Quẳng gánh lo
đi & vui sống
Quân tử thản đãng đãng
Tiểu nhân thường thích thích
Khổng Tử
Tựa
Một buổi trưa hè, chúng tôi đương đàm đạo
tại nhà anh Đ., bỗng một bạn tôi ngừng câu nói dở, chỉ ra ngoài
cửa bảo:
- Các bạn coi kìa, nữ bác sĩ lái xe đi
chích thuốc.
Chúng tôi nhìn ra. Một người đàn bà còn
trẻ, tóc bù xù, mặt lem luốc, cặp mắt láo liêng, miệng cười toe
toét, vừa đi vừa vòng hai tay ra phía trước, xoay đi xoay lại
như người lái xe hơi, thỉnh thoảng ngừng chân, tay như cầm vật
gì nhỏ, đưa lên đưa xuống.
Anh Đ. giảng: "Nữ bác sĩ đi chích thuốc
đấy. Ngày nào cũng vậy, mưa cũng như nắng, đi đủ ba lần, qua đủ
bốn, năm con đường quanh đây... Nhiều thân chủ, dữ ta!"
Rồi anh vội sầm nét mặt: "Tôi nghiệp, nhà
khá giả, lại con một, mà như vậy... !"
Ngừng một chút, anh tiếp: "Nhưng nghĩ kỹ,
chị ta có thấy khổ đâu? Trái lại mỗi khi lái xe, tin mình là bác
sĩ, chắc sung sướng lắm... Sướng hơn chúng mình nhiều! Chính
chúng ta mới đáng thương!".
Ai nấy đang vui, bỗng buồn bã, lẳng lặng
gật đầu. Chao ơi, trong số anh em ngồi đó, phần nhiều đều được
thiên hạ khen sang và giàu, biết bao nhiêu người khao khát địa
vị, mà chính họ tự thấy khổ hơn một mụ điên!
"Chính chúng ta mới đáng thương!" Nếu vậy
đời quả là bể khổ mà bốn câu thơ này của Đoàn Như Khuê thiệt
thâm thuý vô cùng:
Bể thảm mênh mông sóng lụt trời!
Khách trần chèo một lá thuyền chơi,
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
Coi lại cùng trong bể thảm thôi.
"Chính chúng ta mới đáng thương!".
Như vậy thì cái bề ngoài vui tươi kia chỉ
là cái vỏ của một tâm hồn chán nản, bị phiền muộn, ưu tư, ganh
ghét, hờn oán dày vò! Mặt biển lặng, phản chiếu màu trời rực rỡ
đấy, nhưng dưới đáy có những lượn sóng ngầm đủ sức cuốn cát và
lay đá. Cánh đồng tươi thắm cười đón gió xuân đấy, nhưng trong
hoa, sâu đã lẳng lặng đục nhuỵ và hút nhựa không ngừng.
Phải ngăn những đợt sóng oán hờn ấy lại,
diệt con sâu ưu tư đó đi, nếu không, nó sẽ diệt ta mất, chẳng
sớm thì chầy, ta sẽ sinh ra cáu kỉnh, chán chường, đau tim, đau
bao tử, mất ngủ, mất ăn, mắc bệnh thần kinh và loạn óc.
Dale Carnegie viết cuốn Quẳng gánh lo
đi... và vui sống này chính để chỉ cho ta cái cách diệt những kẻ
thù vô hình ấy. Ta thiệt khó thắng vì chúng ngự trị ngay trong
thâm tâm ta, nhưng ta phải thắng, vì thắng mới có thể SỐNG được.
Đọc bài tựa cuốn Đắc nhân tâm: bí quyết
của thành công, bạn đã được biết qua về lối sống, mới đầu long
đong, sau thành công rực rỡ của Dale Carnegie; ở đây chúng ta
không nhắc lại nữa, chỉ kể cách ông viết cuốn Quẳng gánh lo
đi... và vui sống này.
Hồi mới bắt đầu dạy môn nói trước công
chúng tại hội Thanh niên theo Thiên Chúa giáo ở Nữu Ước, ông
thấy cần phải chỉ cho học sinh của ông - hầu hết là những người
có địa vị quan trọng trong đủ các ngành hoạt động xã hội - cách
thắng ưu tư và phiền muộn. Ông bèn tìm trong thư viện lớn nhất ở
Nữu Ước hết thảy những cuốn sách bàn về vấn đề ấy và ông chỉ
thấy vỏn vẹn có 25 cuốn, còn sách nghiên cứu về... loài rùa thì
có tới 190!
Thiệt lạ lùng! Đối với một vấn đề hệ trọng
cho cả nhân loại như vấn đề diệt nỗi lo lắng để cho bể thảm vơi
bớt đi, đời người được vui tươi hơn, mà loài người thờ ơ như
vậy? Trách chi những người bị bệnh thần kinh chiếm hết phân nửa
số giường trong các dưỡng đường Âu Mỹ. Trách chi hết thảy chúng
ta dù sang hèn, giàu nghèo, đều phải phàn nàn rằng chính những
kẻ điên mới là hạng người sung sướng trên đời!
Đọc hết 25 cuốn sách ấy, không thấy cuốn
nào đầy đủ, khả dĩ dùng để dạy học được, ông đành bỏ ra 7 năm để
nghiên cứu hết các triết gia cổ, kim, đông, tây, đọc hàng trăm
tiểu sử, từ tiểu sử của Khổng Tử tới đời tư của Churchill, rồi
lại phỏng vấn hàng chục các danh nhân đương thời và hàng trăm
đồng bào của ông trong hạng trung lưu. Nhờ vậy sách ông được đặc
điểm là đầy đủ những truyện thiệt mà bất kỳ ai cũng có thể kiểm
sát.
Những điều thu thập được trong sách và đời
sống hàng ngày ấy, ông sắp đặt lại, chia làm 30 chương để chỉ
cho ta biết:
* Những ảnh hưởng của ưu tư tai hại cho
tinh thần, cơ thể ra sao?
* Cách phân tích các ưu tư.
* Cách diệt chứng ưu tư.
* Cách luyện cho có một thái độ bình tĩnh,
vui vẻ, thản nhiên.
* Cách diệt 3 nguyên nhân chính sinh ra ưu
tư là sự mỏi mệt - sự chán nản về nghề nghiệp - sự túng thiếu. 1
Vậy ông đã "thuật nhi bất tác" đúng như
lời đức Khổng Tử, mà nhận rằng trong sách của mình không có chi
mới hết. Toàn là những qui tắc mà ai cũng biết và nếu chịu áp
dụng thì không một nỗi ưu phiền nào là không diệt được, từ những
ưu tư về gia đình, tài sản, tình duyên, đến những lo lắng về
tính mệnh, công danh, bệnh tật liên miên 2. Nhưng tiếc rằng rất
ít người áp dụng nó, cho nên ông phải viết cuốn này, để gõ cửa
từng nhà - như lời ông nói - khuyên chúng ta đề phòng bệnh ưu
uất, làm cho cứ mười người thì có một người bị bệnh thần kinh,
cứ hai phút lại có người hoá điên, và giết hại loài người một
vạn lần hơn bệnh đậu mùa! Tóm lại, ông chỉ có công nhắc lại
những quy tắc rất thông thường và cố "nhồi nó vào óc ta" để ta
thi hành thôi.
Tuy nhiên tác giả đã nhồi vào óc ta một
cách tuyệt khéo, nhờ lời văn có duyên của ông. Từ trang đầu đến
trang cuối, toàn là những chuyện thiệt, cổ kim, đông tây, cũng
như trong cuốn Đắc nhân tâm: bí quyết của thành công. Nếu xét
kỹ, ta thấy văn ông có chỗ điệp ý, lại có đoạn ý tứ rời rạc,
nhưng chính vì vậy mà lời rất tự nhiên, đột ngột, khiến đọc lên
ta tưởng tượng như có ông ngồi bên cạnh, ngó ta bằng cặp mắt sâu
sắc, mỉm cười một cách hóm hỉnh, mà giảng giải cho ta, nói
chuyện với ta vậy.
Sở dĩ ông có lối văn vô cùng hấp dẫn ấy -
từ trước chúng ta chưa được đọc một tác giả nào bàn về tâm lý mà
vui như ông - có lẽ nhờ hoàn cảnh tạo nên.
Có hồi ông bán xe cam nhông, thất bại thê
thảm vì tính ghét máy móc lắm, ông bèn xin dạy khoa "nói trước
công chúng" trong hội "Thanh niên Thiên Chúa giáo". Hội bằng
lòng nhận, nhưng không tin tài của ông, không chịu trả mỗi tối 5
Mỹ kim, mà chỉ cho ông chia lời thôi - nếu có lời. Học sinh thì
toàn là những người có tuổi, có công ăn việc làm, muốn học sao
cho có kết quả ngay và học giờ nào mới trả tiền giờ ấy. Ông phải
đem hết tâm lực ra và soạn bài sao vừa vui vừa bổ ích thì mới
hòng giữ họ lâu và mình có đủ tiền độ nhật. Vì vậy ông không thể
dùng những sách khô khan của nhà trường để dạy, đành phải kiếm
nhiều thí dụ thực tế kể cho học sinh để cho họ mê man nghe từ
đầu giờ đến cuối giờ. Nhờ đó ông luyện được lối văn tự nhiên rõ
ràng, có duyên, hấp dẫn một cách lạ lùng.
Chúng tôi tưởng lối văn ấy phải là lối văn
của thế kỷ thứ 20 này. Đọc những sách triết lý viết từ thế kỷ
17, ta thấy thiệt chán: văn trừu tượng quá, nghiêm quá, gọn quá,
bắt ta phải suy nghĩ nhiều quá. Ta không được rãng rang như hồi
xưa - mỗi tuần ta phải đọc một hai cuốn sách, chín, mười số báo
- lại quen với lối văn tiểu thuyết và phóng sự nên lối văn
nghiêm nghị của những thế kỷ trước không còn hợp với phần đông
chúng ta. Một ngày kia, trừ một số sách viết cho các nhà chuyên
môn, có lẽ hết thảy các sách phải viết bằng lối văn tựa như
phóng sự, mới mong có người đọc, dầu sách học cho người lớn hay
trẻ em.
Ông Dale Carnegie đã mở đường trong công
việc viết sách cho người lớn bằng lối văn ấy. Vì sách của ông
không khác chi những tập phóng sự cả. Ông đã thành công rực rỡ,
sách ông bán rất chạy. Cuốn Quẳng gánh lo đi... và vui sống này
chỉ trong 3 năm (1948-1950) đã tái bản tới lần thứ tư.
Riêng chúng tôi, từ khi vì duyên may được
đọc cuốn ấy, đã thấy tâm hồn nhẹ nhàng, khoáng đạt hơn trước
nhiều. Và mỗi lần có điều gì thắc mắc, mở sách ra, là thấy ngay
cách giải quyết, chẳng khác Tôn Tẩn khi xưa mỗi lúc lâm nguy mở
cẩm nang của thầy ra, tìm phương thoát nạn.
Nếu đời người quả là bể thảm thì cuốn sách
này chính là là ngọn gió thần đưa thuyền ta tới cõi Nát bàn, một
cõi Nát bàn ở ngay trần thế.
Chúng tôi trân trọng tặng nó cho hết thảy
những bạn đương bị con sâu ưu tư làm cho khổ sở trằn trọc canh
khuya, tan nát cõi lòng. Ngay từ những chương đầu, bạn sẽ thấy
tư tưởng sâu thẳm của bạn tiêu tan như sương mù gặp nắng xuân và
bạn sẽ mỉm cười nhận rằng đời quả đáng sống. Kìa, đô đốc Byrd đã
nói: "Chúng ta không cô độc trên thế giới này đâu, có cả vật vô
tri như mặt trăng, mặt trời, cũng cứ đều đều, đúng ngày, đúng
giờ lại chiếu sáng chúng ta, lại cho ta cảnh rực rỡ của bình
minh hoặc cảnh êm đềm của đêm lặng".
Long Xuyên,
một ngày đẹp trong 365 ngày đẹp
năm 1951
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP CĂN BẲN ĐỂ
DIỆT LO
I. ĐẮC NHẤT NHẬT QUÁ NHẤT NHẬT
Mùa xuân năm 1871, một thành niên may mắn đọc
được một câu văn ảnh hưởng sâu xa tới tương lai của chàng. Hồi
ấy còn là sinh viên y khoa ở trường Montreal, chàng lo đủ thứ:
lo thi ra cho đậu, đậu rồi sẽ làm gì, làm ở đâu, sao cho có đủ
thân chủ, kiếm cho đủ ăn?
Nhờ câu văn đọc được trong sách của Thomas
Carlyle mà chàng trở nên một y sĩ có danh nhất thời đó. Chính
chàng đã tổ chức trường y khoa John Hoplins hiện nổi tiếng khắp
hoàn cầu, rồi làm khoa trưởng ban y khoa tại Đại học Oxford, một
danh dự cao nhất trong y giới Anh. Về sau chàng lại được Anh
hoàng phong tước và khi mất người ta viết hai cuốn sách dày
1.466 trang để kể lại thuở sinh bình.
Tên chàng là William Osler. Còn câu văn mà
chàng đọc được mùa xuân năm 1871, câu văn đã giúp chàng quẳng
được gánh lo trong đời chàng là: "Những công việc ở ngày trước
mặt ta phải coi là quan trọng nhất, và đừng bận tâm tới những
công việc còn mờ mờ từ xa".
Bốn mươi hai năm sau, một đêm xuân ấm áp,
trong khi trăm bông đua nở giữa sân trường, William Osler diễn
thuyết trước sinh viên Đại học Yale đã nói rằng, thiên hạ đã lầm
khi bảo một người như ông, làm giáo sư tại bốn trường Đại học và
viết một cuốn sách nổi danh, tất phải có "bộ óc dị thường". Vì
những người thân của ông biết rõ "óc ông vào hạng tầm thường
nhất".
Vậy thì bí quyết thành công của ông ở đâu?
Ông đáp lại bí quyết đó ở chỗ ông biết "chia đời sống ra từng
ngăn, cách biệt hẳn nhau, mỗi ngăn một ngày". Ý ông muốn nói gì
vậy? Vài tháng trước buổi diễn thuyết ở Yale, ông đã đáp một
chiếc tàu biển lớn, vượt Đại Tây Dương. Trên chiếc tàu đó, ông
thấy người thuyền trưởng, đứng ở cầu thang, chỉ nhấn vào một cái
nút mà làm chạy một cái máy, tức thì ngăn thiệt kín những bộ
phận chính trong tàu, không cho phần này thông qua phần khác, ví
dụ vì tai nạn nước có tràn vào cũng không đắm tàu được. Rồi ông
nói tiếp với các sinh viên: "Cơ thể chúng ta là một bộ máy kỳ dị
hơn chiếc tàu đó nữa. Tôi khuyên các anh tập cách điều khiển bộ
máy đó để sống ngày nào riêng biệt ngày ấy: đó là cách chắc chắn
nhất để yên ổn trong cuộc viễn hành. Nhận một nút đi rồi nghe,
trong mỗi đoạn đời, chiếc cửa sắt sập lại, ngăn hiện tại với quá
khứ. Quá khứ đã chết, đừng cho nó sống lại nữa. Nhận một cái nút
khác và đóng kín cửa sắt của tương lai lại, cái tương lai nó
chưa sinh. Như vậy các anh được yên ổn - yên ổn trong ngày hôm
nay!.. Đóng quá khứ lại! Để cho quá khứ đã chết rồi tự chôn
nó... Đóng những hôm qua lại, chúng đã bước mau về cõi chết. Để
cho gánh nặng của ngày mai đè thêm vào gánh nặng hôm qua và hôm
nay thì kẻ mạnh nhất cũng phải quỵ. Đóng chặt tương lai cũng như
đóng chặt dĩ vãng lại. Tương lai là hôm nay... Không có ngày
mai. Ngày vinh quang của ta là ngày hôm nay. Sự phung phí năng
lực, nỗi ưu tư sẽ làm cho ta lảo đảo, nếu ta cứ lo lắng về tương
lai... Vậy đóng kỹ những bức vách trước và sau đi, và luyện lấy
tập quán "Đắc nhất nhật quá nhật nhất".
Như vậy có phải bác sĩ Osler muốn khuyên ta
đừng nên gắng sức một chút nào để sửa soạn ngày mai không?.
Không. Không khi nào. Trong đoạn cuối bài diễn văn đó, ông nói
rằng, cách hay hơn hết và độc nhất để sửa soạn ngày mai là đem
tất cả thông minh, hăng hái của ta tập trung vào công việc hôm
nay.
Ông lại khuyên các sinh viên mỗi buổi sáng,
mới thức vậy, đọc kinh "Lạy cha":
"... Xin Cha cho chúng con hàng ngày dùng
đủ... "
Các bạn nhớ trong câu kinh đó chỉ xin cơm cho
đủ ngày một thôi, chứ không phàn nàn về cơm ôi mà hôm qua đã
phải nuốt đâu nhé. Mà cũng không xin: "Chúa thương con với. Mới
rồi đã hạn hán dữ, mà còn có thể hạn hán được nữa - làm sao con
có gạo ăn mùa thu tới đây được? - hoặc nếu mất việc thì con làm
sao có gạo mà ăn?".
Không, câu kinh đó chỉ cầu xin được cơm ăn
cho đủ từng ngày mà thôi. Vì chỉ có cơm hôm nay mới là thứ cơm
ta có ăn được.
Hồi xưa, một triết gia, túi không có một xu,
thơ thẩn trong một miền núi đá mà dân cứ sống rất vất vả. Một
hôm, nhân thấy một đám đông quây quần chung quanh mình, trên một
ngọn đồi, ông bèn đọc một diễn văn mà nhân loại đã trích lục
nhiều hơn hết từ trước tới giờ. Trong diễn văn có câu này được
lưu truyền muôn thuở:
"Đừng lo tới ngày mai vì ngày mai ta phải lo
tới công việc của ngày mai. Ta chỉ lo tới hôm nay thôi cũng đủ
khổ rồi".
Tôi xin nhắc bạn: Câu đó khuyên đừng "lo" tới
ngày mai chứ không phải là đừng "nghĩ". Bạn cứ nghĩ tới ngày
mai, cứ cẩn thận suy nghĩ, dự tính, sửa soạn đi, nhưng đừng lo
lắng gì hết.
Trong chiến tranh vừa rồi, các nhà chỉ huy
tối cao của quân đội ta luôn luôn dự tính cho ngày mai và cả
những ngày còn xa hơn nữa, nhưng họ không bao giờ vì vậy mà ưu
tư cả. Đô đốc E.J.King chỉ huy hải quân Huê Kỳ nói: "Tôi đã đưa
những khí giới tốt nhất cho những quân tài cán nhất và đã giao
phó sứ mạng cho họ trong lúc tiện nghi nhất. Đó, tôi chỉ làm
được có vậy thôi". Đô đốc tiếp: "Một chiếc tàu bị đắm, tôi không
thể trục nó lên được. Dùng thì giờ của tôi để tính công việc sắp
tới, ích lợi nhiều hơn là ưu phiền về những lỗi lầm hôm qua. Vả
lại nếu tôi nghĩ tới chuyện cũ hoài, chắc tôi không thể sống
lâu".
Trong thời loạn cũng như thời bình, khéo suy
với vụng suy chỉ khác nhau ở chỗ này: Khéo suy là nghĩ kỹ về
nhân quả rồi hành động một cách hợp lý, hữu ích; còn vụng suy
chỉ làm cho thần kinh ta căng thẳng và suy nhược thôi.
Mới rồi tôi được cái hân hạnh phỏng vấn ông
Arthur Sulzberger, chủ bút một tờ báo nổi danh nhất thế giới, tờ
"Nữu ước nhật báo". Ông nói với tôi rằng khi chiến tranh thứ nhì
bùng lên ở Âu Châu, ông gần như chết điếng, lo về tương lai đến
nỗi mất ngủ. Nửa đêm ông thường tỉnh giấc, nhìn bóng trong gương
rồi lấy bút, sợn tự vẽ mặt ông. Ông không biết chút gì về môn
hội hoạ hết, nhưng ông cứ vẽ càn cho óc khỏi phải lo lắng. Mãi
đến khi ông dùng câu hát dưới đây làm châm ngôn, ông mới thấy
bình tĩnh trong tâm hồn. Câu đó trong bài Thánh ca:
"Xin Chúa chỉ đường cho con bằng ánh sáng của
Chúa... ".
"Xin Chúa dắt con bước. Con chẳng mong được trông cảnh xa xa.
Chỉ xin Chúa dắt con từng bước... Vì từng bước là đủ cho con
rồi... ".
Đồng thời, một thanh niên Mỹ đang tùng chinh bên Châu Âu, cũng
học được bài học như vậy. Chàng tên là Ted Bengermino bị lo lắng
giày vò tới nỗi thần kinh suy nhược nặng.
Chàng viết: "Tháng tư năm 1945, vì quá lo nghĩ, tôi mắc một
chứng bệnh ruột, đau đớn vô cùng. Nếu chiến tranh không kết liễu
ngay lúc đó thì chắc là tôi nguy rồi. Tôi mỏi mệt quá lẽ. Lúc đó
tôi làm hạ sĩ quan ở bộ binh, đội thứ 94. Công việc của tôi là
ghi tên những người tử trận, hoặc mất tích, hoặc nằm nhà thương.
Tôi phải thu những đồ dùng của họ để gởi về cho thân nhân họ, vì
người ta trọng những kỷ niệm đó lắm. Tôi luôn luôn sợ vì lúng
túng mà rồi lẫn lộn đáng tiếc chăng. Tôi lo lắng không biết có
làm tròn phận sự không, có sống sót để về ôm đứa con một hay
không - đứa con mới 6 tháng mà tôi chưa được biết mặt. Tôi lo
lắng mệt nhọc đến mức mất 17 ki lô. Tôi hoảng hốt gần hoá điên.
Tôi ngó tay tôi chỉ thấy còn da với xương.
Nghĩ tới khi về nhà, thân hình tiền tuỵ mà sợ, khóc lóc như con
nít. Tâm hồn bị rung động quá chừng, nên mỗi khi ngồi một mình
là nước mắt tràn ra. Có một hồi, ít lâu sau trận Bulge, tôi khóc
nhiều quá, không còn hy vọng gì tinh thần sẽ thư thái như xưa
nữa".
Sau cùng, tôi phải vào nằm nhà thương. Vị bác sĩ săn sóc tôi chỉ
khuyên có vài lời mà thay đổi hẳn đời tôi. Sau khi đã khám kỹ cơ
thể tôi, ông nhận rằng bệnh tôi thuộc bệnh thần kinh. "Này anh
Ted, anh nên coi đời của anh như cái đồng hồ cát. Anh biết rằng
phần trên đồng hồ đó có dựng hàng ngàn hột cát. Và những hột cát
ấy, đều lần lần liên tiếp nhau, chui qua cái cổ nhỏ ở giữa để
rớt xuống phần dưới. Không có cách gì cho nhiều hạt cát chui
cùng một lúc được, trừ phi là đập đồng hồ ra, hết thảy bọn chúng
ta đều như chiếc đồng hồ ấy. Buổi sáng, thức dậy, ta có hàng
trăm công việc phải làm trong nội ngày. Nhưng nếu chúng ta không
làm từng việc một, chậm chạp, đều đều như những hột cát chui qua
cái cổ đồng hồ kia thì chắc chắn là cơ thể và tinh thần ta hư
hại mất".
"Tôi đã theo triết lý đó từ ngày ấy. Mỗi lần chỉ có một hột cát
xuống thôi... Mỗi lần chỉ làm một việc thôi. Lời khuyên đó đã
cứu thể chất và tinh thần tôi trong hồi chiến tranh, mà bây giờ
còn giúp tôi trong công việc làm ăn nữa. Tôi là một viên kiểm
soát số hàng dự trữ của một công ty ở Baltimore. Tôi thấy trong
nghề buôn cũng có những khó khăn y như trong hồi chiến tranh:
Nào lo những tờ mới, lo tính toán số dự trữ mới, nào lo những
thay đổi địa chỉ, lo mở thêm hoặc đóng bớt những chi nhánh v.v.
Nhưng tôi không nóng nẩy và luôn luôn nhớ lời khuyên của bác sĩ:
"Mỗi lần chỉ có một hột cát xuống thôi. Mỗi lần chỉ làm một việc
thôi". Tôi tự nhắc đi nhắc lại câu đó và làm việc một cách rất
hiệu quả, không hoảng hốt hay có cảm giác ruột rối như tơ vò nó
đã làm cho tôi chết dở ở mặt trận khi xưa nữa".
Một trong những tình trạng ghê ghớm nhất của đời sống bây giờ là
một nửa số bệnh nhân điều trị tại các nhà thương là những người
mắc bệnh thần kinh hay loạn óc. Họ bị đè bẹp dưới sức nặng của
những lo lắng về quá khứ lẫn với tương lai. Mà đại đa số những
bệnh nhân đó đều có thể khoẻ mạnh, đi đứng như thường, ngay từ
hôm nay, sống một đời sung sướng, hay hơn nữa, một đời hữu ích
nếu họ chịu nghe lời Chúa Giê-Su dạy: "Con đừng lo cho ngày
mai", hoặc lời khuyên của Wiliam Osler: "Chia đời sống thành
từng ngăn, cách biệt hẳn nhau, mỗi ngăn là một ngày".
Bạn và tôi, ngay trong lúc này đây, chúng ta đứng tại chỗ hai
cái vô tận gặp nhau: cái dĩ vãng mênh mông có từ thời khai thiên
lập địa và cái tương lai nó bắt đầu từ tiếng cuối cùng mà tôi
mới thốt. Chúng ta không thể sống trong cả hai cái vô tận đó
được, dù chỉ là trong một phần giây. Mà hễ rán sống� trong hai
thời gian thì ta sẽ làm hai cho tinh thần và thể chất của ta
liền. Vậy chúng ta hãy chịu sống trong hiện tại vì ta chỉ có thể
sống được trong hiện tại thôi.
Robert Louis Stevenson nói: "Bất kỳ ai cũng có thể làm công việc
hàng ngày của mình được, dù công việc đó nặng nhọc tới bực nào
đi nữa. Bất kỳ ai cũng có thể sống một cách êm đềm, trong sạch,
kiên nhẫn, đầy tình thương chan chứa trong lòng, từ mặt trời mọc
cho tới khi mặt trời lặn. Đó, ý nghĩ của cuộc đời như vậy".
Phải, đời chỉ đòi hỏi ta có bấy nhiêu thôi. Nhưng bà E.K.Shields
ở Michigan lại thất vọng tới nỗi muốn tự tử, trước khi học được
cách sống từng ngày một. Bà kể với tôi: "Năm 1937 nhà tôi mất,
tôi đau đớn thất vọng lắm và gia tư gần như khánh kiệt. Tôi viết
thư xin việc ông chủ cũ của tôi là ông Leon Roach ở Công ty
Roach-Fowler và được cử làm lại việc cũ. Hồi xưa, tôi đã bán
sách cho các trường tỉnh và trường làng để kiếm ăn. Hai năm
trước tôi bán chiếc xe hơi để lo thuốc thang cho nhà tôi. Nhưng
tôi cũng ráng thu nhặt tiền nong để mua dài hạn một chiếc xe cũ
rồi chở sách đi bán.
Tôi tưởng trở về nghề cũ như vậy sẽ bớt ưu phiền, tinh thần sẽ
phấn khởi lên được; song tôi gần như không chịu nổi cảnh thui
thủi một mình trên đường và trong quán trọ. Miền tôi bán sách
dân tình nghèo khổ, ít người mua cho nên số lời không đủ để trả
tiền xe.
Mùa xuân năm 1938, tôi đến bán ở gần Versailles 3. Ở đây trường
học nghèo, đường xấu; tôi thấy cô đơn, thất vọng đến nỗi có lần
muốn tự tử, cho rằng không sao thành công được hết. Mà cũng
phải, làm sao đủ sống được? Mỗi buổi sáng khi tỉnh dậy, nghĩ tới
nỗi phấn đấu với đời, tôi lo sợ đủ thứ: Sợ không trả nổi tiền
xe, sợ không trả nỗi tiền phòng, không kiếm đủ ăn, sợ rồi sẽ đau
ốm không có tiền uống thuốc. Nhưng may có hai điều làm cho tôi
không tự tử là nếu tôi chết thì các em tôi sẽ khổ lắm và tôi
không có đủ tiền để lại cho họ làm ma tôi.
Rồi một hôm ngẫu nhiên tôi đọc một bài báo nó kéo tôi ra khỏi
cảnh thất vọng và khiến tôi đủ can đảm để sống. Tôi sẽ suốt đời
mang ơn tác giả bài đó, người viết câu này: "Đối với một đạt
nhân thì một ngày mới là một đời sống mới". Tôi đánh máy lại câu
ấy rồi dán lên tấm kính che mưa trong xe tôi, để trong khi cầm
lái, lúc nào tôi cũng phải ngó tới. Từ đó tôi thấy chỉ sống từng
ngày một thì đời sống không khó khăn gì cả. Tôi tập quên đi dĩ
vãng và không nghĩ tới tương lai nữa. Mỗi buổi sáng tôi tự nhủ:
"Ngày hôm nay là một đời sống mới". Nhờ vậy tôi thắng được nỗi
lo sợ cảnh cô đơn, hăng hái và yêu đời. Bây giờ tôi biết rằng ta
chỉ sống được nội ngày hôm nay thôi, không sống được thời dĩ
vãng và tương lai và "Đối vơí một đạt nhân thì một ngày mới là
một đời sống mới".
Bạn có biết tác gỉa của những câu thơ này là ai không?
Ai kia sung sướng suốt đời
Vững lòng nói được "Của tôi ngày này
Ngày mai, mặc kệ: mai ngày
Vì tôi đã sống hôm nay, đủ rồi".
Ý thơ có vẻ mới lắm, phải không bạn? Vậy mà câu đó thi hào
Horace đã viết 30 năm trước Thiên Chúa giáng sinh đấy.
Một trong những điều bi đát nhất là loài người có tánh muốn đẩy
bỏ đời sống hiện tại đi. Hết thảy chúng ta đều mơ mộng những
vườn hồng diễm ảo ở chân trời thăm thẳm mà không chịu thưởng
thức những bông hoa nở kề ngay bên cửa sổ.
Tại sao chung ta điên như vậy? Điên một cách thê thảm như vậy?
Stephen Leacok viết: "Lạ lùng thay cái chuỗi đời của ta. Con nít
thì nói: "Ước gì tôi lớn thêm được vài tuổi nữa". Nhưng khi lờn
vài tuổi rồi thì sao? Thì lại nói: "Ước gì tôi tới tuổi trưởng
thành". Và khi tới tuổi trưởng thành lại nói: "Ước gì tôi lập
gia đình rồi ở riêng". Nhưng khi thành gia rồi thì làm sao nữa?
Thì lời ước lại đổi làm: "Ước gì ta già được nghỉ ngơi". Và khi
được nghỉ ngơi rồi thì lại thương tiếc quảng đời đã qua, và thấy
như có cơn gió lạnh thổi qua quảng đời đó. Lúc ấy đã gần xuống
lỗ rồi, còn hưởng được gì nữa. Khi ta biết được rằng đời sống ở
trong hiện tại, ở trong từng ngày một, thì đã trễ quá rồi mà".
Ông Edward S.Evans gần tự huỷ đời ông cho tới khi ông học được
rằng: "Đời sống ở trong hiện tại, ở trong ngày đang sống, trong
giờ đang sống". Sinh trong một gia đình nghèo, nghề đầu tiên của
ông là bán báo, rồi làm công cho một tiệm tạp hoá. Sau ông giúp
việc trong thư viện, để nuôi một gia đình 7 người. Lương ít mà
khóng dám bỏ sở. Sau 8 năm do dự, ông mới quyết định tạo lại
cuộc đời. Mới ra với số vốn là 55 mỹ kim mượn của bạn, ông phát
đạt ngay và mỗi năm kiếm được 20.000 mỹ kim. Rồi thì ông gặp một
chuyện rủi, tai hại đến nỗi giết ông được. Ông cho một người bạn
cho vay một số tiền lớn và người bạn đó vỡ nợ. Rồi hoạ vô đơn
chí: nhà ngân hàng ông gởi tiền cũng vỡ nợ. Sự nghiệp tiêu tan
hết, ông còn mắc thêm món nợ 16.000 mỹ kim nữa. Đau đơn quá, ông
không chịu nổi. Ông nói: "Tôi ăn không được, ngủ không được. Tôi
đau một chứng kỳ dị mà nguyên nhân chỉ là ưu phiên chứ không có
chi khác. Một hôm đương đi, tôi té xỉu trên lề. Từ lúc đó tôi
không cất chân được nữa. Tôi phải nằm liệt giường, mụt mọc đầy
mình. Những mụt đó sưng mà không vỡ, sau cùng bác sĩ nói với tôi
rằng tôi chỉ sống được hai tuần nữa thôi. Tôi lo sợ lắm, viết di
chúc rồi nằm đợi chết. Từ lúc đó, tôi hết phải lo lắng, phấn đấu
nữa. Tôi bỏ tuốt cả, nghỉ ngơi rồi thì yên chí đợi chết, tôi ngủ
được. Đã hàng tuần trước đây, chưa bao giờ tôi ngủ được luôn hai
giờ, nhưng lúc ấy biết chắc sẽ giũ sạch nợ đời, ngủ li bì như
một em bé. Hết lo thì thôi tôi cũng hết mệt, ăn được và lên cân.
Vài tuần sau, tôi chống nạng đi được. Rồi sau sáu tuần tôi đi
làm lại. Trước kia tôi kiếm 20.000 mỹ kim một năm, bây giờ kiếm
được mỗi tuần 30 mỹ kim mà tôi thấy hài lòng.
Tôi đã học được một bài học mới, không cò lo lắng, không còn
tiếc thời phong lưu trước, không lo về tương lai nữa. Tôi đem
hết thời giờ, nghị lực và hăng hái để làm nghề mới của tôi".
Thế rồi ông Edward S.Evans lại lên như diều. Chỉ trong vài năm
được làm hội trưởng Công ty. Những chứng khoán của Công ty ông,
được Sở Hối đoái Nữu Ước cho là có giá trị. Cho đến năm 1945,
ông mất thì đã là một trong những nhà doanh nghiệp mau phát đạt
nhất ở Mỹ. Nếu bạn ngồi máy bay tới Greenland, phi cơ của bạn có
thể đáp xuống phi trường Evans, một phi trường mang tên ông.
Ta phải kết luận rằng: Chắc chắn không khi nào ông Edward
S.Evens được hưởng cái thú thành công như vậy, nếu ông không
biết đường diệt ưu tư, nếu ông đã không học được cách chia đời
sống ra từng ngày một, ngày nầy cách biệt hẳn với ngày khác.
Năm trăm năm trước khi Thiên Chúa giáng sinh, triết gia Hy lạp
Heraclite bảo đệ tử rằng: "Mọi vật đều thay đổi. Các đệ tử không
thể tắm hai lần trên một khúc sông". Vì sông mổi giây một thay
đổi mà người tắm trên khúc sông đocũng vậy. Đời sống là một cuộc
biến đổi không ngừng. Chúng ta chỉ chắc chắn một điều là ta đang
sống trong hiện tại. Thế thì tại sao lại nằng nặc đòi giải quyết
những vấn đề về tương lai, để làm phai mờ cái đẹp của hiện tại?
Tương lai còn bị bao phủ trong những biến dịch không ngừng,
những biến dịch mà không ai đoán trước được kia mà!
Người La Mã hồi xưa cũng có một tiếng để diễn ý đó. Thiệt ra là
hai tiếng "Carpe diem" nghĩa là "Vui ngày hôm nay đi". Phải nắm
lấy ngày hôm nay và tấn hưởng cái thú của nó đi.
Đó cũng là triết lý của ông Lowell Thomas. Mới rồi tôi lại chơi
nhà ông vài ngày và nhận thấy hai câu này trong Thánh thi
(Psaume CXVIII) đóng khung treo trên tường phòng để ông được
thường thấy nó.
"Ngày hôm nay là ngày Thượng Đế ban cho ta. Ta hãy vui vẽ và
sung sướng hưởng nó đi".
Ông John Ruskin đặt trên bàn giấy của ông một phiến đá nhỏ trên
đó có khắc hai chữ: "Hôm nay". Tôi không có phiến đã kia trên
bàn, nhưng tôi có một bài thơ dán trên tấm gương trong phòng tắm
để mỗi buổi sáng tôi thấy một lần, khi cạo râu. Bài thơ đó là
nhà soạn kịch trứ danh ở Ấn Độ là ông Kalidasa làm và ông
William Osler chép lại, luôn luôn để trên bàn giấy ông:
CHÀO BÌNH MINH
"Hãy chăm chú vào ngày hôm nay,
Vì nó là đời sống, chính là sự sống của đời sống...
Nó tuy ngắn ngủi
Nhưng chứa tất cả chân lý về đời ta:
Sự sung sướng khi tiến phát,
Sự vẻ vang của hành động,
Sự rực rỡ của thành công.
Vì hôm qua chỉ là một giấc mộng,
Vì ngày mai chỉ là một ảo tưởng.
Nhưng hôm nay, nếu sống đầy đủ, ta sẽ thấy hôm qua là một
giấc mộng êm đềm,
Và ngày mai là hình ảnh của hy vọng.
Vậy ta hãy chăm chú kỹ vào hôm nay!"
Lời chào bình minh của tôi là vậy đó.
Vậy phương sách thứ nhất để trị ưu phiền là bắt chước William
Osler:
1. Khoá chặt dĩ vãng và tương lai lại để sống trong cái phòng
kín của ngày hôm nay.
Tại sao bạn không tự hỏi những câu này và chép lại những lời bạn
tự giải đáp?
2. Tôi có cái thói quên hiện tại để lo về tương lai hoặc mơ mông
"một khu vườn hồng diễm ảo ở chân trời xa xăm" không?
3. Tôi có thường nghĩ tới quá khứ mà làm cho hiện tại hoá ra
chua xót không? Quá khứ đó đã qua rồi và thiệt chết rồi.
4. Sáng dậy tôi có quyết: "Nắm lấy ngày hôm nay" để tận hưởng 24
giờ đó không?
5. Sống trong "cái phòng kín mít của ngày hôm nay" có lợi cho
đời sống không?
6. Và bao giờ tôi bắt đầu sống như vậy? Tuần sau?... Ngày
mai?... Hay hôm nay?
II. MỘT CÁCH THẦN HIỆU ĐỂ
GIẲI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ RẮC RỐI
Bạn muốn biết một phương pháp chắc chắn để giải quyết những tình
thế rắc rối - một thuật mà bạn có thể dùng ngay bây giờ, trước
khi đọc những chương sau.
Vậy xin bạn để tôi kể phương pháp mà ông Willis H. Carrier đã
tìm được.
Ông là một kỹ sư, tiếng tăm lừng lẫy, đã sáng tạo ra kỹ nghệ
điều hoà không khí 4 và hiện nay đứng đầu nghiệp đoàn Carrier ở
Syracuse. Phương pháp đó là một trong những thuật khéo nhất mà
tôi được biết, để giải quyết những vấn đề rắc rối. Chính ông
Carrier đã dạy tôi bữa cơm trưa dùng với ông tại Câu lạc bộ kỹ
sư ở Nữu Ước.
Ông nói: "Còn trẻ, tôi giúp việc Công ty luyện kim Buffal ở Nữu
Ước. Người ta giao cho tôi sáng tạo một máy lọc hơi dùng trong
một nhà máy lớn Crystal City, tại Missouri. Công việc đó tốn
hàng vạn Mỹ kim có mục đích lọc hơi trong lò hết chất dơ, rồi
dùng hơi đó để đốt thay than mà không hại cho máy. Phương pháp
lọc hơi đó còn mới mẻ, từ trước mới thí nghiệm có một lần và
trong điều kiện không thuận tiện lắm. Khi tôi bắt tay vào việc ở
Crystal City thì những trở lực bất ngờ mới hiện ra. Cái máy tôi
tạo ra chạy cũng được, nhưng không hoàn mỹ đúng với lời tôi cam
kết.
Khi sự thất bại ấy đã hiển nhiên, tôi choáng váng gần như có kẻ
nào đạp mạnh vào đầu tôi vậy. Bao tử và ruột tôi như quặn lại.
Tôi lo lắng tới nỗi mất ngủ trong một thời gian dài.
Sau cùng lương tri nhắc tôi rằng lo lắng như vậy vô ích, và tôi
kiếm ra một phương pháp để giải sự ưu tư đó. Phương pháp ấy đã
đem cho tôi một kết quả thần diệu và trên 30 năm nay tôi dùng để
diệt lo. Nó giản dị vô cùng và ai cũng áp dụng được. Có ba giai
đoạn:
Giai đoạn thứ nhất:
Tôi can đảm phân tích tình thế một cách ngay thẳng và tự hỏi nếu
thất bại thì kết quả tai hại nhất sẽ ra sao? Không ai bỏ tù hoặc
bắn tôi mà sợ. Điều đó thì chắc chắn. Có lẽ tôi sẽ mất việc, và
cũng có lẽ hãng sẽ gỡ bỏ bộ máy của tôi đi và như vậy cái vốn
hai vạn mỹ kim mà Công ty đã bỏ vào việc đó sẽ tan ra khói.
Giai đoạn thứ nhì:
Sau khi đã nghĩ tới những kết quả tai hại nhất có thể xả ra được
đó, tôi nhất quyết đành lòng nhận nó, nếu cần. Tôi tự nhủ: "Sự
thất bại đó là một vố đập vào danh tiếng ta và có thể làm cho ta
mất việc. Nhưng dầu việc này mất, ta vẫn có thể kiếm được việc
khác thì đã lấy gì làm tai hại cho lắm? Còn về phần các ông chủ
của tôi, thì họ sẽ nhận thấy rằng Công ty chỉ là đương thí
nghiệm một phương pháp mới để tẩy hơi. Thí nghiệm ấy làm tốn cho
họ 20.000 Mỹ kim, song họ có thể chịu đựng được sự lỗ lãi đó. Họ
sẽ tính vào quỹ nghiên cứu vì đã nói, đây chỉ là một cuộc thí
nghiệm".
Sau khi đã xét được những kết quả tai hại nhất có thể xảy ra, và
đành lòng nhận nó, nếu cần, tôi cảm thấy một điều cực kỳ quan
trọng: là tức thì tinh thần tôi lại thảnh thơi, bình tĩnh như
xưa vậy.
Giai đoạn thứ ba:
Từ lúc ấy, tôi bình tĩnh dùng hết thời giờ và nghị lực để kiếm
cách giảm bớt cái hại của những kết quả mà tôi đã cam lòng chịu
nhận.
Tôi rán tím cách cho bớt lỗ. Thí nghiệm nhiều lần và sau cùng
thấy chắc chắn rằng nếu chịu bỏ thêm chừng 5.000 Mmỹ kim nữa để
cải tạo một bộ phận thì máy của chúng tôi sẽ hoàn toàn. Chúng
tôi làm đúng như vậy, và ... hãng chúng tôi chẳng những đã khỏi
lỗ hai vạn mỹ kim mà còn được lời vạn rưỡi Mỹ kim là khác.
Tôi tin chắc rằng không bao giờ tôi nghĩ ra được cách cải tạo đó
nếu tôi cứ rối rắm như trước. Vì sự lo lắng có cái kết quả khốc
hại là làm cho ta mất khả năng tập trung tư tưởng. Khi ta lo, óc
ta luôn luôn chuyển từ ý này qua ý khác, và cố nhiên ta mất hẳn
năng lực quyết định. Trái lại khi chúng ta can đảm nhìn thẳng
vào những kết quả khốc hại và đành lòng chịu nhận nó, thì lập
tức ta bỏ ngay được hết những nỗi lo lắng tưởng tượng để tự đặt
ta vào một tình trạng khách quan có thể giúp ta tập trung hết tư
tưởng vào vấn đề mà ta đang giải quyết.
Chuyện tôi vừa kể xảy ra đã lâu rồi. Nhưng phương pháp ấy đã có
kết quả mỹ mãn tới nỗi từ đấy tới nay tôi luôn luôn dùng nó và
nhờ nó mà đời tôi gần như không còn biết lo là gì nữa".
Nay xét về tâm lý thì vì đâu mà phương pháp của ông H. Carrier
lại quý báu và có kết quả thần hiệu như vậy?
Có phải chỉ vì nó kéo ta qua khỏi một đám sương mù mà trong đó
ta đang dò dẫm? Nó đặt chân ta trên một khu đất vững chắc. Ta
biết rõ ta hiện đứng đâu. Khi ta không có một căn bản chắc chắn,
thì sao có thể hy vọng tính toán, suy nghĩ kỹ về một vấn đề
được?
Giáo sư William James, người sáng lập ra khoa tâm lý thực hành,
đã mất từ 38 năm rồi, nhưng nếu bây giờ ông còn sống mà được
nghe nói tới phương pháp đó thì chắc ông cũng nhiệt liệt hoan
nghênh. Tại sao tôi biết như vậy? Vì chính ông đã khuyên học
sinh của ông: "An tâm nhận cảnh ngộ ấy đi" vì "nếu ta bằng lòng
chịu nhận sự đã xảy ra, ấy là bước đầu đi tới sự thắng những tai
hại trong bất kỳ biến cố nào".
Ông Lin Yutang (Lâm Ngữ Đường) trong một cuốn sách được rất
nhiều người đọc: "Sự quan trọng của cuộc sống" 5, cũng nghĩ như
vậy. Triết gia Trung Quốc có nói: "Nhận chân sự chẳng may nhất
đã xảy ra là tìm được sự bình tĩnh chân thiệt trong tâm hồn
rồi".
Xét về tâm lý, tôi tưởng khi nhận như vậy, nghị lực của ta không
bị trói buộc nữa. Mà chính vậy! Khi ta đã chịu nhận sự chẳng may
nhất thì ta có còn để mất nữa đâu, và như vậy tức là tự đặt vào
một tình thế chỉ có lợi mà vô hại. Ông H.Carrier nói: "Khi tôi
ngó thẳng vào sự chẳng may nhất, tức thì tôi tìm lại được sự
bình tĩnh đã mất trong những ngày trước; từ đó tôi suy nghĩ
được".
Có lý lắm, phải không bạn? Vậy mà có cả triệu người quay cuồng
lo lắng làm hại đời mình, vì họ không chịu nhận sự chẳng may
nhất, không rán chịu cải thiện tình thế, không vớt vát những vật
còn chưa chìm trong khi thuyền đắm. Đáng lẽ gây dựng lại sản
nghiệp của họ, họ lại đâm ra "gây lộn một cách chua chát và kịch
liệt với số phận" khiến cho đời phải tăng thêm số người mắc bệnh
chán đời.
Chắc các bạn muốn biết thêm một người khác đã áp dụng định thức
thần diệu của H. Carier ra sao? Xin bạn nghe câu chuyện của một
người chủ hãng bán dầu xăng ở Nữu Ước, trước kia có theo học lớp
giảng của tôi:
"Tôi bị tống tiền! Tôi vẫn không tin có thể xảy ra như vậy được.
Tôi vẫn không tin rằng xã hội này lại có thể xảy ra chuyện y như
trên màn ảnh đó được. Nhưng chuyện xảy ra thiệt. Công ty dầu
xăng mà tôi làm chủ có một số xe và một số tài xế chuyên đi giao
hàng. Lúc đó vì chiến tranh, dầu xăng bị hạn chế gắt và người ta
chỉ giao cho chúng tôi vừa đủ số xăng để phân phát cho khách
hàng thôi. Hình như có vài người tài xế của chúng ta ăn bớt - mà
tôi không hay - số xăng phải giao cho các thân chủ để bán lại
cho các "khách hàng" chợ đen của họ.
Tôi không hề để ý tới những sự gian lận đó mãi cho tới hôm có
một người laị thăm tôi tự xưng là Thanh tra của chính phủ và đòi
tôi một số tiền trà nước. Hắn nói hắn có đủ tài liệu, bằng cớ về
hành động bất lương của bọn tài xế của tôi và nếu tôi không chịu
đút lót hắn sẽ tư những tài liệu đó sang Biện lý cuộc. Tôi biết
chắc riêng tôi, tôi không phải lo gì hết. Nhưng tôi cũng lại
biết rằng theo luật thì hãng tôi phải chiụ trách nhiệm về hành
động của người làm công. Hơn nữa, nếu việc đó đưa ra toà, và
đăng trêen mặt báo thì sẽ tai hại cho Công ty không ít. Mà tôi
lấy làm vinh dự về Công ty của chúng tôi lắm; vì chính ông thân
tôi đã sáng lập ra nó từ 24 năm trước.
Tôi lo lắng tới nỗi hoá đau, mất ăn, mất ngủ ba ngày ba đêm. Tôi
luôn luôn quay cuồng. Nên đấm mõm nó năm ngàn Mỹ kim hay là bảo
thẳng nó cứ việc làm tới, muốn ra sao thì ra? Dù quyết định cách
nào thì kết cục cũng là tai hại.
Rồi một đêm sau, bỗng dưng tôi mở cuốn "Quẳng gánh lo đi và vui
sống" mà người ta đã phát cho tôi trong khi theo lớp giảng của
ông Carnegie về thuật nói trước công chúng. Tôi bắt đầu đọc. Tới
chuyện của ông H. Carrier, tôi gặp lời khuyên: "Hãy nhìn thẳng
vào sự tai hại nhất" Và tôi tự hỏi: "Nếu ta không chịu hối lộ
nó, mặc cho nó đưa tài liệu ra Biện lý cuộc thì sự tai hại nhất
nếu có, sẽ đến mức nào?
Tức thì tôi tự trả lời: "Bất quá thì bị tan tành sự nghiệp, bị
phá sản vì những bài báo rêu rao chớ không phải lẽ bị ngồi tù
được!".
Nghĩ vậy tôi liền tự nhủ: "Được lắm, phá sản thì cũng đành.
Nhưng rồi sao nữa?" Rồi thì chắc chắn là mình phải đi kiếm việc
làm. Mà kiếm việc làm thì đã sao chưa? Mình thạo về nghề buôn
dầu xăng và có thể gặp nhiều hãng rất vui lòng dùng mình".
Sau khi thầm giải quyết như thế, tôi đã bắt đầu thấy dễ chịu
hơn. Bức màn âm u bao phủ tôi trọn ba ngày ba đêm, nay đã vén
cao lên được một chút. Những lo lắng của tôi cứ dịu lần đi và
bỗng ngạc nhiên thấy bây giờ tôi dã suy nghĩ được, đã đủ sáng
suốt để bước tới giai đoạn thứ ba là cải thiện sự tai hại nhất.
Trong khi tôi tìm giải pháp thì vấn đề tự hiện ra dưới mắt với
một quan điểm mới. Tôi nghĩ: "Nếu mình kể rõ tình cảnh cho ông
luật sư của mình, thì có lẽ ông kiếm được một lối ra mà mình
không nghĩ tới chăng? Và tôi nhận rằng, thiệt tôi đã ngu, có một
điều dễ dàng như thế mà sao trước không nghĩ tới". Nhưng trước
kia nào tôi có suy nghĩ gì đâu, tôi chỉ lo lắng thôi. Cho nên
tôi nhứt quyết sáng hôm sau, việc đầu tiên là lại kiếm ông luật
sư. Quyết định vậy rồi tôi lên giường ngủ say như một khúc gỗ.
Sáng hôm sau gặp nhau, ông luật sư của tôi khuyên nên đích thân
lại thăm Biện lý rồi kể tường tận câu chuyện cho ông hay. Tôi
làm đúng như vậy. Vừa ấp úng kể xong, tôi ngạc nhiên hết sức
nghe ông Bbiện lý nói rằng mấy tháng nay ông đã nghe đồn nhiều
về bọn tống tiền đó, và chính thằng tự xưng là nhân viên của
chính phủ ấy chỉ là một tên lừa đảo mà sở Công an đương lùng
bắt. Sau cơn lo lắng ba đêm ba ngày ròng rã, để đắn đo xem có
nên tặng quân bất lương 5.000 Mỹ kim không, mà được nghe lời nói
ấy, thiệt nó nhẹ người làm sao!
Kinh nghiệm đó dạy tôi một bài học mà không bao giờ tôi quên. Từ
ngày ấy, mỗi lần gặp một vấn đề tôi lo lắng thì tôi lập tức áp
dụng định thức của ông già H. Carrier.
Cũng gần vào lúc ông H.Carrier lo lắng về cái máy lọc hơi của
ông tại Crystal City, thì có một anh chàng Broken Bow nghĩ đến
việc di chúc. Tên anh là Fail P. Haney. Anh
bị ung thư trong ruột. Một bác sĩ chuyên môn đã cho rằng bệnh
anh bất trị. Bác sĩ đó dặn anh ta kiêng thức này, thức khác và
đừng lo lắng gì hết, phải hoàn toàn bình tĩnh. Họ cũng khuyên
anh ta nên lập di chúc đi thì vừa.
Bệnh anh bắt buộc anh phải bỏ địa vị cao sang
và đầy hứa hẹn cho tương lai. Anh không còn việc gì làm nữa, chỉ
còn chờ cái chết nó từ từ tới.
Bỗng anh nẩy ra một quyết định, một quyết
định lạ lùng và đẹp đẽ. Anh nói: "Chẳng còn sống bao lâu nữa thì
tận hưởng thú đời đi. Từ trước tới nay ta vẫn ao ước đi du lịch
thế giới trước khi chết. Giờ là lúc nên khởi hành đây". Rồi ta
mua giấy tàu.
Các vị bác sĩ ngạc nhiên vô cùng. Họ biểu anh
Haney: "Chúng tôi phải cho ông hay, nếu ông đi du lịch như vậy
người ta sẽ phải quẳng thây ông xuống biển đa!"
Anh đáp: "Không đâu! Thân nhân tôi đã hứa
chôn tôi trong một miếng đất nhà tại Broken Bow. Vậy tôi sẽ mua
một quan tài và mang theo".
Anh ta mua một quan tài, chở xuống tàu, rồi
thương lượng với Công ty để khi chết xác được giữ trong phòng
lạnh cho đến lúc tàu về đến bến. Rồi anh đi du lịch với tinh
thần của ông già Omar trong bốn câu thơ này:
Ai ơi tận hưởng thú trần
Trước khi xuống hố trở thành đất đen
Đất đen vùi lấp đất đen,
Hết ca, hết nhậu, khỏi miền tử sanh.
Trong du lịch, anh luôn luôn "Chén chú chén
anh". Trong một bức thư tôi còn giữ đây, anh ta nói: "Tôi uống
huýt ki xô đa, hút xì gà, ăn đủ thứ; cả những thứ đặc biệt của
mỗi xứ lạ, độc có thể giết tôi được. Tôi tận hưởng những thứ ở
đời bao giờ hết. Gặp gió mùa, dông tố, đáng lẽ chết vì sợ, thế
mà không. Trong khi nguy hiểm, tôi lại thấy phấn khởi và cảm
hứng bội phần. Tôi bài bạc, ca hát, làm quen với bạn mới, thức
tới nửa đêm. Khi tới Trung Quốc và Ấn Độ, tôi mới nhận thấy
những nỗi lo lắng về công việc làm ăn của tôi hồi ở nhà, so với
nỗi nghèo nàn đói rét ở phương Đông còn là một cảnh Thiên đường.
Nghĩ vậy tôi không lo lắng vô lý nữa và thấy khoẻ khoắn trong
người. Khi về tơí Mỹ tôi cân thêm 4,5 kí lô. Gần như quên rằng
đã có hồi đau bao tử và đau ruột. Không bao giờ tôi mạnh hơn lúc
ấy. Tôi vội vàng bán lại chiếc quan tài cho một nhà chuyên lo
đám táng và trở lại làm ăn. Từ hồi đó tôi chưa hề đau thêm một
ngày nào nữa".
Lúc đó anh Haney chưa biết thuật của Carrier
để diệt nỗi lo. Mới rồi anh ta nói với tôi: "Bây giờ tôi nhận
thấy rằng tôi đã theo đúng phương pháp ấy mà không hay. Tôi an
phận nhận lấy cái tai hại nhất có thể xảy ra, tức là sự chết.
Rồi tôi rán cải thiện nó bằng cách tận hưởng những ngày còn
lại".
Anh ta tiếp: "Nếu sau khi xuống tàu tôi còn
lo lắng thì chắc chắn là tôi đã nằm trong quan tài mà trở về nhà
rồi. Nhưng tôi đã để cho tinh thần hưu dưỡng và hết lo nghĩ. Sự
bình tĩnh trong tâm hồn đã phát ra môt nguồn sinh lực mới. Nhờ
vậy tôi thoát chết".
Định thức trên đã giúp ông H. Carrier bớt
được số tiền 20.000 Mỹ kim, giúp cho một nhà buôn ở Nữu Ước khỏi
phải nộp 5.000 Mỹ kim cho bọn tống tiền và giúp anh Earl P.Haney
tự cứu mạng mình thì bạn cũng có thể nhờ nó mà giải quyết được
ít nhiều lo lắng của bạn, phải chăng? Cũng có thể nó giải quyết
cho bạn một vài vấn đề khác mà từ trước bạn cho rằng không có
cách nào giải quyết được, biết đâu chừng?
Vậy định lệ thứ nhì là: Nếu bạn gặp một vấn
đề rắc rối thì áp dụng ngay định thức thần hiệu này của H.
Carrier:
1. Bạn tự hỏi: "Cái tai hại nhất có thể xảy
ra được" là gì?
2. Nếu không tài nào thoát được thì sẵn sàng
nhận đi.
3. Rồi bình tĩnh tìm cách cải thiện nó.
III. GIẾT TA BẰNG CÁI ƯU SẦU
"Những nhà kinh doanh không
biết thắng ưu sầu sẽ chết sớm".
Bác sĩ ALEXIS CARREL
Mấy năm trước, một buổi sáng, một ông hàng
xóm gõ cửa nhà tôi bảo phải đi chủng đậu ngay. Ông là một trong
số hàng ngàn người tình nguyện đi gõ cửa từng nhà ở khắp châu
thành Nữu Ước để nhắc nhở dân chúng. Những người sợ sệt nối đuôi
nhau hàng giờ tại nhà thương, sở Chữa lửa, sở Công an và cả
trong những xí nghiệp để được chủng đậu. Hơn 2.000 bác sĩ và nữ
điều dưỡng làm việc náo nhiệt ngày đêm. Tại sao lại có sự kích
thích đó? Là vì khi ấy châu thành Nữu Ước có tám người lên đậu
và hai người chết. Hai người chết trong dân số gần tám triệu
người!.
Tôi đã sống trên 37 năm ở Nữu ước, vậy mà vẫn
chưa có một người nào lại gõ cửa bảo tôi phải để phòng chứng ưu
sầu, một chứng do cảm xúc sinh ra mà trong 37 năm qua đã giết
người một vạn lần nhiều hơn bệnh đậu!
Không có một người nào lại gõ cửa cho tôi hay
rằng hiện trong nước Mỹ, cứ mười người có một người bị chứng
thần kinh suy nhược mà đại đa số những kẻ đó đều do ưu tư và cảm
xúc bất an mà sinh bệnh. Cho nên tôi phải viết chương này để gõ
cửa bạn và xin bạn đề phòng.
Bác sĩ Alexis Carrel, người được gii thưởng
Nobel về y học, đã nói: "Những nhà kinh doanh không biết thắng
ưu sầu sẽ chết sớm". Mà các bà nội trợ cũng vậy, các ông thú y
cũng vậy, các bác thợ nề cũng vậy.
Mấy năm trước nhân dịp nghỉ, tôi đánh xe dạo
vùng Texas và New Mexico với bác sĩ O.F.Gobe, một trong những vị
trưởng ban y tế sở Hoả xa Santa Fé. Chúng tôi bàn về những tai
hại của lo lắng và bác sĩ nói: "Bảy chục phần trăm bệnh nhân đi
tìm bác sĩ đều có thể tự chữa hết bệnh nếu bỏ được nỗi lo lắng
và sợ sệt. Ấy xin đừng nghĩ rằng tôi cho bệnh của họ là bệnh
tưởng! Họ có bệnh thiệt như những người đau nặng vậy. Mà có khi
bệnh của họ còn nguy hiểm hơn nhiều nữa, chẳng hạn như bị thần
kinh suy nhược mà trúng thực, có ung thư trong bao tử, đau tim,
mất ngủ, nhức đầu và bị chứng tê liệt.
Những bệnh đó không phải là tưởng tượng, tôi
biết rõ vậy, vì chính tôi đã bị ung thư bao tử trong 12 năm
trời.
Sợ sinh ra lo. Lo làm cho thần kinh căng
thẳng, ta cáu kỉnh hại cho những dây thần kinh trong bao tử, làm
cho dịch vị biến chất đi và thường sinh chứng vị ung".
Bác sĩ Joseph F. Montagne, tác giả cuốn:
"Bệnh đau bao tử do thần kinh" cũng nói đại khái như vậy. Ông
bảo: "không phải thức ăn làm cho tôi có ung thư trong bao tử mà
nguyên nhân chính là cái ưu tư nó cắn rứt tôi".
Bác sĩ W.C.Alvarez ở dưỡng đường Mayo thì
nói: "Những ung thư trong bao tử sưng thêm hay tiêu bớt đi là
tuỳ sự mệt nhọc của bộ thần kinh tăng hay giảm".
Một cuộc nghiên cứu 15.000 người đau bao tử ở
nhà thưng Mayo đã chứng thực điều ấy. Trong năm người thì bốn
người có thể không có gì khác thường hết. Sợ, lo, oán, ghét,
tính vô cùng ích kỷ, không biết thích nghi với hoàn cảnh, những
cái đó đôi khi là nguyên nhân của bệnh đau bao tử và chứng vị
ung. Bệnh thứ hai này có thể giết bạn được. Theo tờ báo Life nó
đứng hạng thứ mười trong những bệnh nguy hiểm nhất.
Mới rồi tôi có giao dịch bằng thư từ với bác
sĩ Harrlod C.Habien ở dưỡng đường Mayo. Trong kỳ hội họp thường
niên của các y sĩ và các nhà giải phẫu, ông được đọc một tờ
thông điệp về công cuộc nghiên cứu các chứng bệnh của 176 vị chỉ
huy các xí nghiệp. Sau khi cho cử toạ biết rằng tuổi trung bình
của họ là 44 năm, ba tháng, ông nói non một phần ba các vị chỉ
huy ấy mắc một trong ba chứng bệnh: đau tim, có ung thư trong
bao tử và mạch máu căng quá. Những bệnh đó là những bệnh đặc
biệt của hạng người luôn luôn sống một đời gay go, ồn ào, rộn
rịp. Bạn thử nghĩ coi: một phần ba những nhà chỉ huy các xí
nghiệp đã tự huỷ hoại thân thể vì các chứng đau tim, vị ung và
mạch máu căng lên khi chưa đầy 45 tuổi. Sự thành công của họ đã
phi trả với một giá đắt quá. Mà chưa chắc gì họ đã thành công. Ờ
thử hỏi, ta có thể nói được là thành công khi ta làm ăn phát
đạt, nhưng lại mắc chứng đau tim hoặc vị ung chăng? Có ích gì
cho ta không, nếu ta chiếm được cả phú nguyên của thế giới mà
phải mất sức khoẻ? Dù ta giàu có đến đâu đi nữa thì mỗi ngày
cũng chỉ ăn có ba bữa và đêm ngủ một giường. Nói cho rộng thì
người chỉ huy các xí nghiệp quyền hành lớn, nhưng có hơn gì anh
đào đất không? Có lẽ còn kém nữa, vì anh đào đất thường được ngủ
say hơn họ, ăn ngon miệng hơn họ. Thiệt tình tôi muốn làm anh
thợ giặt ở Alabana ôm cây đờn "banjo" mà khảy tưng tưng còn hơn
làm chủ một công ty xe lửa hoặc một công ty thuốc hút để tới 45
tuổi, sức khỏe bị huỷ hoại đến nỗi tiều tuỵ thân hình.
Nói tới thuốc hút, tôi lại nhớ tới một nhà
sản xuất thuốc nổi danh nhất thế giới, mới chết vì bịnh đau tim
trong khi ông ta đi nghỉ vài ngày giữa một khu rừng ở Canada.
Ông ta lượm hằng triệu bạc mà chết, chết hồi có 61 tuổi. Chắc
chắn ông đã đem cái thời gian khổ hạnh trong đời ông để đổi lấy
cái mà ông ta gọi là "thành công trong sự làm ăn" đó.
Theo tôi nhà sản xuất thuốc đó chưa thành
công bằng nửa thân phụ tôi, một nông phu ở Missouri, mất hồi 98
tuổi, gia sản không có tới một đồng.
Các y sĩ ở Mayo nói rằng khi dùng kiếng hiển
vi để xem xét dây thần kinh của những người chết vì đau bệnh này
thì thấy những dây đó bề ngoài cũng lành mạnh như dây thần kinh
của Jack Dempsey, một tay quán quân về quyền thuật. Bệnh của họ
không do thần kinh suy nhược mà do những cảm xúc như ưu tư, lo
lắng, sợ sệt, thất vọng. Platon nói: "Các y sĩ có một lỗi lầm
lớn nhất là họ chỉ rán trị thân thể, không nghĩ tới trị tinh
thần mà thân thể và tinh thần là một, không thể trị riêng được".
Phải đợi 23 thế kỷ sau, y học mới chịu xác
nhận sự quan trọng ấy. Chúng ta đương phát triển một phương pháp
trị liệu mới mẻ là phương pháp trị cả cơ thể lẫn thần kinh. Công
việc đó lúc này quan trọng vì y học đã trị được nhiều bệnh do vi
trùng như bệnh đậu mùa, bệnh dịch tả, bệnh sốt rét và hàng chục
bệnh khác đã giết hàng triệu mạng người. Nhưng y học vẫn chưa
trị được những bệnh tinh thần, không do vi trùng mà do những cảm
xúc như lo lắng, sợ sệt, oán ghét, thất vọng, những bệnh mỗi
ngày một tăng với tốc độ rất gớm ghê.
Các bác sĩ nói rằng hiện nay cứ 20 người Mỹ
có một người phải nằm nhà thương điên trong một thời gian không
kỳ hạn. Và khi tổng động viên, hồi chiến tranh vừa rồi, cứ năm
thanh niên thì phải loại đi một vì thần kinh có bệnh hoặc suy
nhược.
Vậy nguyên nhân của chứng thần kinh thác loạn
là gì? Không ai biết được đủ hết. Nhưng chắc chắn là trong nhiều
trường hợp, sợ sệt và lo lắng là hai nguyên nhân chính. Những
người lo lắng, mệt mỏi đều không biết thích nghi với những thực
sự chua chát của đời, cứ muốn sống cách biệt hẳn với người xung
quanh và tự giam mình trong một thế giới tưởng tượng để khỏi
phải ưu phiền.
Như tôi đã nói, tôi luôn để trên bàn cuốn
"Quẳng gánh lo đi để được khoẻ mạnh" của bác sĩ Edward Podalsky.
Dưới đây là nhan đề vài chương trong cuốn ấy:
Lo lắng có hai cho tim ra sao?
Mạch máu căng là do lo lắng quá độ
Chứng phong thấp có thể vì lo lắng mà phát
sinh.
Hãy thương hại bao tử mà bớt lo đi
Lo lắng quá có thể sinh ra chứng cảm hàn.
Những lo lắng ảnh hưởng tới hạch giáp trạng
tuyến ra sao?
Chứng tiểu đường (nước tiểu có nhiều đường)
của những người lo lắng quá.
Một cuốn sách trứ danh khác, nghiên cứu về lo
lắng là cuốn "Loài người tự hại mình" của bác sĩ Karl Menninget
ở dưỡng đường Mayo, trị bệnh thần kinh. Cuốn đó cho biết nếu ta
để những cảm xúc phá hoại xâm chiếm đời ta thì sẽ làm hại thân
ta đến mức nào. Nếu bạn muốn đừng tự hại bạn nên mua cuốnấy. Đọc
nó đi. Rồi đưa cho người quen đọc. Sách giá bốn Mỹ kim. Tôi dám
nói quyết không có số vốn nào bỏ ra mà có thể mang lợi về cho
bạn bằng số tiền ấy.
Kẻ mạnh khoẻ nhứt mà ưu phiền thì cũng hoá
đau được, đại tướng Grant thấy như vậy trong những ngày sắp tàn
cuộc Nam Bắc phân tranh. Đây là câu chuyện: Đại tướng bao vây
đồn Richsmond đã 9 tháng. Quân đội của đại tướng Lee ở trong
đồn, đói, rách, bị đánh bại. Từng bộ đội một đã đào ngũ. Còn
những toán binh khác thì họp nhau lại trong trại vải bố mà tụng
kinh, la, khóc, mê hoảng, một triệu chứng tan rã hoàn toàn. Sau
đó họ đốt những kho bông và thuốc lá ở Richmond, lại đốt cả kho
binh khí, rồi trốn khỏi châu thành, trong khi những ngọn lửa
giữa đêm bốc ngụt trời. Đại tướng Grant vội vàng hoả tốc đeo
đuổi, bao vây hai bên sườn quân địch, mà kỵ binh do Sheridan cầm
đầu thì đón phá đường rầy và cướp những toa xe lương thực của
đối phương.
Chỉ huy trận đó, Đại tướng Grant nhức đầu
kịch liệt, mắt mờ gần như đui, tới nỗi phải đi sau quân đội rồi
té xỉu và đành ngừng lại ở một trại ruộng. Ông chép trong tập ký
ức của ông: "Suốt đêm đó tôi ngâm chân trong nước nóng và hột
cải, lại đắp hột cải trên cổ tay, trên gáy, mong đến sáng sẽ hết
nhức đầu".
Sáng hôm sau ông tỉnh táo ngay, nhưng không
phải nhờ ở hột cải mà nhờ ở bức thư xin đầu hàng của Đại tướng
Lee do một kỵ binh phi ngựa mang tới.
Ông viết: "Khi võ quan kia lại gần tôi, tôi
còn nhức đầu như búa bổ, nhưng đọc xong bức thư, tôi khỏi liền".
Như vậy chắc chắn Đại tướng đau chỉ vì lo
nghĩ, cảm xúc mạnh quá, thần kinh kích thích quá nên khi hết lo,
lại vững bụng, vì công việc đã hoàn thành ông bình phục lại
ngay.
Bảy mươi năm sau, Henry Morgenthau, giám đốc
quốc khố trong nội các của Tổng thống Franklin D. Roosevelt, ưu
tư tới nỗi đau rồi bất tỉnh. Ông chép trong nhật ký rằng ông lo
lắng ghê gớm khi Tổng thống mua trong một ngày 4.400.000 thùng
lúa, khiến giá lúa phải tăng lên. Việc đó làm cho ông mê man bất
tỉnh, về nhà ăn xong ông nằm bẹp đến hai giờ.
Muốn biết ưu tư làm hại ta ra sao, tôi không
cần tra cứu trong thư viện hoặc tìm hỏi y sĩ. Tôi chỉ cần ngồi
tại bàn viết, ngó qua cửa sổ là thấy ngay một nhà mà con quỷ ưu
tư đã phá phách làm cho người ta bị chứng thần kinh suy nhược,
và một nhà khác có người đàn ông bị bệnh tiểu đường vì quá ưu
tư. Người đó làm nghề buôn đường. Khi nào giá đường trên thị
trường hạ thì ngược lại chất đường trong máu và nước tiểu y cứ
tăng lên.
Montaigue, một triết gia Pháp trứ danh, lúc
được bầu làm thị trưởng tỉnh Borrdeux là tỉnh ông, đã nói với
dân chúng: "Tôi sẽ tận tâm lo công việc cho tỉnh nhà nhưng tôi
cũng phải giữ gìn phổi và gan của tôi".
Còn ông hàng xóm của tôi ở trên kia thì lo
lắng về giá đường đến nỗi đường vô cả huyết qủan ông và suýt
giết ông nữa.
Ngoài ra, ưu tư còn có thẻ sinh chứng phong
thấp và sưng khớp xương khiến kẻ mắc bệnh không đi được, phải
dùng xe đẩy. Bác sĩ Russel L.Cescil dạy y khoa tại trưởng Đại
học Cornell được khắp thế giới nhận là một chuyên môn về chứng
sưng khớp xương. Ông đã kể bốn nguyên nhân chính thường sinh ra
chứng nầy. Ấy là:
1. Đau khổ trong hôn nhân.
2. Suy bại về tài chánh.
3. Cô độc và ưu phiền.
4. Uất hận.
Tất nhiên là còn nhiều nguyên nhân nữa, vì có
nhiều loại sưng khớp do những lẽ rất khác nhau nhưng, tôi nhắc
lại, những nguyên nhân thường gặp nhất là bốn nguyên nhân kẻ
trên. Chẳng hạn một ông bạn tôi trong thời kinh tế khủng hoảng
bị phá sản; bị hãng hơi, định cắt hơi dùng trong nhà và bị ngân
hàng dọa bán căn nhà mà ông đã cầm. Còn người vợ ông ta thì bỗng
bị chứng sưng khớp xương hành dữ dội, thuốc thang, kiêng cử thế
nào cũng không bớt, mãi cho tới khi tài chính trong nhà được
phong túc hơn thì bệnh mới tuần tự mà lui.
Ưu tư lại có thể sinh ra chứng sâu rằng nữa.
Bác sĩ William nói trong một tờ thông điệp đọc trước hội nha y
của Mỹ: "Những cảm xúc khó chịu như khi ta lo lắng, sợ sệt, bàn
cãi luôn luôn, rất dễ làm cho chất vôi trong cơ thể phân phát
không đều và ta sinh ra sâu răng". Bác sĩ kể chuyện một thân chủ
ông có hai hàm răng rất tốt. Khi vợ y thình lình đau, y lo quá,
sinh ngay chứng đau răng. Trong ba tuần vợ nằm nhà thương thì y
có chín cái răng sâu.
Bạn đã bao giờ thấy một người có bệnh trong
giáp trạng tuyến hoạt động dị thường không? Tôi đã thấy nhiều
lần. Họ run cầm cập như những kẻ sợ chết vậy. Mà có lẽ họ cũng
sợ quá thiệt. Giáp trạng tuyến, cái hạch điều hoà cơ thể của ta
nầy, lúc ấy như nổi doá lên làm cho tim đập mạnh và toàn cơ thể
hoạt động ồ ạt, sôi nổi như một cái lò than đúc thép mở tung các
cửa cho hơi và không khí ùa vào. Và nếu không trị ngay, thì
người bệnh có thể chết được như tự thiêu vậy.
Mới rồi tôi đưa một người bạn mắc chứng đó
lại Philadephie kiếm một bác sĩ chuyên môn nổi danh và đã kinh
nghiệm được 38 năm rồi. Bạn có thể biết bác sĩ nầy lời khuyên
các bệnh nhân ra sao không? Ông viết lời khuyền bằng sơn trên
một tấm gỗ treo trên tường giữa phòng khách để cho người bệnh
nào cũng thấy. Dưới đây là lời khuyên ấy mà tôi đã chép vào một
bao thư trong khi tôi ngồi chờ được tiếp:
"Nghỉ ngơi và giải trí"
"Không có gì giải trí và làm cho óc ta được
nghỉ ngơi bằng lòng tín ngưỡng, giấc ngủ, âm nhạc, vui cười.
Ta phải tin Thượng Đế và tập ngủ cho ngon.
Nên thích những ban nhạc hay và ngó cái bề
mặt tức cười của đời.
Như vậy ta sẽ thấy khỏe mạnh và sung sướng".
Đến lúc khám bệnh, câu đầu tiên bác sĩ hỏi
bạn tôi là câu nầy: "Ông ưu tư nỗi gì mà đến tình trạng ấy?" Và
ông khuyên: "Nếu ông không quẳng gánh lo đi thì ông còn nhiền
biến chứng khác như đau tim, vị ung và tiểu đường. Tất cả những
chứng đó đều là anh em chú bác với nhau, anh em chú bác ruột".
Thì chắc chắn như vậy rồi vì tất cả đều do ưu tư mà sinh ra!
Khi tôi phỏng vấn cô Merle Oberon, cô tuyên
bố rằng cô nhất định quẳng gánh lo đi, vì cô biết cái ưu tư sẽ
tàn phá cái nhan sắc của cô, cái bảo vật quý nhất, nhờ nó cô nổi
danh trên màn ảnh.
Cô nói: "Khi tôi bắt đầu làm đào hát bóng,
tôi lo lắng sợ sệt quá. Mới ở Ấn Độ tới Luân Đôn tìm việc mà
không quen ai ở đây hết. Tôi có lại xin việc tại nhiều nhà sản
xuất phim nhưng không một ai mướn tôi. Mà tiền giắt lưng thì ít,
tiêu gần cạn rồi. Nhưng hai tuần tôi chỉ ăn bánh và uống nước
lạnh. Đã lo lại đói nữa.
Tôi tự nhủ: "Có lẽ mình sẽ nguy mất, không
bao giờ được làm đào hát bóng đâu. Xét kỹ thì mình không kinh
nghiệm, chưa đóng trò lần nào, vậy chắc chỉ có nhan sắc của mình
là giúp mình được thôi".
Tôi đi lại tấm gương, ngó trong đó đã thấy sự
lo lắng làm cho dung nhan tôi tiều tuỵ làm sao! Những nét nhăn
đã bắt đầu hiện, do bàn tay tàn phá của ưu tư. Rồi tôi tự nhủ:
"Phải thôi ngay đi! Không được ưu tư nữa. Chỉ có cái nhan sắc
giúp ta được việc. Vậy đừng tàn phá nó bằng cách chuốc lấy lo
phiền".
Ta thấy ít nguyên nhân nào phá hoại nhan sắc
một người đàn bà mau chóng bằng ưu tư. Nó làm cho họ già đi,
tính tình hoá chua cay. Nó huỷ dung nhan họ, làm cho hai hàm
răng nghiến chặt lại, làm cho nét nhăn hiện lên mặt. Họ có vẻ
luôn luôn cáu kỉnh, tóc họ bạc hoặc rụng, nước da họ sinh ra đủ
thứ mụn, nhọt, ghẻ, lác.
Bệnh đau tim là tên sát nhân số một ở Mỹ.
Trong chiến tranh vừa rồi, khoảng một phần ba triệu người chết
trên trận địa, nhưng cũng trong thời gian đó, bệnh đau tim giết
tới hai triệu nhân mạng, trong số đó có một nửa đau vì quá lo
lắng và sống một đời ồ ạt, rộn rịp quá. Phải, chứng đau tim là
một nguyên nhân chính, khiến bác sĩ Alexis Carrel thốt ra câu
này: "Những nhà kinh doanh không biết thắng ưu sầu sẽ chết sớm".
Người da đen ở phương nam và người Trung Hoa
ít khi đau tim vì lo lắng, nhờ họ đã nhìn đời một cách bình
tĩnh. Số bác sĩ chết vì đau tim nhiều gấp 20 lần nông phu chết
về bệnh đó, vì các bác sĩ sống một đời rộn rịp quá. Đó là cái lẽ
nhân nào quả nấy.
William James nói: "Trời có thể tha lỗi cho
ta được, nhưng bộ thần kinh của ta thì không khi nào có thể dung
thứ cho ta hết".
Và đây là một điều ngạc nhiên vô cùng, gần
như không tin được. Tại Mỹ mỗi năm, số người tự tử lại nhiều hơn
số người chết trong năm bệnh truyền nhiễm lan rộng nhất.
Tại sao vậy? Chỉ tại họ "ưu tư" quá đó!
Khi bọn quân phiệt tàn bạo của Trung Quốc
muốn hành hạ một tội nhân nào, họ trói kẻ bất hạnh rồi đặt dưới
một thùng nước cứ đều đều nhỏ giọt... từ giọt... từ giọt...
không ngừng...ngày và đêm trên đầu y. Sau cùng tội nhân thấy khổ
sở như búa đập vào đầu và hoá điên. Phương pháp đó được
Y-Pha-nho dùng trong những buồng tra tấn và Hitler dùng trong
các trại giam.
Ưu tư nào khác những giọt kia? Nó đập, đập,
đập, không ngừng vào thần kinh ta, đủ sức làm cho ta điên và tự
tử được.
Khi tôi còn là một đưa nhỏ nhà quê ở
Misssouri, tôi nghe người ta tả cảnh vạc dầu ở âm phủ mà sợ quá
muốn chết ngất. Nhưng thật không ai tả cảnh vạc dầu ở cõi trần
này hết, cảnh thê thảm của những kẻ quá ưu tư. Chẳng hạn, nếu
bạn ưu tư luôn năm suốt tháng, thì một ngày kia bạn có thể bị
một chứng bệnh đau đớn, ghê ghớm vô cùng, tức là chứng đau nhói
ở ngực (angine de poitrine).
Hỡi bạn thanh niên, nếu bạn bị chứng đó thì
bạn sẽ phải kêu trời, một tiếng kêu trời rùng rợn như sắp chết,
không có tiếng kêu trời rùng rợn như sắp chết, không có tiếng
kêu nào so sánh cho ngang. Nếu đem tiếng gào của Âm ti so với
tiếng kêu trời đó chỉ là tiếng kêu êm ái trong bài "Thằng cuội"
của trẻ nhỏ. Bạn sẽ tự than: "Trời hỡi trời!" Nếu tôi hết được
bệnh này thì tôi sẽ sung sướng tuyệt trần, thề không giờ còn lo
buồn gì nữa". (Bạn cho tôi nói quá ư? Xin bạn cứ hỏi vị y sĩ
thường chữa cho bạn thì biết).
Bạn có thích sống không? Có muốn sống lâu và
khoẻ mạnh để hưởng cái vui "ăn ngon ngủ kỹ làm tiên trên đời"
không?. Thích vậy, muốn vậy bạn cứ theo đúng lời khuyên sau đây,
cũng lại của bác sĩ Alexis Carrel nữa. Ông nói: "Kẻ nào giữ được
tâm hồn bình tĩnh giữa những đô thị huyên náo thời nay kẻ đó sẽ
không bị bệnh thần kinh".
Bạn có giữ được như vậy chăng? Nếu bạn là một
người bình thường, vô bệnh, bạn có thẻ trả lời. "Có". Chắc chắn
ta có những năng lực tiềm tàng mà có lẽ chưa bao giờ dùng tới.
Ông Thoreau đã nói trong cuốn "Walden" bất hủ của ông: "Tôi
không thấy cái gì làm tôi phần khởi bằng khả năng nâng cao đời
sống của tôi do sự gắng sức có ý thức... Khi ta tự tin, tiến
theo con đường đẹp đẽ tự vạch ra và gắng sức sống theo đời sống
đã phác hoạ trong đầu, thì ta có thể thành công một cách rất
không ngờ".
Chắc chắn nhiều độc giả cũng đầy nghị lực và năng lực tiềm tàng
như cô Olga K Jarvey ở Coeur d'Alène. Một hôm, trong những
trường hợp bi đát nhất, cô nhận thấy cô có thể diệt được ưu tư.
Vậy thì tôi tin chắc bạn và tôi, chúng ta có thể diệt được ưu tư
được, nếu chúng ta theo những chân lý cổ truyền mà tôi bàn tới
trong cuốn này. Câu chuyện của cô Olga K Jarvey chép lại cho tôi
như vậy: "Tám năm rưỡi trước tôi bị chứng ung thư, nó suýt làm
tôi chết lần mòn, vô cùng đau đớn. Những y sĩ tài giỏi nhất
trong nước, tức là các bác sĩ ở dưỡng đường Mayo đều nói rằng cô
sẽ chết. Lúc đó tôi dường như ở một con đường cùng, đứng trước
cửa Âm ti mở sẵn. Trong cơn thất vọng tôi dùng điện thoại kêu vị
bác sĩ đương chữa cho tôi đến để mà rên la, mà kể lể nỗi thất
vọng đang chiếm cứ lòng tôi. Song bác sĩ nóng nảy ngắt lời ngay:
"Cái gì vậy, cô Olga K Jarvey? Phải can đảm lên chớ! Nếu cứ la
hét như vậy thì mau chết lắm. Bệnh của cô rất nguy hiểm thiệt
đấy. Nhưng phải can đảm chống với nó... Đừng ưu phiền nữa mà
kiếm việc gì làm cho khuây khoả đi". Ngay lúc đó, tôi nắm chặt
tay, thề một cách quả quyết đến nỗi mong tay đâm sâu vào da
thịt, đến nỗi thấy lạnh mình, mồ hôi chy ròng ròng theo sống
lưng. Tôi thề rằng: "Ta không ưu phiền nữa! Ta không rên là nữa!
Và nếu tinh thần thắng được thể chất, ta sẽ sống".
Bệnh nặng không thể dùng quang chất được, phải cho chạy quang
tuyến vào ung thư luôn trong 30 ngày, mỗi ngày mười phút rưỡi.
Riêng bệnh của tôi các bác sĩ đã cho chạy quang tuyến trong 49
ngày, mỗi ngày 14 phút rưỡi. Nhưng mặc dầu xương tôi gần lòi
khỏi da, như những mỏm đá trên sườn đồi, mặc dù chân tôi nặng
như chì, tôi cũng chẳng hề ưu phiền! Tôi không khóc một tiếng,
tôi cứ mỉm cười! Phải, tôi bắt buộc phải mỉm cười.
"Tôi không điên tới mức tin rằng chỉ mỉm cười thôi mà hết được
bệnh nội ung, song tôi quyết tin rằng tinh thần khoan khoái giúp
cơ thể thắng được bệnh. Dù sao đi nữa lần đó tôi đã tìm thấy một
phép trong những phép mầu nhiệm để trị bệnh nội ung. Mấy năm gần
đây, tôi mạnh khỏe khác thường chính là nhờ những lời nhắc nhở
của Bác sĩ Mc. Caffery. "Hãy can đảm chống đối với bệnh; đừng ưu
phiền nữa; làm việc gì cho khuây kho đi!".
Để kết luận, tôi muốn chép lại câu của bác sĩ Alexis Carrel mà
bạn đã đọc ở đầu chương" "Những nhà kinh doanh không biết thắng
ưu sầu sẽ chết sớm".
Bọn tín đồ cuồng nhiệt của giáo chủ Mohammed thường xâm trên
ngực những câu thơ trong kinh thánh Koran. Tôi cũng muốn các vị
độc giả cuốn này xâm lên ngực câu: "Những nhà kinh doanh không
biết thắng ưu sầu sẽ chết sớm".
À mà biết đâu được? Bác sĩ Alexis Carrel muốn nói cả tới bạn đó
không chừng!
Quy tắc thứ nhất:
Nếu bạn muốn hết lo thì bắt chước William Osler: "Ngày nào sống
ngày nấy, cách biệt hẳn với ngày trước và ngày sau. Đừng lo
trước về tương lai. Cứ nghĩ tới nội việc hôm nay thôi".
Quy tắc thứ nhì:
Lần sau nếu con quỷ ưu phiền tấn công bạn và dồn bạn vào một xó
thì xin bạn cứ đọc câu thần chú sau này của Willis H. Carrier:
a. Bạn tự hỏi: "Nếu ta không giải quyết được vấn đề đó thì cái
gì tai hại nhất có thể xảy tới cho ta được?".
b. Rồi bạn tự nhận trước cái tai hại đó đi, nếu cần.
c. Sau cùng bạn bình tĩnh xem xét có cách nào cải thiện tình thế
được không - cái tình thế mà bạn đã chịu nhận trước rồi đó.
Quy tắc thứ ba:
Bạn nên nhớ rằng ưu phiền tàn phá sức khoẻ của bạn. "Những nhà
kinh doanh không biết thắng ưu sầu sẽ chết sớm".
--------------------------------
1 Ở cuối sách ông chép lại 32 chuyện thiệt, chỉ cho ta biết
những người trong truyện đã áp dụng cách diệt ưu tư của họ. Vì
sách đã dầy quá và những cách ấy cũng không ngoài những điều ông
đã chỉ trong những phần trên cho nên chúng tôi bỏ, không dịch.
2 Những bạn nào buồn rầu vì hay đau vặt nên đọc thêm bài:
"Maladie, nôtre amie" của Bác sĩ Claude Fresnay trong tạp chí
Guérir số 179 Novembre 1950, trong đó đại ý nói không người nào
là cơ thể không mắc một vài tật. Khi ta đau là cơ thể của ta
chống với các chứng đó; bệnh chỉ là một phản động của cơ thể mà
cơ thể có mạnh mới phản động được, cho nên những người hay đau
vặt thường là những người sống lâu hơn cả. Vậy thì đau vặt đã
không đáng cho ta lo, có phần lại đáng mừng nữa.
3 Một nơi ở Mỹ. Đừng lộn với Verseilles gần Paris.
4 Tiếng Pháp là "conditionnement de l'air" phương pháp làm cho
nhiệt độ và trạng thái ẩm thấp của không khí trong một phòng
thay đổi tuỳ theo ý muốn của mình.
5 Tức cuốn Sống Đẹp, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn hoá,
1993.
Xem tiếp... |