Hai
quả chuông cổ nhất Việt nam
Chuông đồng là những di vật cổ có giá trị rất lớn về mặt lịch sử,
văn hóa... của mỗi dân tộc trong từng thời đại. Dựa vào công nghệ
đúc đồng và những họa tiết hoa văn trang trí trên chuông mà các nhà
nghiên cứu có thể biết được sự phát triển của xã hội, trình độ văn
hóa của con người vào thời điểm lịch sử cụ thể đó.
Chỉ tiếc, do chiến tranh loạn lạc những quả chuông có niên đại sớm ở
Việt Nam hiện còn lại rất ít. Tính đến thời điểm này, chỉ mới phát
hiện được hai quả chuông được xem là có niên đại sớm nhất của Việt
Nam là chuông Thanh Mai và chuông Nhật Tảo.
Báu vật nằm buồng trong kho cũ
Theo các chuyên gia về cổ vật và sử học thì quả chuông đồng có niên
đại sớm nhất Việt Nam hiện nay là quả chuông đồng được bà con thôn
My Dương, xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây (cũ) tìm
thấy năm 1986 trong một lần đào mương khai thông hệ thống thủy lợi
của thôn. Quả chuông này đã được tìm thấy ở độ sâu 3,5m.
Quả chuông đồng có niên đại từ thời Ngô Quyền
được tìm thấy ở thôn Nhật Tảo, Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội.
Toàn thân chuông cao 43cm, nặng 36kg. Riêng quai chuông cao tới 7cm,
đường kính 35cm và miệng chuông có đường kính 39cm. Quai chuông đúc
nổi đôi rồng đấu lưng vào nhau, uốn cong một cách khéo léo tạo thành
núm treo chuông. Đỉnh chuông được tạo theo hình chỏm cầu, đúc nổi
bằng nhiều cánh sen kép và nhũ đinh. Thân chuông hình trụ, trên to
dưới nhỏ, ở mặt thân chuông có các đường gân nổi ngang dọc, chia
thân chuông thành bốn ô trên và bốn ô dưới. Hai núm dùng để gõ chuông có
hình tròn lồng trong nền cánh sen hết sức nghệ thuật, thể hiện đỉnh
cao của nghệ thuật điêu khắc thời bấy giờ.
Đặc biệt là trên phần thân chuông có khắc một bài minh văn bằng chữ
Hán, khoảng 1.500 chữ, toàn bộ minh văn được khắc kín trong 8 ô. Nội
dung bài minh văn như sau: Hồi tâm dựng phúc / Công tạo minh
chung / Thiên viễn ứng nghiệm / Địa ngục văn thanh / Tam đồ cụ khổ / Bát
nạn tiêu khuynh / Kim thân giả hữu / Truyền danh vạn tuế / Chiêm lâm
Phật pháp / Âm hưởng xuất không / Tẩu công nhất đảo / Bất diệt vô sinh.
Đại ý của bài minh này là: Chiếc chuông này được nhiều người công
đức đúc nên. Danh sách những người công đức có ghi trên thân chuông.
Những người này đều là đệ tử của nhà Phật, có chung tâm đức tạo nên
chiếc chuông này, họ mong muốn rằng: Khi tiếng chuông vang lên thì
được trời, đất, thần, Phật chứng giám cho chúng sinh và tiêu trừ hết
khổ nạn. Phật pháp được lưu danh muôn thuở (bản dịch của viện Hán
Nôm).
Dựa vào bài minh và danh sách những người có công đức để đúc chuông
được ghi trên thân chuông, các nhà Hán Nôm và khảo cổ học đã xác
định quả chuông do hội Tuỳ Hỷ của người Hoa và người Việt đúc vào
năm Mậu Dần, niên hiệu Trinh Nguyên thứ 14 (năm 798). Quả chuông
được đánh giá có niên đại cổ nhất Việt Nam từ trước tới nay và đã
thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng dưới thời bấy giờ. Cũng
thông qua bài minh, các nhà nghiên cứu cho rằng, thời kỳ xuất hiện
quả chuông là thời kỳ Phật giáo khá phát thịnh trong cộng đồng người
Việt và người Hoa trên đất nước Việt Nam. Chỉ tiếc là chuông không
ghi rõ được đúc ở chùa nào.
Chuông cổ long đong mãi xóm nghèo
Đây là quả chuông được tìm thấy ở văn chỉ thôn Nhật Tảo, xã Đông
Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Quả chuông này khá độc đáo với dáng
chuông thon thả, nhỏ nhắn (cao 31cm, đường kính miệng 18,7cm, cân
nặng 5,4kg). Đỉnh chuông phẳng, miệng hơi loe vát. Giống chuông
Thanh Mai, trên thân quả chuông này có nhiều đường chỉ đúc nổi và
nám tròn nổi. Giữa thân chuông có năm đường chỉ ngang chia thân
chuông làm hai phần. Dọc thân chuông, mỗi bên có năm đường chỉ khác
chia tiếp thân chuông thành 8 ô (4 ô dưới để trơn, 4 ô trên khắc đầy
chữ Hán). Giao điểm giữa các đường chỉ nổi có 4 núm tròn để làm nơi
gõ chuông. Xung quanh núm tròn có trang trí 12 cánh hoa tròn nổi.
Quai chuông tạo hình động vật uốn cong, tuy nhiên hai con vật này
rất khó nhận dạng. Hai con quay đầu về hai phía, phần thân nối liền
nhau thành một khối. Ðầu con vật to khỏe, hai mắt lớn hình thoi, hai
sừng cong có các khía ngang, bờm đơn giản, thân mập có phủ vảy, chân
thon cao. Về mặt bố cục, hình tượng này gần gũi với bố cục trang trí
quai chuông Thanh Mai và trang trí trán bia thời Tùy ở Thanh Hóa.
Chuông Thanh Mai
hiện đang được lưu giữ tại kho bảo quản
bên cạnh những khẩu súng thời nội chiến của Bảo tàng tổng hợp Hà
Nội.
Minh văn trên chuông ghi rõ niên đại và nơi đúc là: Giao Chỉ huyện,
Hạ Từ Liêm thôn, thời Càn Hòa lục niên Mậu Thân tuế, tứ nguyệt, nhị
thập cửu nhật (thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ, ngày 29/4 năm Mậu
Thân, niên hiệu Càn Hòa thứ sáu). Tìm hiểu trong sử liệu các triều
đại Việt Nam thì không có niên hiệu Càn Hòa mà niên hiệu Càn Hòa là
thuộc về thời vua nước Nam Hán Lưu Thạnh, đóng đô ở Quảng Châu trong
thời Ngũ đại thập quốc ở Trung Quốc. Càn Hòa thứ sáu là năm 948.
Chính nước này, 10 năm trước đó (938) đã phái quân sang Việt Nam và
bị đại bại trên sông Bạch Ðằng.
Giải thích việc có niên hiệu Nam Hán ghi trên thân chuông của nước
Việt Nam vào lúc Việt Nam đã độc lập, GS. Tống Trung Tín – Viện
trưởng viện khảo cổ học cho rằng: “Lật lại các trang sử cũ của Việt
Nam thì thấy tuy Ngô Quyền đã xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (Ðông
Anh, Hà Nội) nhưng vẫn chưa đặt niên hiệu. Sau khi Ngô Quyền mất năm
944, cho đến khi triều Ngô chấm dứt năm 965, các đời Dương Tam Kha,
Ngô Tấn Nam Vương, Ngô Thiên Sách Vương cũng đều không có niên hiệu.
Chính vì vậy, minh văn trên chuông vẫn sử dụng niên hiệu nước ngoài.
Ðó cũng chính là sự thật lịch sử Việt Nam thời đó đang ở buổi đầu
giành và củng cố nền độc lập...”
Bài minh văn được
khắc bằng chữ Hán trên thân chuông Thanh Mai.
Ngoài ra, trên minh văn còn ghi lại một cách ngắn gọn việc các tín
đồ Ðạo giáo ở địa phương góp tiền vẽ tranh Thái Thượng Tam Tôn, làm
sáu chiếc phướn báu, mua quả chuông báu, các nghi lễ (trai khánh) và
chức danh (cao công) của Ðạo giáo để mong báo đáp tứ ân và hy vọng
được trường cửu. Theo GS. Tống Trung Tín: “Với bài minh văn và sự
hiện diện của quả chuông đã cho thấy sự phát triển của Ðạo Giáo ở
thời Ngô Quyền khá mạnh. Ðiều đó giải thích vì sao trong các thời kỳ
Ðinh, Lê, Lý, Trần, tuy đạo Phật là quốc giáo, nhưng vai trò của Ðạo
giáo vẫn có ảnh hưởng khá mạnh trong đời sống tinh thần của người
dân Ðại Việt với nhiều cung, quán khá lộng lẫy ở kinh đô Thăng
Long... Đặc biệt, dựa vào minh văn người ta có thể thấy được địa
danh huyện Giao Chỉ vốn có từ thời Ðường nhưng đến thời Ngô tên này
vẫn được giữ nguyên”.
Những con vật trên thân chuông này tuy rất khó nhận dạng nhưng theo
các nhà lịch sử thì chúng chính là một dạng rồng tiền thân của rồng
thời Lý, Trần, Lê. Như vậy tiếp theo chuông Thanh Mai, quả chuông
thời Ngô Quyền ở Hà Nội là quả chuông có niên đại sớm thứ hai, cung
cấp nhiều tư liệu quý giá về lịch sử và văn hóa thời Ngô Quyền. Và
dù xuất hiện từ thế kỷ thứ X, trải qua 1.049 năm nhưng quả chuông
này vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn.
Hiện quả chuông Thanh Mai đang được lưu giữ tại kho bảo quản của Bảo
tàng tổng hợp Hà Tây (cũ). Theo giáo sư khảo cổ học Nguyễn Lân Cường
thì: “Quả chuông là một trong những bảo vật quốc gia đặc biệt quý
hiếm, vì hiện nay đây là chiếc chuông có niên đại sớm nhất được phát
hiện ở Việt Nam.
Sắp
tới đây khi bảo tàng Hà Nội hoàn thành vào năm 2010, đây sẽ là một
hiện vật có giá trị, góp phần tạo diện mạo của một thời kỳ lịch sử
xa xưa”. Còn chiếc chuông Nhật Tảo được địa phương lưu giữ rất cẩn
thận. Tuy nhiên, theo các nhà sử học thì vị trí xứng đáng của những
quả chuông này phải là ở các bảo tàng quốc gia của trung ương hoặc
Hà Nội mới phát huy được giá trị và tránh khỏi bị mất mát. Quả
chuông cũng là một chứng tích lịch sử duy nhất, cực kỳ hiếm hoi về
thời đại Ngô Quyền mà cho đến nay Việt Nam chúng ta có được.
Minh Thành
Đã đăng:
Giadinh.net
|