Lữ Phương bảo vệ Mác,
chống độc tài toàn trị
Lữ Phương |
Trong bài viết “Ông
Võ Văn Kiệt và tôi”, Lũ Phương đã kể ông từng nói với Võ Văn
Kiệt rằng:
“Anh Sáu biết tại sao tôi quan tâm đến chủ nghĩa Mác như vậy
không? Đó là do tôi nghe lời ông Đồng và ông Duẩn, hai ông này
luôn khuyên nhủ cán bộ phải học tập chủ nghĩa Mác vì không hiểu
chủ nghĩa Mác thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Nghe lời hai ông đó, tôi đã quay mặt vào tường trong suốt
10 năm để tìm hiểu; anh có biết sau đó tôi đã kết luận như thế
nào không?”. Ông nhướng mắt lên và hỏi: “Sao?” Tôi nhớ đã trả
lời ông một cách tỉnh queo câu sau đây: Tôi
nói hai cha nội đó chẳng biết Mác là con mẹ gì hết!. Không tưởng
tượng được! Sau khi nghe câu nói báng bổ đó của tôi, ông đã cười
phá lên, thoải mái như chưa bao giờ thoải mái đến như vậy! Không
biết có đúng hay không, nhưng cái bí mật về chủ nghĩa Mác-Lenin
mà ông không khi nào nói đến mỗi khi gặp tôi, dường như đã bộc
lộ qua những tiếng cười của ông hôm đó”.
Trao đổi với bbcvietnamese.com hôm 26 tháng 02 vừa rồi, trong
chuyên đề về trí thức, ông còn “vơ đũa cả nắm”: "Tôi thấy,
Chủ nghĩa Mác chẳng dính dấp gì đến thực tại Việt Nam cả. Thứ
nhất, những người nhân danh chủ nghĩa Mác để họ quản lý, lãnh
đạo xã hội, họ cho rằng “tiến lên chủ nghĩa xã hội”, nói một
cách văn vẻ, thì họ ngộ nhận, họ hiểu lầm, họ không hiểu gì cả …
họ lợi dụng, họ bóp méo hoàn toàn chủ nghĩa Mác, không dính dấp
gì ở đây, nó là một chủ nghĩa Lenin, Stalin hóa, và nó là của
Mao Trạch Đông. Cho nên những người nhân danh cái này để gọi là
lãnh đạo Việt Nam, thì hoàn toàn không có cơ sở thực tế”.
Theo Lữ Phương:
“Chủ nghĩa Mác là một học thuyết có tham vọng đặt ra và
giải quyết được mọi vấn đề của thời đại một cách hiện thực,
triệt để, nhưng do bản thân chỉ là một thứ triết học chứa đựng
không ít những suy lý tư biện cho nên những giải pháp kết tụ
trong cuộc cách mạng gọi là vô sản là hoàn toàn bất khả thi, và
tính chất bất khả thi này đã nằm ngay trong bản thân khái niệm
giai cấp vô sản của Mác: giai cấp vô sản không phải là giai cấp
công nhân thực tế mà chỉ là một khái niệm triết học trong hệ
thống triết học của Mác mà thôi. Chính vì cứ nhất quyết coi
những kết luận về chủ nghĩa xã hội của Mác là “khoa học”, đặc
biệt coi chủ trương “chuyên chính vô sản” của ông là cái cốt tuỷ
cần phải nắm vững để đấu tranh xây dựng xã hội mới, cho nên các
chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” nhân danh Mác đã đi
vào con đường bế tắc: không có phát triển trong dân chủ và nhân
đạo mà chỉ có trì trệ, bất lực trong chuyên chế và độc đoán mà
thôi. Vấn đề đặt ra về mặt thực hành, theo tôi, do đó không phải
là “vận dụng” chủ nghĩa Mác như một khoa học – nhất là cột Mác
vào Lênin tạo thành một thứ chủ nghĩa Mác-Lênin – mà là hãy đối
xử với chủ nghĩa Mác như một thứ triết học, được đối xử như vậy
thì những các mặt tích cực lẫn tiêu cực trong lập luận của Mác
cũng đều bổ ích cho đời sống. Trung tâm vấn đề ở đây là sự phân
biệt cổ điển giữa triết học và khoa học, giữa tư tưởng suy lý và
tư tưởng thực tiễn” (1).
Ông tìm thấy những yếu tố rất đáng trân trọng của Mác:
“Hệ thống triết học của Mác, mặc dù tư biện, nhưng chứa đựng
nhiều yếu tố tích cực: gợi ra cho những người nghiên cứu những
định hướng mang tính phát hiện, nhắc nhở người ta phải chú ý đến
những nhân tố hiện thực đã tạo nên lịch sử (như ảnh hưởng của
khoa học kỹ thuật, những lợi ích vật chất, những mâu thuẫn giai
cấp trong lòng một dân tộc...), những điều mà có lúc giới nghiên
cứu đã không quan tâm đúng mức. Riêng khái niệm lao động bị tha
hoá của Mác thì đã biến thành nguồn cảm hứng bất tận cho những
xu huớng phê phán đến tận nền móng chẳng những đối với các hình
thức tồn tại của xã hội hiện đại mà còn có thể đặt cơ sở để hình
thành một thứ triết học chống tha hoá đối với cuộc sống nói
chung của con người” (2).
“Sự đóng góp của Mác vào đời sống tư tưởng của nhân loại là điều
không thể phủ nhận được, sự đóng góp ấy bao giờ cũng đứng bên
ngoài hình thức chính trị hoá triết học kiểu Lênin, và do đó chủ
nghĩa Mác của Mác cần phải tiếp tục được thanh lọc khỏi những
“vấy bẩn” của chủ
nghĩa Lênin. Chủ nghĩa Lênin đó, thực chất chỉ là một thứ chủ
nghĩa Mác bị xét lại theo
phương hướng xuyên tạc triệt để nhất trong lịch sử triết học
Mác: nhân danh cho một thứ ý thức hệ gọi là “khoa học”, nó đã
tạo ra mô hình nhà
nước toàn trị ý thức hệ đưa
đời sống tinh thần xã hội trở về thời kỳ Trung cổ. Đích thực,
không thể có một “phản ánh luận mácxít-lêninnít” nghiêm chỉnh
theo tinh thần học thuyết Mác (2).
“Triết học của Mác chứa đầy tham vọng giải phóng trần gian.
Từ sự mâu thuẫn giữa tư bản và công nhân, giữa chủ và thợ trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào thế kỷ 19 ở phương
Tây, Mác đã khái quát thành những mâu thuẫn xâu xé lịch sử loài
người từ khởi thuỷ cho đến ngày nay: mâu thuẫn giữa những người
nghèo và người giàu, giữa những người bị áp bức và đi áp bức,
giữa dã man lạc hậu và văn minh tiến bộ, giữa ý thức hư huyễn và
ý thức chân thực... – từ những mâu thuẫn ấy đưa ra triết lý về
lao động và lao động bị tha hoá để giải quyết một lần cho xong
tất cả. Dấu ấn của tinh thần lạc quan của thế kỷ 18, 19 đã biểu
hiện trong học thuyết Mác khá rõ rệt: đó là niềm tin mạnh mẽ về
sự tất thắng của Lý trí, Khoa học và Tiến bộ trong việc tạo dựng
tương lai. Để thể hiện niềm tin đó, và với ý hướng muốn thoát
khỏi phương pháp tư biện trong các triết học duy tâm, Mác đã kêu
gọi người ta trở về với cái hiện thực thời ông đang sống và dấn
thân thay đổi nó” (3).
Song, thật đáng tiếc, không chỉ Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông
lần lượt bóp méo Mác ngày càng tệ hại cho những mục đích chính
trị của họ, mà ngay cả Angghen cũng từng làm xuy xuyển Mác:
“Sự lý giải của Angghen về mối quan hệ giữa ý thức xã hội với
tồn tại xã hội cũng không tránh khỏi sự thiếu nhất quán đối với
triết học Mác. Phân biệt sự khác nhau giữa tự nhiên và xã hội,
Angghen cho rằng nếu quy luật của tự nhiên hoàn toàn bị sự vô ý
thức và mù quáng chi phối thì trong xã hội ngược lại không có gì
xảy ra “lại không có ý định tự giác, không có mục đích mong
muốn". Tuy vậy, theo Angghen thì những ý định tự giác, có ý thức
đó vẫn chỉ là những cảm nhận trực tiếp của những cá
nhân riêng lẻ thôi;
những mong muốn ấy “ít khi nào thực hiện được” khi người ta sống
trong xã hội, và chính trong những hoạt động này đã hình thành
ra cái mà Angghen gọi là những “hợp lực” biểu hiện cho một thứ
“ý chí trung bình chung”, căn cứ vào đó, ông giả định về sự tồn
tại của một thứ động
lực khách quan, tập
thể, độc lập với ý thức của những cá nhân, có nguồn gốc sâu thẳm
trong cuộc sống vật chất của xã hội. Như vậy, chấp nhận sự phân
biệt ý thức cá nhân với ý thức xã hội như Mác, nhưng Angghen đã
biến cái ý thức xã hội mà Mác coi là cái tồn tại
được ý thức thành
một thực thể không khác gì với cái mà những nhà xã hội học thực
chứng thường gọi là tâm
lý quần chúng, hoặc tâm
lý cộng đồng” (2).
Những suy tưởng của Ăngghen về lao động tha hoá, ý
thức huyễn hoặc …
cũng hoàn toàn khác biệt với những khái niệm cực kỳ quan trọng
này trong học thuyết của Mác.
Không giống Mác, phản ánh luận trong triết học của Angghen đã
đảo ngược lại biện chứng pháp của Hegel. Trong khi Mác đảo ngược
cái Tinh thần tuyệt đối của Hegel thành thực
tiễn lao động, coi đó
là điểm xuất phát của triết học, thì Angghen lại dành cho thực
tiễn lao động một ý nghĩa khác mà ông gọi là vật chất.
Càng oan uổng cho Mác hơn khi trong tay Lênin chủ nghĩa Mác đã
bị bóp méo thảm hại nhằm huy động cho cuộc Cách mạng Tháng Mười.
Với những nhận xét sau, Lữ Phương cho rằng Cách mạng Tháng Mười
là cuộc cách mạng phản
mácxít hoàn toàn.
“1 – Do không được bất cứ cuộc cách mạng vô sản nào ở những nước
phương Tây nổ ra để yểm trợ, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga không
hề có được tính phổ quát, trái lại nó chỉ là một cuộc cách mạng
địa phương, cục bộ, xuất hiện từ cái thế giới ngoại vi của chủ
nghĩa tư bản: cái quốc tế do Lênin sáng tạo ra chỉ là sự tập hợp
của đa số những quốc gia nghèo khổ, chậm phát triển.
2 – Khái niệm chuyên chính vô
sản trong lý luận của Mác mà Lênin bao giờ cũng nhắc nhở rằng đó
chính là hòn đá tảng của chủ nghĩa Mác và cho rằng ai mà rời bỏ
khái niệm ấy cũng là xa rời chủ nghĩa Mác trong
thực chỉ là sự chuyên chính của những người tự
cho mình là nắm được khoa học về sự phát triển của lịch sử, và
như vậy là sự chuyên chính của môt lập trường, một thế giới quan
do một thiểu số trí thức tạo ra. Thiếu hẳn thực chất mácxít (dù
không tưởng), nội dung của khái niệm chuyên chính vô sản đó chỉ
đơn thuần là sự chuyên chính của một ý thức hệ tự cho mình là vô
sản – sự chuyên chính của một đảng phi mácxít.
3 – Cái mô hình xã hội được gọi
là “chủ nghĩa xã hội” nhân danh Mác để xây dựng cũng đã rơi vào
sự suy thoái như thế. Không thể tiến thẳng lên cái không thể
tiến lên được, Lênin đã đề xuất những chiếc cầu trung gian mang
tính chất lùi bước mà ông gọi là chủ “nghĩa tư bản nhà nước”,
qua đó tìm động lực xây dựng cơ sở vật chất để chuyển hoá xã hội
lên một hình thái xã hội-kinh tế cao hơn. Nhưng cũng do cái viễn
cảnh ấy của hình thái kinh tế-xã hội cao hơn là không tưởng cho
nên cái nấc thang mượn đường ấy mãi mãi chỉ là cái nấc thang nằm
nguyên một chỗ”
(4).
Mô hình XHCN hiện thực do Lênin xác lập cũng rất phản Mác.
Trong mô hình XHCN của Mác chế độ tư hữu bị xoá bỏ, tất cả tư
liệu sản xuất được xã hội hóa, trở thành tài sản chung của mọi
người. Xã hội tồn tại trong một nền kinh tế không còn thị
trường, không còn hàng hoá, với một thể chế chính trị do giai
cấp vô sản chiếm đại đa số dân cư làm chủ bằng một nhà nước kiều
mới do mình trực tiếp tạo ra. (Tất nhiên, đây là một mô hình
không tưởng).
Trong mô hình XHCN hiện thực, chủ nghĩa tư bản vẫn còn tồn tại
nhưng là một thứ chủ
nghĩa tư bản nhà nước độc quyền phi thị trường, phi hàng hoá mà
Lenin đã mượn từ sự suy lý tư biện của Angghen,
Theo Lữ Phương:
“Sự tha hóa trong chủ nghĩa tư bản nhà nước kiểu lêninnít, do
không còn phải thông qua những định chế trung gian đặt nền trên
phương thức sản xuất hàng hóa như trong chủ nghĩa tư bản cổ
điển, nên đã trở thành sự tha hóa của con người trực tiếp với
những ý tưởng của mình. Nói cách khác, nếu trong chủ nghĩa tư
bản cổ điển, con người đánh mất bản thân trong hàng hóa và những
cơ chế xã hội xây dựng trên trao đổi hàng hóa thì trong chủ
nghĩa tư bản nhà nước lêninnít, con người đã đánh
mất bản thân chính trong những ý tưởng giải phóng con người khỏi
nền sản xuất hàng hóa. Và đó cũng là tình trạng con người đánh
mất bản thân trong những ý tưởng được coi là đi giải phóng con
người. Lý thuyết mácxít về giải phóng lao động ở đây đã bị đảo
ngược: nó trở thành một thứ ý thức hệ không phải chỉ để những
người tổ chức sản xuất huyễn hoặc những người lao động mà cũng
còn là cái để chính những người lao động đưa mình vào một “mai
sau” mờ mịt. Nó tạo ra cái ảo ảnh đã được lý tưởng hóa về một
hiện thực trần trụi, nghèo nàn, làm cho con người tưởng rằng qua
đó có thể tìm thấy hạnh phúc thật sự. Sự tha hóa tinh thần ấy
không khác gì sự tha hóa mang tính chất tôn giáo mà Mác đã tố
cáo. Nhưng đó không phải là thứ tôn giáo siêu việt hứa hẹn cho
con người một đời sau tuyệt đối mà chỉ là một tổ chức chính trị
trần tục, tầm thường được tôn lên thành cái tuyệt đối đó” (4).
Đối với số phận dân tộc Việt Nam, điều khốn khổ tệ hại là, chủ
nghĩa Mác đã thấm vào đầu Nguyễn Ái Quốc - người sau này trở
thành lãnh tụ ĐCSVN - lại thông qua thần tượng Lênin:
“Đọc những gì ông viết về lý luận mà ông gọi là “chủ nghĩa
Mác-Lênin”, chúng ta thấy dường như sự hiểu biết của ông về Mác
có phần không được nghiêm chỉnh lắm: tinh thần dân chủ không
tưởng của Mác, biểu hiện rõ nhất trong lý luận về sự chế ngự của
xã hội công dân đối với nhà nước là
chuyện ông hoàn toàn không biết đến. Điều lôi cuốn ông có lẽ chỉ
là mấy chữ “thế giới đại đồng” giông giống với cái khái niệm “tứ
hải giai huynh đệ” trong Nho giáo vậy thôi. Sự hấp dẫn của Lênin
đối với ông, ngoài tính cương nghị, nhạy bén, thực tế của một
lĩnh tụ chính trị, có lẽ còn là cái tinh thần “khai sáng” của
những bậc hiền nhân đối với đám dân đen thô lậu, ngu dốt, khốn
khổ. Cung cách “nôm na” trong cách nói, cách ứng xử của ông,
việc ông rất thích chú ý đến những chuyện “tương cà mắm muối”
cho nhân dân có lẽ
cũng là do kết quả của việc ông đã “Đông phương hoá” cái tinh
thần từ trên trông xuống đó của Lênin. Thứ “chủ nghĩa tập thể”
mà ông hay nói đến để răn dạy cán bộ, nhân danh Mác, thật ra
không phải xuất phát từ cái ý hướng giải phóng con người khỏi
chủ nghĩa cá nhân tha hoá trong xã hội tư sản, mà chỉ là một thứ
tinh thần kỷ luật cách mạng của Lênin (suốt đời hy sinh vì đảng)
cộng với một “cái chúng ta” vô ngã, phi cá tính nào đó tiềm ẩn
trong các thứ lý luận phương Đông cổ xuý cho những thứ trật tự
bất biến về xã hội và tự nhiên” (5).
“Chủ nghĩa Lênin mà ông mới chỉ nghe qua vào tháng 7 năm 1920, đã
bắt đầu cố định thành thứ chủ nghĩa Lênin được giảng giải theo
cách của Stalin rồi. Đường lối cách mạng vô sản phương Đông do
Lênin hình thành, dần dà sau đó cũng đã được cụ thể hoá thành
chính sách của Stalin coi Liên bang xô viết là trung tâm cách
mạng thế giới, coi chủ nghĩa xã hội thực hiện ở Liên xô là hình
mẫu cho các nước phải theo, khẳng định mạnh mẽ trong thực tế dần
dần chiều hướng “gió Đông quyết định gió Tây”, manh nha từ năm
1920 trong Quốc tế III, từ đó hình thành ra “phe” xã hội chủ
nghĩa như một thứ chủ nghĩa cộng sản mang tính cục bộ,“địa
phương” khác hẳn với Mác, và trong chừng mực nào đó với cả Lênin
nữa. Tất cả những chuyển biến trong bản thân cái gọi là cuộc
cách mạng vô sản mácxít cũng đã quyết định hoàn toàn con đường
phát triển của cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Một
mặt, nếu nó đã đưa Việt Nam tham gia vào những cơn sóng gió
không ngừng ngả nghiêng vì những cuộc thanh toán nội bộ một cách
ác liệt trong Quốc tế III thì
mặt khác cũng lại gắn chặt số phận đất nước ngày càng sâu vào đó
như một định mệnh không thể gỡ ra được” (5).
Không hề có chủ nghĩa Mác ở Việt
Nam:
“Chủ nghĩa Mác ở Việt Nam khởi đầu là chủ nghĩa Lênin, sau đó đã
trở thành chủ nghĩa Mác-Lênin đã được “Đông phương hoá” lần lượt
theo kiểu Stalin rồi sau đó là Mao Trạch Đông: đó là một thứ chủ
nghĩa Mác đã bị biến dạng, xa lạ hoàn toàn với nguồn gốc xã hội
và văn hoá của nó. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống mà Đảng cộng
sản Việt Nam muốn nương theo để đưa dân tộc Việt Nam vào “chủ
nghĩa xã hội”, qua sự thử thách của thời gian, với chính mục
tiêu của Mác, như vậy là đã hoàn toàn thất bại” (5).
Du nhập tư tưởng Lenin,
Stalin, Mao Trạch Đông vào Việt Nam, không chỉ làm kiệt quệ Miền
Bắc mà “Khi được bê nguyên xi vào áp dụng ở miền Nam Việt Nam
sau khi thắng lợi hoàn toàn, cái mô hình đó lập tức đã phát huy
ngay sức mạnh tàn phá của nó đối với tất cả những thành quả mà
miền Nam đã đạt được trong suốt quá trình công nghiệp hóa (dù
còn ở bước đầu) và hiện đại hóa. Chỉ có vài năm, bắt đầu là
“tiếp quản” rồi sau đó là “cải tạo” tư sản ở thành phố, “hợp tác
hóa” ở nông thôn, đời sống người dân đã bị đẩy lùi lại tình
trạng trước đó khoảng vài ba chục năm, khốn khổ như chưa bao giờ
đã xảy ra, dưới chế độ phong kiến, thực dân. Nền sản xuất hàng
hóa mở rộng đã bị phá vụn thành những khu vực nhỏ bé, chiếm lĩnh
bởi những cái gọi là “ngành” hay “lãnh thổ”; bất cứ cơ quan nào
hay địa phương nào (kể cả xã, ấp) cũng có thể lập ra các hàng
rào, trạm gác để chặn xe cộ lại xét hỏi, tịch thu, đánh thuế;
còn nếu có gì gọi được là sản xuất thì cũng chỉ là những phong
trào vận động ồ ạt người ta đi “lao động xã hội chủ nghĩa” (đắp
mương, làm thủy lợi...) hoặc rủ nhau đi ra khỏi thành phố xin
đất để làm rẫy kiểu “tự túc” như thời kháng chiến trong rừng,
tốn không biết bao xăng nhớt, thì giờ mà kết quả chẳng đi đến
đâu (6).
“Sự chiến thắng của Đảng cộng sản là một sự kiện động trời
với nước Mỹ và ngoạn mục với thế giới. Nhưng với Việt Nam, sự
chiến thắng ấy chỉ đem lại cho tuyệt đại đa số những người dân
bình thường điều mà họ đã mòn mỏi mơ ước từ lâu: đất nước được
hoà bình. Và hơn nữa, phục hồi lại toàn vẹn chủ quyền trong
thống nhất, từ đó tạo điều kiện cho những giấc mơ mới sinh
thành. Nhưng chưa kịp định hình thì những giấc mơ này đã tan vỡ
ngay lập tức. Đảng cộng sản khai thác được sức mạnh của dân tộc
để chống ngoại xâm, nhưng ý thức hệ cộng sản đem vào xây dựng
lại hoàn toàn đi ngược những điều đơn giản: chữa lành những vết
thương chiến tranh, tạo dựng lại cuộc sống yên ấm cho nhân dân.
Tất cả những sai lầm từ miền Bắc mệnh danh “xã hội chủ nghĩa”
sau khi thắng Pháp nay đã được lập lại nguyên vẹn ở miền Nam sau
khi thắng Mỹ: cũng trả thù những người khác chiến tuyến, khắc
nghiệt với những người khác ý kiến, cũng đấu tranh giai cấp bằng
cải tạo ở thành thi, hợp tác hoá ở nông thôn, gây ra đói nghèo,
khổ sở, khiến bao người bỏ nước ra đi… trong khi đó thì ồn ào
phất cờ “tiểu bá” tạo cớ cho người anh em “đại bá” đưa xe tăng
và đại pháo tràn sang biên giới nhen lại chiến tranh. “Thắng
trong chiến tranh nhưng bại trong hoà bình”, đã có hơn một tác
giả phương Tây từng ủng hộ Việt
Nam trước đây nhận xét như vậy sau
khi Việt
Nam thống nhất không lâu” (7).
Vì đâu nên nông nỗi này? Phải chăng mọi việc chỉ bắt đầu từ Đại
hội Tours, năm 1920, khi Nguyễn Ái Quốc chuyển hướng từ chủ
trương “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” và “Ỷ Pháp tự trị” của Phan Châu
Trinh sang con đường cách mạng cực đoan của Đệ tam Quốc tế. Hay,
từ cái đêm bất hạnh, Nguyễn Ái Quốc bật khóc trước những trang
viết của Lênin rồi quyết định từ giã môi trường hoạt động khuynh
tả ở nước Pháp dân chủ để sang Nga tiếp nhận mô thức chuyên chế
kiểu phương Đông vào năm 1923.
Thực tế, cũng chẳng ra Lênin, dù đu dây, lúc ngả vào lòng Liên
Xô, lúc nằm gọn trong vòng tay Trung Quốc, ĐCSVN cuối cùng vẫn
thực hiện một thứ “chủ nghĩa Stalin mang đặc điểm Trung quốc” -
đó là chủ nghĩa Mao – một hệ tư tưởng tệ hại nhất trong những hệ
tư tưởng gọi là “xã hội chủ nghĩa” phản
Mác nhưng vẫn nhân
danh Mác!.
Vì sai một ly (giữa Nguyễn Ái Quốc với Phan Châu Trinh) nên đã
phải đi một dặm. Một dặm quá dài, đầy máu lửa, tan tác quê
hương, đầm đìa nước mắt, ĐCSVN không thể không sửa sai (họ gọi
là “Đổi mới”). Nhưng:
“Những cái gọi là “đổi mới” lý luận về chủ nghĩa xã hội ra
đới dưới sự bảo trợ của đảng và nhà nước hiện nay ở Việt Nam,
theo tôi, chỉ là sự xoay sở một cách vô cùng hỗn loạn để đối phó
với tình thế khó khăn ấy: nó chỉ lay hoay trong sự chắp vá tìm
ra cách nói, cách trình bày như thế nào trước công luận để biện
minh cho sự từ bỏ trên thực tế những nguyên lý mácxít về chủ
nghĩa xã hội nhưng cuối cùng vẫn duy trì được sự độc tài của
đảng chứ không phải là cái gì khác. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là
tình trạng ấy sẽ kéo dài được bao lâu, và kéo dài bằng cách nào
khi mà, ngoài sự trấn áp, hù doạ quen thuộc, đảng đã không còn
trong tay sự dự trữ tinh thần nào khác ngoài những thủ đoạn nói
dối, mị dân? Sự tan rã về tư tưởng trong hàng ngũ đảng hiện nay
là điều đã trở thành hiển nhiên không còn có thể nghi ngờ chút
nào. Đảng đang tìm cách “tự diễn biến”, tự thay hình đổi dạng
cũng là điều không thể nghi ngờ chút nào. Những băn khoăn của
tôi không phải ở chỗ đó mà là xét xem sự biến chất của đảng theo
chiều hướng đó có mang lại được ích lợi thật sự cho sự phát
triển của dân tộc hay không mà thôi. Tôi cho rằng mọi việc ngày
càng chìm sâu vào tình trạng bế tắc, thực dụng hoàn toàn không
có lối thoát về lý luận. Có lẽ sự mơ mộng của tôi, nếu có, thì
chỉ xuất phát từ tình trạng ấy: mong muốn sự hoá thân của đảng
diễn ra một cách “tử tế” hơn, sự đổi mới của đảng diễn ra một
cách toàn diện hơn, dân chủ hơn, có ý thức hơn, chứ không ứng
biến nửa vời và phản văn hoá như nó đang diễn ra hiện nay”
(1).
“Thực chất của cái xã hội “đổi mới” ra đời “dưới sự lãnh
đạo” của Đảng cộng sản hiện nay ở Trung Quốc và cả Việt Nam
chính là cái thực thể mà học thuyết Mác đã phủ định từ nền móng,
không có tên gọi nào khác hơn là chủ nghĩa tư bản, kẻ thù của
chủ nghĩa xã hội mácxít, nên mới khen cái chế độ “XHCN” đã xoay
chiều đó là “vì tinh thần nhân đạo, vì lợi ích cách mạng” một
cách xun xoe hể hả! …. Một người xa quê hương 30 năm, nay trở về
thăm nhà chắc hẳn sẽ có dịp thấy tận mắt điều đó đang diễn ra
như thế nào. Rõ ràng là “chủ nghĩa tư bản” đã được phục hồi. Với
tất cả những nô nức hứa hẹn thăng tiến cuộc sống xen lẫn với
nghèo đói, ma tuý, mại dâm, tội ác, tham nhũng… ồn ào, chụp
giật, rừng rú, vui buồn đủ thứ nhưng đó vẫn là “chủ nghĩa tư
bản” chứ chẳng phải là cái gì khác ” (8).
Muốn ĐCSVN đổi mới thực sự, đổi mới đúng hướng thì phải “Diễn
biến Hòa bình” họ và làm cho họ “tự diễn biến”. “Phong trào Dân
chủ” có nhiệm vụ đảm trách sứ mệnh thiêng liêng đó. Tiếc rằng
khi được hỏi về phong trào này Lữ Phương đã cho biết:
“ …tìm hiểu hiện tượng hàng loạt những tổ chức ra đời cùng
tính chất với “Khối 8406” anh vừa hỏi: Cứ viết bài chửi Mác,
chửi Hồ Chí Minh tới bến, càng dữ dằn, bạt mạng thì càng được
xưng tụng là “chiến sĩ dân chủ”. Chỉ với một số người cùng với
mấy cái PC nặn ra một tuyên ngôn kêu gọi đa nguyên, đa đảng gửi
lên mạng toàn cầu là đã có thể khai sinh cho một số tổ chức mệnh
danh dân chủ (cũng với bao nhiêu nhân sự đó), nếu có làm gì tiếp
thì ngoài việc ra hết tuyên bố này đến tuyên bố khác kết án cộng
sản, là chờ dịp viết thư (đăng lên mạng) kêu gọi những ông này
bà nọ trong chính giới Mỹ dạy cho những người lãnh đạo cộng sản
Việt Nam một số bài học dân chủ và nhân quyền, kể cả những bài
học thực thi bằng biện pháp ngoại giao và kinh tế! (9).
“Tình hình mới khởi đầu nhưng dường như không hứa hẹn điều gì
đáng phấn chấn ngoài sự ồn ào trên các website đấu đá ở hải
ngoại. Mọi việc diễn ra cho chúng ta thấy cái thiếu hoàn toàn
cho điều đáng mong ước mà anh nói chính là cái gọi là “văn hoá
dân chủ”. Dân chủ vì phục hận, trả thù, dân chủ thực hiện bằng
chửi bới bạt mạng, cho mình là người duy nhất nắm chân lý, dân
chủ vì đô la, kèn cựa nhau để tìm chỗ dựa của bên ngoài… thì như
có người đã nói đó chỉ là thứ dân chủ ... “chợ búa” thôi. Chưa
tìm cách ngồi lại với nhau để thanh toán cho nhau cái thứ “văn
hoá dân chủ” ấy như Hà Sĩ Phu đã ám chỉ thì người ta chưa thể
bàn gì đến việc tập hợp lực lượng, huống chi là chuyện thống
nhất tổ chức” (9).
Theo Lữ Phương, dù đã quá
muộn, lẽ ra sau 1975, ít nhất ĐCSVN đã phải thực hiện những điều
tiên quyết sau đây:
“- Từ bỏ ý định “phất cờ”, “chính sách đóng cửa, tự lực cánh sinh
theo lối cũ”.
- “Từ bỏ những phương pháp cách mạng và bạo lực”.
- “Từ bỏ khái niệm nhà nước giai cấp”.
- “Thể hiện chuyên chính bằng hiến pháp và pháp luật”.
- “Thực hiện tam quyền phân lập”, “xây dựng nhà nước pháp quyền”,
“nền móng để giải quyết vấn đề đa nguyên, đa đảng”.
- Ðảng cộng sản “phải giao toàn bộ quyền lực cho nhà nước, trở về
xã hội công dân, tự đặt mình trong pháp luật, bình đẳng với mọi
tổ chức chính trị xã hội khác, từ đó khẳng định lại năng lực và
phẩm chất của mình”” (10)
Rút trong cuốn “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH”
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
Điện thoại: (04) 35 534 370
Ghi chú:
(1)
Lữ Phương - Trả lời báo “Diễn Đàn”, Paris, tháng 7- 1995
(2) Lữ Phương – Phản ánh luận Macxit-Leninit
(3) Lữ Phương - Vấn đề Lao động trong học thuyết
Mác
(4) Lữ Phương -
Chủ nghĩa xã hội mácxít & chủ nghĩa xã hội hiện thực
(5) Lữ Phương - Từ Chủ Nghĩa Yêu Nước đến Chủ Nghĩa Xã Hội
(6) Lữ Phương - Việt Nam “Đổi Mới”:
1979-1986
(7)Lữ Phương - Chiến Tranh Việt Nam: Chủ
quyền Quốc gia, Xung Đột Ý thức hệ và Hoà giải Dân tộc
(8) Lữ Phương - Những Kẻ Không
Được Lên Thiên Đường!
(9) Đoàn GiaoThủy - Vấn Đề Dân Chủ
Hoá ở Việt Nam
(10) Lữ
Phương - Chủ nghĩa Xã hội Việt Nam: di sản và đổi mới |