Ba thi
hào họ Nguyễn
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu
cùng chung một dòng máu
Vị thủy tổ của ba thi hào họ Nguyễn: Nguyễn Trãi – Nguyễn Du – Nguyễn
Đình Chiểu là Thái tể triều Đinh, Định Quốc công Nguyễn Bặc.
Vậy,
Nguyễn Bặc là ai ?
Theo
Từ điển Bách khoa toàn thư Wikiphedia thì Nguyễn Bặc sinh năm 924 –15
tháng 10, 979 âm lịch là công thần khai quốc nhà Đinh, cùng với Đinh
Điền giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn 12 sứ quân vào thế
kỷ 10 trong lịch sử Việt Nam. Theo sách Khâm định Việt sử Thông giám
Cương mục, Nguyễn Bặc là người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, Ninh Bình.
Từ thuở nhỏ, ông đã cùng kết bạn với Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Điền, Trịnh Tú
và Lưu Cơ.
Khi
Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn tử trận (965), các sứ quân nổi dậy. Anh em
Nguyễn Bặc theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp. Theo thần phả, khi đánh dẹp một
sứ quân mạnh là Nguyễn Siêu, Nguyễn Bồ và Nguyễn Phục cùng 2 tướng
khác bị tử trận. Vạn Thắng Vương liền sai Nguyễn Bặc, Đinh Điền và Lê
Hoàn mang quân đánh báo thù, kết quả diệt được Nguyễn Siêu (967).
Ngoài trận đánh Nguyễn Siêu, Nguyễn Bặc đóng góp nhiều công lao trong
việc đánh dẹp các sứ quân, thống nhất toàn quốc dưới tay vua Đinh.
Năm
968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, tức là Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Bặc được
phong làm Định quốc công, Đinh Điền được phong làm Ngoại giáp. Chính
sử không nói rõ nhưng các gia phả họ Nguyễn có giải thích thêm rằng:
Nguyễn Bặc làm quốc công, coi việc nội giáp, tức là việc nội chính,
còn Đinh Điền làm ngoại giáp coi việc bên ngoài.
Theo
các gia phổ họ Nguyễn và tài liệu “Lược sử họ Nguyễn tại Việt Nam”,
Nguyễn Bặc được coi là bậc tiền thủy tổ họ Nguyễn ở Việt Nam.
Sau
khi vương quyền nhà Đinh mà Thái hậu Dương Vân Nga cùng quần thần
chuyển giao sang tay họ Lê, Đinh Điền, Nguyễn Bặc khởi binh đánh Lê
Hoàn và cả hai vị khai quốc công thần này đều tử trận. Nguyễn Bặc có
một người con trai cả là Nguyễn Đê ở lại làm quan cho triều Lê Đại
Hành. Cuối đời ông dời cư vào Gia Miêu Thế thứ các đời họ Nguyễn ở Gia
Miêu từ thế kỷ X sắp xếp như sau: Nguyễn Bặc : 1-Nguyễn Đê. 2-Nguyễn
Viễn. 3- Nguyễn Phụng. 4- Nguyễn Nộn. 5- Nguyễn Thế Tứ. 6- Nguyễn
Hoằng Du. 7- Nguyễn Biện. 8- Nguyễn Sử. 9-Nguyễn Công Duẩn (hay
Chuẩn). 10- Nguyễn Đức Trung.
Muốn
nghiên cứu nguồn gốc họ Nguyễn ở Việt Nam, chúng ta hãy tìm đến Gia
Miêu ngoại trang, là cái nôi, nơi xuất phát điểm của nhiều dòng họ
Nguyễn tỏa đi khắp nước.
Gia
Miêu ngoại trang là một trang ấp có từ xa xưa. Trang là làng, ấp nhưng
ở tiếp giáp với núi, nằm trong thung lũng nhỏ sông Tống Giang, có Long
Khê chảy qua ở phía tây bắc huyện Tống sơn tức huyện Hà Trung, Thanh
Hóa bây giờ, phía bắc Gia Miêu có rặnng núi Răng Cưa, nằm ở Bắc Thiên
Tôn Sơn, ngọn núi thiêng của dòng họ Nguyễn. Gia Miêu là nơi tập kết
an nghỉ của tổ tiên bao đời dòng họ Nguyễn sau khi tung hoành khắp bốn
phương, tận trung báo quốc xây dựng và bảo vệ đất nước. Rặng núi Rặng
Cưa phía bắc Thiên Tôn Sơn là biên giới tỉnh Ninh Bình và tỉnh Thanh
Hóa. Phía Tây Gia Miêu cách 5 km là núi Thạch Thành nơi ngày xưa có
một đồn binh gọi là Man Bảo (hay Vạn Bảo), nơi tận cùng phía đông
mường Thạch Thành mà Nguyễn Biện (đời thứ7) đã xây dựng thành công 12
sơn động cuối đời Trần, làm hậu thuẫn căn cứ địa cho cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn, trở thành rất nhiều khai quốc công thần kháng Minh thời Lê
Lợi. ! Làng Mường này đến thời Pháp cai trị trở thành 37 làng Mường
trực thuộc dòng lang cun Nguyễn Đình ở Quảng Tế. Vùng thung lũng này
cao so với các cánh đồng trũng phía đông và nam, nên không bao giờ
ngập lụt. Từ khi ngăn đập Bến Quân làm thủy lợi lấy nước suối Rồng thì
vùng này phì nhiêu không thể thiếu nước
Gia
Miêu là quê gốc của nhiều dòng họ Nguyễn. Từ xa xưa, nhiều người họ
Nguyễn đã từ đây chuyển cư đi khắp mọi miền đất nước và thành lập
những dòng họ rất lớn ở Bắc, Trung, Nam. Dòng họ ở đây là con cháu
Định quốc công Nguyễn Bặc, nhưng từ đầu đời Lê đã tách ra làm ba họ
Nguyễn : Họ Nguyễn Đình thờ vị tổ là Bình Ngô khai quốc công thần
Nguyễn Lý. Họ Nguyễn Hữu thờ vị tổ là bình Ngô khai quốc Công thần
Nguyễn Công Duẩn. Dòng họ Nguyễn Văn thờ Thịnh Quận công Nguyễn Chữ.
Vì họ to và họ xa phải tách ra làm ba họ Nguyễn để con cháu có điều
kiện kết hôn với nhau. Trong làng còn có họ Mai là họ ngoại của họ
Nguyễn. Từ xa xưa, đình làng Gia Miêu chỉ có thờ bốn vị tiên hiền là
tổ của bốn vị tổ họ Nguyễn Hữu, Tổ họ Nguyễn Lý, Tổ họ Nguyễn Văn và
Tổ họ Mai. Từ trước 1945, ở Gia Miêu chỉ có 4 họ trên. Trong thời
Nguyễn, không thể có họ nào khác lọt vào sống ở đây. (1)
Sử
sách thường ghi Nguyễn Kim (1468-1545) – cha của chúa Nguyễn đầu tiên
Nguyễn Hoàng – là danh tướng Việt Nam thời nhà Lê sơ và là người đặt
nền móng cho sự thành lập nhà Lê trung hưng
Theo
phả hệ họ Nguyễn Gia Miêu cho rằng Nguyễn Kim và Nguyễn Hoằng Dụ là
anh em họ. Người sinh ra Nguyễn Kim là Nguyễn Văn Lưu, anh Nguyễn Văn
Lang và bác Nguyễn Hoằng Dụ (đời thứ 6).
Sau
khi tướng Lê – Trịnh là Nguyễn Kim (2) chết do bị đầu độc bởi hàng
tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất, bộ tướng của ông lên thay là Trịnh
Kiểm. Để diệt trừ hậu hoạ, Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Thấy anh trai
bị hại, có ngày vạ lây, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái là vợ Trịnh Kiểm nói
khéo cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, sinh ra chúa Nguyễn
sau này.
Danh
sách tổ tiên chúa Nguyễn nối đời là: Nguyễn Đức Trung · Nguyễn Văn
Lang · Nguyễn Hoằng Dụ · Nguyễn Kim · Nguyễn Hoàng · Nguyễn Phúc
Nguyên · Nguyễn Phúc Lan · Nguyễn Phúc Tần · Nguyễn Phúc Thái · Nguyễn
Phúc Chu · Nguyễn Phúc Trú · Nguyễn Phúc Khoát · Nguyễn Phúc Luân.
xxx
Ở
Gia Miêu, ông tổ của dòng Nguyễn Đình là Bình Ngô khai quốc công thần
Nguyễn Lý. Cháu của Nguyễn Lý là Nguyễn Đình Thuận theo Chúa Tiên
Nguyễn Hoàng di cư vào xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, Thừa Thiên.
Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn nhất của miền Nam nửa cuối thế kỷ XIX
xuất thân trong gia đình nhà nho là hậu duệ của 1 trong 3 họ Nguyễn
Đình ở Phong Điền.(3) Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền,
huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên; nay thuộc huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên-Huế. Theo gia phả của dòng họ Nguyễn Đình, ông tổ của họ
theo chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp tại nơi này. Lớn lên, ông
Nguyễn Đình Huy cưới vợ ở đây và đã có hai con (một trai và một gái).
Mùa hạ, tháng 5 năm Canh Thìn (1820) Tả quân Lê Văn Duyệt được triều
đình Huế phái vào làm Tổng trấn Gia Định thành. Đến đầu mùa thu,
Nguyễn Đình Huy đi theo Tả quân, để tiếp tục làm thư lại ở Văn hàn ty
thuộc dinh Tổng trấn. Ở Gia Định, ông Huy có thêm người vợ thứ là bà
Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới, sinh được 7 con (4 trai, 3
gái), và Nguyễn Đình Chiểu chính là con đầu lòng.
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm
1822), tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương,
tỉnh Gia Định (thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
ngày nay). Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền (1835-1886,
người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc, trước thuộc Gia Định; nay thuộc
tỉnh Long An) làm vợ. Bà Điền là em gái thứ năm của Lê Tăng Quýnh, học
trò ông, vì cảm phục và mến thương thầy, đã xin gia đình tác hợp. Con
của Nguyễn Đình Chiểu có tất cả là ba trai ba gái. Trong số ấy có nữ
sĩ Sương Nguyệt Anh (con gái thứ tư) và Nguyễn Đình Chiêm (con trai
thứ sáu) là người có tiếng trong giới văn chương, nối nghiệp cầm bút
của cha.
Mộ Nguyễn Đình Chiểu (giữa), mộ vợ Lê Thị Điền (phải), mộ Sương Nguyệt
Anh (trái),
đằng sau là đền thờ ở Ba Tri, Bến Tre.
Sau
khi cha là Nguyễn Bặc tử nạn, trừ người anh cả Nguyễn Đê ở lại làm
quan cho Lê Hoàn, còn người con thứ hai của Nguyễn Bặc là Nguyễn Thứ
bất cộng đái thiên với triều đình mới nên dời cư về huyện Phượng Sơn,
lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương). Sau non bốn thế kỷ thì
sinh ra Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi (1380–19/9/1442), quê gốc ở làng Chi
Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang. Ông là con trai của hàn sĩ
Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của thân vương
Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh năm 1400, ông từng
làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà
Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh
đạo chống lại ách đô hộ nhà Minh. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân
Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư
ngoại giao với quân Minh. Nguyễn Trãi là khai quốc công thần và là văn
thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, năm1442, toàn thể gia
đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464,
vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Nòi giống của Nguyễn
Trãi còn sót lại từ Anh Vũ – con bà Phạm Thị Mận vẫn được duy trì phát
triển.
Đền thờ Nguyễn Trãi tại Côn Sơn, xã Cộng Hòa – huyện Chí Linh- Hải
Dương
Năm
1969, khi khoa Văn Đại học Sư Phạm Vinh sơ tán về xã Quỳnh Thạch,
Quỳnh Lưu, Nghệ An, lớp chúng tôi thường mượn nhà thờ họ Nguyễn làm
nơi hội thoáng mát. Ông tộc trưởng cho biết chi họ của ông thuộc dòng
Nguyễn Trãi, trực tiếp thờ ông tổ Anh Vũ. Trên đường Nguyễn Trãi kéo
dài từ quận 1 đến quân 5 tp Hồ Chí Minh hiện có một nhà thờ lớn thờ
Nguyễn Phi Khanh khá lâu đời, do con cháu Anh Vũ lập. Tôi có chơi thân
với nhà thơ Nguyễn Phi Nguyện. Anh Nguyện thuộc dòng trực hệ Anh Vũ.
Như vậy con cháu Nguyễn Trãi vẫn không bị tuyệt chủng.
Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
xxx
Có
một hậu duệ xuất sắc của Nguyễn Bặc thế kỷ XVI là Tướng quân Nguyễn
Quyện. Nguyễn Quyện là người làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, xứ Sơn
Nam, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Ông cùng dòng họ với Nguyễn Trãi. Cha
ông là Nguyễn Thiến (có chỗ ghi là Thuyến) đỗ trạng nguyên năm Nhâm
Thìn niên hiệu Đại Chính Nhà Mạc 1532. Dưới triều vua Mạc Phúc Nguyên,
Nguyễn Thiến giữ chức Thượng thư bộ Lại, tước Thư Quận công. Tướng
Nguyễn Quyện được giao giữ vệ Phù Nam, tước Văn Thái hầu và là con rể
Thái tể Lê Bá Ly. Tháng ba năm Tân Hợi, Lê Bá Ly đem 17.000 quân các
đạo Tây Nam sang hàng Lê thì Nguyễn Thiến và Nguyễn Quyện cùng đi
theo. Nguyễn Thiến được vua Lê cho giữ nguyên chức tước. Tháng 8 năm
Đinh Tỵ, niên hiệu Quang Bảo thứ tư triều Mạc 1557, Nguyễn Thiến chết,
Nguyễn Quyện cùngg em là Nguyễn Miễn trốn về hàng vua Mạc Phúc Nguyên.
Trong trận chống nhau với vua Lê ở Hồ Trì tháng 9 năm Đinh Tỵ, Nguyễn
Quyện đánh tan quân Lê do Vũ Lăng hầu và Phạm Đức Kỳ chỉ huy, lập
chiến công rực rỡ.
Tháng 6 năm Diên Thành thứ 9 năm 1574 vua Mạc Mậu Hợp sai tướng Nguyễn
Quyện đánh Nghệ An, huyết chiến với tướng Lê Công Tích và Trịnh Mô
(tức Nguyễn Cảnh Mô) vài tháng không phân thắng bại, lại rút quân về.
Ngày
6 tháng giêng năm Diên Thành thứ 10 năm 1575, Nguyễn Quyện lại cất
quân tiến đánh Nghệ An giết được Lại Quốc công Phan Công Tích ngay
giữa trận tiền ở Lèn Hai Vai, Diễn Châu.
Tháng 7 năm Diên Thành thứ 11 năm 1576, Nguyễn Quyện lại đánh vào Nghệ
An, truy bắt sống được Tấn Quốc công Nguyễn Cảnh Mô (Trịnh Mô) ở núi
Ngọc Sơn Thanh Hóa, giải về kinh sư.
Từ
đó uy danh của Nguyễn Quyện càng lẫy lừng.
Đương thời coi ông là một danh tướng. Tháng 4 năm Đan Thái Nguyễn
Quyện được vua thăng Thượng Đẳng Quốc công.
Nhà thờ Nguyễn Du ở Tiên Điền, Hà Tĩnh
Mùa xuân ngày 6-1 năm Hồng Ninh thứ 3 năm 1592, khi kinh thành Thăng
Long thất thủ, Nguyễn Quyện bị quân Trịnh bắt, được Trịnh Tùng biệt
đãi. Ông than rằng “Ông tướng bại trận không thể nói mạnh được. Trời
đất bắt Mạc suy thì dẫu anh hùng cũng khó ra sức”.
Sau khi vua Mạc Hồng Ninh (Mạc Mậu Hợp) bị giết, Nguyễn Quyện và các
con cháu phải khuất theo nhà Lê, nhưng không phục, tìm cách chống lại.
Việc bại lộ, cả nhà cùng bị thảm sát, chỉ có một người con trai của
Nguyễn Miễn trốn thoát. Đó là Nam Dương hầu Nguyễn Nghiệm. Ông giong
buồn vượt biển chạy trốn vào làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh, giấu tên họ, tung tích, chỉ gọi là ông già Nam Dương. Sau này,
con cháu tập hợp lại thành chi phái họ Nguyễn Tiên Điền, tức là dòng
họ của Đại Thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều bất hủ. Danh nhân
văn hóa thế giới.
Tham khảo:
(1) Viết theo tài liệu Gia phả dòng họ Thái tể triều Đinh, Định Quốc
công Nguyễn Bặc. Bộ thế phả do tiến sĩ Nguyễn Văn Lý (1795-1868) biên
soạn.
(2) Nguyễn Kim được các vua nhà Nguyễn sau này truy tôn miếu hiệu là
Triệu Tổ, thụy hiệu là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu
Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh hoàng đế.
(3) Ban tu thư Tuyển tập Nguyễn Đình Chiểu có về xã Bồ Đề điều tra
nhưng không ra manh mối gì cả.
Nguồn:
Blog NĐH |