Tại sao
lại phải ưu tiên đặt vấn đề « đức lý 理德
» khi bàn về việc hành nghề của người luật sư ? Tại vì đức lý là
thứ làm cho nghề luật sư khác biệt với các nghề khác.
Vậy đức
lý là gì ? Người luật sư Việt Nam hiện nay theo đức lý nào ? Nếu
đặt vấn đề đức lý với người luật sư thì có phải đặt thêm những vấn
đề gì khác nữa không và sẽ có những ảnh hưởng gì tới quan niệm
nghề nghiệp của ngưới luật sư ? Đó là mấy trong nhiều câu hỏi cần
được nêu lên để giải đáp. Dưới đây là một số ý kiến sơ lược về đức
lý của người luật sư nói chung, từ đó có thể luận ra đức lý của
người luật sư Việt Nam. Để tiện việc trình bày, những ý kiến này
sẽ được ghi chép thành hai phần. Phần I sẽ mang tựa đề Đức
lý của người luật sư trên bình diện khái niệm. Phần II sẽ
có tên gọi Đức lý của người luật sư trong thực tế xã hội.
I. Đức
lý của người luật sư trên bình diện khái niệm
Muốn có
một ý niệm rõ rệt về đức lý của người luật sư thì trước hết không
thể không khảo sát những ngữ nghĩa của thuật ngữ này. Tiếp theo
còn phải tìm hiểu quá trình biến đổi của nó. Và sau cùng nhắc lại
lịch sử của đức lý của người luật sư ở Việt Nam. Đó là ba điểm của
nội dung phần I.
1.
Các ngữ nghĩa của từ đức lý.-
Chữ đức lý là tiếng hán việt dùng để dịch chữ déontologie
của Pháp, Deontology của Anh và deontologie của Đức v.v...Vậy phải
qui chiếu vào các nguồn gốc của chữ này để duyệt xét một số định
nghĩa về chữ đức lý. Dưới đây sẽ bàn về 3 nguồn gốc Việt , Hán và
Pháp của chữ đức lý.
a.
Nguồn gốc tiếng Việt.
Thật ra
tiếng Việt không có sẵn danh từ ổn định để đối dịch các chữ
déontologie, deontology cua Pháp, Đức và Anh. Chữ đức lý
德理
là một
sáng chế chỉ có tính ước lệ để có điểm tựa mà giới thiệu nội dung
của các khái niệm déontologie của phương Tây. Tại sao lại chọn chữ
đức lý
德理
trong
khi có thể dùng tạm các chữ như luân lý
倫理,
đạo lý
道理,
đạo đức
道
德,
nghĩa vụ luận
義務論
v.v... ? Vì chữ đức lý tương đối chính xác hơn cả. Luân
lý thì thì rộng quá vì luân lý dùng chung cho toàn bộ đời
sống con người, không chỉ riêng cho nghề nghiệp. Đạo lý
道理,
đạo đức
道德
(chữ này đồng nghĩa với chữ luân lý) cũng quá rộng, đó là chưa kể
đạo
道
có hàm nghĩa ở ngoài con người, trái lại đức
德
là một phẩm hạnh nằm ở ngay trong con người. Còn nghĩa vụ luận
義務論
thì
lại quá hẹp không bao quát được mặt tinh thần luân lý cần phải có
trong các nghĩa vụ. Nói tóm lại, dùng chữ đức lý
德理
để mượn
ngữ nghĩa của chữ đức
德
với nguyên nghĩa tiếng hán, gộp lại với chữ lý
理
để diễn tả nội dung khái niệm phương Tây về déontologie.
b.
Nguồn gốc Hán của chữ đức lý
德理
Trong
cac từ điển tiếng Hán không có chữ đức lý vì các từ điển này dịch
déontologie là nghĩa vụ luận. Vậy tại sao lại dùng chữ hán
đức lý 德理
? Trước khi giải đáp, xin được nhấn mạnh hai điều. Điều thứ nhất,
chữ đức lý không phải là tiếng Hán mà là tiếng Hán-Việt. Nhiều
người có thành kiến sai lầm rằng tiếng hán việt không phải là
tiếng Việt mà là tiếng Tàu, tiếng Hán. Nhưng nếu nói là tiếng Hán
thì người Hán đâu có hiểu được nó như người Việt vẫn hiểu. Thiết
tưởng đã đến lúc phải coi tiếng hán-việt là một bộ phận bổ sung
của tiếng Việt, là tiếng Hán đã được việt hóa. Chính thành kiến
sai lầm nói trên đã dẫn tới một sai lầm khác là phải thay thế một
cách máy móc đương nhiên từ hán việt bằng từ tiếng Việt, nói là để
cho đại chúng dễ hiểu hay gián tiếp tỏ ra « yêu nước ». Nhưng cũng
đừng quên rằng khoảng 60% từ vựng tiếng Việt là tiếng hán-việt. Sự
thật, « dễ hiểu hơn » không hẳn tại vì là tiếng Việt mà là vì
nghĩa từ tiếng Việt đơn giản hơn, nếu không muốn nói đã được đơn
giản hóa. Ta hãy lấy một thí dụ. Nhà cầm quyền Hà Nội cố ý không
dùng từ hán việt nhân quyền人權
mà đã
dùng tư tiếng Việt quyền con người. Nói là tiếng Việt nhưng
từ này có ba chữ thì một chữ vẫn là hán-việt, chữ quyền
權.
Cái hại ít ai nhìn thấy là bỏ từ nhân quyền
人權
để chỉ
dùng cụm từ quyền con người là đã làm nghèo hẳn đi nội dung
của cụm từ này. Thật vậy, với từ nhân quyền thì có nhiều cơ
sở để hiểu nhân quyền là gì. Khi qui chiếu tư tưởng Nhân Nghĩa
仁義
của
Khổng Tử sẽ có rất nhiều điều để bàn. Nhưng khi nói quyền con
người thì từ con người chỉ gợi cho ta một hình ảnh cụ thể
thôi, không thể đào sâu tư tưởng về nhân quyền được, trừ phi lại
quay sang luận bàn về chữ « quyền 權
» và chữ « nhân 人».
Tức là cũng vẫn phải mất công nghiên cứu thì mới hiểu được hết thế
nào là quyền con người. Điều thứ hai, theo các nhà Trung quốc học,
tiếng Hán là thứ tiếng xuất phát từ hình vẽ cụ thể, tiếng dùng nét
chữ ghi lại hình vẽ để biểu đạt. Nói cách khác, chữ Hán với cơ cấu
của nó, là thứ tiếng đưa người đọc đi thẳng ngay vào điều muốn
biểu đạt mà không phải thông qua trung gian một khái niệm như
trong trường hợp chữ ở phương Tây. Vì vậy, để nắm bắt được nội
dung một từ của phương Tây thì không thể hoàn toàn trông cậy vào
chữ Hán mà phải thông qua chữ hán, rồi qui chiếu vào chính nội
dung chữ phương Tây ấy. Đó chính là trường hợp chữ đức lý
德理.
Theo
phép chiết tự, nghĩa là tìm thành tố của một chữ mà hiểu nghĩa nó
thì chữ đức
德,
ở trên gồm có bộ xích
彳phía
bên trái là bước chân đi, chỉ đường đi. chỉ phương hướng. Bộ xích
彳họp
lại với chữ trực
直
ở trên và bên phải là hình dạng con mắt nhìn thẳng, biểu thị hành
động đi tìm sự chính trực
正直.
Ở dưới với chữ tâm心,
nghĩa là cứ theo lòng mình ngay thẳng mà làm, mà nghĩ. Vậy là kết
hợp các tượng hình để hội ý thành chữ đức
德
có
nghĩa gốc là đi theo đường đạo đức
道德
rồi từ đó thêm cho nó nhiều nghĩa phụ khác nữa. Trong Kinh Dịch
có câu Quân tử tiến đức tu nghiệp
君子進德修業
nghĩa là người quân tử rèn luyện về phẩm hạnh và tu dưỡng về nghề
nghiệp. Khi ta nói đức lý của người luật sư và muốn biết thế nào
là phẩm hạnh của người luật sư và người luật sư phải tu dưỡng để
hành nghề như thế nào thì phải qui chiếu vào chữ déontologie của
phương Tây.
Còn chữ
lý
理
thì có
bộ ngọc
玉
có
nghĩa là đường vân trong đá quí, thớ gỗ trong cây họp với chữ
lý chỉ âm thanh. Tìm ra lý lẽ giống như tìm đường vân, tìm thớ
gỗ. Ngọc
玉
chỉ
nghĩa, Lý
理
chỉ âm,
nghĩa gốc của lý
理
là mài
dũa ngọc cho thành đẹp.
Nói tóm
lại, mượn chữ đức lý là để có phương tiện chuyên chở nội
dung khái niệm déontologie, ví như dùng thuyền để qua sông,
dùng bè đưa sang bờ bên kia, nói theo ngôn ngữ nhà Phật.
c. Nguồn gốc Pháp
của nghĩa chữ đức lý theo chữ déontologie
Chữ đức lý được dùng dể
dịch các chữ tiếng Pháp déontologie, tiếng Anh
deontology, tiêng Đức deontologie, tiếng Ý
deontologia v.v...Ở đây, vì lý do tư liệu, chỉ có thể bàn
nhiều về chữ déontologie của Pháp mà thôi. Trong hạn chế
này, xin bàn về 3 nghĩa của chữ tiếng Pháp déontologie là
nghĩa gốc, nghĩa tổng quát và nghĩa riêng biệt liên quan tới nghề
luật sư. Theo một tự điển bách khoa về lý thuyết luật học thì một
người Anh, Jeremy Bentham (Biên Thẩm), đã đặt ra chữ deontology và
lấy chữ này làm tựa đề cho cuốn sách Deontology ông ta xuất bản
năm 1834. Theo Bentham thì deontology là khoa học về những gì được
coi là thích hợp đáng làm và phải làm. Nghĩa gốc này ngày nay
không còn thông dụng nữa. Và do hiện tượng trượt nghĩa, nội dung
của chữ déontologie đã chuyển dịch theo một hướng mới là
địa hạt kỷ luật trong các nghề nghiệp. Như déontologie của y sĩ
đoàn, của luật sư đoàn v.v...tức là chữ này mang một ngữ nghĩa
tổng quát chung cho nhiều
nghề nghiệp khác nhau. Ngữ nghĩa đó có một mẫu số chung có
thể diễn đạt như sau : « toàn bộ những nghĩa vụ mà một cá nhân
hành nghề phải tuân thủ trong khuôn khổ tập thể nghề nghiệp của
mình ». Vậy hai mấu chốt của ngữ nghĩa này là « nghĩa vụ »
và « nghề nghiệp ». Cần nói thêm rằng vì đức lý dựa vào hai
cột trụ nghĩa vụ và nghề nghiệp nên đặc tính của nó là, một mặt,
nó rất thực tiễn và, mặt khác, nó không nhất thiết phải phản ánh
các qui phạm của luật quốc gia vì quốc gia không trực tiếp chi
phối các hoạt động nghề nghiêp. Ít hay nhiều, các qui phạm của đức
lý đều mang dấu ấn của những « phường hội» ngày xưa và nghiệp đoàn
ngày nay. Và nhất là còn có ảnh hưởng của tác phong « phép vua
thua lệ làng » nữa. Vì có nhiều nghề nghiệp khác nhau nên mỗi
nghề, mỗi ngành đều có đức lý khác nhau. Đức lý của y sĩ đoàn
không thể giống như đức lý của luật sư đoàn. Nó phải tùy thuộc vào
sự hoạt động thực tế của mỗi nghề chưa kể có những trường hợp
trong đó một nghề cần tỏ ra phải độc lập đối với Nhà nước. Ở đây
chữ đức lý mang một ngữ nghĩa riêng biệt, hẹp hơn nghĩa tổng quát
và phải đi đôi với tên gọi của nghề nghiệp, thí dụ đức lý của nghề
luật sư. Và nó là nghĩa thứ ba của chữ đức lý khi chữ này đi kèm
với chữ luật sư.
2. Quá trình biến
đổi của đức lý của người luật sư
Sự thật, không phải ở
vào thời điểm bây giờ người luật sư mới xuất hiện. Thời xưa cũng
đã có bóng dáng người luật sư. Nhưng nếu căn cứ vào lịch sử luật
sư đoàn của nước Pháp thì 1920 mới là năm mà người luật sư hiện
đại ra đời. Trước đó, tuy danh xưng luật sư đã có rồi nhưng tên
gọi này chỉ là một danh hiệu thôi. Ai đã đậu bằng cử nhân luật
khoa mà có tuyên thệ đều có thể được gọi là luật sư dù không thực
sự hành nghề luật sư. Nhưng trong mọi trường hợp, luật sư dưới
thời Trung cổ ở nước Pháp là người trổ tài hùng biện để lấy tiếng
không phải để kiếm sống. Người ta coi luật sư như một nghệ sĩ, cãi
không đòi tiền thù lao, cãi vì công lý. Cuối thế kỷ 18, hoạt động
luật sư đã bị cuộc Cách mạng 1789 bãi bỏ nhưng đầu thế kỷ 19 đế
chế Napoléon đã phục hồi lại sinh hoạt này, tuy rằng Napoléon
chẳng ưa gì các luật sư mà ông muốn cắt lưỡi ! Mãi hơn một thế kỷ
sau, tháng 6 năm 1920, một nghị định mới được ban hành để chính
thức hóa hoạt động luật sư như một nghề nghiệp. Chỉ có những người
nào hành nghề mới được mang danh hiệu luật sư mà thôi.
Những biến chuyển nói
trên đã trực tiếp ảnh hưởng tới đức lý của người luật sư. Trong
những giai đoạn đầu, đức lý này chỉ gồm có những tục lệ không
thành văn. Luật sư phải là người bảo vệ cô nhi và quả phụ. Luật sư
phải thực sự độc lập đối với cường quyền. Luật sư phải không biết
sợ hãi để còn dám bênh vực lẽ phải bằng mọi giá v.v...Hình ảnh của
người luật sư ở Pháp thời cận đại là một người mà nghề nghiệp phải
đưa tới danh dự chứ không phải tới giàu sang phú quí. Luật sư dám
coi rẻ những hành vi trục lợi, phần lớn không khó nhọc và không
công phu, để tận hiến cho một nghề nghiệp dẫn tới danh dự cho
những ai đạt được thành công. Rõ ràng là một đức lý đầy màu sắc
quí tộc, trong khi Cách mạng 1789 đã nổ ra để xóa bỏ quí tộc.
Nhưng rồi thì đức lý
quí tộc ấy cũng đã bị thời gian làm hao mòn, nếu không muốn nói
làm tiêu vong. Từ vài thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, đức lý
quí tộc này đã được chuyển hóa thành đức lý dịch vụ. Luật sư những
năm 2000 là người cung cấp dịch vụ để đổi lấy lợi nhuận. Đức lý đã
không còn mang tính tục lệ nữa và chuyển sang mang hình thức thành
văn và nhằm cân bằng quyền lợi và nghĩa vụ ở mọi mặt. Tuy vậy,
đừng vội lầm tưởng rằng luật sư bây giờ đã biến thành những doanh
nhân. Chức năng xã hội đã buộc người luật sư phải có nhũng nét đặc
thù của một người vừa thục hiện quyền bào chữa vừa là biểu tượng
của quyền tự do bào chữa. Một xã hội vắng bóng luật sư hay chỉ có
những luật sư làm công cụ cho chính quyền là một xã hội trong đó
người dân không được hưởng quyền bào chữa để công lý được bảo đảm.
Hệ quả là luật sư không những phải tu dưỡng cá thể mà còn phải tổ
chức tập thể. Đức lý là toàn bộ những qui phạm làm nền tảng đồng
thời cũng là những con đê giữ vững cho nếp sống vừa cá thể vừa tập
thể này không bị tràn ngập. Khi nhân loại bước qua ngưỡng cửa của
thiên niên kỷ thứ ba thì quyền bào chữa đã được chinh thức công
nhận và luật hóa để nâng lên hàng một nhân quyền phổ quát trên
khắp thế giới. Đức lý của người luật sư chính là thứ gì giúp cho
người luật sư làm tròn được chức năng xã hội người hành sử và bảo
vệ quyền bào chữa này. Đức lý của luật sư là ngọn cờ bào chữa.
Trong phần II sẽ đi sâu thêm vào mặt thực tiễn của đức lý của
người luật sư.
3. Lịch sử đức lý
của người luật sư ở Việt Nam
Nghề luật sư đã được du
nhập vào Việt Nam từ thế kỷ trước khi Việt Nam còn ỡ trong vòng
Pháp thuộc. Nếu ở mẫu quốc năm 1920 người luật sư mới chính thức
xuất hiện thì ở Việt Nam không thể có bóng dáng người luật sư sớm
hơn thời điểm này được. Lẽ tự nhiên khởi đầu phải ở miền Nam, vùng
đất trong đó pháp luật của nước Pháp được trực tiếp áp dụng. Những
năm 30 đã lác đác có những người luật sư Việt Nam hành nghề tại
miền Nam. Và đương nhiên đức lý của người luật sư Việt Nam hành
nghề tại Việt Nam là đức lý của người luật sư hành nghề ở tại nước
Pháp, dù ở Saigon hay ở Hanoi. Sau cuộc đệ nhị thế chiến, người
Pháp trở lại một số thành phố ở Việt Nam, thì một hình thức luật
sư đoàn hỗn hợp Pháp Việt đã hoạt động bên cạnh những tòa án hỗn
hợp Pháp Việt, trên cơ sở Thỏa hiệp văn hóa 1949 ký kết giữa Pháp
và Việt Nam. Sau Hiệp định Genève 1954, tại miền Nam, đã được
thành lập hai luật sư đoàn hoàn toàn Việt Nam, một ở Huế, một ở
Saigon. Về cả hai mặt, cá thể cũng như tập thể, đức lý của người
luật sư Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu rộng của đức lý của người
luật sư Pháp. Với biến cố 1975, miền Nam mất làm mất luôn cả đoàn
thể luật sư đầu tiên này của Việt Nam. Cho đến khi bị bãi bỏ, đoàn
thể này có một đức lý thành văn và người ta có thể coi đó như là
đức lý đời thứ nhất của người luật sư Việt Nam. Những năm gần đây
bên cạnh hệ thống các tòa án nhân dân ở Việt Nam bóng dáng người
luật sư đã lác đác tái xuất hiện. Dường như một văn bản pháp lý
mới về hoạt động của luật sư đang ơ trong vòng thai nghén. Người
ta chờ đợi để coi xem thế hệ luật sư mới này sẽ chỉ có những
nghĩa vụ luận
義務論
của một cơ quan làm
chức năng bào chữa theo pháp chế xã hội chủ nghĩa hay một hệ thống
qui phạm đức lý mới sẽ ra đời để mở đường cho nhân quyền, dân chủ
chuyển hóa độc tài hội nhập vào văn minh nhân quyền phổ quát.
Thách đố này đang được đặt ra và còn phải đợi tương lai trả lời
(Xin đọc phần phụ lục để có khái niệm về nghề luật sư ở Việt Nam
hiện nay).
II. Đức lý của
người luật sư trong thực tế xã hội
Trong một tác phẩm nhiều người
viết, bàn về nghiệp vụ của luật sư - trong đó có sáu cựu Thủ
lãnh của sáu Luật sư đoàn tại Pháp là đồng tác giả - xuất bản năm
2002 tại Paris, người ta thấy có câu nói rằng luật sư ngày nay
« vừa là một người mới lại vừa là một người thừa kế ». Nhận định
này tuy để bàn về người luật sư hiện đang hoạt động ở Pháp nhưng
cũng có thể dùng để hình dung người luật sư Việt Nam, hiểu theo
nghĩa những người đã hành nghề trong những Luật sư đoàn trước 1975
hay những luật sư mà quy chế đang trong vòng được thiết lập trong
tương lai. Người luật sư này đã thừa hưởng hai di sản tinh thần.
Một, của lịch sử sáu thế kỷ hoạt động của các luật sư trên đất
Pháp và một nữa, của hai luật sư đoàn trước đây ở Huế và ở Saigon.
Hai di sản ấy gộp lại thành một truyền thống để lại cho các thế hệ
sau. Truyền thống để tiếp nối trong tinh thần tiến hóa nối trước,
mở sau (kế vãng khai lai). Nói cách khác, người luật sư thuộc thế
hệ thứ hai sắp chào đời, với quy chế mới để hành nghề ở Việt Nam,
có thể tìm thấy căn cước của mình qua những người đồng nghiệp
thuộc thế hệ thứ nhất, dĩ nhiên với những đổi mới và bổ sung do
hoàn cảnh mới của đất nước mang lại. Căn cước này vừa là một biểu
tượng của ngọn cờ bào chữa trong khái niệm trừu tượng về đức lý
luật sư, vừa là sự thể hiện cụ thể của khái niệm này trong thực tế
xã hội hiện tại, thực tế của những qui phạm chi phối hoạt động
nghề nghiệp của người luật sư trong khuôn khổ pháp luật quốc gia.
Bề dày lịch sử này là một chỗ dựa cho người luật sư Việt Nam, trải
qua các thời đại, có đủ bản lãnh làm tròn chức năng xã hội của
mình.
Nói qui phạm ở đây là nói những qui
tắc của đức lý của người luật sư, diễn đạt dưới hình thức trừu
tượng và tổng quát, mang tính nguyên tắc, và có hiệu lực cưỡng
hành. Để áp dụng, các qui phạm trừu tượng này đã được thể hiện
thành một hệ thống nghĩa vụ cụ thể mà người luật sư khi hành nghề
phải triệt để tôn trọng. Tất cả những nghĩa vụ họp lại thành cái
mà người ta gọi là kỷ luật nghề nghiệp. Khiếm khuyết trong sự tôn
trọng nghĩa vụ, sẽ phải chịu chế tài. Dưới đây sẽ bàn sơ lược về
ba loại nghĩa vụ cơ bản xuất phát từ đức lý của người luật sư ứng
dụng vào đời sống xã hội. Đó là nghĩa vụ đối với bản thân, nghĩa
vụ đối với tập thể nghề nghiệp và nghĩa vụ đối với Nhà nước. Trước
khi đi sâu vào tùng loại nghĩa vụ, xin nhấn mạnh ở hai điểm. Một
là người luật sư phải tôn trọng nghĩa vụ chẳng những trong phạm vi
nghề nghiệp mà còn ở cả ngòai đời sống hàng ngày, và, trong một
phạm vi nào đó, cả khi không còn hành nghề nữa. Hai là sự nghiêm
ngặt này là cái giá người luật sư phải trả để đổi lấy một quyền uy
đặc biệt chỉ người luật sư mới có trong xã hội, đó là quyền tự do
bào chữa.
1. Nghĩa vụ đối với bản thân
Nói người luật sư có nghĩa vụ đối
với bản thân là một điều khiên cưỡng. Thật ra, không có bản văn
nào qui định rằng người luật sư có những nghĩa vụ của đối với bản
thân. Nhưng điều làm cho đức lý luật sư khác với các đức lý khác
chính là ở chỗ đó. Một mặt, những nghĩa vụ này của người luật sư
vừa có tính chất luân lý lại vừa có tính chất pháp lý. Mặt khác,
người luật sư tôn trọng nghĩa vụ không phải vì sợ phạm kỷ luật mà
vì tự mình muốn ràng buộc mình thực thi nội dung nghĩa vụ, dưới sự
thúc đẩy của danh dự nghề nghiệp. Có thể nói người luật sư quan
tâm nhiều đến chuyện giữ lời thề hơn là chuyện kỷ luật. Thí dụ
người luật sư hành nghề tại Pháp thề trước tòa án rằng « Tôi
xin thề thi hành chức vụ luật sư của tôi trong phẩm cách, theo
lương tâm, với tinh thần độc lập, trung thực và nhân đạo ».
Lời thề này đã đặt ra cho người luật sư một loạt nghĩa vụ vừa luân
lý bao quát mọi hành vi trong cuộc sống và như một cựu Thủ lãnh
luật sư đoàn của Pháp đã nói, những nghĩa vụ không thời hạn. Thêm
vào đó nội qui của luật sư đoàn còn đòi hỏi mỗi thành viên luật sư
khi hành nghề phải thực hiện một số phẩm hạnh thiết yếu khác như
danh dự, trung thành, khéo léo, nhã nhặn, chừng mực, tế nhị, bất
vụ lợi, thân ái đồng nghiệp, tận tâm, chuyên chú, thận trọng và
khéo cư xử. Rèn luyện nhân cách như thế cũng vẫn chưa đủ, người
luật sư còn phải không ngừng bồi dưỡng tài năng. Mẫu người luật sư
hùng biện được ghi khắc trong ký ức tập thể từ thời Hy Lạp, La Mã
vir probus dicendi peritus (nghĩa là người tử tế biết ăn
nói) đã khiến cho người luật sư phải không ngừng trau dồi kiến
thức chuyên môn. Nói tóm lại, theo truyền thống của Luật sư đoàn ở
Pháp, để lãnh trọng trách của chức năng bào chữa, người luật sư
không thể thiếu phẩm hạnh tốt, tay nghề cao hay nói cách khác,
trong bản thân người luật sư đã được trang bị cái « đức » của một
bậc trượng phu mà hạnh vô úy và tài hùng biện là hai vũ khí được
vận dụng để bảo vệ công lý.
2. Nghĩa vụ đối với tập thể
nghề nghiệp
Nếu nói rằng người luật sư cần phải
là một sức mạnh để đóng vai trò « bào chữa » trong xã hội thì sức
mạnh này chỉ có thể tìm thấy nơi tập thể nghề nghiệp của những
người luật sư. Đó là bài học của lịch sử nghề luật sư trên thế
giới và nhất là ở nước Pháp. Những người luật sư Việt Nam trước
biến cố 1975 đã thấu hiểu được bài học này nên họ đã tạo được một
uy thế tinh thần đủ lớn để tồn tại thực sự độc lập đối với chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa. Sau biến cố 1975, một cựu Thủ lãnh Luật
sư đoàn Saigon, Luật sư Trần Văn Tuyên đã chết trong trại cải tạo.
Không ít luật sư của hai Luật sư đoàn Huế và Saigon đã bị giam giữ
trong loại nhà tù không tên này, có người tới hơi thở cuối cùng.
Và lịch sử luật sư đoàn ở Việt Nam đã sang trang. Hướng về tương
lai, khó có thể không nêu lên nghi vấn rằng nghề luật sư ở Việt
Nam có một quá khứ không ?
Với bước lùi của thời gian, bây giờ
người ta đã có thể bình thản và khách quan nhìn nhận rằng nghề
luật sư ở Việt Nam ra đời được trên nửa thế kỷ nay. Và người luật
sư Việt Nam đã xuất hiện cùng với tập thể nghề nghiệp của nó là
Luật sư đoàn. Đương nhiên trong lô gích giao tiếp văn hóa
(acculturation) nghề luật sư ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của Pháp,
nhưng đã chỉ để tạo ra một mô hình của quyền bào chữa được thể chế
hóa trong xã hội Việt Nam.
Cụm từ luật sư đoàn là tên gọi để
dich chữ tiếng Pháp, barreau hay chữ tiếng Anh, bar.
Trong các tòa án thời xưa ở Pháp và ở Anh có một khoảng cách, được
ngăn ra bằng rào cản, giữa chỗ ngồi của các quan tòa và chỗ đứng
dành riêng cho các luật sư. Do đó chữ barreau hay bar đã được dùng
để gọi tên các tập thể nghề nghiệp của luật sư.
Ở Pháp, các luật sư, đã được coi là
thực thụ hay còn đang tập sự, có tên trong danh biểu các luật sư
hành nghề trong quản hạt của một Tòa án Sơ thẩm, họp lại thành một
luật sư đòan tức là tập thể được công nhận có pháp nhân để tổ chức
cho các luật sư hoạt động nghề nghiệp. Số liệu thống kê năm 2002
cho biết có tất cả 181 luật sư đòan tại Pháp. Ở miền Nam Việt Nam
sau 1954, các luật sư đã hành nghề trong khuôn khổ của hai luật sư
đoàn được thành lập trong quản hạt hai Tòa Thượng Thẩm Huế và
Saigon. Điều đáng nói là luật sư đoàn ở miền Nam trước đây là sự
thể hiện của quyền tự trị của tập thể luật sư đối với chính quyền.
Quyền tự trị này là một bảo đảm cho sự độc lập của người luật sư
để hành sử quyền tự do bào chữa. Dĩ nhiên tự trị không phải là
hoàn toàn biệt lập đối với chính quyền, đứng ngoài pháp luật quốc
gia, mà là quy chế trong đó các luật sư tự mình quản trị sinh hoạt
tập thể của mình không có sự can thiệp của chính quyền. Luật sư
đoàn được đặt dưới quyền điều khiển của một Thủ lãnh và một Hội
đồng Luật sư do Đại hội đồng các luật sư bầu. Khi nghe thấy tên
gọi Thủ lãnh, người ta có thể liên tưởng tới hiwnh ảnh một lãnh tụ
tối cao có quyền sinh quyền sát đối với các đồng nghiệp. Nhưng
thật ra Thủ lãnh luật sư đoàn chỉ là một người đứng đầu trong
những người bình đẳng (primus inter pares) được các đồng nghiệp
suy tôn để giữ chức vụ này. Và quyền uy tinh thần của Thủ lãnh
luật sư đoàn là quyền uy của một chức vụ không phải của một cá
nhâh lãnh tụ. Vả lại Thủ lãnh theo quy chế luật sư đoàn đã thực sự
chia quyền điểu khiển tập thể với Hội đồng Luật sư. Pháp trị, dân
chủ và độc lập là ba nét đặc thù của sinh hoạt trong luật sư đoàn
ở Việt Nam trước đây.
Ở Mỹ, nhiệm vụ của luật sư có những
khác biệt với luật sư ở Pháp hay ở Việt Nam trước 1975 cũng như ở
Việt Nam bây giờ. Khác biệt vì phạm vi hoạt động và nội dung công
việc của các nước này khác nhau. Vì ở Mỹ luật liên bang và luật
tiểu bang khác nhau nên người luật sư có bằng hành nghề trong từng
tiểu bang, trừ những vụ tranh tụng về di trú tuy phải theo luật
liên bang nhưng luật sư hành nghề có bằng hành nghề ở bất cứ một
tiểu bang nào cũng có thể nhiệm cách. Trái lại, trong những vụ
tranh tụng thuộc sự chi phối của luật liên bang như gia đình, ly
hôn, luật, thừa kế v.v…thì quyền nhiệm cách của luật sư bị giới
hạn trong phạm vi tiểu bang. Về nội dung công việc của hai loại
hình luật sư này cũng không giống nhau . Trong hệ thống thông luật
(common law của Anh, Mỹ), hệ thống Đối Đầu (Adversary system), tố
tụng tiến hành theo thủ tục Cáo Tố (accusatory) nên người luật sư
phải đảm nhiệm việc điều tra (discovery) chứ không có dự thẩm
(juge d’instruction) đảm nhiệm như trong hệ thống dân luật (civil
code của Pháp) mà thủ tục tố tụng là Truy Cứu (inquisitorial). Vì
vậy công việc của luật sư trong hệ thống thông luật vất vả hơn
công việc của luật sư trong hệ thống dân luật. Về tổ chức, mỗi
tiểu bang Mỹ có một luật sư đoàn. Người luật sư Mỹ không bắt buộc
phải qua một thời kỳ tập sự, có thể ghi tên vào danh biểu Luật sư
đoàn ngay sau khi không bị rớt trong kỳ thi vào Bar (Luật sư
đoàn). Nhưng người luật sư Mỹ học lâu năm hơn người luật sư trong
hệ thống civil code : phải tốt nghiệp đại học 4 năm mới được ghi
tên học luật 3 năm để lấy bằng Tiến si luật JD (Juris Doctor),
trước đây gọi là Bachelor of Laws (LL.B), sau đổi thành JD để
tránh hiểu lầm là bằng cử nhân luật. Ngoài ra, để bổ khuyết cho
việc thiếu đào tạo về thực tập, các trường Luật ở Mỹ đều có một
tòa án giống như tòa án thật ở ngoài đời để cho sinh viện thực tập
kỹ thuật tranh luận dẫn khởi (cross examination) trong những vụ
kiện có tranh luận. Thêm nữa kỳ thi Bar ở Mỹ phải nói là rất khó,
thi viết hai ngày liên tiếp về đủ các môn. Co điều khi còn đi học,
ở trường Luật đã có các kỳ thi thử ngay từ năm thứ nhất nên tỷ lệ
đậu vào Bar thường rất cao. Sau hết, cũng cần nói là các quan tòa
ở Mỹ đều phải qua kỳ thi Bar mời được bổ nhiệm.
Về hình thức và phong cách, luật sư
Mỹ không mặc áo dài đen như quan tòa mà theo truyền thống thông
luật (common law) chỉ mặc thường phục. Lại nữa, người luật sư Mỹ
được tự do hơn trong vấn đề quảng cáo, trên báo cũng như trên TV.
Tát nhiên, Luật sư đoàn nào cũng có quy tắc hành nghề (Đức lý).
Bởi lẽ vì theo thủ tục tố tụng tố cáo (accusatory) trong hệ thống
Đối Đầu (adversary) nên phải tuân thủ những quy tắc tranh luận rất
chặt chẽ - thí dụ cấm đưa ra câu hỏi mớm lời cho nhân chứng
(leading questions) v.v… Nhưng chính vì hành nghế trong hệ thống
adversary nên nhiều khi luật sư cũng dễ đi đến chỗ khó phân biệt
đâu là đức lý hay nhu cầu điều tra, đâu là phương pháp đâu là thủ
đoạn. (Mu ốn t
ìm hi ểu th êm v ề hai h ệ th ống lu ật Civil Code và Common Law v
à đ ối chi ếu v ới Luật Việt Nam hiện hành, xin đọc Phạm Văn
Thuyết, Vietnam’s Legal Framework for Foreign Investment,
The International Lawyer (American Bar Association), Fall 1999;
Phạm Van Thuyết, Vietnam Legal Framework for Private Sector
Development in Transitional Economies : The Case of Vietnam,
Georgetown University Journal of Law and Policy in
Internetional Business, Vol. 27, spring 1996.
Người luật sư có
những nghĩa vụ gì đối với tập thể nghề nghiệp của mình ? Sự thật
người luật sư không bị ràng buộc bởi một nghĩa vụ pháp lý đặc biệt
nào đối với người Thủ lãnh cũng như đối với Hội đồng Luật sư mà
chỉ có những nghĩa vụ thực tế xuất phát từ nội qui do chính luật
sư đoàn thông qua. Vả lại luật sư đoàn chính là môi trường để thực
hành đức lý của người luật sư. Nhưng cuộc sống tập thể này đã tạo
ra những nghĩa vụ thực tế xung quanh một ý thức tập thể. người
luật sư phải tự động gắn bó với tập thể của mình, phải củng cố,
phát triển và bảo vệ nó. Để cho quyền tự do bào chữa đã thành một
định chế của xã hội có khả năng làm đối trọng với chính quyền hầu
ngăn cản không cho lạm quyền xâm phạm tự do, nhân phẩm của người
dân. Những nghĩa vụ của người luật sư đối với tập thể nghề nghiệp
của mình có thể tóm lại trong bốn chữ « tôn trọng kỷ luật » trong
tinh thần pháp trị biết tuân thủ những qui phạm do tập thể đặt ra,
có sự hỗ trợ của ý thức văn hóa nhân quyền, dân chủ, con người tự
nguyện tự chế không xâm phạm tới tự do, của cải, nhân phẩm, sinh
mạng của đồng loại.
3. Nghĩa vụ đối
với Nhà nước
Nhân loại đã bước qua
ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ ba mang theo trong hành trang quyền
tự do bào chữa đã được luật quốc tế thể chế hóa thành một nhân
quyền phổ quát. Cơn gió của thời đại thổi đến nhiều nơi giải phóng
luật sư thoát khỏi tình trạng phải chịu sự giám hộ của chính
quyền. Như ở Pháp dưới thời Hoàng đế Napoléon, đầu thế kỷ 19, muốn
được gia nhập luật sư đoàn để hành nghề, người luật sư đã phải thề
chịu tuân theo hiến pháp của đế chế, phải trung thành với Hoàng
đế, không được nói điều gì, viết điều gì trái ngược với luật pháp,
trái ngược với thuần phong mỹ tục, có hại cho an ninh Quốc gia và
hòa bình công cộng. Lời thề của người luật sư Pháp hiện nay đã chỉ
còn có những lời cam kết thiêng liêng giữ vững đức lý của người
luật sư mà thôi. « Tôi xin thề thi hành chức vụ luật sư của
tôi trong phẩm cách, theo lương tâm, với tinh thần độc lập, trung
thực và nhân đạo ».
Sự thay đổi này mang
ý nghĩa lịch sử đánh dấu bước tiến của loài người trong cuộc
trường chinh tranh thủ và hoàn mĩ nhân quyền. Sự tự trị của luật
sư đoàn đối với chính quyền là một chiến thắng con người đã gặt
hái được trong cuộc trường chinh ấy. Người luật sư của thời đại
văn minh bây giờ đã không còn phải thi hành nghĩa vụ làm công cụ
cho chính quyền. Người luật sư chỉ có nghĩa vụ phải thực thi đức
lý của chính nghề nghiệp mình, dĩ nhiên trong khuôn khổ của pháp
luật, nhưng phải là pháp luật dân chủ không phải là những qui phạm
phản dân chủ, phi nhân quyền. Tự trị, Luật sư đoàn không tìm vị
thế đương nhiên đối nghịch với chính quyền, chỉ quan tâm bố trí
cho mình đứng được trong tư thế tự trị của một chức năng phụ tá có
ý thức cho công lý thông qua tổ chức tư pháp. Hai kịch bản có thể
xảy ra. Hoặc những qui phạm của luật sư đòan được hội nhập vào
trong các qui phạm của pháp luật quốc gia và pháp luật quốc gia
chẳng những không can thiệp vào nội bộ của luật sư đoàn mà còn
chấp nhận cho luật sư đoàn có quyền lập qui trong phạm vi nghề
luật sư. Như vậy, luật sư đoàn vừa có quyền tự trị lại vừa có sự
chính thống pháp định. Hoặc những qui phạm của luật sư đoàn không
hội nhập được vào các qui phạm của pháp luật quốc gia. Trường hợp
này, luật sư đoàn có thể chỉ đứng trung lập đối với pháp luật quốc
gia hay cũng có thể đặt ra những qui phạm không đi theo chiều
hướng của qui phạm của pháp luật quốc gia. Tình trạng không bình
thường này sẽ đặt ra nhiều vấn đề mà để giải quyết phải tùy nhiều
yếu tố không còn nằm trong khuôn khổ nghề nghiệp của người luật
sư nữa.
Thay lời kết
luận
Kinh nghiệm cuối đời
của một người luật sư đã hành nghề trong lớp luật sư đời thứ nhất
ở Việt Nam là nghề luật sư cần phải có đức lý và những truyền
thống đức lý của luật sư đoàn Việt Nam đời thứ nhất đã là một lý
tưởng sống cao đẹp cho người luật sư Việt Nam dù người này đã chấm
dứt nghiệp vụ của mình./.
Trần
Thanh Hiệp
Phụ lục
Triển vọng hành nghề luật sư tại
Việt Nam
Một đạo luật về
luật sư và hành nghề luật sư, mang số 65/QH11 ngày 29 tháng 6 năm
2006 đã được ban hành tại Việt Nam. Bản văn này có 9 chương 94
điều nhằm quy định quy chế chính thức cho những người Việt và
người ngoại quốc được phép hành nghề luật sư trên đất Việt Nam.
Theo điều 93 thì kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2007, Luật này mới có hiệu lực thi hành. Trong cuộc trao đổi
sau đây với Luật sư Trần Thanh Hiệp, biên tập viên Nguyễn An của
Đài ACTD đã tìm hiểu để giới thiệu với thính giả những đặc điểm
của một bản văn pháp lý mà người ta chờ đợi từ giữa thập niên
1980. Ông Trần Thanh Hiệp đã hành nghề luật sư tại Sai Gòn từ giữa
thập niên 1950 và tại Paris trong thập niên 1990. Ông còn là cựu
thành viên Hội Đồng Luật sư của Luật sư đoàn Tòa Thượng thẩm Sài
Gòn.
RFA:
Trong
đợt cải tổ pháp luật gấp rút mới đây để tạo điều kiện cho Việt Nam
xã hội chủ nghĩa gia nhập Tổ chức thương mại thế giới , ngày
29-06-2006 quốc hội mới bầu của Hà Nội đã thông qua Luật số 6/QH11
quy đinh về luật sư và hành nghề luật sư tại Việt Nam. Trước khi
đi vào chi tiết để tìm hiểu bản văn này xin luật sư giới thiệu tóm
tắt bản văn ấy qua một vài nét chính.
TTH:
Luật số
65/QH11 ngày 29-06-2006 có tên gọi Luật luật sư quy định rất nhiều
vấn đề liên quan tới luật sư. Tôi xin sắp xếp thành ba nhóm vấn
đề. Thứ nhất nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hành nghề,
tiêu chuẩn, quyền, nghĩa vụ của luật sư. Thứ hai, tổ chức hành
nghề, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quản lý hành nghề luật sư. Thứ
ba, luật sư nước ngoài và hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư
nước ngoài tại Việt Nam. Đó là văn bản pháp lý đầu tiên chính thức
thiết lập quy chế hành nghề luật sư cho người Việt cũng như người
nước ngoài tại Việt Nam.
RFA:
Như vậy
phải chăng theo luật mới này người luật sư nước
ngoài cũng có quyền hành nghề tại Việt Nam như luật sư Việt Nam?
TTH:
Không
hẳn như vậy, được hành nghề không có nghĩa là có đủ
những quyền như người luật sư Việt Nam. Quyền và phạm vi hành nghề
của luật sư nước ngoài hẹp hơn quyền và phạm vi hành nghề của luật
sư Việt Nam. Tôi sẽ nói thêm về sự khác biệt này sau khi đã xem
xét về trường hợp luật sư Việt Nam.
RFA:
Theo
luật sư thì
dưới sự chi phối của luật số 65/QH11 có phải là người luật sư được
phép hành nghề dưới chế độ xã hội chủ nghĩa cũng giống như người
luật sư hành nghề trước năm 1975 không?Nếu khác thì khác ở những
điểm nào?
TTH:
Có ít
điều giống nhưng rất nhiều điều khác. Trên đại thể, hai loại luật
sư này có tên gọi giống nhau, có những tiêu chuẩn tuyển chọn gần
giống nhau, nghĩa là phải có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo
nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư v.v...Kỳ
dư, không có những sự tương đồng để đồng hóa hai loại luật sư
trước và sau 1975.
RFA:
Như vậy
là ít tương đồng mà nhiều tương dị.
Luật sư
có thể nói rõ thêm là khác ở những điểm nào và tại sao khác?
TTH:
Sự khác
biệt theo tôi là sự khác biệt về nội dung tức là trước hết về bản
chất. Trước 1975, người luật sư hành nghề tại Việt Nam là hiện
thân của quyền bào chữa, độc lập đối với chính quyền. Loại luật sư
này đã bị chế độ xã hội chủ nghĩa bãi bỏ hẳn trên hơn 10 năm, để
thay vào đó những người biện hộ sĩ trên danh nghĩa, nhưng trong
thực chất là công cụ của chế độ. Mãi cuối thập niên 1980, vì phải
giao thiệp, giao thương với nước ngoài nên nhà cầm quyền xã hội
chủ nghĩa mới từng bước cho lập trở lại nghề luật sư nhưng vẫn tìm
đủ cách duy trì nó dưới sự giám hộ chặt chẽ của mình để gia thuộc
hóa nó. Nhưng vì môi trường mở cửa đón nhận tư bản đòi hỏi phải có
một đội ngũ luật sư ngang tầm với tiêu chuẩn quốc tê, Hà Nội đã
phải ra pháp lệnh đặt nền móng cho một cơ cấu giống như luật sư
đoàn ở các nước tư bản. Đó là lý do Luật 65/QH11 đã khai sinh ra
một loại hình luật sư hoàn toàn khác hẳn loại hình luật sư trước
1975 ở Việt Nam.
RFA:
Trong
Luật 65 QH/11
người ta thấy có những đặc trưng của loại hình luật sư
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xin luật sư vui lòng phân tích những
điểm đó
TTH:
Một mặt
tuy cũng có luật sư đoàn riêng ở địa phương, luật sư đoàn chung
cho cả nước nhưng tổ chức này không có quyền độc lập đối vớichính
quyền vì bị ràng buộc chặt chẽ ở mọi cấp độ với chế độ. Do đó mà
điều 6 của luật này định rằng “quản lý hành nghề luật sư được thực
hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò
tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư” tức là nghề
luật sư do Nhà nước quản lý. Lại nữa, chiếu điều 10, phải là “công
dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật” tức là tùng phục chế độ về mọi mặt mới được coi là có đủ
tiêu chuẩn để làm luật sư, chiếu điều 3, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy
định chương trình khung đào tạo nghề luật sư, quy định về cơ sở
đào tạo nghề luật sư, chiếu điều 17, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp
Chứng chỉ hành nghề luật sư. Mặt khác, áp dụng điều 52, người luật
sư dưới chế độ xã hôi chủ nghĩa Việt Nam phải “chấp hành các yêu
cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra,
thanh tra” và theo điều 9 thì không được “lợi dụng việc hành nghề
luật sư, danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi
ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân”. Với cách giải thích độc đoán một chiều, ngăn cấm này đã
triệt tiêu hết khả thế độc lập của người luật sư của chế độ Hà
Nội. Nói tóm lại, loại hình luật sư này là những người lao động,
hay những doanh nhân, chuyên gia cung cấp dịch vụ pháp lý thỏa mãn
nhu cầu trao đổi kinh tế trong xã hội, những dịch vụ không thể
thiếu như tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng
v.v...Người luật sư có truyền thống độc lập tự do dưới ngọn cờ
quyền bào chữa \thiêng liêng trước 1975 đã bị chôn vùi. Công lý
tại Việt Nam dù mới có thêm các luật sư đoàn vẫn chỉ là công lý
một chiều.
RFA:
Còn về
các luật sư nước ngoài thì sao?
TTH:
Người
luật sư nước ngoài muốn hành nghề tại Việt Nam phải
tôn trọng Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Việc hành nghề này ngoài ra chỉ giới hạn trong
việc được thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác.
Luật sư nước ngoài không được tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
trước cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam. Phải nhờ luật sư
Việt Nam trong tổ chức hành nghề của mình tư vấn pháp luật Việt
Nam, tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cho khách hàng trước Toà án
Việt Nam đối với các vụ, việc mà chi nhánh, công ty luật nước
ngoài thực hiện tư vấn pháp luật, trừ vụ án hình sự.
RFA:
Một quy
chế luật sư và những cơ cấu hành nghề luật sư thiếu độc lập như
vậy liệu có được quốc tế nhìn nhận không?
TTH:
Thật ra trên nguyên
tắc không bắt buộc phải có sự nhìn nhận quốc tế. Đây là vấn đề
bảo đảm nhân quyền, công lý là vấn đề văn minh. Nhìn kỹ vào Luật
luật sư mới được ban hành, người ta nhận thấy ngay rằng nhà cầm
quyền Hà Nội chỉ chú trọng tạo điều kiện và một môi trường để các
luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam hơn là tái lập trên đất
nước mình những truyền thống cao đẹp cùa quyền biện hộ đã từng
hiện hữu ở Việt Nam trên gần một thế kỷ.
RFA:
Xin cảm ơn luật sư Hiệp.