SOCRATE
TỰ BIỆN VU
Tác giả: Platon.
Nguyên tác : Apologie de
Socrate.
Người dịch: Phạm Trọng Luật.
PHẦN HAI
Sau khi toà
tuyên án có tội và mời ông tự định một hình phạt để thay thế
bản án tử hình mà bên nguyên đề nghị, Socrate yêu cầu được
phụng dưỡng tại công đường thành quốc.
Thưa quý
công dân Athènes, lời tuyên án vừa rồi của quý vị không làm
Socrate phẫn nộ bao nhiêu vì nhiều lý do, trong đó phải nói
rằng nó không bất ngờ chút nào đối với kết cục tôi chờ đợi.
Điều còn làm tôi ngạc nhiên hơn là sự chênh lệch giữa hai số
phiếu; thú thật rằng tôi không ngờ mình bị kết án bởi một đa
số yếu như thế, bởi vì nếu tôi tính đúng, chỉ cần có sự xê
dịch của 30 phiếu là trắng án. Như vậy, tôi có thể tự hào đã
thoát tay Mélètos, không những thế, hiển nhiên là nếu Anytos
và Lycon đã không cùng đứng lên để buộc tội, thì y đã phải
trả 1000 đrắc tiền phạt vì không hội đủ một phần năm tổng số
phiếu
[01].
Dù sao,
Mélètos đã khép Socrate vào tội chết. Tốt thôi! Về phần tôi,
thưa quý công dân Athènes, tôi phải tự kết mình vào tội gì?
Hiển nhiên phải là một tội tương xứng với điều tôi đáng
hưởng – song đấy là điều gì? Nhục hình nào, hình phạt nào
tôi đáng nhận hưởng? Tôi, kẻ không ngừng tự đặt cho mình
nguyên tắc suốt đời phải xem thường, thay vì háo hức tìm
kiếm như bao kẻ khác, hoặc của cải tư lợi, hoặc quyền chức
chính trị hay phẩm hàm quân sự, hoặc bất cứ thứ danh vọng
nào khác. Tôi, kẻ chưa bao giờ tham gia một âm mưu hay toan
tính đảng phái nào vốn tràn ngập nền cộng hoà này, tự nghĩ
mình quá lương thiện để có thể vong thân trong loại manh
động ấy. Tôi, kẻ đã gác qua một bên ngay cả sinh kế khi tự
thấy làm thứ công việc ấy mình chẳng hữu ích gì cho cả quý
vị lẫn bản thân, mà chỉ giữ lại mối bận tâm duy nhất là mang
đến cho mỗi cá nhân quý vị điều tôi xem là nghĩa vụ cao quý
nhất: khuyến khích từng người khoan bận bịu về những gì chỉ
tùy thuộc quý vị một cách ngẫu nhiên trước khi lo nghĩ đến
phần tinh anh của mình, đến điều có thể giúp quý vị sống đời
đạo hạnh và hiểu biết, khoan đôn đáo chuyện thành quốc trước
khi lo nghĩ về thành quốc, và luôn luôn giữ nguyên tắc cùng
trật tự ấy trong tất cả mọi lĩnh vực còn lại?
Thưa quý
công dân Athènes, đấy là hành trạng của Socrate, và nó xứng
đáng được hưởng gì, nếu quý vị thực là người công chính? Một
phần thưởng, hơn thế nữa, một phần thưởng thích đáng với tôi
[02].
Mà cái gì có thể tương xứng với một ân nhân nghèo túng của
quý vị, cần có đủ rảnh rỗi để chỉ chăm lo đến việc khuyên
nhủ quý vị một cách bổ ích thôi? Thưa quý đồng hương, đối
với một người như vậy, chẳng có chi thích đáng hơn là được
chiêu đãi tại công đường thành quốc
[03].
Và chắc chắn là xứng đáng hơn bao lực sĩ đã thắng giải đua
ngựa, hoặc đua xe hai ngựa hay bốn ngựa trong các kỳ thi
điền kinh ở Olympie, bởi vì họ chỉ mang lại cho quý vị chút
hạnh phúc hời hợt bên ngoài, trong khi tôi chỉ cho quý vị
đâu là chân hạnh phúc, và họ có phương tiện sống trong khi
tôi chẳng có chi cả. Vậy thì, nếu phải tuyên cáo điều tôi
đáng nhận hưởng một cách hoàn toàn công chính, xin nói thẳng
với tất cả mọi người: tôi xứng đáng được phụng dưỡng tại
công đường thành quốc.
Nói như
thế, có thể Socrate tôi sẽ bị buộc tội đã ngạo mạn thách
thức quý vị, như khi bài bác chuyện van xin than khóc ban
nãy. Nhưng không phải thế đâu, thưa quý đồng hương; đây mới
là lý do thực sự. Tôi hoàn toàn tự biết mình chưa hề làm
điều gì bất công với ai một cách cố ý, nhưng quý vị từ chối
tin tôi, bởi vì chúng ta có quá ít thời giờ để bàn cãi. Nếu
luật pháp thành quốc đòi hỏi phải xét xử loại tội phạm có cơ
dẫn đến án tử hình ít ra trong vài ngày như ở nhiều nơi
khác, hẳn tôi đã có thể đánh đổ những điều vu khống thâm căn
cố đế trong tâm trí quý vị, thay vì đành chịu không thuyết
phục nổi quý vị trong vài giờ như ở đây. Biết chắc rằng mình
chưa bao giờ làm hại ai, có lý nào bây giờ Socrate tôi lại
tự làm hại chính mình, không những thú nhận đáng bị trừng
phạt, mà còn tự đề nghị cho mình cả hình phạt nữa. Nhưng có
gì đáng sợ mới được cơ chứ! Bản án tử mà Mélètos đòi chụp
lên đầu tôi chăng, khi tôi đã nói rằng chưa biết cái chết sẽ
là điều lành hay dữ, phúc hay họa, hung hay kiết? Chẳng lẽ
để tránh nó, bây giờ tôi lại đi chọn và bắt mình chịu đựng
một hình phạt mà tôi biết chắc chắn là điều hung!
Gông cùm ư?
Nhưng tại sao Socrate lại phải sống trong tù, làm tôi mọi
cho mười một viên cai ngục
[04]
thay phiên nhau thị uy sai khiến? Chịu tiền phạt và ngồi tù
cho đến khi trả hết nợ chăng? Thế thì cũng chẳng khác chi,
vì tôi làm gì có tiền để trả. Đi đày ư? Có thể là quý vị
chấp thuận đấy, nhưng phải thật là tham sinh úy tử đến độ
đui mù tôi mới có thể nghĩ rằng người xứ khác có thể chịu
đựng được dể dàng nếp sống và cách nói năng của mình, trong
khi chúng đã trở thành sai quấy và ghê tởm đến độ ngay cả kẻ
đồng hương như quý vị mà còn không chịu đựng nổi và nay tìm
cách khai trừ. Socrate tôi đâu mù quáng đến mức ấy, thưa quý
công dân Athènes. Mà quả thật, đấy sẽ là một cuộc đời chao
ôi là đẹp đối với tôi, nếu phải rời bỏ quê hương vào tuổi
này để lang thang hết thành nọ đến xứ kia và sống như kẻ
phát vãng. Bởi vì tôi biết rằng, đi đến đâu, lớp trẻ cũng sẽ
đến nghe tôi như ở đây; và nếu tôi xua đuổi thì chính họ sẽ
nhờ người lớn tuổi hơn trục xuất tôi; còn nếu như tôi không
xua đuổi, bố mẹ hay thân nhân họ rồi cũng sẽ mượn cớ bảo vệ
họ để đòi trục xuất.
Đến đây, có
người sẽ nói với tôi: Này Socrate, khi sang đất khách, bộ
ông không ngồi yên một chỗ và câm miệng lại được sao? Nhưng
đấy mới chính là điều tôi không thể nào làm cho phần đông
quý vị hiểu được. Bởi vì nếu tôi lại trả lời rằng làm như
thế là bất tuân lời Thần, và vì vậy tôi không thể nào ngậm
miệng yên vị một chỗ, quý vị sẽ không tin mà còn tưởng tôi
giễu cợt. Hơn nữa, nếu tôi còn nói thêm rằng bàn luận mỗi
ngày về đức hạnh và những điều quý vị vẫn thường nghe tôi
phát biểu là điều lợi ích và hạnh phúc nhất trong đời người,
rằng phải tự xét mình và xét người bởi vì sống không xét
nghiệm không đáng gọi là sống, thì quý vị lại càng không tin
nữa. Tuy nhiên, nó là sự thật đấy, thưa quý đồng hương, dù
chẳng dễ gì mà thuyết phục quý vị.
Mặt khác,
Socrate không có thói quen tự xử mình đáng nhận bất cứ tai
vạ nào. Nếu giàu có, tôi sẵn sàng nộp món tiền phạt đến mức
phải trả, bởi vì nó cũng chẳng hại gì
[05].
Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay... tôi không làm gì ra tiền,
trừ phi quý vị chỉ phạt tôi đến mức có đủ sức trả; và vì tôi
chỉ trả nổi cao lắm là 1 min, tôi đề nghị trả 1 min tiền
phạt. Dù rằng Platon đứng kia, cùng với Criton, Critobule và
Apollodore muốn tôi trả đến 30 min và sẵn sàng bảo đảm. Vì
vậy, tôi tự kết án phải trả 30 min tiền phạt
[06],
và xin giới thiệu với quý vị những người bảo lãnh hoàn toàn
có khả năng thanh toán.
PHẦN BA
Sau khi lại bị
kết án tử hình với một đa số cao hơn, Socrate phát biểu với
những kẻ đã kết tội và những người bênh vực ông trong phiên
xử.
Thưa quý
công dân Athènes, chỉ vì thiếu kiên nhẫn, quý vị đã tạo cơ
hội cho người đời bêu rếu nền cộng hoà; họ sẽ nói rằng quý
vị đã giết Socrate, một người hiểu biết, bởi vì dù không
đúng họ cũng sẽ nói tôi là người hiểu biết để sỉ nhục quý vị
nặng nề hơn nữa. Chỉ cần chờ thêm ít lâu, cái chết của tôi
tự khắc sẽ đến, bởi vì nhìn xem, tôi đã ở vào tuổi gần đất
xa trời rồi. Tôi không chê tất cả mọi người ở đây như thế,
mà chỉ riêng những kẻ đã khép tôi vào tội chết. Và cũng chỉ
với họ thôi, tôi xin nói tiếp đôi điều sau đây.
Có lẽ quý
vị nghĩ rằng Socrate đã bị kết tội vì không tìm ra lời lẽ,
thứ lời lẽ có đủ sức thuyết phục quý vị, nếu như tôi tin
rằng bổn phận của mình là phải làm hết mọi cách, kể lể đủ
chuyện hòng thoát chết. Không phải thế đâu, thưa quý đồng
hương. Tôi không thiếu lời lẽ mà chỉ thiếu trâng tráo: tôi
bị kết tội vì không chịu nói những điều tai quý vị đã quen
nghe, vì không muốn than khóc và hạ mình làm những chuyện
hèn hạ mắt quý vị đã quen thấy. Đối với tôi, nguy nan phải
đương đầu không thể là lý do để làm điều bất xứng với một
con người tự do, và ngay cả đến lúc này, tôi không hề hối
tiếc đã tự bênh vực như vừa rồi; thà chết mà tự vệ như tôi
đã làm còn hơn là sống sót nhờ một bài tự biện hèn hạ. Khi
đứng trước toà cũng như lúc lâm trận, dù là tôi hay ai khác
cũng không được phép dùng bất cứ phương tiện nào để thoát
chết. Ai cũng biết rằng muốn cứu thân mình nơi trận địa
chẳng có chi là khó, chỉ cần vất bỏ vũ khí và van xin kẻ
đuổi theo tha mạng. Cũng thế, trước mọi hiểm nguy, một khi
đã nhất quyết nói và làm bất cứ chuyện gì, người ta có thể
tìm ra nghìn cách xoay xở hầu tránh cái chết.
Có điều,
thưa quý công dân Athènes, tránh cái chết không phải là điều
khó nhất, tránh cái ác còn khó hơn bội phần, bởi vì tội ác
chạy nhanh hơn cả tử thần
[07].
Vì vậy, người già cả nặng nề như Socrate mới bị đứa chậm
chân bắt kịp, trong khi kẻ buộc tội tôi, nhẹ nhàng và khoẻ
khoắn hơn, đã bị đứa nhanh chân là tội ác túm lấy. Giờ đây
tôi sẽ ra đi, với án tử hình của toà án này; nhưng rồi họ
cũng sẽ ra đi, đeo theo tội bất công và độc ác của toà án
chân lý. Tôi giữ lấy hình phạt của tôi, họ giữ lấy tội trạng
của họ. Có lẽ sự việc đã tiến triển đúng như nó phải xảy ra,
và đối với tôi, không thể nào suôn sẻ hơn.
Như vậy,
mọi việc đã an bài. Nhưng hỡi những kẻ kết tội Socrate, đây
là điều tôi báo trước với quý vị, bởi vì hiện tôi đang ở
vào cảnh ngộ đọc được tương lai rõ nét nhất của người sắp
lìa đời. Xin cảnh báo rằng, ngay sau khi giết tôi, quý vị sẽ
phải chịu một hình phạt độc địa hơn cả cái án chết mà quý vị
đã buộc vào tôi. Thật ra, quý vị chỉ giết tôi để tự giải
thoát khỏi cái gánh nặng rất khó chịu là cứ phải xét nghiệm
đời mình; nhưng rồi xem, tôi nói trước rằng những gì sắp xảy
ra sẽ hoàn toàn trái ngược với điều quý vị hy vọng. Quý vị
sẽ phải đương đầu với một số người khảo hạch đông đảo mà quý
vị không ngờ rằng cho đến nay tôi vẫn cố cầm giữ, và càng
trẻ họ càng hung hăng hơn, càng làm quý vị khó chịu hơn
[08].
Thật là sai lầm nếu quý vị nghĩ rằng chỉ cần giết người là
trốn thoát lời chê trách sống không xét nghiệm. Cách loại bỏ
sự kiểm tra ấy vừa bất chính vừa bất khả thi, cách vừa chính
đáng vừa dễ dàng là, thay vì tìm cách bịt miệng kẻ khác, hãy
tự tu thân sửa tánh. Đấy là điều tôi thấy cần cảnh báo những
ai đã kết tội tôi. Bây giờ tôi xin kiếu.
Nhưng thưa
những công dân Athènes đã bỏ phiếu xoá án tôi, Socrate sẵn
sàng đàm luận tiếp với quý vị về chuyện xảy ra, trong khi
người ta chưa đưa tôi đến nơi chờ chết vì còn bận bịu việc
toà. Chúng ta hãy tĩnh tâm một lúc và dùng khoảng thời gian
còn lại để cùng đàm luận. Tôi muốn kể quý vị nghe như với
bạn hữu chuyện kỳ lạ đã xảy ra cho tôi hôm nay, và giải
thích với quý bạn ý nghĩa của nó. Vâng, thưa quý thẩm phán
(khi gọi như thế, tôi chỉ trả lại quý vị một danh nghĩa
chính đáng), tôi vừa trải nghiệm điều khác thường sau. Cái
tiếng nói quỷ thần suốt đời vẫn luôn luôn văng vẳng bên tai,
không bỏ lỡ một dịp nào dù nhỏ đến đâu để can ngăn mỗi khi
tôi có ý định làm điều gì sai trái, hôm nay lại giữ im lặng,
trong khi tôi phải đương đầu với điều mà mọi người có thể và
trên thực tế đều cho là nỗi bất hạnh lớn nhất như quý vị
biết đấy. Nó không cản tôi khi ra khỏi nhà sáng nay, khi
bước ra trước tòa, khi đang phát biểu hay sắp nói điều gì,
dù vẫn có thói quen ngắt lời tôi giữa chừng trong mọi hoàn
cảnh bình thường khác. Tại sao hôm nay nó lại không ngăn
chận bất cứ hành động nào, lời lẽ nào của tôi? Để tôi giải
thích với quý bạn: bởi vì điều xảy ra cho tôi hôm nay có vẻ
như thật là điều lành, và hẳn là chúng ta đã sai lầm khi
tưởng rằng cái chết là nỗi bất hạnh. Đối với tôi, bằng chứng
hiển nhiên là nếu tôi lỡ làm điều chi sai trái, thì cái
tiếng nói ấy đã lên tiếng cảnh báo.
Còn vài lý
do khác để nghĩ rằng cái chết là điều lành. Nó chỉ có thể là
một trong hai ngả sau: hoặc là sự hủy diệt tuyệt đối và tiêu
tan hoàn toàn của ý thức, hoặc chỉ đơn giản là sự chuyển dời
của linh hồn từ cõi này sang cõi khác như người ta nói
[09].
Nếu cái chết là sự tước bỏ mọi cảm thức, một giấc ngủ không
chiêm bao, thì nó sẽ là hạnh phúc tuyệt vời phải không quý
bạn? Bởi vì, ai đó trong quý vị cứ chọn lấy một đêm dài đẫy
giấc không bị mộng mị quấy rầy, và so sánh nó với tất cả
những ngày, những đêm đã lấp đầy đời mình thử xem. Hãy suy
nghĩ rồi tự hỏi xem, liệu trong đời mình đã có được bao
nhiêu lúc sung sướng, êm ả hơn thứ đêm ấy. Tôi tin chắc rằng
không chỉ người thường, mà ngay cả bậc Đại Đế
[10]
cũng chẳng tìm ra bao nhiêu đâu, có thể đếm được trên đầu
ngón tay. Nếu cái chết là một giấc ngủ tương tự, tôi quả
quyết nó không phải là điều bất hạnh, bởi vì cả chuỗi thời
gian vô tận dường như chỉ thu lại còn một đêm trường.
Mặt khác,
nếu cái chết là sự chuyển dời từ trú sở này sang một cõi
khác, và nếu đúng thật như người ta nói, rằng đấy là nơi hẹn
hò của bao người đã từng nghiệm trải cuộc sống trần gian,
còn có thể tưởng tượng được hạnh ngộ nào lớn hơn, thưa quý
thẩm phán? Bởi vì rốt cuộc, nếu đến cõi Hadès mà thoát khỏi
tay những kẻ mệnh danh là quan toà ở đây để gặp các vị thẩm
phán đích thực, những người được xem là luôn luôn thực thi
công lý, như Minos, Rhadamanthe và Éaque
[11]
hay như Triptolème và các vị bán thần khác đã từng sống công
chính suốt đời, thì cuộc hành trình này lại khốn khổ đến thế
hay sao? Chúng ta phải trả cái giá nào để được đàm luận với
Orphée, Musée, với Hésiode, Homère? Riêng tôi, nếu chết mà
được như thế thật, tôi sẵn sàng chết nhiều lần, nhất là nếu
được gặp Palamède, gặp Ajax con của Télamon
[12],
và tất cả những người thời xưa đã chết oan vì là nạn nhân
của các bản án bất công! Trò chuyện với họ, rồi so sánh
những gì đã xảy ra cho họ và cho bản thân mình, thú vị đấy
chứ! Nhưng có lẽ thú vui lớn nhất của tôi, ở đấy cũng như ở
đây, vẫn lại là dùng cả đời mình vào việc chất vấn và xem
xét mọi nhân vật mà tôi gặp trên đường, để phân biệt ai là
người hiểu biết, ai là người chỉ tưởng mình thông thái mà
không thực hiểu biết. Phải trả cái giá nào, thưa quý thẩm
phán, để có thể khảo sát Agamemnon, vị tướng đã thống lãnh
cả một đội quân hùng hậu như thế để đánh thành Troie, hay
Ulysse hay Sisyphe, và bao nhân vật nam nữ khác nữa, những
người mà chỉ được sống bên cạnh, được chuyện trò với họ thôi
để quan sát và tìm hiểu, cũng đã là một đại phúc không nói
hết được? Ít ra ở đấy, không ai bị kết án tử hình vì loại
hành động tương tự; bởi vì ngoài cả nghìn lợi thế đã đặt
cuộc sống của họ cao hơn của chúng ta rất xa, cư dân nơi đây
còn hưởng lộc bất tử, nếu đúng như người ta nói.
Vì vậy,
thưa quý thẩm phán, cả quý bạn nữa cũng nên giữ hy vọng
trước cái chết, và lấy chân lý này làm điều tâm niệm: không
ác quả nào có thể xảy đến với người thiện, dù trong đời này
hay sau khi chết, vì thần thánh không bao giờ bỏ rơi họ.
Chuyện xảy ra cho tôi hôm nay không hề là ngẫu nhiên; đối
với tôi, rõ ràng rằng chết vào lúc này và thoát khỏi mọi hệ
lụy của cuộc sống là điều tốt lành nhất; chính vì thế mà cái
tiếng nói quỷ thần kia hôm nay đã im lặng. Tôi không oán hận
gì mấy kẻ đã buộc tội hay nhóm người đã kết án tôi, mặc dù ý
đồ của họ là tìm cách hãm hại tôi chứ không phải mưu cầu
điều lành, và như thế tôi hoàn toàn có lý do để trách móc
họ. Tôi chỉ yêu cầu họ một điều. Khi các con tôi khôn lớn,
nếu quý vị thấy chúng tìm kiếm của cải hay bất cứ thứ chi
khác nhiều hơn là đức hạnh, hãy trừng phạt chúng bằng cách
tra vấn chúng như tôi đã hành hạ quý vị, và nếu chúng vênh
váo tưởng mình đã trở thành cái gì trong khi chúng chưa thực
là gì cả, hãy làm chúng hổ thẹn vì sự vô tâm và ngạo mạn ấy,
như tôi đã dằn vặt quý vị. Nếu quý vị làm được như thế, bố
con chúng tôi xin thực lòng ca ngợi sự công chính của quý
vị.
Nhưng đã
đến lúc chúng ta chia tay nhau, tôi bước vào nẻo chết, và
quý vị trở lại đường sống. Bên nào rồi sẽ nhận lấy số phần
lợi hơn? Đâu ai biết được, chỉ có thần thánh may ra.