, thí dụ làm đường sá, xây cất cầu cống, v.v. Nói chung, người ta cho rằng đây là thời kỳ "đen tối và mịt mùng", nghèo nàn cả sinh hoạt kinh tế lẫn trí thức.

Ngày nay, lối mô tả ấy đã bị các học giả nghiên cứu thời trung cổ quyết liệt phản đối. Họ cho rằng cụm từ "‘Ðêm trường trung cổ" phản ánh một quan điểm lỗi thời và tai tiếng; nó diễn tả hoàn toàn sai lạc sinh hoạt thời ấy do bởi thiếu thông tin về cuộc sống trung cổ. Trong thực tế, năm thế kỷ đó có những hoạt động trí thức, nghệ thuật, thậm chí khoa học, dẫn tới những thành tựu cao. "Ðêm trường trung cổ" để lại di sản phong phú về nghệ thuật và học thuật Ottonia và Celtic tại Bắc và Tây Âu trong khi tại Nam và Ðông Âu nở rộ các nền văn minh lục địa Byzantine và A Rập.

 

2. Thế giới quan Newton

Thời Phục hưng, từ thế kỷ 14 tới thế kỷ 16, và Phong trào Cải cách, thế kỷ 16, đưa tới kết quả phục hồi ý nghĩa của giá trị lý trí con người và khả năng thách thức các ý tưởng đã được thiết định và các tín điều tôn giáo. Nếu không có hai kết quả ấy, chắc chắn không thể nổi lên khoa học hiện đại.

Ðồng thời, có thêm một yếu tố cũng gây ảnh hưởng không kém, đó là cách thức thu thập và lựa chọn thông tin cùng các lý thuyết hình thành trên những thông tin đã được phân loại. Tâm điểm của tiến trình ấy là phương pháp – hay như ta có thời gọi là phép – qui nạp. Nó được Francis Bacon trình bày minh bạch và từ đó tới nay, nó vẫn tiếp tục thích đáng.

Bacon (1561-1626) bác bỏ ý tưởng của Aristotle về nguyên nhân cứu cánh. Ông nhấn mạnh rằng ta nên đặt cơ sở của tri thức trên tiến trình qui nạp mà như chúng ta sẽ thấy là một phương pháp có hệ thống. Tiến trình qui nạp dựa trên những bằng chứng cùng những tổng hợp đặc thù và riêng rẽ được quan sát tỉ mỉ, để đi tới kết luận tổng quát.

Bacon cảnh giác về các "thần tượng của tri thức" mà chúng ta cần phải phá hủy. Theo Will Durant (1885-1981), triết gia, sử gia và nhà văn Mỹ, trong cuốn The Story of Philosophy (Câu chuyện triết học, 1926), thì có lẽ Bacon phản ánh lập trường của phái Thệ phản (Protestant, Tin lành) bác bỏ việc "thờ phượng ảnh tượng" nên ông dùng chữ "thần tượng", là hình ảnh được dùng thay cho thực tại, một ý tưởng được dùng thay cho sự vật. Nói chung, nó là những quan điểm tuy được người đời tôn thờ nhưng chúng có chiều hướng dẫn dắt họ đi sai đường lạc lối, tạo nên những lầm lỗi của con người.

Ðối với Bacon, có bốn loại thần tượng cần phải hủy diệt để tái thiết tri thức:

1. Thần tượng của Bộ tộc (Idols of the Tribe): Những sai lầm tự nhiên của loài người nói chung. Tâm trí con người tiếp thu nó vì lòng khát khao chấp nhận sự khẳng định cho điều đã được chúng ta tin sẵn;

2. Thần tượng của Cái hang (Idols of the Case): Những sai lầm đặc biệt của cá nhân; nó bao gồm những méo mó xuyên tạc, hậu quả của lối suy nghĩ theo tập quán của chúng ta;

3. Thần tượng của Thị trường (Idols of Market-place): Phát sinh từ trao đổi thương mại và sự quần tụ của con người với nhau. Trong giao dịch với những lộn xộn rối rắm, xuất phát từ cách chúng ta sử dụng ngôn ngữ, thí dụ, dùng cùng một từ ngữ để nói tới những cái khác nhau, và rồi giả định rằng chúng hẳn là một hoặc chúng phải giống nhau;

4. Thần tượng của Hí viện (Idols of the Theatre): Phát xuất từ các tín điều đa dạng của các triết gia và các định luật sai lầm trong việc chứng minh. Chúng ta tin tưởng và chấp nhận điều này điều nọ chỉ vì lòng trung thành hay ủng hộ một trường phái tư tưởng đặc thù.

Bacon cũng vạch rõ ra rằng trong khi thu thập chứng cớ, ta không nên chỉ tìm những thí dụ để khẳng định cho một lý thuyết đặc thù, mà nên tích cực tìm cho ra và chấp nhận sức mạnh của các thí dụ phản biện. Sau nhiều thế kỷ đi tìm chứng cớ chỉ để nhằm khẳng định những gì đã được biết tới bởi giáo điều thay vì bởi lý trí, lập trường của Bacon rõ ràng mang tính cách mạng.

Sở dĩ có được một cái nhìn tổng quát như thế về thế giới là nhờ sự nổi lên của khoa học, thường được liên kết với tên tuổi của Isaac Newton (1642-1727). Theo thế giới quan của Newton, quan sát và thí nghiệm đem lại sự am hiểu các định luật đang chi phối thế giới. Trong thế giới ấy, không gian và thời gian có tính cố định, làm thành cái khung cho mọi sự diễn ra trong đó. Các đối vật – khách thể (object) – được thấy là đang chuyển động và bị chuyển động bằng sự thao tác của các định luật vật lý về chuyển động, khiến ta nhìn mọi sự như thể một bộ máy mà nhờ quan sát kỹ lưỡng, ta càng ngày càng hiểu rõ các hoạt động của nó. Các lực đan cài vào nhau giữ cho vật chất chuyển động và ta có thể dự báo mọi sự. Trong tạm thời, có thể ta không biết hết mọi sự nhưng ta không thể hoài nghi rằng tới cuối cùng, ta sẽ biết hết, bằng cách sử dụng các phương pháp khoa học đã được thiết lập.

Có thể diễn tả một cách thô thiển như sau. Thế giới, trên một qui mô lớn, được xem như một tập hợp các phân tử vật chất đang chuyển động và ứng xử theo cung cách mà con người trước sau gì cũng dự báo được. Nhờ tư tưởng đó, cuối cùng khoa học có khả năng đưa ra lời giải thích vô song về vạn vật, và đồng thời hình thành cơ sở cho nền kỹ thuật nhằm giúp loài người càng ngày càng có khả năng kiểm soát môi trường và thực hiện được những điều mà cho tới hôm nay, ta vẫn chưa thể tưởng tượng hết. Khoa học ngày càng tích lũy thêm, ngày càng trải rộng tới những lãnh vực trước đây con người chưa từng biết, và xây dựng trên những nền tảng an toàn của các định luật vật lý đã được thiết lập.

Là một tín đồ ngoan đạo, Newton nghĩ rằng các định luật mà theo đó vũ trụ thao tác đều do Thượng đế thiết lập. Nhưng Thượng đế của ông là một đấng tạo hóa ngoại tại. Một khi đã đưa vũ trụ vào chuyển động, ngài rút lui để nghỉ ngơi. Ngài để yên vũ trụ tiếp tục hoạt động theo các định luật cố định của nó. Quan điểm này giải phóng khoa học khỏi nhu cầu lưu tâm hoặc đếm xỉa tới Thượng đế: khoa học chỉ có việc xem xét các định luật của tự nhiên và đặt các lý thuyết của nó trên sự quan sát chứ không trên các tín điều tôn giáo.

Với sự ra đời của thế giới quan Newton, chức năng của triết học thay đổi. Thay vì cung cấp các lý thuyết vỡ lòng về vũ trụ học, công tác của triết học giờ đây trở thành xem xét và phê bình các phương pháp và các kết quả của khoa học và thiết lập các giới hạn cho khoa học. Ðồng thời qua Kant, triết học cũng vạch ra rằng các định luật về tự nhiên – không gian, thời gian và quan hệ nhân quả, những cái quả thật lập thành cơ sở của khoa học mang bản sắc Newton – không được tìm thấy ở bên ngoài, trong thế giới độc lập của các khách thể, hoặc khách tri (object) mà là do tâm trí của chủ thể, hoặc chủ tri (subject) cung cấp.

David Hume vạch ra rằng các định luật khoa học không là những phát biểu phổ quát và đúng, mà chỉ là tóm kết những gì đã được chứng nghiệm cho tới lúc ấy. Chính phương pháp được sử dụng – thu thập các dữ liệu và từ chúng rút ra kết luận tổng quát – sản sinh các cấp độ khả thi ngày càng cao, nhưng ta không cách gì có thể chuyển dịch từ chỗ đó tới sự chắc chắn tuyệt đối.

Ở chương 2, chúng ta đã khảo sát một số khía cạnh triết học liên quan tới giai đoạn triết học này. Thí dụ thuyết duy nghiệm của Hume ăn khớp với sự thúc đẩy khoa học. Vào lúc bắt đầu thế kỷ 19, nhà thần học Anh William Paley (1743-1805) đưa ra luận cứ thiên về đấng thiết kế vũ trụ, phản ánh một thế giới quan bị khống chế bởi hệ qui chiếu của một cỗ máy.

Paley cho rằng mục đích của việc đề xuất đấng thiết kế – tức Thượng đế – là để giải thích các dấu hiệu thiết kế trong công cuộc tạo dựng thế gian. Phần lớn công trình triết học của ông chỉ để chứng minh rằng thế giới này được tạo dựng và bảo quản bởi Thượng đế. (Xem William Paley, Natural Theology (Thần học tự nhiên), do Matthew D. Eddy and David M. Knight viết lời dẫn nhập và chú thích, Nxb Oxford University Press, 2006).

Nhưng không phải các triết gia trong kỷ nguyên thứ hai ấy của khoa học đều tán trợ một vũ trụ có tính máy móc cố định của Newton. Berkeley chỉ trích ý tưởng không gian và thời gian bất di bất dịch của Newton. Ðối với vị giám mục ấy, mọi sự – bao gồm vật chất và sự dàn trải – là vấn đề của cảm giác, của kinh nghiệm con người. Như thế, mọi sự mọi vật đều liên quan tới kẻ trải nghiệm nó, và không có phương cách mang tính luận lý nào (logical way) để có thể chuyển dịch từ tính chất đối của kinh nghiệm của chủ thể, tức là chúng ta, tới tính tuyệt đối ngoại tại nào đó. Bằng cách thức của mình, Berkeley đã "nhìn thấy trước" ngày xuất hiện kỷ nguyên thứ ba của khoa học và triết học.

 

3. Khoa học thế kỷ 20

Ðối với các nhà tư tưởng từ trước thế kỷ 20, thật không thể tưởng tượng nổi rằng không gian và thời gian không cố định, vì đó là cái khung thiết yếu để mọi sự khác diễn ra bên trong nó. 

Các thuyết tương đối Thế rồi, các thuyết tương đối của Albert Einstein (1879-1955), nhà vật lý toán học chào đời ở Ðức, đã thay đổi toàn bộ định kiến ấy. Cái thứ nhất, năm 1905, là thuyết Tương đối Ðặc biệt (theory of Special Relativity), được biết tới với phương trình E=mc². Thuyết ấy chứng minh rằng khối lượng (mass) và năng lượng (energy) thì đương lượng (equivalent), và rằng vì năng lượng ngang bằng khối lượng được nhân lên với tốc độ bình phương của ánh sáng nên một số lượng vật chất rất nhỏ có thể được chuyển đổi thành một số lượng năng lượng rất lớn. Dĩ nhiên, quan điểm ấy ngày nay cực kỳ nổi tiếng do bởi các hệ quả thực dụng và có phần khốc liệt của nó trong quá trình phát triển vũ khí hạt nhân.

Tới năm 1916, Einstein cho công bố cái thứ hai, đó là thuyết Tương đối Tổng quát (theory of General Relativity). Thuyết ấy chứa đựng lời tuyên bố có tính cách mạng rằng thời gian, không gian, vật chất và năng lượng đều liên quan nhau. Thí dụ không gian và thời gian có thể bị nén ép bởi trường hấp dẫn mạnh mẽ. Không có các điểm cố định. Các vật liên quan nhau theo cách tùy thuộc vào điểm mà từ đó chúng được quan sát. 

Một minh họa tương đối Ðể có đôi chút minh họa về thuyết thứ hai của Einstein, bạn có thể xem mình là nhân vật chính trong câu chuyện dưới đây.

Thử tưởng tượng một buổi tối nào đó ở đồng quê gió mát, bạn đang đứng mơ mộng nhìn lên trời, mắt dõi theo hai ngôi sao. Chúng có vẻ xuất hiện trước mặt bạn theo một khoảng cách giống nhau nhưng trên thực tế, chúng ở cách xa nhau hàng triệu năm ánh sáng. Kế đó, bạn thấy ngôi sao bên phải "nháy một cái", kéo theo ngôi sau bên trái "nháy một cái". Theo viễn cảnh nhìn lên từ trái đất, bạn cho rằng ngôi sao này nháy trước rồi tới ngôi sao kia nháy sau, nghĩa là hai cái nháy ấy diễn ra tiếp liền nhau theo thời gian.

Kế đó, hãy thử tưởng tượng thêm một chút. Bạn không còn ở dưới mặt đất này nữa mà bay bổng lên các tầng trời, được vận chuyển tới một ngôi sao ở quá bên kia ngôi sao bên trái của bạn. Tại đó, bạn lại thấy ngôi sao bên trái nháy trước, rồi kế đó mới tới ngôi sao bên phải. Rõ ràng lý do khiến cho bạn nhìn thấy như thế là vì thời điểm xảy ra hai cái nháy đó – nói một cách chính xác là "hình như xảy ra" – có liên quan tới khoảng cách của bạn với mỗi ngôi sao, vì các cái nháy ấy chỉ có thể lọt vào tầm quan sát của bạn sau khi ánh sáng của chúng đã du hành qua không gian muôn trùng.

Do đó, bạn không thể nói cái nháy được bạn trải nghiệm đầu tiên là cái đến trước; thứ tự nối tiếp của hai cái nháy ấy tùy vào vị trí của người quan sát. Dĩ nhiên, từ điểm nhìn của bạn, bạn có thể tính được cái nháy nào "thật sự" xảy ra trước nếu bạn biết rõ khoảng cách của cả hai ngôi sao. Lúc ấy, bạn có thể tính toán chiều dài theo thời gian ánh sáng mà chúng cần tới để "vân du" từ ngôi sao xa hơn tới chỗ bạn đứng hóng gió và mơ mộng, rồi bạn trừ đi khoảng thời gian khác biệt giữa hai cái nháy bạn vừa trải nghiệm.

Không gian bốn chiều Như thế, vật lý học hiện đại và vũ trụ học hiện đại cống hiến một quan điểm lạ lùng về không gian và thời gian, tương phản với quan điểm của Newton.

Chúng ta được bảo cho biết rằng toàn thể vũ trụ xuất hiện ngay sau vụ nổ lớn "Big Bang", từ "không-thời-gian đơn nhất tính" (space-time singularity), một điểm mà ở đó toàn bộ vật chất trong vũ trụ hiện nay từng bị tập trung thành một điểm cực nhỏ. Khác với một vụ nổ bình thường ở đó vật chất bị bắn tung ra mọi phía rồi thôi, trong vụ nổ Big Bang, không gian và thời gian được tạo ra ngay khoảnh khắc đó. Và kể từ đó cho tới nay, không gian vẫn tiếp tục trải rộng ra theo với vũ trụ đang trải rộng ra. Nếu có thể biểu hiện không gian bằng một hệ thống các đường kẻ trên một quả khí cầu thì khi quả khí cầu ấy bị nổ tung, hệ thống đường kẻ ấy tự nó mở rộng ra, và như thế, một cách giản dị, quả khí cầu ấy không có thêm đường kẽ nào được vẽ trên nó.

Sở dĩ vật lý học mang bản sắc Newton hoạt động trên cơ sở không gian và thời gian cố định là vì nhà bác học người Anh ấy chỉ xem xét một khu vực rất nhỏ của vũ trụ; bên trong khu vực ấy, các định luật của ông quả đúng.

Không gian và thời gian được xem là liên kết trong một "chuỗi biến hóa liên tục không-thời-gian-bốn-chiều đơn nhất" (single four-dimensional space-time continuum), và không có điểm cố định để quan sát bất cứ vật nào vì người quan sát và cái được quan sát đều ở trong quá trình biến đổi và đang chuyển động qua không gian và thời gian.

Cơ học lượng tử Cùng với hai thuyết tương đối, xuất hiện cơ học lượng tử (quantum mechanics), nêu lên các câu hỏi về việc liệu có thể dự báo các sự kiện ở cấp bậc (dưới) hạ-nguyên-tử, hoặc bên trong nguyên tử (sub-atomic level) hay không, và có ngụ ý gì khi nói cái này gây ra cái kia. Người ta không còn cho rằng vật chất là sự kết hợp của các nguyên tử rắn đặc và đơn nhất; bản thân nguyên tử cũng bị chia thành nhiều hạt cấu thành; chúng được giữ vào nhau nhờ các lực. Trong thế giới bên trong nguyên tử, các hạt không tuân theo những qui luật cố định. Chuyển động cá thể của chúng không chắc chắn chút nào tuy có thể dự báo bằng thống kê.

Năng lượng được cho là thao tác do sự trao đổi lẫn nhau của các bó nhỏ hoặc "lượng tử", thay vì dòng chảy liên tục và riêng rẽ. Cái từng có thời được coi là vật chất rắn đặc và tuân theo các định luật cố định mang tính máy móc, giờ đây có thể được xem là những gói gồm các sự kiện, bỏ ngỏ cho một số lượng các thông giải khác nhau tùy vào vị trí nhìn ngắm của người quan sát.

Rõ ràng, cơ học lượng tử khó hiểu. Một cách tổng quát người ta cho rằng nó hữu hiệu vì thế nó hẳn phải có điều gì đó đúng cho dẫu ta không thể hiểu nó như một lý thuyết. Cơ học lượng tử, tuy ít được am hiểu, nhưng điều chắc chắn là khi phối hợp với thuyết tương đối, nó đã biến những cái xưa cũ của học thuyết Newton thành lỗi thời. Các định luật vật lý của Newton có thể vẫn được áp dụng nhưng chỉ trong phạm vi rất giới hạn. Tình trạng sẽ hoàn toàn khác hẳn một khi bạn lạc vào khu vực vi mô của bên trong nguyên tử, hoặc thế giới vĩ mô của cấu trúc vũ trụ.

Liên kết đa môn Một cuộc cách mạng tương tự đã và đang diễn ra trong kiến thức về sinh vật. Qua sự khám phá cấu trúc cơ bản của gien (DNA: acid deoxyribonucleic) – thế giới sinh học được liên kết với thế gới vật lý học và thế giới hóa học, vì các chỉ dẫn bên trong phân tử DNA có thể quyết định dạng thức (form) của một hữu thể sống động.

Do đó, trong thế kỷ 20, triết học hoạt động sát cánh với thế giới khoa học và với chuỗi các ý tưởng đã bị thay đổi lớn lao kể từ thế giới mang tính máy móc và có thể dự báo của Newton. Cách riêng, khoa học giờ đây cống hiến những phương cách đa dạng trong việc hình dung thế giới, và vũ trụ học – ban đầu bị khống chế bởi đức tin tôn giáo và Aristotle, kế đó bởi thiên văn học – giờ đây nằm phần rất lớn trong bàn tay các nhà toán học. Thế giới như một toàn bộ không phải là cái có thể quan sát nhưng là cái mà cấu trúc của nó có thể thăm dò bằng tính toán.

Trong gần hết nửa đầu thế kỷ 20, triết học Tây phương, ít ra tại Bắc Mỹ và Anh, ngày càng bị khống chế bởi cuộc truy tầm ý nghĩa và phân tích ngôn ngữ. Triết học không còn thấy vai trò của nó là nhằm cung cấp quan điểm tổng thể về vũ trụ, và nó đã để cho các bộ môn khoa học riêng biệt đảm trách chức năng đó. Ðúng hơn, trên sân khấu tri thức, triết học đã chấp nhận đóng vai phụ; nó kiểm tra các phương pháp mà khoa học dùng, luận lý mà qua đó các kết quả được cung cấp từ việc quan sát, và phương cách trong đó các lý thuyết được tín nhiệm hoặc bất tín.

Không gian chiều thứ năm Nhân đây, ta có thể mở một ngoặc kép để nói tới một vấn đề mới mẻ, xuất hiện vào cuối thế kỷ 20, đó là không gian chiều thứ năm mà sự xác nhận nó chắc chắn sẽ đặt dấu mốc lớn cho nhiều ngành khoa học trong thiên niên kỷ thứ ba.

Trong vật lý học và toán học, có thể hiểu một dãy số N là biểu hiện cho sự định vị trong không gian N chiều. Khi N=5, một trong các con số ấy đôi khi được gọi một cách thông tục là chiều kích thứ năm. Cách sử dụng này có thể xuất hiện trong những cuộc thảo luận tình cờ về chiều kích thứ tư. Không gian chiều kích thứ năm trừu tượng thường xảy ra trong toán học, và là một thiết lập hoàn toàn hợp qui cách chính thống (legitimate). Dù có hoặc không, vũ trụ thật sự trong đó chúng ta đang sống, bằng cách này hoặc cách nọ cũng mang tính năm chiều, và đó là một đề tài được tranh luận và thăm dò trong nhiều ngành vật lý học, bao gồm vật lý học thiên văn và vật lý học hạt cơ bản.

Trong vật lý học, chiều kích thứ năm là một chiều kích thêm vào và có tính chất giả thuyết, vượt quá bên kia các chiều kích thời gian một chiều và không gian ba chiều, thí dụ các nhà vật lý học suy đoán rằng một hạt được cho là mang theo một lực hấp dẫn (graviton), có thể bị "lọt" mất hút vào các chiều kích thứ năm hoặc cao hơn, và như thế, giải thích làm thế nào lực hấp dẫn (gravity) ấy lại rõ ràng yếu hơn ba lực căn bản kia.

Lý thuyết Kaluza-Klein dùng chiều kích thứ năm để hiệp nhất lực hấp dẫn với lực điện từ trường, và ngày nay được xem, một cách cốt tủy, như là lý thuyết hạn độ với nhóm hạn độ và nhóm khoanh tròn. Lý thuyết M đề nghị rằng thời-không-gian có mười một chiều kích trong đó bảy chiều kích bị "cuốn lên" tới phía dưới cấp bậc dưới (hạ)-nguyên tử, hoặc bên trong nguyên tử (sub-atomic level).

Năm 1993, Gerad’t Hooft, giáo sư vật lý lý thuyết tại Ðại học Utrecht, Hà Lan, đưa ra nguyên lý toàn ảnh (holographic principle) với lời giải thích rằng thông tin về chiều kích thêm vào là hữu hình, như một uốn cong trong không-thời-gian với các chiều kích ít hơn. Thí dụ, các ảnh toàn ký (holograms) là những bức hình ba chiều kích được đặt trên mặt phẳng hai chiều kích, cho một hình ảnh uốn cong khi người quan sát di chuyển. Cũng thế, trong tính tương đối tổng quát, chiều kích thứ tư được biểu thị trong ba chiều kích có thể quan sát được như là sự uốn cong của con đường của hạt đại lượng vô cùng bé đang chuyển động. Hooft suy đoán rằng chiều kích thứ năm quả thật là kết cấu không-thời-gian.

Chiều kích thứ năm, thỉnh thoảng được phát biểu là khả thi, nghĩa là chiều kích thứ năm là một tổng số đầy đủ các khả năng vốn đã có thể xảy ra, hoặc nói cách khác, là các thực tại đan xen nhau (alternate realities).

 

4. Tóm kết

Ta có thể rút gọn các ý tưởng nêu trên thành 3 điểm dưới đây:

1. Cho tới thế kỷ 16, được sự hậu thuẫn của thẩm quyền Kitô giáo, các khái niệm Hi Lạp đã quyết định thế giới quan tổng quát. Người ta chỉ đòi hỏi những chứng cớ ăn khớp với lược đồ tổng thể ấy.

2. Trong vật lý học Newton, vật chất hiện hữu bên trong cấu trúc cố định của không gian và thời gian và tuân theo các định luật được triển khai từ phương pháp qui nạp, dựa trên quan sát.

3. Thế giới quan hiện đại nhìn không gian và thời gian liên hệ nhau, và các sự kiện được thông giải dưới ánh sáng vị trí của người quan sát và phương pháp quan sát.

Tóm lại, trong thời kỳ thứ nhất, dường như triết học quyết định nội dung; trong thời kỳ thứ hai, nó cung cấp sự phê bình phương pháp; và trong thời kỳ thứ ba, nó cống hiến sự phân loại các khái niệm.

 

III. Lý thuyết và quan sát

Ðối với triết lý khoa học, cách tiếp cận quan trọng nhất để thu thập và phân tích thông tin là phương pháp qui nạp. Phương pháp này được Francis Bacon triệt để cổ vũ. Sau đó, được Thomas Hobbes (1588-1679) tán trợ, nó trở thành cơ sở cho thế giới khoa học mang bản sắc Newton. Với cách tiếp cận thực tiễn nhằm sàng lọc và đánh giá chứng cớ, phép qui nạp còn được phản ánh trong thuyết duy nghiệm của David Hume. Thật thế, chính phương pháp qui nạp đã phân biệt khoa học "hiện đại" với những gì được tiến hành trước đó, và biến khoa học hiện đại thành một trong hai chuyển đổi chính yếu trong quan điểm tổng thể về thế giới.

Phương pháp qui nạp Phương pháp qui nạp dựa trên hai điều:

1. Tin tưởng rằng có thể sở đắc tri thức bằng cách thu thập chứng cớ và tiến hành thí nghiệm. Nói cách khác, nó đặt căn bản trên các sự kiện có thể kiểm chứng, hoặc các thí nghiệm có thể lặp lại.

2. Sẵn sàng đặt qua một bên các quan điểm định kiến về kết quả có thể có của một cuộc thí nghiệm, hoặc về giá trị của chứng cớ được đưa ra. Thí dụ người dùng phép qui nạp không có ý tưởng bất di bất dịch về kết luận của mình, nhưng bỏ ngỏ để, với tâm trí phóng khoáng, xem xét các kết quả cùng các phương pháp sử dụng.

Với phương pháp qui nạp, khoa học tuyên bố nó đặt cơ sở trên sự kiện và trên tinh thần cởi mở. Vì thế, nó được xem tương phản với tôn giáo truyền thống vốn đặt cơ sở trên giáo thuyết, đòi hỏi con người phải chấp nhận và được sự hậu thuẫn của các bậc thẩm quyền cả đạo lẫn đời chứ không của một mình lý trí.

Tiến hành thực tiễn Trong thực tiễn, phương pháp qui nạp thao tác theo cách sau đây:

a. Quan sát và thu thập dữ liệu – bằng cớ, thông tin – và tìm cách loại trừ tối đa có thể được hết thảy những thành tố không thích đáng;

b. Phân tích các dữ liệu của bạn, và từ chúng, bạn rút ra kết luận dưới hình thức các giả thuyết;

c. Tiến hành thí nghiệm để kiểm tra các giả thuyết ấy, nghĩa là nếu một giả thuyết đúng thì kết quả thử nghiệm nhất định ấy hẳn đã được thấy trước;

d. Ðiều chỉnh giả thuyết của bạn dưới ánh sáng của các cuộc thí nghiệm, nếu cần;

đ. Từ các cuộc thí nghiệm, các dữ liệu và các giả thuyết, bạn lập luận để hình thành một lý thuyết;

e. Một khi đã sở đắc lý thuyết, bạn có khả năng dự báo những điều khác dựa theo lý thuyết ấy. Qua đó, lý thuyết của bạn có thể được xác minh hoặc về sau bị bác bỏ.

Rõ ràng với thành quả đưa đến một lý thuyết do bởi phân tích và kiểm nghiệm các dữ liệu đã được quan sát, quá trình qui nạp đúng là có thể sản sinh tối đa một cấp độ khả thi cao. Ta luôn luôn có cơ hội thêm ít nhiều thông tin vào giả thuyết nguyên thủy để chứng minh nó là sai hoặc chỉ có thể áp dụng nó trong một phạm vi giới hạn. Do đó, giả thuyết nguyên thủy và lý thuyết khoa học phát xuất từ đó luôn luôn được bỏ ngỏ để có thể sửa đổi bất cứ lúc nào.

Từ lý thuyết tới định luật Các lý thuyết được kiểm tra theo phương pháp qui nạp dẫn tới việc đề ra các định luật khoa học. Trong trường hợp ấy, điều quan trọng là phải kiến lập một cách chính xác những ngụ ý trong từ ngữ "định luật".

Theo cách nói thông thường, chữ "định luật" dùng để chỉ điều gì đó được đặt thành qui luật để tuân theo. Nhưng hẳn sai lầm khi giả định rằng định luật khoa học có thể nói cho biết một cách chính xác, theo kiểu đọc chính tả, cách vạn vật ứng xử ra sao. Hume lập luận rằng định luật chỉ mô tả động thái chứ không kiểm soát nó. Nếu có vật nào đó ứng xử khác hẳn thì không thể qui kết rằng định luật khoa học ấy đi ngược lại định luật của tự nhiên mà đơn giản chỉ vì:

1. Có một thành tố không được biết tới đang tác động lên tình huống đặc thù ấy, và do đó, nó sửa đổi cái ta đang kỳ vọng.

2. Ðịnh luật của tự nhiên ấy đã không được đề ra một cách thích đáng và nó cần được điều chỉnh để có thể bao gồm cả tình huống mới ấy.

Nhân đây, bạn cần chú ý rằng định luật của tự nhiên (law of nature) khác với luật tự nhiên (natural law).

Tính khoa học là khả năng sai Nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất lên vấn đề này là Karl Popper (1902-1994). Ông là triết gia người Áo, thuộc trường phái Câu lạc bộ Vienna, Áo. Năm 1937, Popper tị nạn Ðức Quốc xã, sang sống lưu vong ở Tân Tây Lan, rồi qua Luân Ðôn năm 1945. Ở thủ đô nước Anh, ông làm Giáo sư môn Phương pháp Khoa học và Luận lý tại Ðại học Kinh tế học London. Popper theo xã hội chủ nghĩa và có những đóng góp lớn lao cho triết lý chính trị và triết lý khoa học.

Trong cuốn The Logic of Scientific Discovery (Luận lý học về khám phá khoa học, 1934), được dịch sang tiếng Anh năm 1959, Popper đưa ra một quan điểm có tính quyết định rằng khoa học tìm kiếm các lý thuyết mà về mặt luận lý, có tính tự nhất quán (sel-consistent), và rằng chúng có thể bị giả mạo, hoặc bị chứng minh là không có cơ sở. Ông vạch ra rằng định luật khoa học ở quá bên kia cái có thể được chứng nghiệm. Chúng ta không bao giờ có thể chứng minh rằng một định luật khoa học đúng tuyệt đối. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là chứng minh nó sai và chấp nhận nó trên căn bản tạm thời cho tới lúc nó bị chứng minh là sai.

Nhận định ấy đưa Popper tới lời phát biểu rằng lý thuyết khoa học không thể tương hợp với toàn bộ chứng cớ khả dĩ hợp luận lý và có thể được xem xét. Người ta hẳn có khả năng chứng minh rằng nó sai. Nếu một lý thuyết quả quyết rằng nó không bao giờ có thể bị chứng minh là sai, thì lý thuyết ấy không có tính khoa học.

Sai nhưng rồi vẫn đúng Dĩ nhiên trong thực tiễn, người ta không tự động phế bỏ một lý thuyết ngay khi vừa mới có một ít chứng cớ có khả năng phản biện nó. Ðiều xảy ra là nhà khoa học ra sức tái tạo ít nhiều chứng cớ ngược lại để chứng minh lý thuyết ấy là thành phần của một kiểu mẫu có ý nghĩa mà người ta không có khả năng giải thích. Khoa học tìm cho ra lý thuyết này nọ, có thể bao gồm toàn bộ chứng cớ xác thực được tìm thấy để thay cho chứng cớ nguyên thủy, nhưng đồng thời cũng bao gồm chứng cớ mới mẻ và xung khắc với nó.

Ngang đây, có thể nêu một thí dụ minh họa cho luận điểm kể trên. Trong vật lý học Newton, ánh sáng du hành theo đường thẳng. Ðiều ấy được khẳng định trong nhiều thế kỷ, do đó, nó được chứng thực là một lý thuyết khoa học. Nhưng thiên văn học hiện đại chứng minh rằng khi tới gần trường hấp dẫn rất mạnh, ánh sáng cong! Ðiều đó không có nghĩa quan điểm của Newton sai; chỉ đơn giản là ánh sáng quả thật du hành theo đường thẳng trong trường hấp dẫn đều. Ngày nay, lý thuyết xưa cũ ấy bao gồm trong nó cả lý thuyết mới mẻ có thể xem xét luôn cả các tình huống ngoại lệ ấy.

Chọn lý thuyết hữu dụng Khi cần phải chọn một lý thuyết, Popper cho rằng bạn nên chấp nhận lý thuyết nào đã được chứng thực là tốt hơn các lý thuyết khác, có khả năng xét nghiệm hơn và đưa tới những lời phát biểu xác thực hơn các lý thuyết khác. Popper còn nói rằng bạn nên làm như thế cho dù bạn biết rằng lý thuyết ấy sai.

Lời ấy dường như hàm ý rằng đối với chân lý, khoa học dùng lối tiếp cận có tính thực tiễn thay vì có tính tuyệt đối. Vì dù gì đi nữa cũng không thể nào có được sự chắc chắn tuyệt đối, nên chúng ta phải tìm cho ra cách thức hữu dụng để am hiểu thế giới mà chúng ta có bổn phận giao truyền cho thế hệ kế tiếp cho dẫu chúng ta thấy rất rõ các giới hạn của mình.

Tạm đúc kết Ta có thể rút gọn các luận điểm trên như sau:

1. Tôi quan sát thấy rằng Y tiếp theo sau X trong một số cơ hội;

2. Trên cơ sở ấy, tôi lập nên giả thuyết rằng X là nguyên nhân của Y;

4. Tôi làm thêm các xét nghiệm, và cứ mỗi lần như thế, Y đều tiếp theo sau X;

5. Do đó, tôi đề ra định luật khoa học với hiệu quả rằng X là nguyên nhân của Y, có nghĩa rằng Y luôn luôn tiếp theo sau X.

Nhưng tôi không thể hoàn toàn biết chắc chắn điều đó. Tôi không thể kiểm tra rốt ráo mọi thí dụ khả dĩ về X. Do đó, nó khiến cho định luật ấy không còn an toàn để tiếp tục nhân lên con số các kết quả rõ ràng mà tôi có được. Ðể xét nghiệm định luật ấy, điều tôi thật sự cần là một kết quả phủ định. Tôi chỉ cần một thí dụ đơn lẻ của sự kiện X không được Y đi tiếp theo sau để chứng minh rằng định luật ấy sai, cần điều chỉnh hoặc thay thế.

 

IV. Tạo được sự khác biệt

Karl Popper cũng lập luận rằng khoa học không có tính chủ quan, hiểu theo nghĩa nó là sản phẩm của tâm trí con người cá thể, nhưng cũng không có tính khách quan với nghĩa đen, hiểu theo nghĩa định luật khoa học không là một "sự kiện ngoại tại" mà là một cách phát biểu về tương quan của các sự kiện theo như chúng hiện ra cho chúng ta "thấy". Ðúng hơn, khoa học giống với nghệ thuật, văn học và toán học, nó vượt quá các ý tưởng của cá nhân.

Nhưng, một cách chính xác, chúng ta có tạo được sự khác biệt nào cho tri giác của chúng ta về thế giới không?

Ảnh hưởng của chủ tri lên khách tri Quá trình qui nạp đặt cơ sở trên ý tưởng rằng có thể sở đắc chứng cớ hiển nhiên, không tùy thuộc vào người quan sát. Thật thế, từ Francis Bacon trở đi, đã và đang có chủ trương rằng trong khi đánh giá dữ liệu, nhà khoa học đặt qua một bên hết thảy những thiên vị cá nhân của mình, vì thế, lý thuyết do họ đưa ra có khả năng áp dụng cho mọi người thuộc mọi thời. Nhưng liệu rằng chúng ta (chủ tri, subject) có khả năng quan sát vạn vật (khách tri, object) mà không gây ảnh hưởng lên nó bằng hành động quan sát của mình không, và rằng tâm trí của chúng ta đóng góp ngang mức nào vào cái được chúng ta nghĩ là chứng cớ?

Cảm giác đang có của chúng ta không giản dị chỉ là những bản sao của thực tại ngoại tại; chúng là sản phẩm của cách thức chúng ta bắt gặp thực tại ấy. Có thể nêu ba thí dụ kiểu mẫu:

a. Màu sắc là sự phối hợp của ánh sáng, kết cấu bề mặt và thao tác của con mắt ta;

b. Không gian được nhận thức như kết quả của não ta khi liên kết vật này với vật nọ;

c. Thời gian là vấn đề ta nhớ lại một số trải nghiệm đã xảy ra về trước.

Vì thế, lý thuyết khoa học không đặt cơ sở trên các sự kiện độc lập, mà là sản phẩm của cách chúng ta quan sát và tư duy.

Tham dự của tâm trí Kant lập luận rằng khi quan sát cái gì đó, tâm trí của chúng ta tham dự vào việc lập thành trải nghiệm ấy. Không gian, thời gian và quan hệ nhân quả đều bị tâm trí áp đặt lên trên kinh nghiệm nhằm tạo ý nghĩa cho nó. Kể từ Einstein trở đi, vật lý học tán trợ sự thích đáng của người quan sát nhằm am hiểu cái được quan sát. Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên, cả không gian lẫn thời gian đều không cố định, và ta chỉ nhận thức được chuyển động ấy nhờ vào sự thay đổi vị trí của các bộ phận có liên quan với nhau.

Con tàu ra miền bắc của tôi đang đậu trong sân ga Ðà Nẵng chờ thay đầu máy. Qua cửa sổ, tôi nhìn thấy con tàu vào miền nam đang đậu ở thềm bên kia. Ðột nhiên, cái tôi đang thấy đó bắt đầu chuyển động. Nhưng không biết con tàu kia hay con tàu của tôi bắt đầu lăn bánh? Nếu khoảnh khắc trước đó, tôi không cảm thấy người mình bị giật mạnh, thì tôi không thể quyết định rằng con tàu nào di động, tàu ra bắc hay tàu vào nam? Như thế, tôi chỉ có thể biết chắc chắn khi tôi nhìn quá bên kia cửa sổ của con tàu đi nam, hoặc không nhìn con tàu nào nữa mà nhìn tới một vật thứ ba.

Nhận thức là chia sẻ Theo Popper và cũng theo các ý tưởng được xem xét trong chương 2 liên quan tới tri thức luận nói chung, chúng ta thấy cái được nhận thức – khách tri – có thể được hiểu là vượt quá cá nhân người nhận thức – chủ tri – đơn giản chỉ vì nhận thức được chung chia. Những người cùng chứng kiến sự hiện hữu của chiếc bàn trong phòng này sẽ xác nhận nhận thức của bản thân bạn. Cũng một cách thức ấy, chứng cớ khoa học được lặp lại trong các cuộc thí nghiệm sẽ cung cấp chân lý vượt quá cá nhân của bạn, mặc dù đối tượng hoặc khách thể ấy được bạn nghiên cứu và cách thức bạn mô tả tối hậu về nó lệ thuộc vào nhận thức của bạn, con người chủ thể. Chúng ta quả thật đã và đang tạo ra được sự khác biệt, và khoa học có thể lưu tâm tới những khác biệt ấy.

 

V. Chứng cớ trước và sau

Khi một lý thuyết bị đánh giá là không thích đáng vì thiếu chứng cớ, ta có thể, sau đó, biến nó thành có khả năng được chọn lựa nếu tới một thời điểm nào đó, ta có thêm các chứng cớ biện minh cho nó dù chúng thuộc một loại rất khác. Bằng cách ấy, một lý thuyết sống sót khi nó thích nghi với các tình huống trong đó sản sinh chứng cớ mới. Các lý thuyết có thể thích ứng để sống sót – và đó là một loại chọn lọc tự nhiên, xảy ra trong thế giới khoa học.

Một lý thuyết không đủ loại chứng cớ Thuyết chọn lọc tự nhiên (natural selection) của Charles Darwin có thể là một thí dụ vừa thích đáng vừa cá biệt cho trường hợp ấy. Năm 1859, Darwin cho ra mắt cuốn The Origin of Species (Nguồn gốc các loài). Trong sách ấy, ông đề ra lý thuyết rằng các loài có thể tiến hóa dần dần bằng việc lưu truyền các phẩm tính có chọn lọc cho thế hệ kế thừa qua những thành viên của chủng loại có khả năng sống sót và gây giống nhất. Ðây không là một lý thuyết đạo đức nhưng là một nắm bắt có tính trực giác quá trình diễn tiến được ông đánh giá là giải thích đúng nhất về tính chất đa dạng của các loài từng được ông quan sát và phân loại.

Người ta khó thách thức những sự kiện căn bản do Darwin đưa ra. Trong thực tế, những kẻ sống sót trở thành người lớn thì có khả năng gây giống. Những loài thích nghi với môi trường đặc thù nào thì phát triển mạnh ở đó. Các chứng cớ ấy dẫn tới các giả thuyết và rồi trở thành cơ sở cho một lý thuyết có khả năng giải thích những biến đổi trải qua hàng hàng thiên niên kỷ.

Như thế, bằng cách đi theo phương pháp qui nạp, Darwin tuyên bố mình đã phát hiện ra rằng sự tiến hóa của các loài thì mang tính máy móc chủ nghĩa (mechanism), và đồng thời giải thích rằng những đặc tính của mỗi loài thì có vẻ thích đáng nhất cho sự sống sót của nó. Vì thế, dường như ông sử dụng phương pháp qui nạp thay cho ý tưởng về dự kiến, mang tính cứu cánh luận (teleology).

Sau khi lý thuyết của Darwin trình làng, đã xảy ra những cuộc tranh cãi rất phức tạp về nó, không chỉ vì quan điểm của ông thách thức các ý tưởng tôn giáo, mà còn vì sự thông giải của ông về các chứng cớ. Ðặc biệt, trong vô số dữ liệu Darwin thu thập, hình như thiếu loại chứng cớ hóa thạch thỏa đáng cho quá trình chuyển tiếp dần dần từ loài này sang loài khác. Và dĩ nhiên, đối với phương pháp qui nạp, việc cân nhắc chứng cớ là đặc tính thiết yếu.

Do đó, có lẽ thuyết chọn lọc tự nhiên biểu hiện sự thỏa hiệp của những cái trái ngược nhau, giữa phương pháp qui nạp nghiêm ngặt của luận cứ khoa học và một loại bước nhảy vọt có tính tưởng tượng từ kinh nghiệm hữu hạn tới lý thuyết khái quát hơn. 

Cần thông giải thích đáng Dù Darwin thu thập một số lượng rất lớn chứng cớ nhưng những tranh cãi về các thông giải của ông được kích hoạt bởi sự thừa nhận rằng nếu thuyết tiến hóa chọn lọc là đúng, lúc ấy những nội hàm của nó vượt quá các phạm vi khảo cứu của người sinh ra nó. Nếu các loài không cố định thì hết thảy đều là đối tượng của biến đổi. Chấp nhận ý tưởng ấy trên cơ sở chứng cớ hữu hạn, với mọi hàm ý tôn giáo, xã hội và khoa học của nó, có nghĩa là chấp nhận một sự liều lĩnh rất táo bạo.

Tuy nhiên, cơ sở khảo sát của một lý thuyết có thể thay đổi theo với thời gian. Trong số những lời chỉ trích quan trọng thuyết tiến hóa của Darwin, có một luận cứ cho rằng thuyết ấy thiếu chứng cớ hóa thạch về các giai đoạn "giữa chừng" trong quá trình biến đổi từ những cái có vẻ là các loài cố định tới loài khác. Có nhiều người thách thức lý thuyết của Darwin vì lý do tôn giáo nên đối tượng quan tâm của họ bị giới hạn vào những gì có tính nguyên sơ; họ có khuynh hướng chỉ lục tìm trong quá khứ.

Trong thực tế, giờ đây có thêm chứng cớ sâu xa, biện hộ cho giá trị tổng quát của lối tiếp cận của Darwin đến từ hiện tại, ngay ở thế kỷ 20. Trong cuốn sách có nhan đề The Beak and the Finch (Mỏ chim và chim sẻ, 1994) đoạt giải Putlizer năm 1995, Jonathan Weiner, giáo sư Ðại học Rockefeller, mô tả 20 năm ông nghiên cứu chim sẻ trên một đảo trong quần đảo Galapos ở Nam Mỹ.

Weiner thấy rằng, thí dụ, trong những thời kỳ hạn hán, chỉ những con chim sẻ nào mỏ dài mới thành công trong việc đào xới các hạt rắn và dai nhất nằm trong lòng đất, nhờ thế chúng có khả năng sống sót và gây giống. Cùng lúc đó, những nghiên cứu DNA về máu của những con chim sẻ khác nhau tương ứng với khả năng và đặc tính thể lý của chúng.

Ðủ chứng cớ bổ túc về sau Một cách tổng quát hơn, người ta thấy chứng cớ về sự sống sót của những sinh vật có khả năng thích nghi nhất với môi trường đang thay đổi thường liên quan tới canh nông và y dược. Ngay sau khi thuốc diệt sâu bọ vừa có vẻ thành công trong việc kiểm soát và khống chế một loại côn trùng làm hại mùa màng, người ta lại phát hiện ra một loại côn trùng mới, có khả năng đề kháng thứ thuốc đó. Cũng thế, trong y khoa, thường xuất hiện các loại bệnh tật mới có khả năng chống lại thứ thuốc kháng sinh đang thịnh hành.

Ở mọi nơi, luôn luôn xảy ra tình trạng lúc nào cũng có một loại sinh vật phá hoại mùa màng hoặc một loại bệnh tật không bị hoàn toàn tiêu diệt trong cuộc tấn công dữ dội của con người bằng thuốc men dùng để diệt sâu bọ hoặc để chữa trị. Bằng cách nào đó, các côn trùng hoặc vi rút ấy tiếp tục sống sót và rồi gây giống. Do đó, thế hệ kế tiếp của chúng có sức đề kháng, mà chúng ta thường gọi một cách nôm na là "lờn thuốc".

Những thí dụ vừa nêu cho thấy tính uyển chuyển của thiên nhiên: bệnh tật hiện nay đã được "dự kiến", nhưng không bởi một đấng thiết kế nguyên thủy nào đó, mà là bởi phản ứng tự nhiên đối với những cách thức cứu chữa hiện hành. Chúng ta thấy sự tiến hóa của các loài và các bệnh tật trong một không gian nhỏ bé và qua một thời gian ngắn, cũng phản chiếu phần nào quá trình tiến hóa của chúng trên khắp địa cầu và trong thời gian dài, kéo qua hàng hàng thiên niên kỷ.

Từ giữa thế kỷ 19, Darwin không thể nào xem xét lý thuyết của ông từ vị trí quan sát sự biến đổi có tính di truyền học, hoặc từ cách thức các vi-rút thích ứng và khoác hình thức mới. Thế nhưng giờ đây, vào nửa sau thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, ta có thể dùng các phạm vi chứng cớ mới mẻ để chứng thực một lý thuyết được bảo lưu trước kia, cách riêng tại nơi – như trong trường hợp Darwin – mà vấn đề không trầm trọng, không lên tới mức một lý thuyết bị chứng minh là sai vì thiếu loại chứng cớ vừa rõ ràng vừa có thể dễ lãnh hội.

 

VI. Hệ qui chiếu

Trong thế giới Newton, ít ra người ta có thể dự báo. Vì thế, định luật của thiên nhiên được đánh giá là mẫu thông tin cố định về cách thế giới thao tác. Giờ đây, thế giới ấy không còn nữa. Cũng vẫn những hiện tượng ấy nhưng ngày nay khoa học cống hiến cho chúng ta cách nhìn mới, có giá trị không kém cách nhìn cũ. Không có không gian và thời gian tuyệt đối. Thuyết lượng tử được xem là đúng đắn. Nó có thể dự báo kết quả dựa trên cơ sở của chính nó mà không cần chúng ta phải hiểu chính xác bản tính và cội nguồn của vạn vật.

Ánh sáng có thể có dạng các hạt hoặc có dạng các chuyển động gợn sóng. Hiểu theo dạng nào cũng thế thôi. Ðó chỉ là hai cách hiểu hoàn toàn khác nhau về một sự vật, và sự kiện cái này đúng không có nghĩa cái kia sai.

Hệ qui chiếu Khi các định luật và các lý thuyết được kiến lập trong cộng đồng khoa học, chúng được dùng làm cơ sở cho những khảo cứu sâu xa hơn và người ta gọi chúng là các "hệ qui chiếu" (paradigms). Thỉnh thoảng có chuyển đổi hệ qui chiếu, đưa tới kết quả khoa học bị duyệt xét trên một qui mô lớn. Ðối với vũ trụ học, sự chuyển dịch từ thế giới quan Aristotle hoặc Ptolemy sang thế giới quan Newton và rồi, thêm một lần nữa, sang thế giới quan Einstein, thể hiện hai lần chuyển đổi hệ qui chiếu.

Khoa học cống hiến một chuỗi quan điểm suy lý – hoặc lý đoán – về cách thao tác của thế giới từ thời sơ khai cho tới thời nay. Bất kỳ thời nào, một khi các định luật khoa học được kết liền nhau, chúng cũng cung cấp một cấu trúc để các nhà khoa học hoạt động trong đó; một cấu trúc có chức năng hướng dẫn và tác động nhưng nó không nói rõ từng lời từng chữ về cách thức tiến bộ của khảo cứu khoa học. Chúng ta có thể nín thở chờ đợi khi thấy các triết gia và các nhà khoa học táo bạo tuyên bố lời chung quyết, thuộc tầm nhìn viễn kiến và đặc thù của họ về thế giới, đúng vào lúc cộng đồng khoa học sắp đi vào một cuộc "chuyển đổi hệ qui chiếu" với kết quả rằng mọi sự cũng sẽ sắp sửa được tái thẩm định.

Năm 1899, Ernst Haeckel (1834-1919), nhà tự nhiên học người Ðức xuất bản cuốn The Riddle of Universe (Bí ẩn của vũ trụ). Ông lập luận rằng mọi sự, kể cả tư tưởng, đều là sản phẩm của thế giới vật chất và đều bị kiểm soát bởi các định luật của thế giới ấy. Mọi sự bị kiểm soát và bị quyết định một cách tuyệt đối. Tự do là ảo tưởng và tôn giáo là mê tín.

Trong khi đề nghị một chủ thuyết duy vật khoa học (scientific materialism), Haeckel cho rằng nên quảng bá rộng rãi với đại chúng thuyết tiến hóa của Darwin, đồng thời ông chủ trương quét sạch toàn bộ triết học về trước mà theo ông đều không thích hợp với quan điểm duy vật và khoa học. Nhìn theo quan điểm ngày nay, phải chăng những gì Haeckel có ý nói tới là thuyết tương đối và lượng tử?

Không có hệ qui chiếu sai Thomas S. Kuhn (1922-1996), giáo sư môn Lịch sử khoa học tại Ðại học Berkeley, California, trong cuốn sách của mình, The Structure of Scientific Revolutions (Cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học, 1962), mô tả hệ qui chiếu là Gestalt (hoặc Thế giới quan) căn bản, trong đó khoa học ở vào bất cứ thời kỳ riêng biệt nào cũng thông giải các chứng cớ thu thập được. Trên một qui mô lớn, chính hệ qui chiếu nói rõ sự tiến bộ của khoa học, và mọi quan sát đều không thoát khỏi ảnh hưởng của hệ qui chiếu.

Ðiều khiến cho lý thuyết của Kuhn trở thành đối tượng tranh cãi đặc biệt chính là lời ông tuyên bố rằng không có các dữ liệu độc lập (independent data) để bằng vào đó, quyết định cái nào trong các hệ qui chiếu đang tương tranh là đúng. Theo ông, toàn bộ dữ liệu đều được trình bày trong liên quan tới hệ qui chiếu này hoặc hệ qui chiếu nọ, và do đó, ta không có lý do luận lý và nghiêm ngặt nào để thay đổi hệ qui chiếu. Quan điểm của Kuhn có hàm ý tương đối chủ nghĩa (relativism) trong khoa học, cái dường như đe dọa cơ sở luận lý của sự phát triển các lý thuyết khoa học như đã được Karl Popper trình bày.

Tác phẩm của Kuhn và của những người khác có hàm ý tổng quát rằng nếu một lý thuyết thao tác hữu hiệu, nghĩa là nếu nó cung cấp tốt những kết quả có tính dự báo, lúc đó nó trở thành một giải thích khả thi khiến cho chúng ta có thể kết luận rằng nó quả thật là lý thuyết sau cùng hoặc duy nhất.

Hai điểm tổng kết Chúng ta có thể tóm lược những điều vừa trình bày ở trên như sau:

1. Các lý thuyết khác nhau có thể cung cấp lời giải thích ngang nhau về cũng một hiện tượng.

2. Lý thuyết khoa học là cách nhìn, là phương cách tiện lợi để tổ chức kinh nghiệm nhưng không nhất thiết là cách duy nhất. Nó chỉ là tạm thời, và nó cũng thuộc về một hệ qui chiếu tổng thể.

Liệu hai điểm tổng kết ấy có thể khiến cho bạn nghĩ rằng bất cứ lý thuyết khoa học nào cũng vừa đúng vừa sai hoặc sao đó cũng được? Và như thế, câu hỏi đặt ra cho triết học khoa học là: liệu chúng ta có thể nói rằng cái này "mới đúng" trong một thế giới có nhiều quan điểm để chúng ta chọn lựa?

 

VII. Ðặc tính của khoa học
Khoa học là phương pháp Ở bất cứ thời kỳ nào, một hoạt động có thể được gọi là "có tính khoa học" nếu nó theo phương pháp qui nạp. Trên cơ sở ấy, có thể gọi công trình của Karl Marx có tính khoa học vì ông đã đặt lý thuyết của mình trên các báo cáo về những thay đổi chính trị trong các xã hội được ông nghiên cứu. Cũng vậy, một nhà tâm lý học động thái có thể tuyên bố hoạt động của mình có tính khoa học trên cơ sở các phương pháp được ông sử dụng, thí dụ, quan sát và ghi nhận các phản ứng của con người và loài vật đối với tác nhân kích thích đặc thù.

Như thế, khoa học được xác định bởi phương pháp chứ không bởi đối tượng.

Khoa học là quan sát Có thể minh họa quan điểm trên bằng một thí dụ. Thiên văn học được xem là một khoa học trong khi đó chiêm tinh học thì không. Ấy bởi vì thiên văn học đặt cơ sở trên các sự kiện có thể quan sát được, trong khi chiêm tinh học đặt cơ sở trên một lược đồ huyền bí. Chiêm tinh học chỉ được xem là khoa học nếu các chiêm tinh gia có thể chứng minh được mối liên hệ rõ rệt giữa ký hiệu tinh tú của một người và động thái của người ấy. Giả dụ, từ một số lượng rất lớn các cuộc nghiên cứu, ta có các kết quả cho thấy có một mối liên hệ như thế. Rồi có thiết lập được chứng cớ cho mối ấy hay không?

Xét theo bề ngoài, câu trả lời hẳn tùy thuộc vào người tiến hành các cuộc thí nghiệm ấy. Nếu đó là nỗ lực thu thập thông tin một cách thiên vị nhằm tán trợ các quan điểm được bảo lưu từ trước, thế thì nó không được chấp nhận. Nếu các thông tin ấy được thu thập một cách khách quan và nghiêm ngặt bởi người nào đó chân thành muốn biết các ký hiệu tinh tú thích đáng hay không đối với động thái của con người, thế thì nó có thể được tuyên bố là có tính khoa học. 

Khoa học là vô tư Trong điều kiện thứ hai, cho dẫu chiêm tinh học có được xem là có căn bản khoa học đi nữa, nó cũng chỉ được gọi là khoa học nếu từ đó về sau, những người hành nghề chiêm tinh cho thấy họ đang dùng phương pháp khoa học khi họ thẩm xét và tiên đoán.

Việc phân biệt các đặc tính của khoa học bao gồm nỗ lực kiên định trong tiến trình thu thập thông tin một cách vô tư và thái độ sẵn sàng xét lại lý thuyết của ta. Nhưng sẽ xảy tới điều gì nếu các kết luận của ta khác tận gốc rễ với những kết luận của các ngành khoa học khác?

 

VIII. Dị giáo, chính thống hoặc mưu lợi

Trong hai thế kỷ 17 và 18, với sự nổi dậy của khoa học, người ta tin tưởng một cách rộng rãi rằng đã qua rồi thời đại của mê tín và của thẩm quyền thế giá, và rằng mọi sự sẽ được xem xét theo lý trí. Nhưng trong trường hợp khoa học, có phải niềm tin ấy luôn luôn hiện hữu?

Khi một lý thuyết hoặc một phương pháp thao tác được kiến lập, thế giới khoa học đối xử với nó như những tiêu chuẩn, đồng thời họ có phần hoài nghi bất cứ nỗ lực nào đi theo một lối tiếp cận khác với nó tận gốc rể.

Khi Darwin giới thiệu ý tưởng của ông về sự chọn lọc tự nhiên, hoặc Einstein với ý tưởng về thuyết tương đối, những thay đổi tận gốc rể trong quan điểm khoa học mà cả hai hàm ý, bị một số người khác xem là đe dọa tới kho tàng tri thức được tích lũy vững chắc bằng những phương cách đã được chấp nhận theo thế giới quan trước đây. Dù ngày nay, cả hai lý thuyết ấy đều đã được chấp nhận nhưng vẫn có đôi ba khoảnh khắc chửng lại khi người ta xem xét chúng.

Những kẻ dị giáo Ngày nay, có nhiều nhà khoa học bị coi là những "kẻ dị giáo" trong thế giới khoa học chính thống. Họ gồm những người có có quan điểm phần lớn không đi đôi với tiêu chuẩn khoa học hiện hành, vì thế chúng không được đếm xỉa tới.

Chúng ta đã thấy rằng đối với một hiện tượng đơn lẻ có thể có vài cách tiếp cận khác nhau, và rằng các cách tiếp cận ấy đều, trong cùng một thời điểm, có thể có giá trị ngang nhau; hệ quả của quan điểm ấy là bên trong các nhóm khoa học gia bao giờ cũng có chuyện để tranh cãi. Những cuộc tranh luận thường phát sinh tại nơi mà lý thuyết có vẻ như không ăn khớp với hệ qui chiếu đã được thiết lập. Một số quan điểm bị đa số các nhà khoa học bác bỏ đơn giản chỉ vì tác giả của chúng không thể cung cấp chứng cớ thỏa đáng để biện hộ cho việc triệt để tái thẩm định các quan điểm hiện hành.

Danh vọng và thực chất khoa học Có thể lấy vụ sinh tố C làm thí dụ. Nhà hóa học Linus Pauling (1901-1994) tuyên bố rằng Vitamin C là thuốc trị bá bệnh, không những chỉ có thể chữa khỏi cảm cúm mà còn có thể góp phần chống ung thư và ngăn ngừa bệnh tim. Dù công trình của ông được công nhận trên cơ sở cấu trúc phân tử và nhờ thế ông nhận được giải Nobel Y học năm 1954, nhưng các quan điểm của ông trên vấn đề ấy, nói chung vẫn bị cộng đồng khoa học bác bỏ, trong khi chúng vẫn tiếp tục nổi tiếng trong đại chúng.

Một khi các lý thuyết đã được đưa ra công khai, chúng đều được các nhà khoa học đánh giá. Các thí nghiệm nguyên thủy của nó được lặp lại ở nơi khác để xem liệu có thể sở đắc kết quả giống như thế hay không, vì một khi điều ấy đúng, nó phải có khả năng được lặp lại y hệt. Ðôi khi những nỗ lực ấy đưa tới kết quả mơ hồ, và vì thế người ta nghi ngờ kết quả nguyên thủy của lý thuyết liên hệ.  

Thí nghiệm để tái kiểm tra Hai nhà vật lý học người Mỹ Fleischmann và Pons đưa ra lời tuyên bố rằng họ đã thành tựu bước đột phá trong cuộc tìm kiếm sự phân hạt nhân nguội, nghĩa là khả năng chế tạo nguồn cung cấp vô hạn năng lượng bằng cách tạo ra sự phân hạt nhân trong điều kiện phòng thí nghiệm bình thường.

Lời tuyên bố ấy gây xôn xao khắp nơi vì nói chung, cho tới nay, sự phân hạt nhân chỉ có thể tiến hành trong điều kiện cường độ năng lượng rất mạnh của máy gia tốc hạt, và trong các điều kiện ấy, năng lượng phát sinh quá ít ỏi so với số năng lượng rất lớn được sử dụng để làm thí nghiệm. Nếu tìm thấy sự phân hạt nhân nguội là khả thi, rõ ràng đó là một cuộc cách mạng trong việc con người sử dụng năng lượng hạt nhân.

Lời tuyên bố ấy được cộng đồng khoa học đón nhận với sự hoài nghi đáng kể. Các thí nghiệm ấy được nhiều nhà khoa học khác nghiên cứu và lặp lại nhiều lần. Tuy thế, chưa ai có thể cung cấp bất cứ sự xác nhận chắc chắn nào. Người ta đưa ra giả định là trong các cuộc thí nghiệm ấy hẳn có điều gì đó sai lạc nếu các kết quả của chúng không ăn khớp chút nào với tri thức khoa học hiện hành. Tuy thế, vấn đề ấy hiện vẫn bỏ ngỏ cho tranh luận, và cuối cùng, biết đâu chúng ta có thể thấy rằng sự phân hạt nhân nguội là khả thi.

Nghiên cứu khoa học và ứng dụng Các nhà khoa học phải kiếm sống. Một số được hoạt động trong các trường đại học, do đó, về mặt lý thuyết, họ có toàn quyền thăm dò các lý thuyết của mình mà không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài. Ngược lại, người ta đòi hỏi họ phải cho thấy có sự tiến bộ thật sự trong công cuộc nghiên cứu, để có thể tiếp tục thu hút sự tài trợ. Ngoài ra, nguồn tài trợ cho các nghiên cứu ấy thường có xuất xứ từ thế giới thương mại, do đó nó không hoàn toàn vô tư.

Các nhà khoa học khác được thu dụng vào làm việc trong các ngành kỹ nghệ khác nhau. Công tác của họ là tìm cho ra nền tảng khoa học và tạo khả năng cho doanh nghiệp mà ngành kỹ nghệ ấy đang tìm cách tăng tiến. Họ không dấn thân vào "khoa học thuần túy" – hiểu theo nghĩa một cuộc truy tầm tri thức đơn thuần, không thèm lưu ý tới công dụng của nó – mà là khoa học bị đưa vào ứng dụng của kỹ nghệ. Công tác của họ có tính thỏa hiệp giữa khoa học và kỹ thuật; họ tìm kiếm căn bản trên những gì kỹ thuật có thể triển khai để thành tựu cái có thể mang lại lợi nhuận trên thương trường. 

Một tình thế khó xử Một nhà khoa học làm việc cho một công ty dược phẩm. Sau một thời gian ra sức nghiên cứu phương thuốc mới để chống lại một căn bệnh, ông nhận thấy bệnh ấy được chữa trị tốt nhất bằng cách chỉ việc uống nước trái cây nguyên chất. Nếu nói ra kết luận đó, có thể ông sẽ bị mất việc. Vì thế, nhà khoa học ấy dự tính tiến hành như sau:

a. Tách thành tố từ trong nước trái cây có công dụng chữa trị thực sự;

b. Tổng hợp thành tố ấy theo các điều kiện phòng thí nghiệm;

c. Tranh thủ kỹ thuật để sản xuất và tiếp thị thành tố tổng hợp ấy dưới dạng thuốc viên.

Cuối cùng, bản thân nhà khoa học đó có thể tìm được chức vụ thích đáng trong một công ti tiến hành sản xuất và tiếp thị loại dược phẩm chỉ vỏn vẹn là "nước trái cây" ấy.

Khoa học và lợi nhuận Càng ngày, khoa học càng tìm kiếm nguồn tài trợ từ giới thương mại. Thế nhưng nguồn tài trợ thương mại lại tìm kiếm các sản phẩm mới và các ý tưởng mới để triển khai những gì nó trông mong sẽ thu lợi tối đa. Các triết gia, như Bacon và Hume, quả quyết rằng cuộc truy tầm tri thức nên là một cuộc tìm kiếm phi lợi nhuận. Thật thế, sự kiện một nhà khoa học giữ vững quan điểm để sở đắc sự đối đãi trọng hậu từ một kết luận đặc thù nào đó cho cuộc khảo cứu của mình, cho ta cho thấy rõ rằng ta nên ứng xử với loại kết quả ấy bằng một thái độ thận trọng nào đó.

Chúng ta đã thấy ở đoạn trên rằng không thật sự có các sự kiện hoàn toàn thoát khỏi sự thông giải của nhà khoa học, và tình trạng mắc mứu ấy, một khi bị gắn liền với động cơ cá nhân, sẽ biến khuynh hướng thiên về kết luận có lợi nhất cho bản thân thành nguy cơ thật sự cho tính khách quan của khoa học.

 

Tóm kết

Tới đây, ta có thể tóm lược các ý kiến vừa nêu bằng một số điểm như sau:

1. Triết học không thể quyết định thông tin nào là hữu dụng cho khoa học vì triết học không thể cung cấp dữ liệu.

2. Triết học khảo sát sự sử dụng các dữ liệu khoa học và các quá trình luận lý qua đó thông tin ấy trở thành cơ sở cho các lý thuyết khoa học.

3. Quan trọng nhất, triết học có thể nhắc nhở các nhà khoa học rằng các sự kiện bao giờ cũng bao hàm thành tố thông giải. Các sự kiện là sản phẩm của tâm trí tư duy trong khi bắt gặp chứng cớ ngoại tại, do đó, chúng chứa đựng cả chứng cớ lẫn cái khung tâm thức mà qua trung gian ấy chứng cớ được hiểu rõ và được đặt liền với nhau.

Một chút suy tưởng Chúng ta có thể nói điều gì và không thể nói điều gì về thế giới này? Trong cuốn Tractatus logico-philisophicus (Chuyên luận về triết học luận lý, 1921), Ludwig Wittgenstein đưa ra quan điểm rằng một trong các chức năng của ngôn ngữ là hình dung thế giới. Ông bắt đầu với lời phát biểu táo bạo rằng "Thế giới là mọi sự đúng y như thế" (Tractatus 1), và ông đặt những gì có thể nói ngang với những gì khoa học có thể bày tỏ, rằng "‘Tổng số của những mệnh đề đúng là toàn bộ của khoa học tự nhiên" (Tractatus 4.11).

Tuy nhiên, sách ấy kết thúc với lời thừa nhận rằng khi đạt tới bí nhiệm – cảm giác có tính trực giác về thế giới như một toàn bộ – thì ngôn ngữ thua cuộc; chúng ta phải giữ im lặng! Cái được "nhìn thấy" trong khoảnh khắc bí nhiệm ấy thì không thể "hình dung". Không thể diễn tả nó theo lối nói phàm tục. Ý tại ngôn ngoại: Lời không với tới ý!

Wittgenstein chỉ tới các sự vật khác không thể diễn tả thành lời – cái tôi chủ thể, "nó nhìn thế giới nhưng nó không thuộc phần thế giới ấy" và thậm chí cái chết, "chúng ta không sống để trải nghiệm cái chết". Do đó, Wittgenstein đặt giới hạn cho những gì có thể nói thành lời, và như thế ông cũng có hàm ý đặt luôn cho cả khoa học.

Tư tưởng ấy của Wittgenstein có thể thúc bách chúng ta phải tự hỏi:

1. Không phải vũ trụ học hiện đại là quá đổi "bí nhiệm" sao? Không phải nó đang tìm cho ra các hình ảnh – bao gồm hình ảnh vụ nổ Big Bang – để qua đó trình bày các biến cố rất khác với những gì trần thế trải nghiệm và nó ít dùng tới ngôn ngữ phàm tục theo nghĩa đen sao?

2. Không phải khoa học đôi khi đòi hỏi các bước nhảy vọt tưởng tượng vượt quá bên kia bằng cớ, theo thông tin của các hệ qui chiếu mới trong đó công trình chi tiết và sự tính toán có thể tiếp đó tìm được chỗ đứng sao?

3. Trực giác có vị trí gì trong tiến trình khoa học. Giống với con mắt trông thấy mọi sự mà không trông thấy chính nó, có phải trực giác có thể làm trụ cốt cho phần lớn khoa học mà không bao giờ chiếu dọi trực tiếp bản thân nó?

Giao tiếp đạo đức học Khoa học cống hiến một thế giới quan rất phong phú và thú vị. Bạn bắt đầu bằng hành động xem xét ý tưởng rằng vật chất là tập hợp của các lực hạt nhân chứ không phải là cái gì đó rắn đặc có thể sờ mó, hoặc bạn bắt đầu với ý tưởng rằng vũ trụ trải rộng từ không-thời-gian đơn nhất tính, đang tạo ra không gian và thời gian của chính nó, như nó vốn thế, khoa học hiện đại dường như mâu thuẫn với các khái niệm theo cảm quan chung (commonsense notions). Tuy thế, trong khi làm điều đó, nó thật sự giũ cho chúng ta sạch mọi giả định bình thường và nó làm cho chúng ta nhận biết rằng thế giới không đơn giản như vẻ ngoài của nó. Trong vấn đề này, khoa học hành động y hệt triết học: giũ sạch các giả định và khảo sát cơ sở của những gì được phát biểu.

Tuy thế, tác động của khoa học lên cuộc sống không bị giới hạn trong tri thức thuần lý thuyết; nó có những hệ quả thực tiễn. Qua sản phẩm của kỹ thuật, khoa học nêu lên những chủ đề luân lý, từ cấy ghép bộ phận cơ thể con người và kỹ thuật di truyền học cho tới vũ khí hạt nhân, và như thế, tự nó đưa nó tới giao tiếp với một ngành khác của triết học, đó là đạo đức học (ethics).

  
Nguyễn Ước

 

Ngươi không là  tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất Hạnh)

TƯ TƯỞNG

Lê Minh Văn: Về một NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.