PHẦN III.
Mác-Lênin là cái nền
móng không dùng được nữa.
Trong bài phát biểu ngày 10-3-2007 ông
Lê Hồng Hà nói: “Cuộc đấu tranh này cũng không phải là cuộc
đấu tranh để chống Chủ nghĩa Mác-Lênin, mà chỉ là chống lại
việc quốc đạo hoá Chủ nghĩa Mác-Lênin” và “phải tạm gác lại
vấn đề phê phán ông Hồ”. Trong ý nghĩa một cuộc vận động
chính trị-xã hội , thì chủ trương như vậy là hợp lý, là khôn
ngoan, là rất “chính trị”, ít nhất là ở giai đoạn đầu, vì
không ít người còn giữ niềm tin đẹp đẽ của quá khứ như một
quán tính, một hoài niệm.
Nhưng, một khi đã thấy rõ vai trò nền tảng rất quan trọng của
một “Triết lý” đối với sự phát triển xã hội thì trong lĩnh vực
nhận thức-lý luận không thể không phê phán những “Triết lý” cũ
đã “hết date” để xây dựng một “Triết lý” mới. Vấn đề là phải
tách thành hai lĩnh vực như đã nói trong phần đầu: lĩnh vực
nhận thức-lý luận và lĩnh vực hoạt động chính trị. Hãy cứ nhận
thức cho thấu triệt, ứng xử đến đâu để đạt kết quả lại là
chuyện khác. “Nói” là bộc lộ nhận thức của cá nhân, “làm” là
việc liên quan đến nhiều người, vậy từ nói sang làm phải có
điều chỉnh.
Nhiều trí thức không trực tiếp hoạt động chính trị, chỉ diễn
đạt nhận thức như các ông Phan Đình Diệu, Nguyễn Kiến Giang,
Lữ Phương, Mai Thái Lĩnh, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Ngọc Uyển…
vân vân, và chính ông Lê Hồng Hà cũng như chúng tôi (HSP),
cũng như một số người khác trong
bản danh sách “khu vực 2” (khu vực
phi chính thống) mà ông LHH thống kê
[9]
đều
không thể không phê phán một phần hay toàn bộ chủ nghĩa
“Mác-Lênin” và vấn đề “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Điều này không
thể tránh được, nhưng đặt vấn đề nghiên cứu một cách khoa học,
trầm tĩnh, khách quan không hề đồng nghĩa với việc mạt sát,
nói xấu, nói cho thỏa…
Nếu những người tôn thờ chủ nghĩa Mác coi chủ nghĩa ấy như một
niềm tin, như niềm tin tôn giáo, thì đúng như ý kiến ông LHH,
tôn giáo ấy cũng bình đẳng với các tôn giáo khác, chỉ cần
chống việc biến tôn giáo ấy thành quốc giáo. Nhưng là một tôn
giáo thì không được tham chính, không thể lãnh đạo toàn xã
hội! (đây cũng là ý kiến của ông Đặng văn Việt, một đảng viên
CS lão thành). Trong trường hợp ấy ta không cần bàn luận hay
phê phán giáo lý Mác-Lênin làm gì.
Nhưng nếu những tín đồ Mác xít không coi đó là tôn giáo mà lại
coi đó chân lý khoa học tuyệt đối đúng, mà hiến định và luật
hoá nó, đem nó trùm lên toàn xã hội, ai chống lại là phạm tội,
thì tất nhiên chân lý ấy phải chịu sự sàng lọc của trí tuệ
trước đã, lý thuyết ấy phải đương đầu với sự phản biện của
toàn dân tộc và toàn nhân loại! Chẳng hạn, ít nhất lý thuyết
Cộng sản phải chứng tỏ khả năng tự biện hộ một cách đứng đắn
và thành công trước những kết luận có tính quốc tế của Nghị
quyết 1481 của Hội đồng Nghị viện châu Âu ngày 25-1-2006. Rất
tiếc phía Việt nam cũng đã có một vài phản ứng, nhưng chỉ là
những phản ứng chống đỡ về mặt chính trị một cách rất công
thức và sáo mòn, không có nội dung tư tưởng hay khoa học gì
thuyết phục.Một cuộc tranh luận khoa học nếu được tiến hành
nghiêm túc sẽ thu hút sự tham gia của rất nhiều trí thức trong
ngoài nước và trên thế giới, và trong một không khí thật sự
khoa học thì tính chất ảo tưởng, phi khoa học của học thuyết
Mác-Lênin nhất định sẽ được phơi bày.
Nếu không thắng được trong những cuộc phản biện trí tuệ này
thì lý thuyết ấy chưa có tư cách khoa học để đứng trong Hiến
pháp như điều 4 Hiến pháp xác quyết: “Đảng cộng sản Việt
Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghia Mác - Lê Nin và
tư tuởng Hồ Chí Minh, là lực luợng lãnh đạo Nhà nuớc và xã
hội”. Điều 4 chẳng những mặc nhiên xác định vai trò lãnh
đạo tuyệt đối của một yếu tố chính trị là đảng Cộng sản, mà
còn mặc nhiên áp đặt một yếu tố thuộc pham vi khoa học-tư
tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin. Phần khoa học phải chịu sự rà
soát của khoa học! Đã là khoa học thì làm gì có ranh giới quốc
gia ? Ví dụ chẳng ai có thể nhân danh quốc gia để nói : Nước
tôi cứ khẳng định thuyết “Mặt trời quay quanh trái đất”,
hàng ngày người lao động nước tôi đều nhìn thấy như thế, các
anh ở bên ngoài phê phán nhận thức này là “can thiệp vào công
việc nội bộ” của chúng tôi!
Nhiều lúc nghĩ đến điều 4 Hiến pháp tôi lại thấy ở đó một tính
chất khôi hài, không hiểu sao ta lại làm một việc vô duyên đến
thế : một đảng đang cầm quyền dài dài mà vẫn lo mất chỗ, đến
nỗi phải tự đặt ra luật để giữ chỗ vĩnh viễn cho mình! Đã thế
lại sợ thiên hạ chê cười nên nói thác ra rằng đấy là nhân dân
họ muốn tôn vinh tôi như vậy, trong khi đội ngũ từ những người
dự thảo luật đến những thông qua luật thì quanh đi quẩn lại
toàn là đảng viên, chứ có được mấy người là “nhân dân”? Càng
lo xa, càng giành phần thì càng bộc lộ tâm lý tham lam, lo
lắng, thiếu tự tin. Cái lôgic tự nhiên ấy không thể che dấu
được, mặc dù vẫn cứ hô ta là nhà “vô địch muôn năm!”.Tôi dám
“đánh cuộc” rằng nước Việt nam mình còn thì trước sau gì mình
cũng phải bỏ cái điều 4 này, vì nó ấu trĩ, nó vô duyên, nó lạc
lõng trong thế giới hiện đại. Nhưng bỏ sớm thì đẹp hơn!.
Đại
loại toàn những chuyện sơ đẳng như thế.
Tôi đồng ý với một nhận xét của ông Nguyễn Gia Kiểng : đảng
CSVN chỉ làm mất thì giờ của cả dân tộc. Vì tất cả những cuộc
tranh luận rất gay go, rất phiền toái, rất nghiêm trọng, phải
đối phó từng giờ từng phút với nhau và rất dễ bị còng tay vào
tù…thực ra chỉ để tranh cãi toàn những kiến thức ở tầm abc,
những điều lý luận mà nhân loại đã vượt qua từ lâu, và những
thực tế “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”!. Hiện nay, trong bối
cảnh như thế, thiết nghĩ việc bàn về chủ nghĩa Mác-Lênin cũng
chẳng cần tầm chương trích cú nhiều quá làm gì. Hãy cứ nói với
nhau theo cách đơn giản, dễ hiểu.
Thật vậy, lịch sử đã chứng kiến cả một làn sóng người hăm hở
vác cuốc xẻng đi “đào mồ chôn” chủ nghĩa Tư bản để “tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa Xã hội”,
thế mà giữa lúc đang hứng khởi,tưởng như đã đi gần hết giai
đoạn quá độ để tiến vào thiên đường Cộng sản thì đùng một cái
húc phải cái thực tế sừng sững như núi Thái sơn, đành lũ lượt
quay lại học tư bản từ abc, học làm kinh tế thị trường, học ca
ngợi doanh nhân…, và chỉ mong được thế giới tư bản cho mình
hội nhập. Định đi chôn người ta mà giờ chỉ mong được nằm cạnh
người ta thôi đã sướng rơn người!. Thế mà vẫn bảo đường đi của
mình là đúng thì lạ thật. (Tôi mà là “người đẹp” Tư bản thì
dứt khoát tôi phải bắt cái anh cầm sẻng kia xin lỗi một câu
rồi mới cho nằm cạnh, đằng này chẳng xin lỗi thì chớ, được nằm
cạnh rồi thỉnh thoảng lại còn lầm bầm chửi xéo người ta!).
Lúc
đầu một số nước theo trào lưu Mác xít thành công trong việc
cướp chính quyền và giữ chính quyền. (Có một Tư tưởng quả là
một điểm tựa rất mạnh để tập hợp quần chúng!). Nhưng tiếp theo
là thất bại. Nguyên nhân vẫn từ Tư tưởng chứ không gì khác :
Tư tưởng ấy bản chất chỉ là một ảo tưởng phi khoa học, chống
lại thực tiễn nên hết cơn ảo tưởng phải trở lại thực tế, những
diều phi lý cứ lộ dần ra, cái sức mạnh đã liên kết được ban
đầu nay lại tan rã . “Sợi chỉ đỏ” đã đứt thì chuỗi hành động
rời ra từng khúc, đầu Ngô mình Sở không khớp được với nhau
nữa.
Đảng Cộng sản trước đây định cầm tay dẫn dắt kinh tế, dẫn dắt
xã hội như dắt trẻ con, nhưng đi loanh quanh mãi không biết ra
lối nào, bụng thì đói, đành thả kinh tế ra cho nó tự đi kiếm
miếng ăn , nhưng lại thòng vào cổ mỗi đứa một sợi dây “định
hướng Xã hội chủ nghĩa” (để giật mạnh một cái là phải quay
về !). Nắm chắc sợi dây thòng lọng về chính trị-tư tưởng ấy là
để Đảng nắm đằng chuôi. “Đày tớ” tiếp tục dắt “ông
chủ” đi “như dắt trâu bò”.
Thừa nhận sợi dây thòng lọng về chính trị-tư tưởng ấy, thì dân
hoàn toàn bị động với Đảng đã đành một nhẽ, nhưng đối với cả
dân tộc thì điều đó hoàn toàn bất lợi, bởi cái nền vẫn không
ra cái nền. Cái gọi là hệ tư tưởng bây giờ, trong đó có chủ
nghĩa Mác cộng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chẳng qua là dùng
ngụy biện làm chất xi măng để gắn kết một cách lộn xộn những
chất liệu xưa cũ với những chất liệu hiện đại vay mượn, thành
một thứ vôi vữa để hàn gắn lại cái nền cũ Mác Lê đã rạn nứt
hơn cầu Văn thánh. Cái triết lý chính trị đã bị khoa học và
thực tiễn bẻ gẫy, càng cố chống chế càng nhạt nhẽo , người dạy
không muốn dạy, người học không muốn học, đã đến lúc không nên
áp đặt một môn học nặng nề vô bổ như vậy trong các nhà trường.
Ngôi nhà đã xụt móng, tu sửa hào nhóang cũng chẳng bền được.
Để thoát khỏi tình trạng “thày bói dọn cưới” hiện nay chỉ có
một cách duy nhất là dũng cảm làm lại cái nền Tư tưởng. Chuyện
lớn, chuyện thời đại, không thể khôn vặt.
Cái
nền Mác Lê chỉ còn lại một “ưu điểm” rất tiện dùng là để quản
lý dân cho dễ, dẫn dắt dân cho dễ và sử dụng dân cho dễ, vì
chủ nghĩa ấy chẳng qua là một quy trình “thiết kế, áp đặt
và điều khiển” xã hội, coi xã hội loài người sinh động
cũng chỉ như một cỗ máy công nghiệp để mình vận hành.
Người điều hành cứ bấm đốt ngón tay, xem “kế hoạch 5 năm” lần
thứ nhất thì làm gì, lần thứ hai thì làm gì, sau mấy “kế hoạch
5 năm” thì vào chủ nghĩa Cộng sản…Ý muốn điều khiển xã hội răm
rắp như điều khiển một cỗ máy chẳng qua là một thứ “bệnh công
nghiệp”, một thứ “mốt công nghiệp” , một bệnh ấu trĩ xuất hiện
thuở cách mạng công nghiệp đang bắt đầu thịnh hành (Cái ấu trĩ
bao giờ cũng cực đoan!). Chủ nghĩa kỹ trị cực đoan đã hóa thân
nhuần nhuyễn thành triết học và đạo đức, đó chính là thực chất
của chủ nghĩa Mác về xây dựng và điều khiển xã hội.Vì thế mà
tuy mục đích rất nhân bản là muốn điều khiển “cỗ máy xã hội”
cho nó chạy thật tốt theo thiết kế của mình, đem lại của cải
nhiều nhất cho xã hội, đem lại hạnh phúc nhiều nhất cho con
người, nhưng không biết rằng một quan niệm “cơ giới hoá” xã
hội như thế là rất phản nhân tính. (Trong bài Chia tay
Ý thức hệ , tôi dẫn câu “Yêu nhau thì lại bằng mười phụ
nhau” để nói cái ý ấy).
Xã
hội nói chung cũng như mỗi con người nói riêng về bản tính nó
chống lại chủ trương điều khiển cơ giới của Mác, vì thế muốn
đưa con người vào guồng máy điều khiển, các chính quyền Mác
xít trước hết phải dứt đứt tất cả những mối liên hệ tự nhiên
của con người, rời bỏ tư hữu để công hữu hoá, tập
thể hoá, “đoạn tuyệt với quá khứ một cách triệt để nhất”…,
thế là con người biến thành những đinh ốc trong một cỗ máy.
Đó là một xã hội phi tự nhiên, hoàn toàn “nhân tạo”.
Tuy
Marx có nhắc lại câu nói của Terence (190-159 trước CN) “Những
gì thuộc về con người đều không xa lạ với tôi”, nhưng thực
ra Mác không hiểu kỹ “con người” lắm đâu, nhất là không hiểu
cái “mặt trái” , cái mặt “bản bất thiện” của con người, đằng
sau cái tính “bản thiện”.
Nếu ví cả cái xã hội Mác xít như một cỗ máy “tự quản” đã thiết
kế xong. mỗi phần tử đã hoạt động răm rắp như những bánh xe,
như những đinh ốc, thì xin thưa những bánh xe chủ chốt, những
đinh ốc chủ chốt, với bản chất sinh vật của chúng, chúng sẽ
trở lại bản năng “đấu tranh sinh tồn” mà nảy nở sinh sôi, mọc
sừng mọc mỏ, mọc vuốt mọc nanh. Chúng trở thành những ông chủ
mới để gõ búa vào cỗ máy của Marx, để bóc lột nó, bóc lột
những đồng loại còn cam phận bánh xe-đinh ốc, nhưng tai quái
hơn những ông chủ cũ rất nhiều.
Nhưng đấy mới là pha thứ nhất trong cuộc hồi sinh của cỗ máy
xã hội, là pha trỗi dậy của tính bất thiện trong con người.
Pha thứ hai quan trọng hơn nhiều. là pha trỗi dậy của bản chất
sinh học trong hàng ngàn hàng vạn bánh xe-đinh ốc nhỏ xíu
trong cỗ máy Mác xít, đó là sự hồi sinh của “tính bản thiện”.
Và thế là “cuộc nội chiến” giữa hai mặt của bản chất con người
diễn ra: bản thiện và bản bất thiện. Cuộc nội chiến bao giờ
cũng day dứt, lo âu không thừa, nhưng chẳng có lý do gì để bi
quan mãi vì dù chẳng bao giờ diệt hết được những điều bất
thiện nhưng toàn xã hội thì đã dần dần kéo nhau ra khỏi được
cái cỗ máy Mác xít cơ giới, ấu trĩ, cực đoan mà trước đây hằng
khao khát. Thực tiễn cho thấy trong tất cả những cỗ máy Mác
xít chết cứng, xã hội dân sự đã dần dần hồi sinh. Cuối cùng
nhất định “loài người sẽ từ giã quá khứ của mình một cách vui
vẻ”, cảm hứng này của Marx thì thật là tuyệt. Bi kịch đã xen
kẽ và chuyển dần thành hài kịch rồi, dẫu cho nhiều hài kịch
vẫn còn “cười ra nước mắt”.
Như
thế, chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là phần Duy vật lịch sử, về
triết học thì là hiện thân của “bệnh công nghiệp”, của chủ
nghĩa cơ giới, còn về chính trị thì đó là sự kéo dài chủ nghĩa
phong kiến với màu sắc công nghiệp hóa.
Thời Karl Marx nền văn minh công nghiệp (mà ta gọi là chủ
nghĩa tư bản) đang ở giai đoạn “tăng tốc”, như chiếc máy bay
đang cất cánh, nên nó gây sốc. Những tiến bộ ghê gớm quá, hiệu
quả quá, làm thay đổi hẳn cuộc sống nhân loại. Xã hội mất đồng
bộ, nhân loại bị xáo động nặng nề, bị kéo dãn ra, cách biệt về
năng lực giữa con người với con người, giữa dân tộc với dân
tộc trở nên quá lớn, tạo tiền đề cho sự chiếm đoạt nhau, xéo
lên nhau để bành trướng. Bóc lột và bất công dữ dội. Sợi dây
xích phong kiến ràng buộc xã hội theo tôn ty cũ đứt tung ra,
xã hội như con ngựa dữ đứt cương. Đấy là cơn sốt vàng da của
đứa trẻ để nó lớn lên, nó trưởng thành, thì Marx tưởng đấy là
căn bệnh nan y của ông già sắp chết, nên đặt chương trình đào
mồ để chôn nó đi.
Đáng lẽ phải mở đường cho nó tiến về phía trước, thiết lập kỷ
cương mới cho xã hội, sao cho vừa nuôi dưỡng sự phát triển,
vừa có dân chủ, bình đẳng cho mọi người, khống chế được sự bất
công tàn bạo giữa người với người mà còn liên kết được với
nhau để phát triển. Kỷ cương phong kiến thì đã hoàn toàn bất
lực. Kỷ cương mới không có gì khác hơn là một nền kinh tế thị
trường đi đôi với một nền dân chủ pháp trị, một nhà nước pháp
quyền, khống chế quyền lực bằng tam quyền phân lập kết hợp với
thể chế đa đảng, đa nguyên. Đại bộ phận thế giới tiến bộ ngày
nay tuân theo dòng chảy tự nhiên ấy, dòng chảy mà những J.J
Rousseau, Montesquieu, John Locke….đã khơi nguồn.
Nhưng Karl Marx và đồng đội của ông đã chống lại dòng chảy đó.
Vì đọc nhầm tín hiệu của thời đại (nhìn đứa trẻ đang lớn như
thổi thành ông già sắp chết) , nhìn phía trước của nhân loại
thành cái hố sâu bế tắc, nên đi tìm lối thoát ở phía đối diện,
tức phía sau lưng. Những tư tưởng dân chủ là yếu tố tiên tiến
đang hé mở thì Marx coi đó là cái dân chủ của kẻ đang “giãy
chết” nên cũng vứt đi luôn. Cho nên mọi sáng kiến của
Mác-Lênin để vạch đường lên phía trước thực chất là tìm về quá
khứ : bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để công hữu hóa,
đáng lẽ phải dân chủ hoá bằng cách phân quyền ra thì lại
chuyên chính hoá bằng cách tập trung quyền lực lại , cố xây
dựng một đảng lãnh đạo ưu tú thì hệt như một đấng minh quân,
Đảng Cộng sản lo “từng mũi kim sợi chỉ” cho dân như mẹ hiền
thì thực chất là chủ nghĩa “thân dân” của phong kiến, xa lạ
với kinh tế thị trường. Những đợt chỉnh huấn “chống chủ nghĩa
cá nhân” là hình bóng của “tu thân, trị quốc, bình thiên
hạ”.Tất cả những điều ấy là biến tướng của phong kiến chứ
không gì khác. Chỉ khác một điều là nền kinh tế thì kế hoạch
hóa, mà như trên đã phân tích, đó là bệnh công nghiệp.
Vậy
đấy là chủ nghĩa phong kiến mang màu sắc công nghiệp, vừa mắc
“bệnh phong kiến” vừa mắc “bệnh công nghiệp”, hai thứ bệnh quá
tả ấy kết với nhau thì làm gì mà không thành phát xít, nhưng
một thứ phát xít rất “chân thành”,lúc đầu rất dễ thương, thánh
thiện như một tôn giáo. Con người làm những việc phản khoa
học, phản nhân văn mà cứ nghĩ mình biết sống có lý tưởng, tự
hào là mình biết “tử vì đạo”, coi việc dày xéo lên người khác
là sứ mạng tất yếu trên đường dắt cả loài người đến thiên
đường Cộng sản, kẻ nào vướng chân mình đều là địch cả. Trào
lưu Cộng sản là trào lưu chống phong kiến cũ nhưng lại sa vào
phong kiến mới, chống vua cũ nhưng lại lập ra vua mới, chống
phát xít cũ nhưng lại sa vào phát xít mới, chống “quá khứ cũ”
nhưng để tiến vào “quá khứ mới” mà thôi, nên không thể có
tương lai. Sự sụp đổ của phe Xã hội chủ nghĩa là sự uốn nắn
tất yếu của quy luật.
Đến
đây, tôi đã có câu trả lời cho câu hỏi mà nhà báo Bùi Tín đặt
ra cho cuộc thảo luận “Việt nam đã hoàn thành cuộc Cách mạng
Dân tộc chưa mà đã muốn tiến sang cách mạng Xã hội chủ nghĩa
?”. Tất nhiên ông Bùi Tín nhại lại luận điểm của những người
Cộng sản để chứng minh tính bất toàn của nó, chứ ông đâu còn
tin là có chủ nghĩa Cộng sản. Cuộc Cách mạng dân tộc đã diễn
ra chỉ là cuộc đánh ngoại xâm giành độc lập như đã làm nhiều
lần trong lịch sử. Còn về cuộc cách mạng Dân chủ thì chẳng
những ta chưa làm mà còn làm ngược, làm một bước lùi, thay cái
phi dân chủ cũ bằng cái phi dân chủ mới tai hại và khó trị hơn
nhiều.
Dù những người Cộng sản có hết lời ca ngợi tính dân chủ của
chế độ Xã hội chủ nghĩa, dù có đàn áp hay bịt miệng những ai
bảo chế độ ấy là thiếu dân chủ, thì cũng không sao tẩy xóa
được nụ cười nhạo báng trên môi thiên hạ mỗi khi có ai nhắc
lại lời của Lênin đánh giá nền Chuyên chính Vô sản “dân chủ
gấp triệu lần” dân chủ tư sản! Nhắc lại câu ấy ai cũng
buồn cười.Chỉ một nét cười ấy thôi, đủ thay cho tất cả những
lý luận thiên kinh vạn quyển. Nhân loại bỏ phiếu bằng nụ cười.
Lại
một nghịch lý rất lớn nữa : Đặc trưng của chủ nghĩa Cộng sản
là chống sự chênh lệch, tôn thờ sự công bằng, thậm chí nhiều
khi còn san bằng nữa, nhưng thử so sánh sự chênh lệch hiện nay
giữa con người với con người về những mặt tiền bạc, quyền thế,
đạo đức, sự ăn chơi, nỗi nhọc nhằn…ở xã hội Việt nam thì thấy
cái niềm hãnh diện về sự công bằng kia đã thành chuyện mỉa mai
khôi hài ra nước mắt.
Chủ
nghĩa ấy trước đây là sức mạnh để kết mọi người lại bao nhiêu
thì nay lại thành nguyên nhân làm người ta cách xa nhau nhau
bấy nhiêu, lòng người ly tán bấy nhiêu. Cựu thủ tướng Võ Văn
Kiệt có nhiều công sức hô hào đoàn kết, nhưng thiện ý ấy, cũng
như thiện ý của nhiều người Cộng sản hiện nay, luôn bị nghi
ngờ (ít nhất là nghi ngờ về tính khả thi) chính vì chưa chạm
đến cái nền tảng, cái nguyên nhân gốc rễ ấy.
Tóm
lại, một quốc gia, một dân tộc muốn phát triển bền vững không
thể không có một nền tảng tư tưởng, dù viết thành văn một cách
hệ thống, hay thấm nhuần trong toàn bộ nền văn hoá của dân tộc
ấy, làm nên dân trí của quốc gia-dân tộc ấy. Giới trí thức là
tinh hoa của nhân dân, trong đó các tư tưởng gia có một vị trí
đặc biệt. Trong thế kỷ 19-20 những dân tộc văn minh hàng đầu
đều không bị cuốn vào trào lưu Cộng sản (mặc dù phong trào
tranh đấu của Công nhân cũng thúc đẩy hình thành những đảng
Cộng sản) là bởi đã có một nền dân trí cao. Nhân dân nào thì
chính quyền ấy, dân tộc nào thì tai hoạ ấy, suy cho cùng đều
do cái nền tảng tư tưởng và dân trí mà ra.
Dân
trí nước ta, trong tình cảnh nô lệ của ta, dẫn ta đến trào lưu
Cộng sản lúc ấy phải chăng cũng là tất yếu? Phải chăng Việt
nam mới chính là mảnh đất màu mỡ nhất để gieo mầm Mác-Lê khiến
nó bám rễ rất sâu? Việt nam liệu có là “anh hề” cuối cùng rút
khỏi sân khấu ?
Dù cho một số người Cộng sản vẫn kiên quyết giữ cái vỏ Mác Lê
nhưng bên trong cũng đã thay đổi những quan điểm xương cốt
nhất của chủ nghĩa ấy. “Đổi mới hay là chết !”. Vâng
cái tư tưởng chuyên chính trong chủ nghĩa Mác-Lê có thể còn
ích lợi cho một tầng lớp nào đó, chứ đối với dân tộc và thời
đại thì chủ nghĩa ấy đã thành cái nền móng tư tưởng không dùng
được nữa !
(Còn tiếp)
[9] Tài liệu đã dẫn : Lê Hồng Hà, Thư
gửi…của ông Lê Hồng Hà (http://doi-thoai.com
/baimoi0407_244.html)