Bảo tồn nghệ
thuật cổ ca
Hát Bội phải là một quyết tâm
Nhắc đến Hát Bội,
Hát Bộ hay Hát tuồng, trong ký ức thời thơ ấu của tôi còn ghi
lại, mỗi lần theo cha mẹ đi coi hát là mỗi lần sợ hãi, kinh
hoàng. Tiếng chiêng trống, những bộ mặt dữ tợn đen xì, đỏ gay
của mấy ông tướng cùng cờ quạt phất phới gắn đầy người, làm con
bé nhát gan như tôi vừa thấy là khóc thét lên. Lớn lên chút, Hát
Bội chỉ còn là hình ảnh những bộ trang phục sặc sỡ treo tòn teng
gần cửa sổ căn gác ngôi đình đối diện rạp hát Văn Cầm, gần nhà
tôi. Thời tiểu học, ngày hai buổi đi về trường Võ Tánh trên
đường Võ Duy Nguy, tôi hay đi ngang qua ngôi đình có gánh Hát
Bội thường xuyên diễn ở đấy. Tôi thường say mê nhìn lên khung
cửa đó, nơi có các đào kép hát ngồi trang điểm hay vẽ mặt cho
nhau. Phấn son trên gương mặt các cô đào trong tuồng hát ngày
nào một phai mờ theo bụi thời gian đến khi tôi ra tới hải ngoại,
môn nghệ thuật cổ truyền này chỉ còn trong trí tôi là những
tiếng “ư ư ử ử” đầy ấn tượng.
Trần Tường Nguyên vai Tạ Ôn
Hầu trong vở San Hậu.
Lần du lịch Trung
Quốc, tôi được xem những nghệ nhân Trung Hoa trình diễn Beijing
Opera thật hay và đầy tính nghệ thuật khiến tôi liên tưởng tới
nghệ thuật Hát Bội của người mình. Tôi chợt nhận ra Hát Bội là
một ngành nghệ thuật sân khấu trình diễn cao và có nhiều nét đẹp
cổ xưa mà ngày nay người ta không nhận ra hoặc đã bị mai một vì
nó không còn hợp thời nữa. Nhất là nghệ thuật vẽ mặt của Hát
Bội, nó mang một nét đặc thù mà những nghệ thuật cổ ca khác
không có. Biết khéo léo ứng dụng những đường nét riêng biệt và
khác nhau của màu sắc để miêu tả trạng thái, vai trò của nhân
vật là những biểu trưng căn bản của nghệ thuật Hát Bội.
Hát Bội được du
nhập qua Việt Nam vào thế kỷ thứ 13 nên nghệ thuật hát diễn,
trang phục, tuồng tích, đều tương tợ như
Kinh
Kịch
là loại
kịch
của
Thanh
triều tại kinh thành
Bắc Kinh,
tức "Bắc Kinh kịch nghệ".
Hát Bội còn
được gọi là Hát Bộ. "Bộ" đây có nghĩa là diễn xuất của
nghệ sĩ đều phải phân đúng từng bộ diễn, "diễn Bộ",
"ra Bộ".
Trước đây hàng trăm
năm đã xảy ra việc tranh cãi về từ “Hát Bộ” hay “Hát Bội” và tạo
nên nhiều cuộc bút chiến lý thú. Người bênh vực cho từ “Hát Bội”
lý luận rằng Bội có nghĩa là bội phần. Hát Bội có nghĩa là hát
có quần áo đàng hoàng tử tế, có mũ mão, cân đai, đeo thêm cái
này, cái nọ. Các vở tuồng Hát Bội chỉ lấy nét chính của một
tuồng tích mà dựng lớp. Một câu chuyện dài như Ngũ Hổ Bình Tây,
Phản Ðường, mà chỉ lấy khoảng 10 lớp diễn là đủ cả câu chuyện
nên gọi là xếp lại, gấp lại, nhân lên mà gọi là Bội. Có người
còn cho rằng chữ Bội là bội bạc, các đào kép hát thường lãng
mạn, có cuộc sống thiếu đạo đức hay bội phản về tình duyên, nên
gọi là Hát Bội
Ca dao có câu “có
chồng say như trong chay ngoài bội, ngó vô nhà như hội Tần Vương”
hay “Trồng trầu trồng lộn dây tiêu, con theo
Hát Bội mẹ liều con
hư”
Nghệ thuật vẽ mặt của
Hát Bội là một tinh túy xuất phát từ Kinh Kịch và có từ lâu đời
lắm rồi. Có lẽ từ triều đại nhà Tùy và Đường ngày trước. Lúc đó
trong các buổi tế lễ người ta hay dùng những mặt nạ trông rất dữ
tợn để xua đuổi ma quỷ vì người ta tin rằng loài quỷ dữ chỉ sợ
những gì hung tợn hơn chúng. Đến đời Minh, nghệ thuật sân khấu
và trang điểm mặt cho nghệ sĩ phát triển và cải thiện khiến nó
trở thành những quy ước chặt chẽ. Cuối cùng đến đời nhà Thanh
thì nghệ thuật hoá trang cho các vai trò của nghệ nhân đã được
hoàn chỉnh.
Các diễn viên thiếu nhi trong
một tiểu phẩm
Trang điểm khuôn mặt
cho một nghệ sĩ trước khi lên sân khấu là một nghệ thuật. Vẽ,
pha màu cũng như áp dụng màu sắc cho đúng vai diễn của nghệ nhân
đòi hỏi người vẽ mặt phải có một nghệ thuật chuyên môn cao và
điêu luyện. Tôi từng được ngồi xem nghệ sĩ Trần Tường Nguyên
trang điểm và vẽ mặt cho các học sinh lớp Hát Bội do cô Ngọc Bày
hướng dẫn và thấy được công việc ấy không phải dễ làm, nhất là
đối với các em thiếu nhi. Các em vì tính năng động mà ngồi, đứng
không yên, lúc lắc liên tục. Mất khoảng nửa tiếng mới vẽ xong
khuôn mặt tướng tuyệt đẹp cho một em. Vẽ vừa xong, em đã chạy
tới chạy lui, khuôn mặt nhễ nhại đầy mồ hôi, rồi em đưa tay áo
lên quẹt, phấn màu phai tùm lum, thế lại phải vẽ và trang điểm
lần nữa.
Trong nghệ thuật Hát
Bội hay Hát Tuồng, những màu sắc chính được trang điểm trên mặt
thường để phân biệt tính tình, nhân sinh quan cũng như đạo đức
của một nhân vật. Sắc mặt đỏ biểu hiện cho sự can đảm, tận tụy,
ngay thẳng. Đen tượng trưng cho người hung tợn, mạnh mẽ. Vàng là
tham vọng, mạnh mẽ, trầm tính. Xanh là trung thành, mạnh mẽ, sắc
sảo. Trắng có thể gọi là độc ác, lừa lọc, đa nghi, xảo trá. Tím
dành cho trầm tĩnh, liêm chính, còn Bạc và Vàng (Gold) cho thần
linh và thượng đế. Do những qui định của màu sắc mà người xem
biết mình đang đối diện những nhân vật nào trên sân khấu mà
không phải đoán hay nghĩ nhiều. Kẻ trung, người nịnh, ai minh
chánh, kẻ gian tà đều hiện rõ dưới ánh đèn sân khấu.
Đổng mẫu di chí
Dưới con mắt người
Tây Phương hay thế hệ của chúng ta nhìn vào nghệ thuật Hát Bội,
có lẽ sẽ cho rằng tại sao lại có một ngành nghệ thuật sân khấu
cổ quái, ồn ào và kỹ thuật ca hát có nhiều tiếng hò hét thế kia.
Nhưng nếu chúng ta đi sâu vào lịch sử của ngành cổ ca này, ta sẽ
hiểu thấu lý lẽ nói trên. Ngày xưa, Hát Bội được trình diễn ở
các nơi công cộng như chợ búa hay miễu, đình là những nơi ồn ào,
hỗn loạn nên phải có những âm thanh lớn, rền rĩ hơn mới lôi cuốn
được sự chú ý của người xem. Y trang cũng vậy, màu sắc phải đối
chọi để bắt mắt người nhìn dẫu cho nó trông sặc sỡ, diêm dúa.
Nghệ thuật trang điểm, không những phải thật lộng lẫy mà còn
phải độc đáo cho mỗi nhân vật, mỗi vai trò. Mỗi cử chỉ, động tác
của diễn viên đều áp dụng nguyên tắc nói trên và theo một quy
ước sân khấu được bố trí và định sẵn.
các diễn viên
Tuồng tích phần lớn
là những kịch bản phóng tác có tính cách kinh điển, giáo dục
quần chúng của Trung Quốc trích trong các pho truyện như Tam
Quốc Chí, Ngũ Hổ Bình Tây, v.v… Phần lớn nội dung nói lên lòng
trung, hiếu, tiết, nghĩa và tinh thần tôn sư trọng đạo.
Nghệ thuật sân
khấu này đòi hỏi kiến thức lãnh hội của người xem lẫn người
diễn. Vì sự khiếm khuyết của cảnh trí, phương tiện cũng như vật
dụng trên sân khấu mà những biểu tượng được thay thế cho vật
thiệt đã ra đời và được giải thích cho người xem để họ thuộc nằm
lòng. Tỷ như khi một vị tướng cầm cây roi có tua tủa những sợi
vải hay tua xanh đỏ, khán giả phải tưởng tượng cái roi ấy chính
là con ngựa của vị tướng đó.
Ở miền nam Việt
Nam, sau 1975, các trường dạy về nghệ thuật trong đó gồm có hát
bội, cải lương , kịch nói, cổ ca, đạo diễn vẫn được duy trì.
Ngay tại các địa phương nào còn ưa chuộng Hát
Bội,
các đoàn hát bội thành phố hay được mời về diễn trước để tạ ơn
thần thánh sau để dân chúng xem.
Tôi có duyên gặp
gỡ và tiếp xúc với Nghệ sĩ Ngọc Bầy. Cô tốt nghiệp bộ môn Hát
Bội khóa đầu tiên năm 1960-1964 tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc
Saigon, dưới sự dìu dắt của các nghệ sĩ Võ Văn Tài, Dương Ngọc
Ðắc (Ba Ðắc), Huỳnh Hữu Hạnh (Hữu Thoại) và Nguyễn Thị Nhỏ. Sau
khi tốt nghiệp, nghệ sĩ Ngọc Bày dạy ngay tại Trường Quốc Gia Âm
Nhạc Saigon. Sau năm 80 bà về làm tại đoàn nghệ thuật thành phố
và đã đào tạo được nhiều thế hệ nghệ sĩ.
Ðịnh cư tại Hoa Kỳ
từ năm 1992, nghệ sĩ Ngọc Bày đã trình diễn tại nhiều sinh hoạt
cộng đồng và tại một số đại học như UCLA và San Diego State
University. Khi qua Mỹ cô mang theo một số tài liệu giảng dạy và
sách vở cùng một cái trống con với ước vọng mở các lớp dạy về Hát
Bội,
hầu có thể gìn giữ được ngành cổ ca này. Nhưng khi hỏi hay nhắc
tới Hát
Bội,
khán giả
hải ngoại phần lớn không có kiến thức hay hiểu biết gì về môn
nghệ thuật này, nên cô bỏ ý định trên. Ngày ấy, giáo sư Nghiêm
Phú Phi nguyên cựu giám đốc trường quốc gia âm nhạc Sài Gòn
trước năm 75 đã ra công quy tụ các cựu diễn viên, các giáo sư âm
nhạc và thành lập một hội ái hữu trường Quốc Gia Âm Nhạc hải
ngoại. Mỗi khi có dịp họp mặt thân hữu hay hội hè, hội thường đi
diễn ở các nơi công cộng, nhà hàng hay các hội trường, hội quán.
Năm 2003, một vị giáo sư Nhật dạy ở đại học UCLA về văn hoá dân
tộc Đông Nam Á, tình cờ biết cô và mời cô đến trường hát và diễn
lại một số tuồng tích để giới thiệu những nét văn hoá về nghệ
thuật cổ ca của Việt Nam.
Cô được phỏng vấn
và hỏi về lối giáo dục diễn viên hát bội được dạy hát và diễn
xuất như thế nào. Cô trả lời rằng trong giai đoạn phôi thai, các
giáo sư giảng dạy như cô Hai Nhỏ, ông Phú Thoại, Sáu Vững trong
ban Vân Hạc, phải dùng một phương pháp cổ truyền là đời trước
truyền miệng, đời sau học thuộc lòng và cứ thế làm theo. Học
sinh học một lớp tuồng Thoại Ba công Chúa hay Lưu Kim Đính, dạy
tới đâu học tới đó, không biết cách dạy ca riêng, vũ đạo riêng.
Và cô Ba Đắc, cô Hai Nhỏ, mỗi người dạy một kiểu, mỗi cô có lối
luyến láy riêng. Vì không có phương pháp chép nhạc theo Ký âm
pháp, các học viên mạnh ai nấy hoặc thuộc lòng hoặc ghi chép
theo lối của mình. Để nhớ các điệu hát lên xuống cô phải dùng
cái mũi tên với vị thế lên, xuống hoặc nằm ngang vẽ thêm vào cho
dễ nhớ.
Sau này, cô viết
thành giáo trình hay giáo án rõ ràng để dạy. Khi ấy Cô Ngọc
Khanh là con cô Ba Út và một học trò đã ra trường phụ cô viết
giáo trình. Cô có ước muốn chép nhạc các ca điệu cổ dựa trên ký
âm pháp theo một nền tảng quy định căn bản như bên tân nhạc. Tuy
nhiên ước muốn của cô không phải dễ thực hiện vì cô chỉ là một
nghệ nhân diễn và dạy, còn công việc kia đòi hỏi một kỹ thuật
thuộc về các nghiên cứu nên cần người chuyên môn hơn.
Khi còn ở trường Sư
Phạm, học trò các lớp khác như Cải Lương, Kịch Nói hay chạy qua
trêu chọc học trò lớp Hát Bội bằng những tiếng.. ư .. ư …a
..a…Tôi có hỏi cô tại sao lại có tiếng ư ư như thế trong lối
hát. Cô trả lời rằng, ngày xưa trong các môn nghệ thuật, mỗi môn
có lối ngân riêng. Hát Chèo của người Bắc chữ i í i i ì í i được
dùng để ngân. Hát Bội dùng chữ ư, còn Cải Lương thì chữ ơ. Sân
khấu hát bội lưu động thời đó không có màn che gió, không có hệ
thống khuếch đại âm thanh mà khán giả xem đông vì chỉ có Hát Bội
là ngành sân khấu duy nhất. Do đó khi hát gió bạt tiếng ca,
khiến lời ca thành không rõ chữ, diễn viên muốn khán giả đứng xa
nghe được phải ngân chữ ư cho dài, cho rõ. Tỷ như chữ “phản mã”,
diễn viên sẽ phát âm là “phản ư ư ư mã” người đứng xa sẽ nghe dễ
dàng hơn. Tuy nhiên khi gió tạt tiếng ca chỉ còn sót lại âm “ư
.. ư “ trong không khí mà thôi. Ngày xưa người hát phải lấy hơi
bụng để có thể hát lớn, la to, có khi bể hơi, bể tiếng, bể thanh
đới. Bây giờ kỹ thuật tân tiến, diễn viên biết cách lấy hơi, lại
có nhạc và âm thanh trợ giúp khiến người hát ca dễ và hay hơn
xưa.
Năm 2009, hội Kenneth
Foundation ngẫu nhiên xem được chương trình Hát Bội của cô trên
mạng trường UCLA và cơ hội đến khi họ tình nguyện yểm trợ tài
chánh cho cô được mở lớp giảng dạy hát bội. Vì thời gian eo hẹp,
nên cô phải đổi quy trình giảng dạy, nghĩa là không dạy từ bước
một, mà đi thẳng vào việc diễn xuất nên khi xem người rành về
ngành này có thể thấy nó không chính xác từ nguyên thủy. Vì bộ
môn này khó học nên những người đã có căn bản từ các bộ môn khác
như Cải Lương mà học môn này dễ bị ảnh hưởng Cải Lương vào nên
khi hát dễ bị lai đi. Còn các em nhỏ khi học và diễn thường
chính xác hơn vì chúng như tờ giấy trắng học làm sao, hát ra làm
vậy. Nó lại có tính ước lệ, nên học trò phải học tất cả các quy
ước được đặt ra mà diễn, hát, vũ đạo cho đúng.
Cô kể lại giai đoạn
lớp học mới thành lập, khi dạy và được mời đi diễn, lớp không có
đầy đủ y trang. Khi mới qua Hoa Kỳ, cô chỉ mang được một bộ đồ
văn và bộ đồ võ, do đó cô phải mượn những y trang cải lương của
ông Lương Văn Tỷ (giám đốc đài truyền hình, truyền thanh) lúc ấy
chế biến lại để mặc tạm. Chúng trông từa tựa y trang hát bội,
ngộ biến tùng quyền, cô dùng vải đắp miếng này ở trên, miếng kia
ở dưới, gắn tới lui sao cho giông giống thì thôi. Ở hải ngoại
ngày nay, khi diễn một tiểu phẩm hay tuồng tích Hát Bội cần
thuyết minh và dẫn chứng. Thí dụ phải cắt nghĩa lối lên sân khấu
có hai cửa buồng, một đi ra gọi là cửa buồng sanh và một đi vào
gọi là cửa buồng tử. Diễn viên khi ra sân khấu phải ra ở cửa
buồng sanh và những người thủ vai trung thần khi chiến thắng trở
về phải đi vào cửa buồng sanh. Cửa buồng tử được xử dụng cho tất
cả mọi người để đi trở vào và cũng dành cho người đi đánh giặc
khi chết cũng chạy vào đây. Các buồng sanh, tử được chia làm 4
góc, 2 góc thượng và 2 góc hạ.
Khi diễn viên đi một
vòng trên sân khấu, khán giả phải tưởng tượng người đó vừa qua
sông. Khi họ hát câu văn chim kêu vượn hú, có cá, có cầu và
những câu miêu tả cảnh vật người xem sẽ tưởng tượng ra các cảnh
vật trước mắt như mưa bay, liễu rũ v.v…khán giả phải biết đó là
cảnh sông núi mà liên tưởng tới.
Phần thuyết minh sẽ
dẫn giải cho người xem biết diễn viên cỡi ngựa như thế nào, leo
lên bàn đạp, nắm cương ngựa, quật roi ra sao. Cây roi tượng
trưng cho con ngựa và rất đa dụng theo vị trí của nó. Lúc nó ở
trước người diễn, nó tượng trưng cho đầu ngựa, khi ở sau nó là
đuôi ngựa. Nếu được giơ thẳng nó là roi ngựa, hay bị quật xuống
chân diễn viên nó thành chân ngựa. Cây roi được quất liên tục
tức diễn viên đang phi ngựa.
Tất cả những biểu
tượng này đã khích thích và làm giàu óc tưởng tượng của khán giả
và nó được dùng chỉ vì ngày xưa kỹ thuật sân khấu còn sơ khai.
Lớp người thưởng ngoạn cũ đã có kiến thức về cách diễn rồi nên
họ tự động thông hiểu các điệu bộ nói trên, nhưng lớp khán giả
mới sau này cần phải được giải thích rõ ràng thì nghệ thuật cổ
ca này mới nổi lên được.
Cái khó nhất của Hát
Bội là không còn được phổ biến và không có giới thưởng ngoạn.
Tuy nó là một tinh túy văn hoá dân tộc nhưng nó bị xem là không
hợp thời nữa.
Trước tiên nó không
đáp ứng được trào lưu tiến hóa theo thời đại của lớp trẻ. Ðiệu
hát quá khác xa với các điệu ca nhạc tân thời du nhập từ Tây
phương. Lối hát Nam xuân, Nam ai, Xuân nữ, Khách, Tẩu mã, Bạch,
Xướng theo điệu kèn, trống, đờn cổ xưa đã trở nên lỗi thời lạc
lõng với thời đại. Vì vậy ít người thưởng thức, nếu tổ chức,
những đêm hát không bán vé được bao nhiêu, không đủ tiền để nuôi
nổi đoàn tuồng. Hiện nay tại Bình định, chính quyền có thành lập
một đoàn hát bội gọi là Ðoàn tuồng Bình định, nghệ sĩ ăn lương
nhà nước, nhưng cũng không đạt được yêu cầu. Các huyện cũng có
các đoàn nhưng nghệ sĩ không đủ sống phải bỏ đi làm các nghề
khác.
Lối hành văn trong
các tuồng Hát Bội thường theo thể biền ngẫu, mỗi câu mỗi chữ
phải đối nhau, dùng nhiều từ Hán Việt và điển tích nên rất khó
hiểu, nhất là những câu hát Khách toàn là chữ Nho nên không phổ
biến được, lớp trẻ bây giờ lại ít hiểu, không hiểu thì không thể
nào cảm nhận và ưa thích được.
Mối ưu tư của những
người còn ưa thích nghệ thuật cổ ca là làm sao duy trì, sống lại
và phát triển các ngành nghệ thuật này.
Theo giáo sư Ngọc
Bày, ở hải ngoại, muốn phục hưng hay gìn giữ, nó đòi hỏi rất
nhiều nhiệt tâm, công sức của nhiều người. Nó cần phải được canh
tân, hiện đại và Việt ngữ hoá cổ ca. Đồng thời cần được sự hỗ
trợ của truyền thông, cũng như các đài truyền hình. Ngoài ra còn
cần phải được giới thiệu vào các hệ thống học đường, đại học,
hay trung tâm Việt ngữ, như một bộ môn văn hoá nghệ thuật quốc
tế. Hát Bội có thể được giới thiệu như một trong hai nghệ thuật
cổ xưa của Việt Nam là Hát Bội và Hát Chèo. Ngoài ra nó cần có
một trụ sở để diễn cho tất cả các tầng lớp khán giả từ trẻ tới
già. Tỷ như ở Las Vegas, Nevada có một sân khấu Broadway chuyên
diễn Beijing Opera thường xuyên, giá vé tới 200 đô một xuất mà
người xem vẫn coi đông dù phải đặt chỗ trước. Việc quan trọng
hàng đầu là tài chánh và việc nâng đỡ hay tài trợ của chính phủ
hay các tổ chức là điều cần thiết. Con đường phục hồi ấy thật là
chông gai nhưng nó là một ước mơ mà giáo sư Ngọc Bày và những
người ủng hộ cô đang thực hiện được. Điều quan trọng nhất là sự
quyết tâm cao đẹp mà cô cố gắng gìn giữ để bảo tồn Hát Bội từ
bấy lâu nay.
Trịnh Thanh Thủy |