Bàn
về Hoài nghi và Lý trí
I. Tín điều căn bản
II. Hoài nghi
III. Tinh thần triết học
IV. Lý trí
I. Tín điều căn bản
Ðức tin vào lý trí
Như đã viết trong Lời nói đầu, cuốn sách này
với những trình bày có giới hạn về các chủ đề triết học chỉ nhằm
tìm cách khêu gợi tính hiếu kỳ của người đọc về một số chủ đề
tạm gọi là cơ bản và có tính định hướng, thay vì cung cấp các
câu trả lời đầy đủ và bảo đảm. Trước khi khép lại chương cuối,
soạn giả xin được bày tỏ tín điều căn bản của mình, đó là đức
tin vào lý trí con người.
Ðức tin rằng khi con người ứng xử với các vấn đề của
mình bằng thái độ thành thật và công chính, và bằng thao tác của
lý trí sao cho phù hợp với thực tế, nó sẽ càng ngày càng tìm
thấy những giải đáp thỏa đáng cho các vấn đề của mình.
Vẫn còn giáo điều
Thật đáng buồn khi chứng kiến vào thiên niên kỷ thứ
ba, ở thời đại mà suốt mấy trăm năm qua, khoa học đã và đang cho
thấy những lợi thế có được từ việc loại trừ các lý thuyết từng
có thời được nó xem là quí báu, dưới ánh sáng của các sự việc
mới mẻ, thế mà vẫn có nhiều người trong các lãnh vực đạo đức,
tôn giáo và chính trị chưa dứt bỏ được giáo điều chủ nghĩa và
chưa khai quang những ách tắc đang nằm ngỗn ngang trên xa lộ tư
tưởng vốn nhiều chiều.
II. Hoài nghi
Tinh
thần hoài nghi
Tinh thần của khoa học là hoài nghi, và thế giới đang cần một
tinh thần hoài nghi mới để đương đầu với những kẻ không những ôm
ấp các ý tưởng cực đoan và giáo điều mà còn sử dụng chúng nhằm
ngăn chận sự hiệp thông của con người và đà tiến của loài người.
Bằng từ ngữ “hoài nghi” chúng tôi không có ý nói tới
chủ trương yếm thế mang tính *khuyển nho (cynicism) hoặc chủ
nghĩa *đả phá thần tượng (iconoclasm). Chúng tôi cũng không có ý
nói tới người gọi là cấp tiến, những kẻ đang nhếch mép cười
khinh dễ và cảm thấy thỏa mãn cơn thôi thúc bệnh hoạn bằng cách
gieo rắc lòng ngờ vực vào những tâm hồn nhạy cảm và trí óc dễ bị
ảnh hưởng.
Chúng tôi lại càng không có ý nói tới *chủ nghĩa
hoài nghi (scepticism) vốn đánh giá cuộc truy tầm chân lý là một
trò chơi điên rồ. Người ta có thể đạt tới một chủ nghĩa hoài
nghi như thế mà không cần phải gắng sức, đồng thời có thể bảo vệ
nó mà chẳng cần chút kỹ năng nào vì luận cứ mạnh mẽ nhất của nó
là tiếng cười khẩy nhạo báng và nền tảng chủ yếu của nó là ngu
dốt.
Hoài nghi và vô minh
Bằng từ ngữ “hoài nghi”, chúng tôi có ý nói tới sự
nhận biết rằng chúng ta có thể sai và rằng cái chúng ta đang gọi
là chân lý rốt cuộc có lẽ chẳng hơn gì các chân lý không thể sai
lầm của một thời quá khứ mà vì chúng nhiều người săn đuổi nhau
và bị săn đuổi, muốn giết người và bị người giết. Dọc theo quá
trình tiến bộ của tư tưởng loài người, các chân lý đó đã bị vứt
bỏ không chút xót thương.
Thái độ hoài nghi chân chính là kẻ thù của vô minh.
Nó là sự đòi hỏi càng ngày càng phải có thêm những thông tin
đáng tin cậy. Người hoài nghi khao khát các sự kiện; y sẽ vứt bỏ
bất cứ lý thuyết nào hoặc hệ tư tưởng nào không thể phù hợp với
các sự kiện. Không có các cứu cánh tối hậu trong cuộc sinh tồn
hữu hạn, cũng không có niềm hy vọng vào một kết thúc tối hậu cho
cuộc chúng ta truy lùng chân lý.
Chân lý với những tươi mới và rộn ràng của nó luôn
luôn nằm trong cuộc tìm kiếm chứ không nằm trong sự sở hữu. Cách
thức duy nhất để kiểm tra cuộc truy tầm phải là tính chất thỏa
đáng và hợp lý trong hệ thống của chúng ta nhằm diễn đạt lương
thiện hết sức có thể được những gì chúng ta đã, đang và sẽ khám
phá.
Hoài nghi và giáo điều
Hoài nghi là kẻ thù của giáo điều. Giáo điều chủ
nghĩa là một lý thuyết tự cho, hoặc ngấm ngầm hoặc trắng trợn,
rằng không thể sai lầm. Có những chủ nghĩa giáo điều khác nhau
và những thẩm quyền thế giá khác nhau của giáo điều chủ nghĩa,
nhưng tựu trung tinh thần của chúng vẫn chỉ là một. Chúng không
dám mạnh dạn phô ra những nguyên lý cơ bản của chúng trước bất
cứ cuộc thẩm tra rốt ráo nào, và chúng co mình lại trước những
đánh giá thẳng thắn và chân thành các kết luận của chúng.
Tận dụng thực tế tâm lý của người bình thường chỉ
muốn yên chí và ổn định, chủ nghĩa giáo điều khai thác lợi thế
ấy để áp đặt lên họ sự nhẹ dạ dễ tin. Trong khi sở đắc lòng
trung thành của người khác, chủ nghĩa giáo điều tìm cách ngăn
trở tâm trí họ. Do đó, xã hội gần như dậm chân tại chỗ trước sự
tiến bộ văn hóa, và lụi tàn dần niềm hứng khởi có được từ những
suy tưởng riêng tư cùng quyết định riêng tư về các chủ đề căn
bản của cuộc sống.
Hoài nghi và mê tín
Hoài nghi là kẻ thù của mê tín. Mê tín là sự kết hợp
rất bất hạnh của giáo điều chủ nghĩa và vô minh. Nó được củng cố
bằng lập luận rằng loài người không thể hành động mà không có
đức tin. Và luận cứ đó được sử dụng với hàm ý rằng nếu chúng ta
dừng lại để khảo sát niềm tin của mình thì chúng ta sẽ không bao
giờ có thể hành động.
Lập luận ấy chỉ đúng ở điểm quả thật trong con người
luôn luôn có chỗ cho đức tin và chúng ta không thể hành động mà
không có một số giả định dùng làm nền tảng cho các hành động của
mình. Tinh thần hoài nghi thấy không cần phải bàn cãi về điểm
đó. Cái mà nó muốn phản bác là sự quả quyết, nhân danh hành
động, rằng nhất thiết phải chấp nhận những tiền đề mà không cần
phải khảo sát.
Những cơ sở của hành động của chúng ta luôn luôn
phải là đối tượng của thẩm tra, vì bản tính của hành động sẽ
phản ánh bản tính của cơ sở chúng. Người ta ít cổ vũ các hành
động đặt cơ cở trên những giả định giả tạo, vì các hành động ấy
cũng sẽ mê lầm không kém những tiền đề của chúng.
Hoài nghi và khoa học
Hoài nghi là tinh thần của phương pháp khoa học.
Khoa học tuyên xưng niềm xác tín vào khả năng sai lầm của nó, và
xem đó như một nguyên tắc căn bản. Ðền thờ các ngôn sứ của khoa
học dành cho những ai không xem là chân lý tối hậu cái không
được thẩm tra và những ai thẩm tra mà không có định kiến về cái
sẽ là kết quả.
Nhà khoa học chân chính quan tâm tới việc kiểm tra
các giả định của mình, tìm kiếm những thí dụ phủ định để tự bác
bỏ lý thuyết của mình, và hoan nghênh các ý kiến phê phán của
các nhà khoa học đồng nghiệp. Trong khoa học không có sự chắc
chắn tuyệt đối, không có những nguyên tắc tất yếu phải duy trì,
chống lại các sự kiện hoặc chống lại thực tế. Nhà khoa học quan
tâm tới sự tăng tiến của tri thức hơn là tới việc tuyên bố các
chân lý không thể sai lầm.
Hoài nghi và triết học
Hoài nghi là thái độ đặc trưng của triết học trong
điều kiện tốt nhất. Triết học là mạo hiểm, là cuộc truy tầm chân
lý dưới sự hướng dẫn của lý trí. Ngay cả những kẻ phủ định giá
trị của lý trí như một công cụ của tri thức cũng phải đặt căn
bản các kết luận của họ trên những lập luận hợp lý. Vì vũ trụ
quá đổi bao la mà tâm hồn con người lại rất hữu hạn cho nên
triết học chỉ còn biết kỳ vọng vào tính khả thi trong các kết
luận của nó, và tính khả thi ấy chỉ có thể là sản phẩm của tư
duy.
Triết học tiến hành bằng thao tác có tính phê phán
theo với những suy tưởng của nó trong đức tin rằng chân lý, cái
có thể sở đắc, sẽ là phần thưởng cho nỗ lực hợp tác, và rằng con
người sẽ ngày càng cao quí và danh giá hơn nhờ tự do và thẩm tra
có tính phê phán. Ðối với những ai có thể phản bác rằng con
người không thể nào đạt tới các cùng đích ấy, triết gia hẳn chỉ
có một câu trả lời rằng chẳng còn cách nào khác.
Nếu đây là con đường thất bại thế thì loài người bị
bắt phải thất bại. Lịch sử của loài người đã và đang khẳng định
ý kiến rằng cho dẫu có thất bại cũng vẫn tốt hơn những cái gọi
là thành công của chủ nghĩa giáo điều và mê tín, vì nó đã được
triển khai với một tâm trạng bao dung độ lượng và một sự hiểu
biết sâu xa đầy êm ái.
III. Tinh thần triết học
Tra vấn tra vấn và tra vấn
Dù phải tiếp tục phê bình các giả định của khoa học,
các triết gia hiện đại tự xếp mình chung một hàng ngũ với khoa
học gia, không chỉ vì chất liệu họ sử dụng mà còn vì tinh thần
cần phải tra vấn liên tục. Hẳn vô ích nếu làm một cuộc dạo chơi
trong lịch sử để tìm cho ra giữa khoa học gia và triết gia ai đã
dạy cho ai tinh thần tra vấn chân chính.
Có nhiều chứng cớ cho thấy tinh thần tra vấn chân
chính là di sản của một quá trình lịch sử triết học lâu dài. Vì
ngày nay, nhà khoa học gần gũi với lòng ái mộ của quần chúng và
công trình của họ đem lại kết quả trước mắt nên hầu hết các nhà
triết học sẵn lòng từ bỏ cuộc tranh luận xem ai là kẻ khởi
xướng, và xếp mình chung hàng ngũ với những ai cho thấy giá trị
dồi dào của khoa học.
Không bảo thủ và thành kiến
Trong các cuộc thẩm tra, triết gia phải giữ thái độ
không thành kiến hết sức có thể được. Y hẳn không bắt đầu với
những kết luận phải được duy trì bằng mọi giá, ngay cả việc
chống lại chứng cớ; y sẵn sàng sửa đổi lý thuyết của mình khi
thực tế đòi hỏi. Chúng ta phải chỉ có vỏn vẹn một sở thích, đó
là tình yêu chân lý.
Triết gia bảo lưu quyền thách đố ý nghĩa của các sự
kiện hoặc các hàm ý của chúng trong những lãnh vực khác nhưng tự
thân các sự kiện thì ở quá bên kia tầm phán đoán của y. Chúng ta
phải nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại rằng triết học không phải là một
giáo điều (dogma) hoặc một chuỗi các giáo điều cần phải duy trì
để chống lại những kẻ bất trung, mà là nỗ lực chân thành nhằm
thông giải mọi thông tin có sẵn thành một hình ảnh nhất quán và
toàn diện của vũ trụ.
Tìm câu trả lời chính xác
Tìm cho ra câu trả lời là điều quan trọng và quan
trọng nhất là có câu trả lời chính xác. Cái đó, không còn cần
phải bàn. Vì thế, nếu muốn đối mặt một cách trí tuệ với cuộc
đời, chúng ta phải thắc mắc xem các câu trả lời của mình có thật
sự chính xác không. Một khi tự đặt cho mình câu hỏi ấy, ta thấy
không dễ có câu trả lời bảo đảm.
Ngang đây, chúng ta có thể thấy việc đọc sách, giống
như du lịch, mở rộng các sở thích và quan tâm của mình, đồng
thời gợi ra những nghi ngờ về tính chất không bao giờ sai lầm
của các ý kiến của chính mình. Ðối với những kẻ ôm chặt niềm tin
của họ, cách duy nhất là họ từ chối xem xét ý kiến của những
người khác.
Trong cuốn Apperance and Reality (Vẻ ngoài và
thực tại, 1893), F.H. Bradley, một trong những triết gia được
kính trọng nhất của nước Anh, đã viết rằng: “Thế hệ hiện nay
biết rằng để sở hữu giáo dục, con người phải học nhiều hơn một
ngôi trường”. Cuốn sách này sẽ đạt được mục đích của nó nếu nó
có thể giúp cho bạn đi tới kết luận rằng có đối với các vấn đề
căn bản của cuộc đời, ta có nhiều hơn một câu trả lời để con
người tùy nghi suy tưởng và chọn lựa.
Nhất quán và toàn diện
Khi bắt đầu nghiên cứu các hệ thống khác nhau, rất
có khả năng chúng ta sẽ bị ấn tượng bởi cung cách trang trọng
của các tác giả khi trình bày quan điểm của họ cùng sự chắc nịch
trong các lập lụận được họ đưa ra để hậu thuẫn cho quan điểm của
mình. Họ làm cho người đọc tin vào chân lý của các kết luận của
họ, không kém chúng ta làm đối với của chúng ta.
Các hệ thống có những kết luận mâu thuẫn nhau thì
hoàn toàn không có khả năng đúng. Chúng ta phải tự mình quyết
định cho mình. Nếu trang trọng theo đuổi chân lý, chúng ta phải
thắc mắc rằng trong những cái đó, cái nào đúng. Chúng ta phải đi
tới kết luận rằng nếu có hệ thống nào khác đúng thì cái của mình
là sai, và chúng ta buộc lòng phải duyệt xét lập trường của
mình.
Viễn cảnh ấy thường khiến cho người ta cảnh giác sâu
xa cho tới khi hoàn tất việc duyệt xét. Lúc đó, họ sẽ cảm thấy
đầy tràn niềm mãn nguyện trí thức với lập trường mới mẻ của
mình. Tại phương Tây có một câu cách ngôn độc đáo, mà ngày nay
cũng có thể áp dụng cho cả phương Ðông, rằng: “Kẻ cải giáo là
người ngoan đạo nhất”.
Có duyệt xét mới tiến bộ
Với tác động của tinh thần hoài nghi, việc duyệt xét
các niềm tin không hề là việc không tốt. Dù nền văn minh hiện
đại có nhiều điều đáng phàn nàn nhưng ta phải thừa nhận rằng nó
biểu hiện một nền văn hóa cao hơn thời con người nguyên thủy.
Trình độ phát triển này không xuất hiện do bởi ngẫu nhiên. Các
cơ sở của khoa học, tôn giáo và đạo đức thủ cựu phải bị phân hủy
bởi dung dịch cường toan của tinh thần hoài nghi để mở đường cho
các khái niệm thỏa đáng hơn.
Hầu hết chúng ta đều đồng ý rằng các bộ luật thời
hiện đại nhân đạo hơn luật *Mô-sê với “mắt đền mắt, răng đền
răng” hoặc các bộ luật của các triều đại phong kiến trước đây,
trong đó có luật nước Anh đòi lên án tử hình các thiếu nhi phạm
pháp. Ðể có những biến đổi như thế, con người phải tranh đấu và
thông thường phải mua chúng bằng giá máu của mình. Hầu hết chúng
ta cũng đồng ý rằng Kitô giáo cống hiến một khái niệm về Thượng
đế làm mãn nguyện lòng người hơn so với các tôn giáo tiền-Kitô
tuy nhiều người phải đem cái chết của mình ra để thách đố các hệ
thống thủ cựu hơn.
IV. Lý trí
Vấn đề
chứng cớ
Ðể có khả năng thể hiện tinh thần hoài nghi và tiếp
tục sống với nó không phải là chuyện dễ dàng. Nhưng phát xuất từ
sự nghi ngờ, con người đã đạt được những câu trả lời vừa lòng
hơn. Ðối với triết gia, không niềm tin nào thiêng liêng trừ niềm
tin vào chân lý. Và để trả lời các câu hỏi do chính chúng ta đặt
ra, không đáp án nào tất yếu phải đúng vì có ai đó đã đưa ra như
thế. Tất cả là vấn đề chứng cớ.
Như Giáo sư Georg Misch của Ðại học Harvard viết
trong cuốn The Dawn of Philosophy (Bình minh của triết
học, 1951) rằng: “Ở nơi [triết học] thao tác, không câu trả lời
nào được lập sẵn, và không lời quả quyết có tính truyền thống
nào có thể làm yên ắng những chất vấn của con người một khi y đã
thức giấc cùng với những đòi hỏi phải có bảo đảm của y – quả
thật, nếu để ý tới tính giáo điều chủ nghĩa của những câu trả
lời hoặc những lời tuyên bố, y sẽ thấy rằng không câu trả lời
nào do người ta cung cấp có thể biện minh cho chúng bằng ý nghĩa
cố hữu của chúng và có thể tự đứng vững trước lý trí. Như thế,
triết học nâng tinh thần con người lên phạm trù tự do, trong đó
chỉ có định luật về tư duy hợp lý mới có khả năng chấm dứt được
hành động chất vấn, và sẵn lòng để cho mình bị ràng buộc bởi
những gì được xem là bằng cớ”.
Thẩm quyền tối hậu
Triết gia phải giả định rằng bậc thẩm quyền tối hậu
và duy nhất cho ý kiến đã được chấp nhận là lý trí của y. Bạn
không thể làm một triết gia mà không sử dụng lý trí. Triết học
không đặt ra cho con người bổn phận phải đi tới các kết luận
chắc chắn; nó chỉ đòi hỏi hữu thể có lý trí ấy phải chứng tỏ lý
tính của nó bằng việc suy ngẫm các ý kiến của nó và chỉ chấp
nhận kết luận nào có thể đưa đẩy nó vào một cuộc tra vấn chân
thành và hợp lý.
Trong thái độ đó, triết gia có thể sai. Có thể xảy
ra việc chân lý tối hậu về vạn vật được sở đắc bằng trực giác
hoặc bằng thái độ qui thuận một thẩm quyền không sai lầm nào đó,
hoặc một đức tin không thắc mắc về những lời công bố theo cảm
quan chung, nhưng hễ có người nào muốn chứng minh chân lý ấy thì
cũng cần phải đáp ứng và tiến hành công tác đó bằng những luận
cứ hợp lý. Do đó, triết gia cảm thấy mình hữu lý trong việc sử
dụng công cụ của lý trí, suy ngẫm về các sự kiện, và xem chúng
là nguồn thẩm quyền tối hậu trong một thế giới còn rất lâu mới
toàn hảo.
Tra vấn hết thảy
Triết gia phải cảm thấy không có bất cứ cái gì ở bên
ngoài phạm vi tra vấn của mình, hoặc không có cái nào bất khả
xâm phạm vì lý do tôn giáo hoặc vì lý do nào khác, được dùng để
chống lại những phê phán của mình một khi phê phán ấy dường như
có cơ sở. Nếu chúng ta muốn đối xử trang trọng với những suy
ngẫm có lý tính, chúng ta phải quyết tâm tiến hành chúng một
cách rốt ráo, từ đầu tới cuối.
Không thể nào tìm ra nguyên tắc để kết hợp hết thảy
các sự kiện kinh nghiệm nếu con người, một sinh vật có lý trí,
không được công nhận là một hữu thể tri giác có quyền thắc mắc
về vị trí của các sự kiện trong một hệ thống tối hậu. Vì lý do
đó, có nhiều triết gia từng bị đánh giá là kẻ thù của đức tin và
của một hệ tư tưởng nào đó được xem là chính thống, như một hình
thức khác của một loại tôn giáo phi thần.
Chắc chắn rằng các loại đức tin ấy không thể đáp ứng
những yêu cầu của lý trí và rằng không thể duy trì những tín
điều bị áp đặt một cách độc đoán về cuộc sáng thế tối hậu của vũ
trụ. Những ai xem trang trọng đức tin của mình nên quyết tâm xem
xét nó để bảo đảm rằng đức tin ấy không có tính nhẹ dạ cả tin
hoặc mê tín.
Ðức tin và lý trí
Có những thí dụ về đức tin trong quá khứ từng bị lý
trí vạch trần. Và ngày nay con người cảm thấy nó chỉ được chứ
không mất, nghĩa là phong phú hơn nhờ sự vạch trần ấy. Một đức
tin chân chính sẽ hưởng lợi nhờ tra vấn. Và rất có khả năng rằng
trạng thái tri thức hữu hạn hiện nay của chúng ta hẳn vẫn còn
chỗ rất rộng cho đức tin. Nếu như thế, cách tốt nhất là đức tin
nên đến với chúng ta trong liên quan tới lý trí.
Triết gia không đòi hỏi kẻ khác điều mà bản thân y
không sẵn sàng chấp nhận. Nếu y đòi quyền được phê phán ý kiến
của người khác, y phải chấp nhận quyền của người khác phê phán
y. Chỉ từ hoạt động hợp tác như thế mới có thể đẩy mạnh chính
nghĩa của chân lý. Cũng giống như mọi người, triết gia có khả
năng sai lầm và y phải nghênh đón những lời phê bình sửa chữa
các cái nhìn hữu hạn của mình.
Tác hại của không thể sai lầm
Hẳn Aristotle sẽ phàn nàn nếu ông biết trước hay
chứng kiến lòng tôn kính thẩm quyền của ông đã hạn chế sự tăng
tiến trí thức thời Trung Cổ. Và nếu có thể kể tới những trung
thành trong thế kỷ 20 vừa qua, chúng ta cảm thấy chắc chắn rằng
Marx và Engels hẳn phẫn uất về sự tận hiến của các môn đồ thời
hiện đại khi họ từng qui cho các tác phẩm của hai ông là không
có khả năng sai lầm.
Triết học là một môn học cấp tiến. Khi khoa học tăng
tiến thì thông giải của khoa học cũng phải tăng tiến. Trước khi
nói xong lời tuyên bố tối hậu, trong triết học chỉ có một chỗ
rất nhỏ cho những lời tuyên bố chắc chắn.
Trong bàn tay của bạn
Cuốn sách này được biên soạn cho người mới đặt chân
vào con đường học triết chứ không phải cho triết gia. Vì thế, nó
chỉ nêu ra một số chủ đề căn bản và tìm các đáp án về chúng bằng
một cung cách kích thích tính hiếu kỳ, để từ đó gợi tới nhưng
câu hỏi hơn là những câu trả lời thấu đáo.
Khi trình bày các giải đáp, chúng tôi cố gắng đề cập
tới các lập trường thế này thế nọ, có tính chọn lựa, để cho thấy
những khó khăn liên quan tới việc đi đến một quyết định. Rất có
thể những câu trả lời thế này hoặc thế nọ không thể hòa hợp nhau
hoặc tất cả đều sai, tùy vào quyết định của bạn, người đeo đuổi
cho tới dòng chữ này.
Lời cuối
Như thế, cuốn sách này không có dự tính đưa ra một
hệ thống học thuyết để bạn ghi nhớ hay chấp nhận, nhưng như một
hướng dẫn cho người muốn mạo hiểm dấn thân vào sự nghiệp triết
học và kích hoạt tư tưởng. Nó sẽ thất bại nếu người đọc không
sẵn sàng đi theo các câu hỏi tới nơi nó dẫn tới và sẵn sàng phê
phán các giái đáp nó đã trình bày như những gợi ý để tìm cách
trả lời các chủ đề ấy. Người đọc có lẽ nên gạn lọc và chấp nhận
câu trả lời nào có vẻ tương hợp với các bằng cớ và sẵn sàng đáp
ứng các yêu cầu của lý trí.
Cuối cùng, xin được nhắc lại một phân tích ở chương
trước. Một hệ thống triết học là một sản phẩm riêng tư và chỉ có
giá trị khi nó thể hiện được nỗ lực chân thành và thẳng thắn của
người tạo ra nó. Là con người, bạn có khả năng tư duy; nó là cái
hướng dẫn an toàn và duy nhất tới chân lý; đừng ngần ngại dùng
nó, và trong khi được bạn sử dụng, lý trí của bạn sẽ tự cải
thiện nó, trở thành một công cụ ngày càng nhạy bén hơn. Ðó là
thông điệp của cuốn sách này. Và đó cũng là tinh thần triết học
dành cho bạn, người vừa rướn thêm một bước qua ngưỡng cửa của
triết học.nK
Ngươi không là tạo sinh, mà là sự biểu hiện (Nhất
Hạnh) |
|