Hợp chủng quốc
Hoa kỳ (hay Hoa kỳ - United States of America) hiển nhiên là cường
quốc giàu mạnh nhất trong thế giới ngày nay và chắc chắn là quê
hương mà nhiều người mơ ước có cơ hội tìm đến lập nghiệp. Mặc dầu
không hoàn toàn đồng ý với nhau trên mọi vấn đề nhưng ai ai cũng
có thể tìm thấy ở đây một lãnh vực hoạt động và những điều kiện
thích đáng để thực hiện giấc mơ của mình. Với một lãnh thổ rộng
lớn, Hoa kỳ là sự thống nhất của một số các lãnh thổ bên ngoài lục
địa Bắc Mỹ châu (Porto-Rico (từ năm 1898 và là một Hội viên tự do
của Hoa kỳ từ năm 1952), các đảo Vierges, quần đảo Đông Samoa (từ
năm 1899), Guam (1899), vùng kênh đào Panama (1904)), 50 lânh thổ
(Tiểu bang) tự trị và Quận Liên bang Colombia (Thủ đô Liên bang).
Khởi đầu, Hợp chủng quốc Hoa kỳ được thành lập năm 1776 vớj 13
lãnh thổ thuộc địa của Anh quốc ở Bắc Mỹ châu, ly khai khỏi Đế
quốc Anh để dành quyền tự trị, làm căn bản xây dựng và bành trướng
lãnh thổ, tạo nên Liên bang Hoa kỳ ngày nay.
Trên phương
diện chính trị, Hoa kỳ là Quốc gia đầu tiên trong thề giới hiện
đại, xây dựng Dân chủ, với một Văn bản Hiến pháp tương đối đơn
giản, qui định các nguyên tắc căn bản xây dựng guồng máy hành xử
Quyền lực Nhà nước, được bổ túc trên một số chi tiết 27 lần trong
gần ba thế kỷ và được áp dụng hầu như không thay đổi cơ bản cho
đến ngày nay. Bài viết này đặt mục tiêu tìm hiểu quá trình thành
lập và bành trướng lãnh thổ, trước khi tìm hiểu một cách cụ thể
chế độ chính trị hiện nay của Hoa kỳ. Bài viết sẽ được giới hạn,
trong khoảng thời gian cho đến cuối thế kỷ XIX khi lãnh thổ Hoa kỳ
đạt được mức bành trường (gần như) tối đa hiện nay, khi Hoa ky bắt
đầu thực hiện cuộc Cách mạng kỹ nghệ và khi Hoa kỳ đi vào bước đầu
của thời ky mới: Xây dựng một Đế quốc Tư bản trên bình diện toàn
cầu như hiện nay.
I. Nguồn
gốc của Hợp chủng quốc Hoa kỳ.
I.1. Sự
phân chia ảnh hưởng của các cường quốc Âu châu trước thế kỷ XVII.
Sự thành lập
của Hoa kỳ gắn liền với công cuộc chinh phục và khai thác những
miền đất mới của các cường quốc Âu châu.
Vào thế kỷ XII,
với các đô thị thương nghiệp Venise, Gênes, Pise, Milan,
Florence,... nước Ý là trung tâm trong việc phân phối các sản phẩm
từ các xứ Đông phương, qua trung gian các đô thị Constantinople,
Antioche, Alexandrie,... Các cường quốc khác Âu châu, muốn thoát
khỏi sự độc quyền của Ý, phải đi tìm con đường lưu thông mới và tổ
chức lại nền ngoại thương của mình qua hình thức của các công ty
rộng lớn.
Từ thế kỷ
XIV, Bồ đào nha là quốc gia tiền phong khởi sự cuộc tranh đua với
Ý. Với Nhà hàng hải Henri (1394-1460), con của vua Jean I, Bồ đào
nha mạo hiểm tìm đường đi về phía Nam, dọc theo bờ biển Phi châu,
khám phá ra vàng, khai thác thị trường nô lệ Phi châu rồi từ đó đi
về phía Đông. Năm 1487, Bartolomeu Dias khám phá ra Ấn độ dương và
Vasco de Gama tìm ra đường đi Ấn độ. Dọc theo con đường mới, Bồ
đáo nha thành lập khắp nơi các cơ sở thương mãi. Lisbonne trở
thành trung tâm phân phối ở Âu châu các sản phẩm Đông phương và
xây dựng một Đế quốc rộng lớn.
Bị Bồ đáo
nha cản trở trên con đường mới, các quốc gia phát triển khác phải
tìm một con đường khác để chinh phục các xứ Đông phương: Trung
quốc và Nhật bản. Sau khi thoát khỏi sự thống trị của người Hồi
giáo, Vua Tây ban nha Ferdinand, được Christophe Colombe thuyết
phục, mạo hiểm đi về hướng Tây để tìm các xứ Đông phương. Colombe
thực hiện được bốn cuộc du hành. Lần thứ nhất (3/8/1492-3/1493),
cập bến Mỹ châu ngày 12/10/1492 ở đảo Bahamas trong biển Antilles,
khám phá ra Cuba, Haiti. Lần thứ hai (1493-1496), khám phá được
Dominique, Guadeloupe, Porto Rico, Jamaique. Cuộc mạo hiểm lần thứ
ba (1498) tìm được Trinité và đạt tới lục địa Nam Mỹ. Lần thứ tư
(1502-1504) khám phá ra Honduras và miền Trung Mỹ... Một thế kỷ
sau các cuộc mạo hiểm này, Tây ban nha xây dựng được một Đế quốc
rộng lớn gìàu mạnh, khai thác cả một vùng đất bao gồm toàn bộ (trừ
ra xứ Brésil, dành cho Bồ đáo nha, theo Hiệp ước Tordesillas,
1494) dọc theo bờ biển Đại tây dương ở Nam Mỹ, miền Trung Mỹ,
Mexico và cả các lãnh thổ hiện nay của Hoa kỳ, từ Florida cho tới
New Mexico, California, kể cả Arkansas, Alabama, Texas. Trên các
lãnh thổ mới, Tây ban nha tìm được nguồn nhân lực lao động trong
các thổ dân bản xứ để khai thác các hầm mỏ, nông trại trồng thuốc
lá, đường,.. và, khi gặp phải sự chống đối, không ngần ngại dùng
cách đối xử như là những nô lệ....
Trước ưu thế
của Tây ban nha và Bồ đáo nha, các cường quốc đương thời khác Anh,
Pháp, Hoà lan,... bắt buộc phải đi xa hơn nữa về hướng Bắc. Ở Anh
, Henry VII mở đầu triều đại Tudor, thực hiện một sự thay đổi xã
hội, dựa trên tầng lớp trưởng giả thương gia giàu có, đưa nước Anh
ra khỏi chế độ Lãnh chúa, dần dần đưa Anh quốc lên hàng một cường
quốc tư bản hiện đại. Cho đến cuối thế kỷ XVI, Anh quốc chỉ đặt
trọng tâm váo việc đánh phá, chiếm đoạt các kho tàng của các
thương thuyền Tây ban nha. Năm 1497, Henry VII tài trợ cho
Giovanni Caboto (người Ý) cầm đầu một đoàn thám hiểm, đi khám phá
dọc theo bờ biển Terre Neuve (Newfoundland) và Nouvelle Écosse
(Nova Scotia) nhưng không đủ sức tiếp tục khai thác miền đất mới,
nhất là từ sau cuộc Cải cách Tin lành bắt đầu từ 1534 khi Henry
VIII thành lập Giáo hội Anh, ly khai với Giáo hội La Mã, làm gia
tăng tình trạng nghèo đói và bất ổn ở khắp nơi,..
Năm 1524, Vua
nước Pháp François I tài trợ một đoàn thám hiểm do Verrazano
(người Ý) hướng dẫn, tìm đường đi xứ Cathay (Trung quốc), dọc theo
bờ biển Bắc Mỹ, khám phá ra Hudson rồi trở về lưu lại trong vịnh
New York, sau đó bị giết trong một cuộc thám hiểm trong quần đảo
Antilles năm 1526. Tiếp tục dự án này, Jacques Cartier thực hiện
ba cuộc thám hiểm khác: Lần đầu năm 1534, cũng không tìm ra đường
đi Trung quốc. Lần thứ hai (1535-1536), theo vùng Saint Laurent
(Chemin du Canada) khám phá vùng rộng lớn Nouvelle France, từ
Stadaconé (Québec) tới Hochelaga (Montréal) và tìm được đường đi
váo lục địa Bắc Mỹ. Cartier trở lại Canada năm 1541 rồi tạm ngừng
dự án vì chiến tranh tôn giáo. Nước Pháp chỉ trở lại khai thác
lãnh thổ mới dưới thời Henri IV: Samuel De Champlain trở lại
Nouvelle France (1603), Acadie (hiện nay là Nova Scotia và một
phần của New Brunswick), New England (1604-1607) và năm 1608 thành
lập Québec. Năm 1615-1616, Champlain khám phá vùng các hồ lớn
trong nội địa và thuyết phục được Louis XIII xây dựng cơ sở khai
thác lâu dài các vùng đất mới đến tận Cap Cod ở phía Nam. Trong
khi đó, Hòa lan thì kiểm soát được việc khai thác ngành da thú dọc
theo sông Hudson. Năm 1643, Louis XIV sáp nhập Canada vào lãnh thổ
của Pháp và, trong khoảng thời gian 1672-1682, khai thác vào trong
nội địa một vùng rộng lớn cho đến tận cửa sông Mississippi.
I.2. Sự
xây dựng của các lãnh thổ thuộc đia Anh ở Bắc Mỹ châu.
I.2.1.
Nguyên nhân của phong trào di dân từ Anh quốc.
Với cuộc Cải
cách Tin lành, Anh quốc đi vào một cuộc tranh chấp nội bộ trầm
trọng. Năm 1553, Mary Tudor, lên ngôi tìm cách phục hồi Giáo hội
Thiên chúa cũng chỉ làm tăng tình trạng chia rẽ nội bộ. Khi Mary
qua đời năm 1558, với sự hậu thuẫn với khuynh hướng Tin lành đang
chiếm đa số ở Nghị viện, Elisabeth Tudor được tuyên bố là người kế
vì chính thức, Giáo hội Tin lành được phục hồi nhưng cũng không
thỏa mãn được khuynh hướng cấp iiến. Anh quốc đi vào thời kỳ
tranh chấp nội bộ giữa ba khuynh hướng: Thiên chúa giáo (đa số và
muốn trở lại với Giáo hội La Mã), Anh giáo Tin lành (ôn hòa, đang
thừa hưởng các đặc quyền kinh tế và đứng về phía Vương quyền) và
Tin lành cấp tiến Puritans (đòi hỏi các cải cách sâu rộng, cho
rằng các cải cách đang thực hiện còn quá gần với Giáo hội Thiên
chúa). Trong thực tế, Elisabeth thẳng tay trừng trị mọi chống đối
về chính trị cũng như về tôn giáo, làm gia tăng ý chí và số lượng
những thành phần muốn rời bỏ Anh quốc tìm nơi định cư trong các
lãnh thổ mới. Vì vậy công cuộc mạo hiểm đi tìm các lãnh thổ mới
của Anh còn được phát triển trên một qui mô rộng lớn phục vụ cho
một phong trào di dân, tìm quê hương định cư vĩnh viễn cho các
cộng đồng đông đảo, bao gồm các thành phần đối lập chính trị, bất
mãn kinh tế, chống đối tôn giáo,... đang bị đàn áp và ngược đãi ở
Anh.
Ngay từ đầu, đối với chính quyền Anh, việc xây dựng các lãnh thổ
thuộc địa chỉ nhắm vào mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận và được tổ chức
một cách chặt chẽ. Việc quản trị trong mỗi lãnh thổ được qui định
bằng một Hiến ước (Qui chế), phù hợp với luật pháp hiện hành trong
Vương quốc và được Nhà Vua chấp nhận. Trên nguyên tắc, tất cả lãnh
thổ mới đều thuộc quyền sở hữu của Nhà Vua nhưng mỗi lãnh thổ được
hưởng các qui chế tự trị rộng rãi, bảo đãm cho người dân những
quyền như những công dân tự do ở Anh..
Nhân vật chính yếu của mỗi lãnh thổ là vị Thống đốc, đại diện
Chính quyền Trung ương, nắm quyền Hành pháp và thường nhận chỉ thị
của Nhà Vua qua Phòng Thương nghiệp. Thống đốc cai trị lãnh thổ
với sự trợ giúp của một Hội đồng Cố vấn (Thượng viện địa phương),
đại diện cho các Đại Gia đình và do Thống đốc chỉ định. Quyền Lập
pháp xuất phát từ Nghị viện địa phương, gồm có Thượng viện và một
cơ quan dân cử Hạ viện. Thống đốc triệu tập, giải tán Nghị viện,
có quyền phủ quyết các Luật do Nghị viện đưa ra và thường dùng
quân đội để làm áp lực.
I.2.2. Các lãnh thổ thuộc địa Anh trong thế kỷy XVII.
Năm 1606, Công ty Virginia được James I cho phép
khai thác một vùng đất rộng lớn từ New York cho đến North
Carolina. Năm 1607, cơ sở đầu tiên của công ty được thành lập ở
Jamestown, trong vịnh Chesapeake. Cho đến năm 1610 Jamestown đã
định cư được 1200 người và khả năng canh tác cây thuốc lá đòi hỏi
phải gia tăng số lượng người di dân. Chương trình định cư được
khuyến khích với một chính sách ưu đãi quyền tư hữu (1617,
Quyền Đầu người - Headright) theo đó mỗi người đi định cư (hay
tổ chức chuyên chở họ) được cấp phát 50 mẫu đất. Năm 1619 Hạ viện
Virginia được thành lập. Trong thời gian 1619-1624, số người định
cư gia tăng thêm 4500 người. Áp dụng chính sách kỳ thị chủng tộc,
dân bản xứ ngày càng bị đẩy lùi váo xa trong nội địa, đưa đến
chiến tranh và công ty Virginia gần như bị phá sản. Năm 1624 James
I lợi dụng cơ hội đặt Virginia dưới Qui chế Vương quyền (Colonie
royale) theo đó Thống đốc được Nhà Vua bổ nhiệm để hành xử
quyền Hành pháp và Hạ Viện đãm nhận quyền Lập pháp. Anh giáo được
thành lập trên lãnh thổ. Năm 1640, Virginia đạt tới 10000 người
định cư mới, trong khi 20000 dân bản xứ Algonquin sinh sống trong
vùng Jamestown trước đây chỉ còn lại khoảng 2000 người. Nền kinh
tế trong vịnh Chesapeak phát triển trên căn bản các nông trại
trồng thuốc lá.
Bên cạnh
Virginia, Maryland cũng được thành lập từ năm 1634
trên mô hình kinh tế tương tự nhưng theo Qui chế Nghiệp chủ
(Colonie de propriétaire): Năm 1632, Charles I chuyển
nhượng cho Cecilius Calvert (trong Hoàng gia và theo Thiên chúa
giáo) một lãnh thổ trên 10 triệu mẫu đất ở phía bắc vịnh
Chesapeak. Hiến ước 1632 qui định Calvert là chủ nhân của lãnh
thổ, có quyền bổ nhiệm Thống đốc và các chức sắc chính trị, tổ
chức giáo hội, bổ nhiệm các Mục sư,...và việc cai trị phải được
thực hiện với sự đồng tình của các người dân tự do. Nhờ đó
Maryland trở thành nơi tỵ nạn quan trọng của các tín đồ Thiên chúa
giáo. Đất đai được phân chia trước tiên cho các Đại địa chủ, phần
đông là tín đồ Thiên chúa giáo, dưới hình thức các nông trại lớn,
cở từ 1000 đến 3000 mẫu, rồi sau đó được phân phát cho các dân
định cư. Năm 1638, quyền Lập pháp được giao cho Nghị viện, gồm có
hai bộ phận: Hạ viện (đại diện cho tầng lớp người di dân bình
thường) và Thượng viện (đại diện giới Đại địa chủ). Năm 1649 Lụât
Khoan dung được ban hành, thiết lập quyền tự do tín ngưỡng và năm
1670 dân số Maryland lên đến 15000 người.
Năm 1620, tàu
Mayflower (thuộc một chi nhánh của Công ty Virginia) cập bến ở
Plymouth, mang theo một nhóm Tin lành Puritans, gốc ở làng Scrooby
(Yorkshire), tìm nơi định cư để có thể tự do thực hành tôn giáo
của mình,... khởi đầu cho việc di dân đến tiểu bang
Massachusetts ngày.nay. Đây là một vùng đất ở ngoài lãnh
thổ đã được James I đã qui định cho Công ty Virginia, nên nhóm này
ký kết một Giao ước cùng nhau xây dựng một quê hương mới. Khế ước
này được xem như là bản Hiến pháp đầu tiên của miền Bắc Mỹ. Không
như ở Virginia và Maryland, công cuộc định cư được diễn ra trong
những điều kiện thiên nhiên bất lợi.
Năm 1629, Công
ty vịnh Massachusetts, do một nhóm thương gia giàu có thuộc khuynh
huớng Puritans làm chủ, được Charles I cho phép thực hiện một dự
án thương mãi. Lợi dụng cơ hội, Công ty thực hiện một chương trình
định cư qui mô. Năm 1630, dưới sự chỉ huy của Wintrhop, 900 thành
viên Puritans được trang bị với đầy đủ khí giới, đổ bộ váo vịnh
Massachusetts với mục tiêu thành lập Giáo hội Tin lành Puritans.
Trong thời kỳ 1629 -1643, đã đón nhận được 20000 dân định cư đến
vùng Boston, đa số theo Puritans. Phần còn lại thuộc thành phần
nông dân, thợ tiểu công nghiệp và lao động khế ước,... cùng gia
đình đi tránh sự nghèo đói bần cùng ở Anh. Trên lãnh thổ
Massachusetts, lợi dụng các sơ hở của Hiến ước 1629, Winthrop liền
thay đổi trụ sở và biến Công ty thành một chính quyền dân sự theo
Qui chế Tự trị (Colonie autonome). Tư cách Người
dân tự do và quyền bầu cử, ứng cử được công nhận cho mọi chủ
gia đình (phái nam) thuộc Giáo hội Puritans. Thống đốc do Nghị
viện của lãnh thổ bầu ra và phải được Nhà Vua chấp thuận.
Tin tưởng váo
sự đồng nhất về tôn giáo, Winthrop được bầu làm Thống đốc và, cùng
với một thiểu số Puritans, cai trị một cách độc đoán. Các sắc tộc
bản xứ Amérindiens được xem là những kẻ ngoại giáo, kém văn
minh,... cần phải tiêu diệt và xâm chiếm lãnh thổ. Trên phương
diện hành chánh, lãnh thổ mới được chia thành một hệ thống các
Thị trấn (Townships), mỗi thị trấn là một vùng đất (6 dặm)x(6
dặm) = 36 dặm vuông, để định cư từng nhóm dân. Người Puritans cho
rằng sự bất bình đẳng về kinh tế là một lẽ tự nhiên và xã hội là
một hệ thống đẳng cấp rõ rệt nên đất đai được phân chia, không
theo nguyên tắc đồng đều (Headright) như ở Virginia mà tùy theo
khả năng (và ảnh hưởng) của mỗi cá nhân. Tuy nhiên quyền sở hữu về
đất đai vẫn được nhiều người thụ hưởng hơn ở Virginia. Các chủ gia
đình Puritans tham gia vào việc quản trị thị trấn, quản lý hành
chánh địa phương, kiểm soát Giáo hội, lựa chọn các Mục sư, cử đại
diện vào Hạ viện,...
Chính sách cứng
rắn về tôn giáo và phản dân chủ, kỳ thị nữ phái,... mau chóng đưa
Massachusetts đến các tranh chấp nội bộ. Năm 1635, Mục sư Roger
Williams, chủ trương tách rời tôn giáo với chính quyền và phản đối
chính sách kỳ thị đối với người bản xứ,... ly khai thành lập lãnh
thổ Rhode Island và được Nghị viện Anh, đa số thuộc
khuynh hướng Puritans, hợp thức hóa vào năm 1644. với Qui
chế Tự trị. Năm 1662, một nhóm ly khai khác, do Thomas Hooker cầm
đầu, đưa tới việc thành lập lãnh thổ Connecticut, và
được Charles II chấp nhận với Qui chế Tự trị.
Mở đầu Thời
Phục hưng của Triều đại Stewart, Charles II cho thành lập một số
các lãnh thổ khác, một hình thức để gia tăng các lợi tức cho Nhà
Vua, đồng thời để trả các các món nợ chính trịi đã giúp
Charles II khôi phục lại Vương quyền. Năm 1663, Carolina được
thành lập và được chia thành hai lãnh thổ riêng biệt năm 1664:
North Carolina đón nhận các người di dân đến từ
Virginia, trong khi đó South Carolina phần lớn nhận
các dân nô lệ đến từ đảo Barbade và một số tín đồ Tin lành gốc
Pháp.
Quận công York,
em của Charles II, được thừa hưởng lãnh thổ rộng lớn New
York mới dành được từ tay người Hòa lan năm 1664, đồng
thời với đảo Manhanttan. Trên vùng đất rộng lớn này, York nhượng
một phần cho các nhà Quí tộc khác để thành lập các lãnh thổ
Delaware và New Jersey với Qui chế Nghiệp
chủ
Năm 1681,
Charles II cho phép William Penn quản trị một lãnh thổ lớn ở phía
tây Delaware. Lãnh thổ Pennsylvania được thành lập
với qui chế Nghiệp chủ và là một thành công lớn, Penn thực hiện
chính sách tự do tôn giáo, chính trị ôn hòa, thương thuyết với dân
bản xứ để mua đất hoạch định chương trình định cư. Việc di dân vào
Pennsylvania được chuẩn bị chu đáo, quảng cáo rộng rãi ở Anh và
Đức. Trong thập niên đầu tiên lãnh thổ đã đón nhận được 10000 dân
định cư và Philadelphia trở thành một hải cảng lớn nhất trong các
lãnh thổ thuộc địa Anh. Chủ yếu Pennsylvania phát triển về chăn
nuôi gia súc và trồng trọt ngũ cốc.
Lên ngôi năm
1685, James II (Quận công York, Vua cuối cùng ổ Anh theo Thiên
chúa giáo) muốn xét lại qui chế các vùng dưới quyền kiểm soát của
khuynh hướng Puritans, bao gồm cả một vùng rộng lớn từ Maine, New
Hampshire,... cho đến New York. Với Cách mạng 1688-1690, William
lên ngôi buộc phải từ bỏ dự án nhưng lợi dụng cơ hội bất ổn này để
đặt các lãnh thổ Massachusetts, New York và Maryland dưới Qui chế
Vương quyền. Lãnh thổ cuối cùng Georgia, được thành
lập năm 1732, dưới thời George II, với Qui chế Vương quyền, muốn
đón nhận tầng lớp người nghèo khổ ở Anh nhưng không được phát
triển mau chóng như ở các lãnh thổ khác vì tiếp cận với lãnh thổ
Florida, dưới quyền kiểm soát của Tây ban nha.
I.2.3.Thị
trường lao động và Chế độ Nô lệ.
Việc định cư
trên các lãnh thổ mới được thực hiện trong những điều kiện khó
khăn. Trước tiên, các phí tổn chuyên chở dân từ Anh cũng như để
trang bị xây dựng tại chỗ rất là tốn kém, trong khi đó hầu hết các
ứng viên di dân lại không có phương tiện. Gần như 3/4 số người di
dân (đa số trẻ tuổi và thuộc phái nam, 5 nam 1 nữ) phải đi qua
giải pháp Khế ước lao động (Indentured servants),
tìm kiếm các tổ chức hay các chủ nông trại để được chuyên chở từ
Anh. Họ chấp nhận, khi tới nơi, lao động cho các chủ nhân trong
một thời gian để trả nợ, trung bình khoảng từ 2 đến 7 năm (đối với
trẻ con và các cựu tù nhân, thời gian trả nợ thường lâu hơn), sinh
sống trong ở những vùng xa xôi, làm việc trong những điều kiện sơ
khai,... và phải nhường quyền Headright cho người chủ của mình.
Lợi dụng điều này, giới chủ nhân nới rộng mau chóng cơ sở, tạo ra
những nông trại rộng lớn. Trong thế kỷ XVII, có ít nhất 200000
người Anh đi định cư trong những điều kiện này. Trung bình có
chừng 60% thực hịện được đúng kỳ hạn giao ước (trước khi qua đời)
để rồi tiếp tục đi tìm nơi lập nghiệp trên những vùng đất mới
trong những vùng xa xôi hơn trong nội địa...
Người nô lệ da
đen Phi châu đã được đưa đến Jamestown từ năm 1619 để cung cấp cho
thị trường lao động nhưng ban đầu ít được sữ dụng vì chưa có một
qui chế náo về họ và gía mua bán một người da đen còn cao hơn việc
sử dụng người lao động khế ước da trắng. Với việc cải hóa tôn
giáo, người da đen còn có thể trở thành tự do như một công dân Anh
và bộ Luật Phổ thông (Common Law) chưa đề cập tới khái niệm
quyền tư hữu của một người trên một người khác.
Kể từ thập niên
1660, thị trường thuốc lá bị khủng hoảng vì sản xuất thặng dư, số
người lao động khế ước sút giảm vì thấy tương lai xa mờ,.. trong
khi gía của người nô lệ ngày càng giảm. Để duy trì sự phát triển
trong các nông trại rộng lớn, giải pháp là sử dụng sức lao động
của người nô lệ. Qui chế Nô lệ (Code d' Esclavage)
được hình thành mau chóng ở Virginia: Người da đen được xem là
nô lệ tôi đầy suốt đời, không được quyền mang khí giới và phục vụ
trong các cơ quan bảo vệ an ninh, không có quyền tư hữu, không
được quyền hưởng thụ các lợi ích của nền giáo dục, không được làm
chứng trước các tòa án và đòi hỏi công lý giải quyết các tranh
chấp xã hội,... Da đen là tượng trưng cho tầng lớp thấp hèn vĩnh
viễn và có hiệu lực di truyền.. Các liên hệ tình ái Đen - Trắng bị
ngăn cấm. Năm 1705, một sắc luật ở Virginia còn xác định rõ mọi
người tôi tớ khi tới Virginia mà không phải là người công giáo
tại quê hương cũ đều bị xem là nô lệ... Qui chế này được xem
như là một mẫu mực chung và sau đó được áp dụng ở các lãnh thổ
khác. Vào đầu thế kỷ XVIII, ở Virginia và Maryland, đã có khoảng
20000 người nô lệ và việc khai thác người nô lệ đang được phát
triển trong các lãnh thổ khác, nhất là ở các tiểu bang miền Nam.
I.2.4. Sự
phát triển các lãnh thổ thuộc địa trong thế kỷ XVIII.
Tính đến cuối
thế kỷ XVII, Anh quốc đã thực hiện được một chương trình định cư
vào khoảng 250000 người trên 13 lãnh thổ, với những mục tiêu khác
nhau, với những thành phần sắc tộc khác nhau và có những quyền lợi
đối nghịch lẫn nhau,.. họp thành 13 Tiểu bang đầu tiên của Hoa kỳ
vào năm 1776: New Hampshire, Massachusetts, Rhode Island,
Connecticut, New York, New Jersey, Pennsylvania, Delaware,
Maryland, Virginia, North Carolina, South Carolina và Georgia.
Mục tiêu
của Anh quốc là tổ chức và kiểm soát các lãnh thổ mới để tìm kiếm
lợi nhuận phục vụ cho sự phát triển kinh tế ở Anh. So với các
cường quốc khác, các lãnh thổ mới của Anh được phát triển mau
chóng, trước tiên là nhờ vào sự gia tăng vượt bực về dân số, chủ
yếu dựa vào tầng lớp người lao động khế ước, đi tìm một quê hương
mới. Việc sử dụng nô lệ cũng là một động lực quan trọng vào việc
phát triển kinh tế. Ở các thời điểm 1700, 1720, 1750 và 1760 dân
số trên các lãnh thổ này là 250000, 466000, 1170000 và 1600000
người trong khi số dân da đen là 28000, 70000, 236000 và 386000
(và tỷ lệ dân da đen là: 11%, 15%, 20% và 24%). Trong các thập
niên 1731-1740, 1741-1750 và 1761-1770 số dân nô lệ da đen được
nhập cảng thêm là 40000, 58000 và 69000 người, thập niên 1751-1760
là một ngoại lệ vì Chiến tranh Bảy năm. Năm 1775, dân da đen chiếm
khoảng 20% trên toàn lãnh thổ nhưng 30% ở miền Nam. Dân cư ở miền
Bắc tương đối đồng nhất, trong khi ở miền Trung tâm, dân cư đến từ
nhiều nơi: Đức, Tô cách lan, Ái nhĩ lan, Thuỵ sĩ,.. nhưng không
tạo ra các vấn đề về sự khác biệt văn hóa. Ở Philadelphia có 6000
người Đức và trong vùng Trung tâm có khoảng 125000 người Đức và
Thuỵ sĩ. Ngoài ra còn có khoảng trên 10000 người Tin lành gốc Pháp
định cư ở Boston, Charleston, New Rochelle. Cuộc sống chung đa
chủng này không gây ra các trở ngại. Các dân định cư chấp nhận
sống hoà hợp trong hệ thống tổ chức của người Anh và đại đa số dân
chúng đều dùng Anh ngữ. Khi Tuyên bố Độc lập năm 1776, dân số Hoa
kỳ ước lượng váo khoảng hai triệu rưỡi người.
Miền Nam
(Georgia, North Carolina, South Carolina, Virginia và Maryland) là
miền đông dân cư nhất, rồi đến miền Trung tâm (New York, New
Jersey, Pennsylvania và Delaware) và sau cùng là miền New England
(Maine, New Hampshire, Vermont, Massachusetts, Rhode Island,
Connecticut), Năm 1760 dân số ở các miền này là 514000, 360000 và
296000 (trên tổng số 1170000). Dân di cư đến từ khắp nơi. Năm
1700, 80% là người Anh, 11% là người Phi châu, phần còn lại là
người Tô cách lan, Hoà lan, Pháp,... Ở các vùng ven biển, mật độ
dân số lớn, người mới đến thường phải định cư ở những vùng đất mới
trong nội địa, thiếu an ninh,...
Chủ yếu quyền lực ở trong các lãnh thổ mới còn nằm trong tay
của một thiểu số, khoảng 5%, nhưng làm chủ khoảng 60% tài nguyên
và trên 50% đất đai, gồm các chủ nông trại rộng lớn, các thương
gia, kỹ nghệ gia giàu có, các đại gia đình quí tộc và, trong các
vùng Trung tâm và miền Bắc, các thế hệ mới của tầng lớp di dân
Puritans đầu tiên cũng như các nhân sự cũ của Hòa lan,... Mặt
khác, tuy đến giữa thế kỷ XVIII, đa số các địa chủ đều có quyền
bầu cử nhưng trong một số các lãnh thổ, đại đa số dân chúng vẫn
chưa có quyền này, trong đó đáng kể là các phụ nữ, các nô lệ, các
ngươi lao động khế ước, các dân bản xứ, các tín đồ Thiên chúa
giáo, các người Do thái,...
Nhờ các hoạt đông
thương mãi với Anh, với vùng Antilles, với Âu châu, Phi châu,...
các thương cảng phát triển mau chóng. Năm 1770, Boston có được
15000 dân, New York 21000 và Philadelphia 28000 trong khi, ở miền
Nam, thành phố lớn nhất là Charleston có 11000 dân. Kỹ nghệ gỗ,
các cơ xưởng đóng tàu phát triển mạnh ở đó. Nghề đánh cá cũng là
một hoạt động kinh tế đáng kể để cung cấp cho thị trường Âu châu
và các người nô lệ. Các thành phố trong nội địa cũng dần dần phát
triển với các ngành thủ công nghiệp, song song với các phát triển
của các nông trại. Cuộc chiến Bảy năm là cơ hội để xây dựng các
trục giao thông chính nối liền các thành phố. Đa số dân chúng sống
nhờ nông nghiệp, nhất là ở vùng trung tâm và ở miền Nam, sản xuất
chính là băp, lúa mì, lúa mạch, cây chàm ở khắp nơi; thuốc lá ở
Virginia và Maryland; gạo, chàm ở Carolina và Georgia; bông gòn ở
miền Nam. Miền Trung tâm phát triển mạnh về ngũ cốc và chăn nuôi.
I.2.5. Chiến tranh
Anh - Pháp ở Bắc Mỹ.
Để duy trì
ưu thế quốc tế và bảo vệ các lãnh thổ thuộc địa, chiến tranh liên
tục chống lại các cường quốc đương thời Hòa lan, Tây ban nha,
Pháp,.. là quan tâm hàng đầu của Anh quốc. Sau khi đã loại trừ
được ảnh hưởng của Hòa lan trong thập niên 1660, Anh quốc đi vào
thời kỳ tranh chấp với Pháp, đang kiểm soát một lãnh thổ rộng lớn,
từ Louisiana cho đến vịnh Hudson, Saint Laurent và vùng các hồ
lớn.
Cuộc tranh chấp
thứ nhất, Liên minh Augsbourg (Anh, Đức, Hòa lan, Tây ban nha)
chống lại Pháp, khởi đầu năm 1689 với một tấn công Iroquois vào
Lachine (gần Montréal), quân Pháp chống trả mãnh liệt dọc theo
biên giới các lãnh thổ của Anh. Năm 1690, hải quân Massachusetts
dùng đường biển đánh chiếm Port-Royal ở Acadie nhưng bi bại trận ở
Quebec, đồng thời một cuộc tấn công bằng đường bộ vào các vị trí
của Pháp cũng bị thất bại. Cuộc chiến chấm dứt với Hiệp ước
Ryswick (1697), đem lại chiến thắng cho Pháp và hai bên trở về vị
trí cũ. Cuộc chiến lại tiếp tục về sự thừa kế ở Tây ban nha và
chấm dứt với Hiệp ước Utrecht (1713) với chiến thắng của Anh. Pháp
thất bại nặng ở Mỹ châu: Terre-Neuve (Newfoundland), vịnh Hudson,
đảo Saint-Christophe rơi vào tay Anh quốc, Pháp giữ lại đảo
Cap-Breton (Louisbourg) nhưng các lãnh thổ còn lại thì bị cô lập
hoàn toàn trước sự bành trướng của Anh. Trong thời gian 1740-1748,
chiến tranh lại bùng nỗ giữa Anh và Pháp ở vùng biên giới của New
York và các lãnh thổ miền Bắc vì các tranh chấp trên sự thừa kế ở
Áo. Louisbourg bị quân Anh chiếm đóng nhưng lại trả lại cho Pháp
năm 1748.
Tiếp đến, các tranh
chấp trên lãnh thổ Ohio đã bắt đầu từ năm 1754. Các lãnh thổ thuộc
địa Anh lại không thống nhất được một kế hoạch hành động chung.
Năm 1755, quân Anh bị đánh bại ở đồn Duquesne. Cuộc Chiến tranh
Bảy năm (The Seven Year'War, 1756-1763) cũng đã khởi sự trên bình
diện tổng quát ở Âu châu giữa Liên minh Anh-Đức chống lai Liên
minh Pháp-Áo-Tây ban nha. Phải chờ tới năm 1757, với William Pitt
lên cầm quyền Thủ tướng ở Anh và năm 1758 quyết định gởi một đạo
quân 50000 người qua xâm chiếm Canada thì mới thay đổi được tình
thế: Québec thất thủ tháng 9/1759, Montréal bị chiếm đóng năm
1760. Chiến tranh chấm dứt với Hiệp định Paris (1763): Pháp mất Ấn
độ và Canada váo tay Anh quốc, lãnh thổ Nouvelle France của Pháp
hầu như không còn nữa (ngoại trừ Saint Pierre và Miquelon). Pháp
nhường Louisiana cho Tây ban nha trong khi Tây ban nha mất Florida
váo tay Anh.
.
I.3. Cách mạng
Hoa kỳ 1776.
I.3.1. Các nguyên
nhân sâu xa của sự ly khai.
Trên phương diện văn
hóa, tư tưởng Ánh sáng của thế kỷ XVIII đã tìm được trên các lãnh
thổ mới một môi trường phát triển thích hợp. Tinh thần khoa học
ngày càng thâm nhập vào cuộc sống cụ thể, con người ngày càng trở
nên thuần lý, xa dần với tập tục dị đoan. Lòng tin tôn giáo được
cởi mở, giảm dần tính chất cực đoan, tình cảm hơn là giáo điều,..
Đó là thời đại của lý trí, xây dựng xã hội trên căn bản tôn trọng
những quyền tự do căn bản của con người. Công cuộc tổ chức cuộc
sống trên các lãnh thổ mới cho thấy rõ quyền lực trong xã hội
không phải là một quyền thần thánh mà xuất phát từ một khế ước xã
hội cụ thể giữa người dân để điều hòa cuộc sống chung, đồng thời
bảo đãm các quyền tự do căn bản của con người.
Trên phương diện tình
cảm tâm lý, đại đa số dân cư đều xuất phát từ những thành phần
không còn có những mối ràng buộc tình cảm đối với Anh quốc. Họ gồm
các thành phần bần cùng hay đang bị ngược đãi về tôn giáo, chính
trị,... ở Anh quốc cũng như ở khắp nơi khác ở Âu châu, dứt khoát
ra đi vĩnh viễn, trốn tránh cuộc sống bần cùng, áp bức. Ngay từ
đầu, tinh thần độc lập đối với Anh quốc đã tiềm tàng trong mọi
tầng lớp. Sự phụ thuộc váo Anh quốc chỉ là một giải pháp tạm thời
để được bảo vệ trước áp lực bành trướng của các cường quốc đương
thời Hòa lan, Pháp, Tây ban nha,...
Trên phương diện kinh
tế, để bù đắp sự thiếu hụt ngân sách ở Anh, năm 1651, Luật Hàng
hải (Navigation Act) ra đời nhắm làm suy yếu ưu thế của
Hòa lan. Dưới thời Charles II, Luật Hàng hải được cũng cố thêm đối
với các hàng hoá sản xuất trong các lãnh thổ thuộc địa: Các lãnh
thổ thuộc địa chỉ được quyền giao thương trực tiếp với Anh quốc,
không được quyền mua bán trực tiếp với các quốc gia khác, chỉ có
thể xuất cảng các nguyên liệu quí giá đến Anh và Tô cách lan,
không được quyền nhập cảng các sản phẫm chế biến từ một nước náo
ngoài Anh.quốc. Các kỹ nghệ thuộc địa không được quyền phát triển
trong mục tiêu cạnh tranh với kỹ nghệ Anh quốc,... Trong thực tế,
các biện pháp trên cũng chỉ được áp dụng một cách tượng trưng vì
khoảng cách xa xôi với Anh quốc, mẫu quốc không có đủ phương tiện
để kiểm soát mà còn phải đương đầu với các cường quốc khác. Các
thuộc địa còn cần sự bảo vệ của mẫu quốc và tìm cách tránh né các
luật bằng hình thức buôn lậu, hối lộ công chức Anh.
Trên phương
diện chính trị, mầm mống của Cách mạng Hoa kỳ đã có sẵn từ trong
bản chất của chế độ Nghị viện ở Anh. Ngay từ đầu, mỗi lãnh thổ mới
đã được hưởng các qui chế tự trị rộng rãi. Mỗi lãnh thổ đều có
những cơ cấu hành chánh địa phương riêng biệt, với sự hiện hữu của
một Nghị viện dân cử rộng rãi, làm nẩy nỡ một tinh thần độc lập
ngày càng được nới rộng. Sự hình thành của Chế độ Nghị viện ở Anh,
với vai trò ưu thế ngày càng gia tăng của Hạ viện Anh,... cũng dần
dần được thể hiện trên các lãnh thổ mới, nhất là khi các quyền bầu
cử ở đây được nới rộng hơn nhiều. Quyền hạn của các Hạ viện địa
phương ngày càng quan trọng: Các sắc thuế phải được Hạ viện thông
qua, Hạ viện có quyền duyệt xét ngân sách và bổ nhiệm các chức vụ
hành chánh quan trọng,... trong khi vai trò và ảnh hưởng của các
Thống đốc, đại diện cho Nhà Vua, ngày càng bị giới hạn. Tình trạng
này kéo dài cho đến khi Williams Pitt làm Thủ tướng ở Anh.
I.3.2. Các nguyên
nhân trực tiếp. Bản Tuyên ngôn Độc lập 1776.
Cuộc chiến
1756-1763 tuy đưa Anh quốc lên hàng đầu các Đế quốc đương thời
nhưng đã làm cho ngân sách kiệt quệ mà còn phải tiếp tục chi tiêu
để duy trì đạo quân khổng lồ và một guồng máy hành chánh trên các
lãnh thổ thuộc địa. Đối với Anh quốc, giải pháp cho vấn đề là tổ
chức lại hệ thống thuộc địa, ưu tiên cho các phát triển kinh tế ở
Anh quốc, đòi hỏi các lãnh thổ thuộc địa đóng góp váo các chi phí
chung trong Vương quốc. Đối với các lãnh thổ thuộc địa, khi áp lực
của Pháp không còn nữa thì sự hiện diện của Anh quốc cũng không
còn cần thiết và các can thiệp vào sự phát triển là một điều khó
có thể chấp nhận. Hàng loạt các luật mới được ra đời: Luật tổ chức
càc lãnh thổ miền Tây của dân bản xứ da đỏ (1763, ưu tiên cho việc
khai thác da thú và ngăn chận các chương trình di dân. Luật này đã
không áp dụng được mà Goerges III còn phải cho phép thành lập thêm
ba lãnh thổ định cư mới: Québec, East Florida và West Florida).
Luật nhập cảng đường (1764, dùng để sản xuất rượu xuất cảng, đánh
thuế nặng trên các hàng cần thiết nhập cảng từ các lãnh thổ ngoại
quốc ở Antilles. Luật này đụng chạm tới mọi lãnh thổ thuộc địa
Anh, nhất la ở miền Bắc). Lụât cấm phát hành tiền giấy (1774, ảnh
hưởng nặng đối với các lãnh thổ miền Nam). Luật tem thuế và Luật
bảo trì các chi phí về quân đội (1765), gặp phải sự chống đối ở
mọi miền. Một Đại hội được triệu tập ở Massachusetts với sự tham
gia của 9 lãnh thổ, tố cáo sự vi phạm quyền tự do trong các lãnh
thổ thuộc địa, làm cho Nghị viện Anh phải bãi bỏ Luât tem thuế năm
1766. Năm 1767, một luật mới tăng thuế trà, gương, giấy,
chì,..nhập cảng từ Anh lại gặp phải sự phản đối bằng cách tẩy chay
không nhập cảng các hàng từ Anh. Nghị viện Massachusetts tuyên bố
chống lại luật này liền bị Thống đốc giải tán và dùng quân đội đàn
áp các chống đối. Cho đến năm 1770 luật này mới bị bãi bỏ.
Năm 1773, để
tránh phá sản, Công ty Ấn độ được chính quyền Anh chấp thuận cho
độc quyền bán trà trong các lãnh thổ thuộc địa Bắc Mỹ và miễn mọi
thứ thuế ở Anh. Vì thế trà nhập cảng từ Anh còn rẽ hơn trà trên
thị trường chợ đen, đồng thời loại trừ và làm xáo trộn thị trường
trà ở các thuộc địa. Các lãnh thổ thuộc địa phản ứng bằng cách
không nhập cảng trà từ Anh..Ngày 16/12/1773, trà từ Anh đến Boston
trên ba thương thuyền bị đổ xuống biển. Phản ứng từ Anh thật là rõ
rệt: Phải trừng phạt nặng để làm gương cho mọi lãnh thổ khác.
Trong năm 1774, 4 đạo luật liên tiếp được ban hành nhắm kiễm soát
Boston và Massachusetts. Đồng thời, để làm giảm ảnh hưởng của các
lãnh thổ Puritans, một luật mở rộng lãnh thổ Québec, công nhận các
luật dân sự Pháp áp dụng trước đây và che chở cho các tín đồ Thiên
chúa giáo,... được ban hành.
Một Nghị hội
được triệu tập ở Philadelphia váo tháng 9/1774 với sự tham gia của
12 Nghị viện địa phương (trừ Georgia). Mục tiêu của Nghị hội chưa
đòi hỏi Độc lập của các lãnh thổ thuộc địa mà chỉ đi đến Bản
Tuyên ngôn về các Quyền, bảo vệ các quyền tự do đã đạt được
trong quá khứ. Nghị hội cho rằng các trừng phạt đối với Boston và
Massachusetts là quá đáng và quyết định khởi sự một giải pháp quân
sự, ngưng các trao đổi thương mãi với Anh. Tháng 4/1775, quân dội
Anh ở Boston nhận được lệnh đàn áp quân nỗi loạn ở Lexington và
Concord nhưng trên đường trở về Boston lai bị quân nỗi loạn phục
kích.
Ngày
10:5/1775, Nghị hội Philadelphia lản thứ hai được triệu tập với sự
tham gia của 13 lãnh thổ và trở thành cơ quan chính thức điều hành
cuộc tranh chấp, kêu gọi lật đỗ Chính quyền Hoàng gia trong 13
lãnh thổ để thay thế bằng các Chính quyền Cách mạng, dựa váo Nhân
dân. Nghị hội giao cho George Washington chỉ huy quân đội cách
mạng, đồng thời tuyên bố tuyệt giao với Nghị viện Anh nhưng không
có tham vọng ly khai khỏi Vương quốc Anh. Tháng 9/1775 quân cách
mạng đánh chiếm được Montréal nhưng bị cầm chân ỏ Quebec trong
suốt mùa đông rồi sau đó bị quân đội Anh đánh lui. Phía cách mạng
ngày càng chia rê mà cũng không thể chấp nhận giải pháp hòa giải.
John Adam sau này ước đoán rằng trong 13 lãnh thổ, 1/3 dân chúng
thì muốn giải pháp ly khai, 1/3 thì chống lại giải pháp đó và 1/3
còn lại thì không có ý kiến. Ở New York, New Jersey và Georgia đa
số dân còn trung thành với Anh quốc trong khi ở Virginia,
Massachusetts và Maryland đa số lại theo phe Cách mạng. Trong tình
trạng chờ đợi, Nghị hội Philadelphia vẫn còn gởi đến George III
một bản thỉnh cầu làm trọng tài nhưng đồng thời lại biện minh cho
giải pháp quân sự. George III tuyên bố cấm mọi liên hệ với phe
cách mạng phản loạn,... tạo một cơ hội cho các thành phần cấp tiến
áp đặt mục tiêu của mình, đưa dư luận váo một cuộc tranh lụân về
Dân chủ và ly khai với Vương quốc Anh.
Ngày 7/6/1776
Richard Henry Lee đề nghị giải pháp ly khai dành độc lập, thống
nhất 13 lãnh thổ trong một Liên bang. Nghị hội chấp nhận và giao
cho Thomas Jefferson chủ tọa một Hội đồng soạn thảo lời tuyên bố
các lý do ly khai. Tuyên ngôn Độc lập được ra đời ngày 4/7/1776,
với biện minh:.Các Chính quyền được người dân thiết lập trong
mục tiêu bảo đảm các quyền không thể chuyển nhượng được của mình
mà tạo hóa đã ban cho từ lúc sinh ra. Quyền lực chính đáng của
Chính quyền xuất phát từ sự đồng tình của người dân. Khi một hình
thức Chính quyền nhắm tiêu diệt mục tiêu này thì người dân có
quyền thay đổi hay huỷ bỏ Chính quyền đó và thành lập một Chính
quyền mới trên các nguyên tắc và các cơ cấu tổ chức thích hợp với
hoàn cảnh mới để duy trì an ninh và hạnh phúc của người dân.
Một trang lịch
sử đã được viết xong nhưng sự Độc lập của các lãnh thổ thuộc địa
Anh tự chứa đựng hai nghịch lý quan trọng. Trước tiên, xét cho kỹ
thì các lãnh thổ ly khai đã chỉ có rất ít lý do (căn bản trầm
trọng trực tiếp) để biện minh cho sự ra đi của mình. Nghịch lý
thứ hai là nền Độc lập được thực hiện, không phải để chống lại các
tập tục và Hiến pháp của Anh quốc, ngược lại nền Độc lập đó được
thực hiện trên danh nghĩa của các tập tục và Hiến pháp của Anh
quốc!.
I.3.3. Cuộc
chiến tranh dành Độc lập.
Cuộc Cách
mạng Hoa kỳ không phải chỉ thể hiện sự đối nghịch giữa Anh quốc và
Hoa kỳ mà còn thể hiện một sự chia rẽ trong nội bộ của người dân
địa phương (Hoa kỳ): một cuộc chiến giữa hai lực lượng cách mạng
và thủ cựu. Ngoài ra, ở giữa hai lực lượng này lại còn có tầng lớp
quan trọng dân nô lệ da đen và các thổ dân địa phương bị đè nén từ
mọi phía và không có nhiệt tình với lý tưởng Độc lập. Trong cuộc
chiến với Anh quốc diễn ra sau đó, trước sự tàn phá của chiến
tranh, đa số các dân bản xứ miền Tây đã lựa chọn đứng về phía Anh
quốc. Trong khi đó một số nô lệ lợi dụng cơ hội để bỏ trốn qua càc
vùng do quân Anh kiểm soát hay ẩn trốn trong các bộ lạc dân bản
xứ. Ngoài ra, số người nô lệ phục vụ cho quân đội Anh cũng nhiều
hơn số phục vụ cho Hoa kỳ.
Cuộc
chiến được diễn ra trong điều kiện chênh lệch lực lượng rõ rệt.
Một bên là một cường quốc hàng đầu của thế giới đương thời, dân số
11 triệu người, với khả năng trợ giúp của lực lượng thủ cựu bảo
hoàng, của dân bản xứ và một đạo quân chính qui 48000 người. Tại
chỗ, trong vùng Bắc Mỹ, năm 1776, Anh quốc đã có sẵn 32000 quân,
10000 thuỷ quân và 30 chiến hạm. Bên phía Cách mạng có một dân số
khoảng 2,5 triệu người (20% là nô lệ da đen) chia rẽ nội bộ, với
một quân đội khoảng 18000 người, không được trang bị đầy đủ, không
kinh nghiệm chiến trường. Tuy nhiên phía Cách mạng lại có được
thiện cảm của các cường quốc Pháp, Hoà lan, Tây ban nha,... đang
chờ cơ hội để trả các mối thù cũ với Anh.
Tháng 9/1776,
quân Anh chiếm đóng New york. Washington phải lui quân, Nghị hội
Hoa kỳ phải rời Philadelphia về Baltimore nhưng ngăn chận được tấn
công của quân Anh ở Trenton vá Princeton. Mùa xuận 1777, quân Anh
tiếp tục tấn công ở phía Bắc, từ Québec và hồ Champlain, tiến đánh
Albany từ phía Tây. Đồng thời một đạo quân Anh đổ bộ váo vịnh
Chesapeake và tíến lên chiếm đóng Philadelphia. Nhưng ở miền Bắc,
5000 quân Anh thiếu tiếp viện, bị bao vây ở Saratoga phải ra hàng
quân Cách mạng (tháng 10/1777). Mùa đông tiếp theo 1777-1778, là
một thời kỳ khó khăn cho quân Cách mạng: Washington và 12000 quân
lui về Valley Forge, ở vào một tình trạng cô lập tuyệt vọng làm
hao tổn 3000 quân và 1000 đào ngũ vì binh tật, thiếu lương
thực,... trong khi phần đông nông dân địa phương lại bán lương
thực cho quân đội Anh. Tình thế trở nên sáng sủa hơn nhờ vào các
thương thuyết ở Paris (2/1778), phe Cách mạng tìm liên minh với
nước Pháp. Trong cuộc thương thuyết ở Paris, Anh chấp nhận bãi bỏ
tất cả các luật ban hành từ năm 1763 nhưng không chấp nhận giải
pháp độc lập của Hoa kỳ. Sau đó, Anh tuyên bố chiến tranh với
Pháp. Liên minh với Pháp: Tây ban nha nhập cuộc năm 1779, rồi đến
Hoà lan (1780). Sau khi đã ổn định ở Philadelphia, quân Anh tấn
công xuống miền Nam, chiếm Georgia, South Carolina. Tháng 10/1780,
5000 quân Pháp dưới sự chỉ huy của Rochambeau đổ bộ vào Newport,
đe doạ New York, làm thay đổi cuộc chiến. Quân Anh tập trung vào
Virginia, bao vây Yorktown với 9500 quân dưới sự chỉ huy của
Cornwallis nhưng liên quân của Washington, Lafayette và Rochambeau
lại đông gấp đôi và lại được sự yểm trợ của hải quân của Đô đốc De
Grasse. Ngày 9/10/1781, Cornwallis đầu hàng và cuộc chiến gần như
kết thúc với sự bại trận của Anh.
Để giới
hạn các thiệt hại, Anh mau chóng ký kết Hiệp định Paris ngày
3/9/1783, công nhận sự độc lập của Hoa kỳ, giao cho Hoa kỳ vùng
đất rộng lớn phía Tây, giữa núi Appalaches và Mississippi, từ các
hồ lớn ở phía bắc cho đến Florida và cho phép Hoa kỳ đánh cá trên
vùng Terre-Neuve,.lưu thông trên sông Mississippi. Hoa kỳ chấp
nhận không cản trở cho việc hoàn trả các nợ tư nhân cho các chủ nợ
người Anh và trả lại tài sản cho các thành phần bảo thủ bảo hoàng.
Với Hiệp định Versailles, ký kết cùng một lúc, hoà bình được tái
lập giữa Anh, Pháp và Tây ban nha: Florida trả lại cho Tây ban
nha, Tobago được giao lại cho Pháp
II. Nền
tảng xây dựng Liên bang Hoa kỳ.
II.1.
Hiến pháp 1787 và sự xuất hiện của các Đảng chính trị.
II.1.1. Hiến
pháp 1777 và Hiến pháp 17/9/1787.
Vào cuối năm
1776, sau Tuyên ngôn Độc lập, 8 tiểu bang đã xây dựng được các
Hiến pháp Cộng hoà địa phương nhưng khái niệm Nhân dân vẫn
chưa được xác định rõ rệt, quyền bầu cử và ứng cử, tuy được nới
rộng hơn trước, nhưng cũng chỉ dành cho một số người da trắng giàu
có trong khi đó phụ nữ, dân da đen, dân bản xứ da đỏ và dân da
trắng không tài sãn,... vẫn còn ở ngoài hệ thống chính quyền. Hầu
hết trong các tiểu bang Hiến chế được xây dựng trên căn bản quyền
Hành pháp do một Thống đốc dân cử đãm nhận, Lập pháp gồm có hai
Viện trong đó Hạ viện xuất phát từ các cuộc bầu cử trực tiếp,...
Trong mọi tiểu bang, việc nhập cảng các nô lệ mới đều bị cấm đoán
nhưng các dân nô lệ cũ vãn không được giải phóng, quyền tư hữu nô
lệ vẫn được duy trì, nhất là ở các tiểu bang miền Nam, nền kinh tế
phụ thuộc váo việc xử dụng lực lượng lao động nô lệ. Trong Liên
bang, mỗi Tiểu bang là một đơn vị độc lập và có một Hiến pháp
riêng biệt
Quan trọng hơn
cả là việc thiết lập các mối liên hệ giữa Liên bang và các Tiểu
bang. Dự án của John Dickenson ở Pennsylvania được Nghị hội chấp
nhận vào tháng 11/1777. Dự án phải được mọi tiểu bang chấp thụân
trước khi áp dụng và là Hiến pháp đầu tiên của Hoa kỳ. Nghi hội
Philadelphia trở thành cơ cấu điều hành quốc gia mới, các Tiểu
bang đều có quyền đại diện bằng nhau. Nhưng Hiến pháp này chỉ là
một Liên minh thân hữu trong đó các Tiểu bang vẫn giữ các
chủ quyền của mình trên mọi lãnh vực chưa được giao phó cho Liên
bang qua sự đồng thuận tuyệt đối. Năm 1779, 12 tiểu bang đã thông
qua dự án nhưng Maryland từ chối và đòi hỏi các tiểu bang có chủ
quyền trên các vùng đất phía Tây phải đặt các vùng đất này dưới sự
quản trị của Liên bang. Yêu sách này được chấp nhận váo tháng
3/1781. Nghị hội điêu khiển chiến tranh dành Độc lập mặc dầu không
có đầy đủ các chức năng của một Chính phủ bình thường. Quyền lực
của Nghị hội được giới hạn trong các lãnh vực liên hệ đến chiến
tranh, tiền tệ, ngoại giao để giải quyết các đòi hỏi cần thiết cho
chiến tranh và làm trung gian hoà giải các tranh chấp giữa các
tiểu bang. Trong Nghị hội, mỗi tiểu bang chỉ có một phiếu đại
diện, các luật quan trọng phải được 2/3 đại diện chấp nhận, các
thay đổi về Hiến pháp phải có sự đồng thuận của mọi tiểu bang. Các
khó khăn dần dần xuất hiện vì Nghị hội không có quyền thâu thuế,
không có quyền trong lãnh vực thương mãi, tài chánh,...
Chiến tranh làm
cho tiền do các tiểu bang phát hành bị lạm phát và gián đoạn các
giao thương với Anh quốc, thuốc lá sản xuất không có thị trường
tiêu thụ, nông trại thiếu nợ,... Sau chiến tranh, các giao thương
gặp phải sự cạnh tranh vì các hàng hóa của Anh giá thấp, gây xáo
trộn trong mọi lãnh vực,.. gây nên cuộc nỗi loạn của nông dân và
cựu chiến binh ở Massachusetts (1787). Biện pháp duy nhất mà Nghị
hội thực hiện được, làm thoả mãn mọi người, là việc thông qua đạo
luật Tây-Bắc (1785), dự định thành lập các tiểu bang mới cho các
chương trình di dân, với hệ thống các Thị trấn (Townships,
36 dặm vuông), đất sẽ được đưa ra bán đấu giá, giá tối thiểu là 1
dollar một mẫu. Các tiểu bang mới đều sẽ có những quyền hạn, các
quyền tự do căn bản giống như các thành viên cũ nhưng không có
quyền tư hữu về nô lệ.
Nghị hội được
triệu tập 2 lần để giải quyết các khó khăn, giữa hai giải pháp,
hoặc là Thống nhất lãnh thổ trong một Liên bang với một Chính
quyền trung ương mạnh hoặc là Chia ly;.. Lần thứ nhất, năm 1786, ở
Annapolis (Maryland), thất bại, chỉ có 5 tiểu bang tham dự. Lần
thứ hai, vào tháng 1/1787, ở Philadelphia, cùng thời kỳ của cuộc
nổi loạn nông dân ở Massachusetts. Biến cố này đã thúc đẩy Nghị
hội đi tới quyết định tìm giải pháp sửa đổi các Điều lệ về Liên
bang của Hiến pháp 1777. Ngày 25/5/1787, 55 nhân vật (đa số lthuộc
thành phần thượng lưu, giàu có, danh tiếng đương thời...) đại diện
cho 12 tiểu bang tham dự Nghị hội Philadelphie, dưới sự chủ toạ
của George Washington. Tiểu bang Rhode Island không tham dự, chống
lại mọi gia tăng quyền lực cho Chính quyền trung ương. Thay vì sửa
đổi trong những điều kiện đã được qui định theo Hiến pháp 1777,
Nghị hội lấy một quyết định táo bạo, đặt mục tiêu soạn thảo một
Hiến pháp mới, giữ kín các tranh luận cho đến khi đưa ra được một
dự án mới. Ngày 17/9/1787 nội dung của Dự án được công bố, trước
khi tổ chức tranh luận và làm các thủ tục hợp thức hoá ở các Tiểu
bang. Dự án thiết lập một chính quyền Liên bang mạnh, với một sự
phân quyền giữa ba lãnh vực Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp. Lập
pháp giao cho Nghị viện Liên bang gồm có Thượng viện và Hạ viện.
Thượng viện đại diện cho các Tiểu bang trong Liên bang, mỗi Tiểu
bang có hai đại diện, nhiệm kỳ 6 năm. Phó Tổng thống chủ toạ
Thượng viện nhưng chỉ được dùng quyền bỏ phiếu để quyết định khi
các phe phái có lực lực lượng đồng đều. Hạ viện đại diện cho Nhân
dân ở các địa phương, nhiệm kỳ 2 năm, mỗi tiểu bang có một số Dân
biểu tuỳ theo dân số. Quyền lực của Nghi viện được giải thích một
cách rộng rãi, với những Quyền ẩn tàng: Làm các Luật cần thiết
để thực hiện các Quyền của mình cũng như của các quyền khác của
Chính phủ Liên bang hay của các Bộ,... được ghi trong Hiến pháp.
Hành pháp do Tổng thống đảm nhận, nhiệm kỳ 4 năm, được bầu qua hệ
thống Đại cử tri do dân bầu ra ở các tiểu bang. Tổng thống là Tổng
tư lịnh Quân đội, lãnh đạo ngành Ngoại giao, quản trị guồng máy
hành chánh Liên bang. Tư pháp được giao cho Tối cao Pháp viện và
những Toà án cấp dưới. Nghị viện có quyền tổ chức và thiết lập hệ
thống Tư pháp tùy theo nhu cầu cần thiết. Tổng thống có quyền bổ
nhiệm các Thẩm phán của Tối cao Pháp viện. Bình đẳng về pháp lý,
mỗi Tiểu bang là một lãnh thổ tự trị với một Hiến pháp riêng biệt,
chủ yếu dựa trên căn bản của Hiến pháp Liên bang.
Hiến pháp 1787
cũng không bao giờ được đưa ra để hỏi ý kiến của Nhân dân
một cách trực tiếp mà chỉ sẽ được thông qua trong các tiểu bang
bằng các thủ tục đặc biệt. Ngoài ra, để tránh tình trạng chống đối
kỳ cùng của mỗt thiểu số, Nghị hội Philadelphia cũng quyết định
rằng chỉ cần được chấp nhận ở 9 tiểu bang thì văn bản mới sẽ trở
thành Hiến pháp chung của Liên bang (với 13 thành viên): Điều kiện
này được thỏa mãn váo tháng 6/1788 khi New Hampshire chấp nhận Dự
án. Trong khi chờ đợi, các tranh luận được diễn ra không kém căng
thẳng và khuynh hướng Liên bang cũng đã phải hứa hẹn sau này sẽ bổ
túc Hiến pháp với các Điều bảo đãm các Quyền. tự do cân bản cá
nhân cũng như của các Tiểu bang..
II.1.2. Sự
xuất hiện của khuynh hướng Dân chủ - Cộng hoà.
Với Hiến pháp mới, khuynh hướng Liên bang thắng cử
năm 1788, George Washington được bầu làm Tổng thống, John Adam làm
Phó Tổng thống đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa kỳ. Quốc hội cho
thiết lập 4 chức vụ chính yếu trợ giúp Tổng thống điều hành guồng
máy Hành pháp Liên bang: Bộ trưởng Ngoại giao, Tài chánh, Quốc
phòng và Tư pháp. Thomas Jefferson, Alexander Hamilton, Henry Knox
và Edmund Randolph được Washington bổ nhiệm vào các chức vụ trên.
Guồng máy Tư pháp cũng được Quốc hội thiết lập, với 6 vị Thẩm phán
ở Tối cao Pháp viện, 3 Tòa án lưu động và 13 Tòa án địa phương.
Ngày 15/12/1791, 10 Tu chính án Hiến pháp được Quốc hội thông qua,
bảo đãm các quyền tự do căn bản, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn
luận, tự do báo chí. Tu chính án thứ 10 bảo đảm cho các Tiểu bang
các Quyền mà Hiến pháp không giao cho Chính quyền Liên bang.
Trong thời kỳ đầu, để giải quyết các khó khăn tài chánh,
Hamilton tìm cách gắn liền tầng lớp thượng lưu giàu có với quyền
lợi và số phận của Chính quyền Liên bang. Để thanh toán các món nợ
do chiến tranh để lại, năm 1791 Hamilton đề nghị đãm nhận là trách
nhiệm của Chính quyền trung ương, một cách nói để đòi hỏi sự đóng
góp của mọi tiểu bang, gây bất mãn trong các tiểu bang miền Nam đã
thanh toán xong các món nợ của mình và nay phải tiếp tục trả nợ
cho các tiểu bang khác. Để có sự hổ trợ cần thiết, Hamilton phải
nhường cho miền Nam địa điểm, Quận Liên bang Washington, làm trụ
sở của Thủ đô tương lai. Khuynh hướng Liên bang đã bắt đầu rạn
nứt, Madison công khai chống lại Hamilton.
Khi
Hamilton đề nghị thành lập Ngân hàng Quốc gia để điều hành các
dịch vụ thương mãi, tín dụng, phát hành tiền tệ,... các chống đối
trở nên gay gắt. Jeffferson và Madison dựa trên cách giải thích
hẹp của Hiến pháp cho rắng đề nghị của Hamilton là không hợp
Hiến, vi Hiến pháp không không đề cập đến việc thành lập các Ngân
hàng. Nhưng Hamilton lại dựa vào cách giải thích rộng, và
được Washington đồng ý, cho rằng Quốc hội có những Quyền ẩn tàng
và được Quốc hội chấp nhận.
Hamilton
chủ trương giải pháp kỹ nghệ hóa lãnh thổ để cạnh tranh với các
hàng ngoại quốc và gia tăng thuế bảo trợ hàng hóa để phát triển
các xí nghiệp. Để có ngân sách cần thiết cho chính quyền trung
ương, Quốc hội cho tăng quan thuế thiết lập năm 1789 và nhờ váo
các phát triển mau chóng của thương mãi mà trang trãi được khoảng
90% ngân sách Liên bang. Việc áp dụng biện pháp này váo trường hợp
của rượu whisky lại gặp phải sự chống đối của các nông trại miền
Tây và Hamilton đã phải dùng một đạo quân 13000 ngàn người mới lập
lại trật tự.
Đường lối
của Hamilton thuận lợi cho các thế lực thượng lưu giàu có trong
các giới thương gia, tài chánh, xí nghiệp miền Bắc và miền Trung
tâm và khuynh hướng Liên bang, được tập hợp xung quanh quan
niệm của một chính quyền trung ương mạnh, một trật tự rõ rệt và
một giải thích Hiến pháp rộng rãi. Phía đối lập, được nhận diện
dưới tên gọi Dân chủ - Cộng hoà (hay Cộng hoà), dưới
sự lãnh đạo của Jefferson và Madison, được sự ủng hộ của các giới
chủ nông trại miền Nam và miền Tây và chủ trương bảo vệ các quyền
tự do căn bản của Nhân dân, các quyền của các Tiểu bang và một
giải thích Hiến pháp hẹp.
Năm 1792,
Washington được tái cử dễ dàng nhưng khuynh hướng Dân chủ -
Cộng hoà chiếm đa số ở Quốc hội. Các tranh chấp còn phức tạp
hơn nữa vì đường lối ngoại giao. Cách mạng Pháp cùng với các tuyên
bố chiến tranh với Anh và Tây ban nha không gây được thiện cảm
trong khuynh hướng Liên bang trong khi phía Dân chủ - Cộng hòa
tiếp tục ủng hộ Cách mạng Pháp. Ngày 22/4/1793, Washington tuyên
bố sự trung lập của Hoa kỳ, phía Dân chủ - Cộng hoà cho rằng thái
độ của Washington là trái với HIến pháp vì một sự tuyên bố trung
lập, cũng như tuyên bố chiến tranh thuộc thẫm quyền của Quốc hội.
Mặc dầu vậy, chiến tranh là cơ hội mang lại phát triển cho nền
kinh tế. Với vị trí trung lập, mọi khuynh hướng đều có lợi trong
việc giao thương với mọi phe trong chiến tranh. Nhưng sự trung lập
gặp phản ứng bất lợi của Anh: Các thương thuyền Hoa kỳ bị hải quân
Anh bắt giữ, đồng thời Anh từ chối rời bỏ các vùng đất ở miền Tây
khi Hoa kỳ chưa giải quyết xong các món nợ. Quốc hội Hoa kỳ phản
ứng lại với lịnh cấm giao thương với Anh (1794) nhưng biện pháp
này hoàn toàn bất lợi cho nền ngoại thương nên khi Anh tỏ vẻ hòa
dịu thì Hoa kỳ liền chấp nhận, chỉ tái lập các giao thương với Anh
để Anh trao lại các vùng đất ở miền Tây (1796). Đồng thời các
thương thuyết với Tây ban nha cho phép Hoa kỳ được dùng hải cảng
New Orleans, giao thông trên sông Mississippi và ổn định biên
giới ở Florida.
Cho đến
nay, các ứng cử viên trong các cuộc bầu cử đều ra ứng cử với tư
cách cá nhân. Năm 1796, Washington quyết định không ra ứng cử và,
không như các lần trước, các ứng cử viên khác đều ra ứng cử như là
đại diên cho một khuynh hướng chính trị nhất định. Khuynh hướng
Dân chủ - Cộng hoà tuyển chọn người của mình khắp mọi nơi, nhất là
trong giới chủ nông trại miền Nam, giới thợ thuyền và thủ công
nghiệp ở các thành phố và chủ nông trại nhỏ ở miền Tây,... trong
khi khuynh hướng Liên bang đại diện cho tầng lớp thượng lưu giàu
có, có uy tín và kinh nghiệm chính trường và đang cầm quyền,...
Năm 1796, khuynh hướng Liên bang tiếp tục cầm quyền, với đa số tạI
Quốc hội và John Adams ở chức vụ Tổng thống nhưng sự chia rẽ trong
khuynh hướng Liên bang cho phép lãnh tụ Cộng hòa, Jefferson, trở
thành Phó Tổng thống.
Sự thân thiện
của Hoa kỳ đối với Anh làm cho Pháp bất mãn, ngăn chận các thương
thuyền buôn bán với Anh. Dưới ảnh hưởng của khuynh hướng Liên
bang, Hoa kỳ hầu như ở trong tình trạng chiến tranh với Pháp.
Tháng 6-7/1798, Quốc hội cho thông qua một số Luật về người ngoại
quốc và Luật phản loạn, trong mục đích đàn áp và gây khó khăn
trong việc định cư những người gốc Pháp, Ái nhĩ lan,... mà đa số
thuận lợi cho khuynh hướng Cộng hoà. Jefferson và Madison phản ứng
lại bằng cách cho Nghị viện địa phương Kentucky và Virginia thông
qua các quyết định huỷ bỏ các Luật của Quốc hội Liên bang, dựa
trên lập luận cho rằng Hiến pháp là một Khế ước giữa các Tiểu
bang, các Tiểu bang có quyền từ chối các Luật của Quốc hội Liên
bang khi càc Lụât này đi quá các quyền hạn ghi trong Hiến pháp.
Binh vực
Quyền của các Tiểu bang và chống lại các Luật phản dân chủ và
chống chiến tranh, Jefferson trở thành Tổng thống trong cuộc bầu
cử năm 1800, khuynh hướng Dân chủ - Cộng hòa chiếm đa số ở Quốc
hội, chấm dứt thời đại của khuynh hướng Liên bang và mở đầu cho
một giai đoạn thực hiện Dân chủ, bãi bỏ các Luật 1798 về
người ngoại quốc và Luật phản loạn, bãi bỏ các thuế trên các hàng
nội địa, kể cả thuế trên rượu whisky, giảm quân đội và hải
quân,... làm ổn định ngân sách.
II.1.3. Cuộc
chinh phục mièn Tây. Việc mua bán lãnh thổ La Louisiane.
Cho đến năm 1800 dân số Hoa
kỳ tăng trưởng mau chóng, chủ yếu là do các chương trình di dân
vào nội địa, đạt được con số 5300000 người, đa số 95% sống trong
các vùng nông thôn. Từ Bắc đến Nam, người dân vượt vùng núi
Appalachia để định cư ở các vùng đất trù phú miền Tây. Năm 1792,
Kentucky được nhận vào Liên bang và năm 1796 là
Tennessee, đón nhận phần lờn dân nghèo miền Nam. Năm 1820,
dân số hai tiểu bang này lên đến 100000 người. Ở phía Bắc, các dân
từ New England đến định cư ở Vermont va Maine, đi tìm các đất mới
rẻ và rộng hơn. Vermont được nhận vào Liên bang năm 1791
(và Maine, năm 1820). Trong tiểu bang New York, cho đến năm
1800, ở miền Tây có đến 800000 người định cư ở giữa Buffalo và
Albany.
Chính quyền Dân chủ - Cộng
hòa nới lỏng thủ tục mua đất mới, giảm gía đất và là cơ hội cho
nạn đầu cơ trục lợi. Trong vùng Tây Bắc, nông dân không cần được
lênh chính thức và thương thuyết với thổ dân địa phương như đã
được qui định từ năm 1790,... đã đi chiếm đất, gây bất mãn khắp
nơi với dân bản xứ và định cư trong những điều kiện bất ổn. Năm
1803, Ohio được nhận vào Liên bang
Năm 1800, để xây dựng một Đế
quốc ở Mỹ châu, Napoléon ký kết một Hiệp ước với Tây ban nha và
lấy lại vùng đất rộng lớn La Louisiane, có khả năng gây khó khăn
cho Hoa kỳ trong việc dùng hải cảng New Orleans và giao thông trên
sông Mississippi. Jefferson tìm cách thương thuyết với Paris để
mua lại New Orléans thì đúng lúc quân đội Pháp đang gặp khó khăn
tại Haiti và được Napoléon nhường lại La Louisiane với giá 15
triệu dollars. Mặc dầu Hiến pháp Hoa kỳ không tiên liệu khả năng
để cho Liên bang mua thêm lãnh thổ nhưng Jefferson đã không bỏ qua
cơ hội hiếm có này để mua La Louisiane, làm gia tăng gấp đôi lãnh
thổ Liên bang đương thời. Năm 1803, Thượng viện chấp nhận sự kiện
này và Hạ viện bỏ phiếu cung cấp ngân sách cần thiết (Tiểu bang
Louisiana được thành lập và nhận vào Liên bang năm 1812).
II.1.4. Chiến tranh với
Anh quốc 1812-1815.
Ngay từ đầu, Jefferson vẫn
gjữ vị trí trung lập trong cuộc tranh chấp giữa Cách mạng Pháp và
Âu châu để có thể giao thương với cả hai phía nhưng Anh quốc đang
làm chủ trên mặt biển và đánh chiếm các tàu Hoa kỳ giao thương vói
Pháp. Năm 1807, Jefferson ra lịnh cấm giao thương để làm áp lực
với cả hai phe nhưng thất bại:và gần như phải bãi bỏ lịnh này
trước khi chấm dứt nhiệm kỳ thứ hai của mình. Tuy nhiên, khuynh
hướng Dân chủ - Cộng hoà vẫn còn đa số trong Quốc hội, với James
Madison là Tổng thống sau cuộc bầu cử năm 1808 và tiếp tục lập
trường trung lập.
Trong cuộc bầu cử giữa nhiệm
kỳ năm 1810, khuynh hướng Dân chủ - Cộng hòa lại được tăng cường
thêm với những thành phần trẻ, mới xuất hiện ở miền Tây và miên
Nam, muốn bành trướng lãnh thổ về phương Tây cũng như xâm chiếm
Canada và Florida. Năm 1811, dân bản xứ ở Indiana, dưới sự lãnh
đạo của Tecumesh tìm đươc liên minh với Anh để chống lại các đàn
áp của Thống đốc Williams Harrison. Về phía Hoa kỳ cũng chỉ còn
giải pháp chiến tranh mới giải quyết được vấn đề dân bản xứ da đỏ
và các quyền trung lập đối với cuộc chiến ở Âu châu. Chiến tranh
được Madison tuyên bố vào tháng 6/1812 và được Quốc hội chấp thuận
trong tình trạng chia rẽ nội bộ. Các tiểu bang miền Tây và miền
Nam tán thành, các tiểu bang miền Trung tâm và New England thì
chống lại chiến tranh. Trong tình trạng chia rẽ và thiếu chuẩn bị,
nhất là khi quân đội và hải quân đã bị suy yếu đi nhiều dưới thời
kỳ Jefferson, cuộc chiến ở Canada không đạt được các kết quả hữu
hiệu. Mặc dầu các chiến thắng của Hoa kỳ ở vùng các hồ lớn và ở
York (Toronto), hải quân Anh vẫn còn hữu hiệu trên Đại tây dương,
đổ bộ vào vịnh Chesapeak và tiến quân lên đốt phá Thủ đô Liên bang
Washington váo mùa hè năm 1814. Chiến thắng quan trọng duy nhất
của Hoa kỳ là trận đánh ở New Orleans, ở đó Andrew Jackson đánh
bại quân Anh ngày 8/1/1815. Hiệp ước Gand được ký kết ngày
24/12/1815, hai bên trở về vị trí cũ, người thua trận là các thổ
dân da đỏ miền Tây. Hoa kỳ tiếp tục bành trướng lãnh thổ về phía
Tây, hầu như không còn ai ngăn cản được nữa. Chiến tranh vừa qua
đã là cơ hội để phát triển kỹ nghệ, sản xuất những sản phẩm mà Anh
quốc không cung cấp nữa. ..
Phe Dân chủ - Cộng hoà
tiếp tục cầm quyền, với James Monroe đắc cử Tổng thống năm 1816
(và tái cử năm 1820), hầu như không có đối lập, khuynh hướng Liên
bang hầu như không còn nữa. Trên thực tế, khuynh hướng Dân chủ -
Cộng hoà cũng đã thực hiện hầu hết các chính sách của khuynh hướng
Liên bang mà Hamilton đề ra trước đây. Năm 1816, Ngân hàng Quốc
gia thứ hai được thành lập và lần đàu tiên Hoa kỳ áp dụng chính
sách bảo trợ kiinh tế, trước sự cạnh tranh mới của các hàng
hóa của Anh. Các chương trình phát triển hệ thống giao thông Liên
bang cũng được chính quyền Cộng hoà xúc tiến. Trên phương diện
ngoại giao, lãnh thổ Florida được Tây ban nha nhường lại cho Hoa
kỳ vao năm 1819. Tên của Monroe thường được gắn liền với chủ
trương chống lại mọi sự can thiệp của các cường quốc Âu châu vào
nội bộ Hoa kỳ cũng như của Hoa kỳ vào các tranh chấp giữa các
cường quốc Âu châu.
Indiana
được nhận vào Liên bang năm 1816, Illinois năm 1818 và
Alabama năm 1819. Cuộc sống trong các vùng đất mới cũng rất
khó khăn vi thiếu an ninh và thiếu phương tiện giao thông chuyên
chở hàng hóa về miền Đông để xuất cảng. Phải chờ cho đến năm 1825,
khi hoàn thành kinh đáo nối liền Buffalo-Albany thìi hàng
hóa mới đến hải cảng New York để xuất cảng dễ dàng. Các nơi khác
cũng được phát triển tương tự, làm cho cuộc di dân về phương Tây
ngày càng gia tăng.
II.1.5. Sự thành lập các
Đảng Dân Chủ và Đảng Cộng hoà.
Một khả năng hòa giải vừa
xuất hiện nhưng nhiều yếu tố khác lại xuất hiện và đưa đến những
xung đột mới giữa các địa phương, được tạm thời giải quyết nhưng
tăng dần với thời gian,... cho tới Chiến tranh phân ly Nam - Bắc
1860-1865,...
Trước tiên, hai miền
Nam và Bắc đi vào hai con đường phát triển khác nhau. Miền Bắc là
một xã hội không chấp nhận quyền sở hữu nô lệ, đi vào con đường
phát triển về kỹ nghệ và các lãnh vực thương mãi, tài chánh. Trong
xã hội miền Nam, sử dụng nô lệ là một quyền tư hữu, phát triển về
nông nghiệp, sản xuất bông gòn, chủ yếu thoả mãn các nhu cầu ngày
càng tăng của kỹ nghệ dệt ở miền Bắc và ở Anh. Miền Nam ngày càng
phụ thuộc miền Bắc về các sản phẫm kỹ nghệ, các nhu cầu dịch vụ
tài chánh và thương mãi. Sự khác biệt này đưa đến tranh chấp giữa
hai đường lối mâu thuẫn nhau về Tự do mậu dịch mà miền Nam đòi hỏi
hay Bảo trợ mậu dịch mà miền Bắc áp đặt.
Kế đến là cuộc tranh chấp của
hai miền về sự bành trướng lãnh thổ về phía Tây. Sự thành lập của
các lãnh thổ mới, sự nới rộng của các quyền bầu cử và ứng cử là
những yếu tố căn bản gây ra các tranh chấp. Thoả hiệp Missouris
(1820) là một sự kiện điển hình, hai xã hội bành trướng song song,
dựa trên một sự cân bằng tạm thời về quyền tư hữu nô lệ. Khi
Missouris xin vào Liên bang năm 1819, Hoa kỳ đã sẵn có 11 tiểu
bang chấp nhận và 11 tiểu bang không chấp nhận quyền tư hữu nô lệ,
trong khi đó Missouris là một vùng chấp nhận quyền tư hữu nô lệ và
ở biên giới hai miền. Một đề nghị được đưa ra ở Quốc hội nhằm cấm
chế độ nô lệ trong tương lai nhưng gặp phải sự chống đối của các
tiểu bang miền Nam. Các tranh luận kéo dài một năm mới tìm ra một
thoả hiệp chấp nhận cho Maine gia nhập vào Liên bang năm
1820 rồi đến lượt Missouris năm 1821 với điều kiện là từ đó
về sau Nô lệ sẽ bị cấm tại phía bắc vĩ tuyến 36°30'. Thoả hiệp này
được tôn trọng cho đến năm 1850, khi chế độ nô lệ được cháp nhận
trở lại trong các lãnh thổ đã từ chối chế độ đó.
Sự bành trướng lãnh thổ về
phía Tây làm xáo trộn hệ thống bầu cử và sự cân bằng các lực lượng
chính trị, trong nội bộ của khuynh hướng Dân chủ - Cộng hòa. Trong
thời gian 1800-1840, số tiểu bang tăng gấp đôi và dân số Hoa kỳ
tăng gấp ba nhưng dân số miền Tây lại tăng gấp 10 lần. Trong các
tiểu bang mới, quyền bầu cử gần như là phổ thông cho phái nam.
Trên toàn lãnh thổ, 90% phái nam, da trắng có quyền bầu cử. Phụ nữ
và dân da đen hầu như không có quyền này. Năm 1824, John Quincy
Adams đắc cử Tổng thống mặc dầu chỉ được 84 phiếu đại cử tri,
trong khi Andrew Jackson được 99 phiếu (và dẫn đầu với 43% số
phiếu phổ thông): Trong 4 ứng cử viên Dân chủ - Cộng hoà, không ai
đạt được đa số 50% phiếu đại cử tri nên cuộc bầu cử được giải
quyết ở Hạ viện và John Quincy Adams thắng cử. Adams chủ trương
một chương trình phát triển mạnh Liên bang nhưng không được Quốc
hội chấp thụân vì đa số dư luận lại có khuynh hướng tự trị, làm
rối loạn các dự định bành trướng ở miền Nam. Năm 1828, các biện
pháp Bảo trợ mậu dịch do miền Bắc yêu cầu được chấp nhận, trong
khi miền Nam cần các biện pháp Tự do mậu dịch để bán các sản phẩm
của mình và cho rằng biện pháp này là không hợp với Hiến vì chỉ
nhắm bảo vệ quyền lợi của một số địa phương và bất lợi cho nhiều
địa phương khác. Vì chia rẽ nội bộ, khuynh hướng Dân chủ - Cộng
hoà chia thành hai. Một bên thành lập Đảng Cộng hòa do
Adams cầm đầu và tương trưng cho các thế lực thượng lưu. Bên kia
là Đảng Dân chủ của Jackson.
Jackson là tượng trưng cho
Dân chủ, cho số đông quần chúng thuộc mọi khuynh hướng, ở cả hai
miền Nam Bắc. Jackson thường áp dụng lập trường hoà giải (mâu
thuẫn nhau) tuỳ theo từng trường hợp để giữ thăng bằng trong nội
bộ của mình. Jackson thắng cuộc bầu cử Tổng thống năm 1828. Năm
1830, Quốc hội đề nghị gia tăng điều kiện sở hữu đất đai. Các tiểu
bang miền Tây tố cáo tính bất hợp Hiến (và được miền Nam ủng hộ)
cho đó là một biện pháp nhắm cầm giữ lực lượng lao động cho miền
Bắc. Khi Nghị viện South Carolina sửa soạn hủy bỏ các biện pháp
bảo trợ mậu dịch và doạ ly khai thì Jackson đáp lại bằng một đạo
luật cho phép chính quyền trung ương sử dụng vũ lực đàn áp để bảo
vệ thống nhất lãnh thổ nhưng đồng thời cũng yêu cầu Quốc hội giảm
dần các biện pháp bảo trợ để thoả mãn một phần miền Nam. Trong
cuộc tranh chấp giữa Ngân hàng Quốc gia và các ngân hàng địa
phương, Jackson đứng về phía các địa phương. Hiến ước Ngân hàng
Quốc gia đã được gia hạn váo năm 1816, sẽ hết hạn vào năm 1836
nhưng, để làm áp lực trên cuộc bầu cử năm 1832, Ngân hàng Quốc gia
yêu cầu Quốc hội gia hạn Hiến ước trước và được Quốc hội chấp
thụận nhưng lại bị Jackson dùng quyền phủ quyết. Sau khi thắng cử
năm 1832, Jackson hủy bỏ Hiến ước của Ngân hàng trước thời gian
hạn định. Trong các năm 1833-1836, Ngân hàng Quốc gia phản ứng lại
bằng cách đòi thanh toán các nợ, gây ra một cuộc khủng hoảng mà
hậu quả trầm trọng với nạn lạm phát, đầu cơ kéo dài mãi cho đến
1843 mới hết. Đối lập với Jackson, gồm các thương gia, doanh nhân,
đại địa chủ,... đã mau chóng tập hợp trong một Đảng chính trị Whig
(Whig có khuynh hướng hữu cấp tiến được thành lập vào mùa đông
1833-1834 cùng tên với Đảng đối lập với Georges III ở Anh). Đảng
Dân chủ thắng trong cuộc bầu cử năm 1836, với Tổng thống Van
Buren, nhưng phải gánh chịu các hậu quả của cuộc khủng hoảng: 800
ngân hàng địa phương ngưng hoạt động, các xí nghiệp phá sản, thất
nghiệp và nạn nghèo đói gia tăng (1837). Đảng Whig chiến thắng vào
năm 1840 nhưng Tổng thống Harrison qua đời một tháng sau khi nhận
chức. Phó Tổng thống John Tyler lên thay lại là người ở Virgina và
theo đường lối của Đảng Dân chủ, trước đây gia nhập Whig vì sự độc
tài của Jackson, đưa đến một tình trang khó khăn: Tổng thống và
Quốc hội chống đối lẫn nhau.
II.1.6. Chiến tranh với
Mexico và hoàn tất cuộc chinh phục miền Viễn Tây.
Cuộc tranh chấp gay gắt khởi
sự trên vấn đề Texas. Từ năm 1821, xứ Mexico rời khỏi Đế quốc Tây
ban nha và trở thành độc lập và dân Hoa kỳ bắt đầu đến định cư ở
Texas, một lãnh thổ của Mexico. Năm 1835 dân Hoa kỳ ở Texas lên
đến 20000 người, Mexico muốn hạn chế sự định cư của dân Hoa kỳ và
bãi bỏ chế độ nô lệ. Chiến tranh bùng nỗ năm 1835, kết thúc năm
1836 sau chiến thắng ở Alamo của dân Hoa kỳ và Texas trở thành độc
lập. Trong cùng thời gian, Arkansas (1836) và Michigan
(1837) được chấp nhận vào Liên bang. Năm 1837, Texas xin gia nhập
vào Liên bang,. nhưng bị Quốc hội từ chối vì Liên bang đang ở
trong thế quân bình, với 13 tiểu bang chấp nhận chế độ nô lệ và 13
tiểu bang không chấp nhận nô lệ, trong khi đó Texas lại chấp nhận
chế độ nô lệ. Tuy nhiên Jackson cho thiết lập quan hệ ngoại giao
đặc biệt với Texas. Năm 1844, vào những ngày cuối của nhiệm kỳ,
Tyler cho thông qua việc sáp nhập Texas theo thủ tục của một đạo
luật thông thường ở Quốc hội.
Đảng Dân chủ thắng trong cuộc
bầu cử năm 1844. Tổng thống James K. Polk là một nhân vật thuộc
khuynh hướng bành trướng lãnh thổ và chủ trương để cho mỗi lãnh
thổ lựa chọn đường lối cho mình. Năm 1845, Florida và
Texas được chấp nhận vào Liên bang và Iowa năm 1846.
Năm 1846, Anh quốc nhường lãnh thổ rộng lớn Oregon ở phía Bắc cho
Hoa kỳ. Đa số Whig ở miền Bắc chống lại chính sách bành trướng của
Polk, sợ điều này làm tái diễn cuộc tranh chấp về chế độ nô lệ.
David Wilmot (Dân chủ) đưa ra đề nghị cấm chế độ nô lệ trên các
lãnh thổ mới chinh phục được của Mexico, gây xáo trộn trong nội bộ
của cả hai đảng Dân chủ và Whig. Whig và Dân chủ miền Nam họp
thành một liên minh chống lại đề nghị Wilmot trong khi Whig và Dân
chủ miền Bắc thi bỏ phiếu thuận. Kết quả, đề nghị của Wilmot không
được thông qua. Một khuynh hướng khác, Free-Soil, thì chủ trương
chấp nhận chế độ nô lệ ở đâu đã có sẵn nhưng chống lại chế độ nô
lệ trên những lãnh thổ mới. Trong thực tế, tình thế đã thay đổi
quá mau, chiến tranh với Mexico cũng đã khởi sự từ năm 1846 và
Hiệp ước Hidalgo, 1848, đem lại cho Hoa kỳ các lãnh thổ rộng lớn
của Mexico ở phía tây Texas, từ New Mexico cho đến California..
Với các lãnh thổ Oregon và
California mới được từ tay Anh quốc và Mexico, Hoa kỳ hoàn tất
cuộc chinh phục miền Tây lục địa Bắc Mỹ. Trong khoảng thời gian
ngắn, 1845-1848, lãnh thổ được tăng thêm 70% (gấp 3 lần, so với
năm 1800) và Hoa kỳ trở thành chủ nhân thật sự của lục địa Bắc Mỹ,
từ Đông sang Tây, giữa Đại tây dương và Thái bình dương, với 31
đơn vị tự trị (tiểu bang), 23 triệu dân trong đó có 4 triệu da
đen.
II.2. Cuộc chiến tranh
phân ly Nam - Bác.
II.2.1. Các nguyên nhân
trực tiếp.
Vấn đề là phải tìm cách tổ
chức lại lãnh thổ và giải quyết vấn đề nô lệ trong các lãnh thổ
mới.
Cuộc bầu cử 1848 được diễn ra
xung quanh đề tài về chế độ nô lệ, Đảng Whig thắng cử (lần cuối
cùng) với Tổng thống Zachary Taylor. Năm 1849, California và Utah
xin vào Liên bang trong khi đó lại xuất hiện các tranh chấp giữa
các lãnh thổ New Mexico (tự do) và Texas (nô lệ) và các áp lực
muốn xóa bỏ chế độ nô lệ ở Thủ đô Liên bang. Đồng thời, miến Nam
đòi hỏi miền Bắc phải tôn trọng và áp dụng các luật giao trả các
nô lệ bỏ trốn đi tìm tự do. Taylor qua đời năm 1850, Millard
Fillmore lên thay thế là một thành phần ôn hòa Whig miền Bắc, muốn
hoà giải với miền Nam và vận động để Quốc hội lần lượt thông qua 5
đạo luật: Chấp nhận California là một tiểu bang tự do;
Thành lập các lânh thổ New Mexico và Utah và để cho dân địa phương
quyết định về chế độ nô lệ; Giải quyết ôn hoà các tranh chấp giữa
New Mexico và Texas; Bãi bỏ việc mua bán nô lệ ở Thủ đô Liên bang;
Áp dụng quyền của người chủ để thu hồi các nô lệ bỏ trốn đi tìm tự
do. Lập trường của Fillmore gây bất mãn trong Whig ở miền Bắc
nhưng được Đảng Dân chủ dùng làm chương trình, tạo lại sự đoàn kết
như trước đây ở cả hai miền Nam - Bắc và thắng trong cuộc bầu cử
năm 1852 với Franklin Pierce làm Tổng thống. Sau khi thắng cử,
Pierce chủ trương bành trướng lãnh thổ và chấp nhận chế độ nô lệ,
làm mất hết các hậu thuẫn ở miền Bắc.
Đạo luật Kansas - Nebraska tổ
chức các lãnh thổ Kansas và Nebraska ở phía tây của Missouris,
được Quốc hội thông qua năm 1854, hầu như làm tan rã Đảng Whig,
làm suy yếu Đảng Dân chủ và là cơ hội để cho Đảng Cộng hòa (do
John Quincy Adams thành lập năm 1828) tái xuất hiện trên chính
trường. Theo thoả ườc Missouris, hai lãnh thổ này đương nhiên
không chấp nhận chế độ nô lệ nhưng, để tìm hậu thuẫn ở miền Nam
cho một dự án đường xe lửa xuyên lục địa, một đạo luật 1854 lại
dành quyền này cho dân địa phương quyết định,...
Lập tức ngay sau khi lãnh thổ
Kansas được phép thành lập, năm 1855, các tổ chức chống đối nhau
trên vấn đề nô lệ ở các tiểu bang khác đã đưa người của mình, được
trang bị với đầy đủ khí giới, tổ chức các cuộc bầu cử gian lận để
hợp thức hóa lập trường của mình. Thái độ của Pierce, công nhận
chế độ nô lệ ở Kansas, đã tạo ra một cuộc tranh chấp vũ trang đẫm
máu kéo dài trên một năm, hai phe đốt phá các đô thị, tàn sát lẫn
nhau với ít nhất 200 nạn nhân, Bạo động cũng diễn ra ở Quốc hội
Liên bang,... mà không ai đứng làm trung gian ngăn cản hay truy tố
các phạm nhân. Cuộc bầu cử Tổng thống năm 1856 được diễn ra trong
bầu không khí căng thẳng. James Buchanan được Đảng Dân chủ đề cử
vì vị trí trung lập trong đạo luật về Kansas - Nebraska. và thắng
cử (ở tất cả các tiểu bang miền Nam và ở một số tiểu bang miền
Bắc) nhưng Đảng Cộng hòa cũng đạt được càc kết qủa khả quan, khả
dĩ cạnh tranh với Đảng Dân Chủ.
Hai ngày sau khi nhận chức,
một biến cố quan trọng làm xáo trộn trong cả Liên bang Hoa kỳ.
Dred Scott, một người nô lệ, cho rằng mình đã là một người tự do
vì đã sống trong các tiểu bang tự do Illinois và Wisconsin. Khi
xét trường hợp này, Tối cao Pháp viện phán quyết rằng Hiến pháp
không công nhận một quyền nào cho phép Quốc hội cấm đoán nô lệ
trên các lãnh thổ, Quốc hội không có một quyền nào để cản trở lưu
thông tự do về Quyền tư hữu trên các lãnh thổ, Nô lệ là một Quyền
tư hữu. Tối cao Pháp viện bác bỏ khiếu nại của Scott, xác định chỉ
có những công dân mới có quyền đòi hỏi Pháp luật giải quyết các
tranh chấp và người da đen, tự do hay là nô lệ, không ở trong
trường hợp này. Với phán quyết này, Tối cao Pháp viện quyết định
rằng Thỏa ước Missouris là bất hợp Hiến, lập trường của miền Nam
giờ đây được Tối cao Pháp viện xác nhận và được Buchanan hậu
thuẫn. Các biến cố trên gây xúc động trong Đảng Cộng hòa nhưng làm
gia tăng sự rạn nứt trong Đảng Dân chủ. Nhiều cựu thành viên Đảng
Dân chủ và Whig tiếp tục gia nhập hàng ngũ Đảng Cộng hòa trong đó
vai trò của Abraham Lincoln, cựu thành viên Whig, ngày càng được
cũng cố qua lập trường xóa bỏ chế độ nô lệ, kèm theo một chương
trình phát triển rộng lớn (nới rộng chính sách di dân và cấp phát
đất, tăng cường các biện pháp quan thuế bảo trợ mậu dịch, xây dựng
đường xe lửa xuyên lục địa đến tận Thái bình dương,...).
II.2.2.
Chiến tranh phân ly Nam - Bắc.
Trong cuộc
bầu cử ngày 6/11/1860, Lincoln là đại diện Cộng hòa trước sự chia
rẽ trong Đảng Dân chủ với hai ứng cử viên (Stephan Douglas ở miền
Bắc và John Breckinrridge ở miền Nam).và một ứng cử viên thứ tư
John Bell. Lincoln thắng cử với đa số ở cử tri đoàn, hầu hết là ở
miền Bắc nhưng với một thiểu số 40% phiếu phổ thông. Một tuần lễ
sau, ngày 13/11/1860, Quốc hội South Carolina thông qua một kiến
nghị triệu tập một Nghị hội đặc biệt để xét vấn đề ly khai và ngày
20/11/1860, Nghị hội này quyết định giải tán Liên bang trong khi
Lincoln chưa nhận chức. Trong thông điệp cuối cùng trước Quốc hội,
Buchanan tuyên bố ly khai là bất hợp pháp nhưng chính quyền trung
ương không có đủ lực lượng để ngăn chận ly khai. South Carolina
cho rằng lời tuyên bố của Buchanan hàm chứa sự độc lập của mình và
đòi hỏi quân đội Liên bang phải rút khỏi đồn Sumter trong hải cảng
Charleston. Cho đến ngày 4/2/1861 đã có 7 tiểu bang ly khai (South
Carolina, Georgia, Florida, Alabama, Mississippi, Louisiana và
Texas), hội họp ỏ Montgomery (Alabama) để thành lập một Liên bang
mới, với Jefferson Davis làm Tổng thống. Trong diễn văn mở đầu
nhiệm kỳ ngày 4/3/1861, Lincoln kêu gọi một giải pháp hoà giải
trong tinh thần của Hiến pháp, chế độ nô lệ sẽ được tôn trọng trên
các lãnh thổ đã chấp nhận nô lệ, các nô lệ bỏ trốn sẽ được trả lại
cho chủ cũ, quyền tư hữu nô lệ được bảo vệ,.. Nhưng sự thống nhất
Liên bang phải được bảo toàn, các tiểu bang không có quyền ly khai
và vũ lực sẽ không phải là một điều kiện tiên quyết của chính
quyền trung ương, chỉ trừ khi bắt buộc,... Ngày 14/4/1861, quân
đội miền Nam pháo kích, đánh chiếm đồn Sumter. Ngày 17/4/1861,
Virginia và sau đó là Tennessee, Arkansas và North Carolina tuyên
bố ly khai nhưng 4 Tiểu bang chấp nhận nô lệ: Maryland, West
Virginia, Kentucky và Missouri vẫn còn ở lại trong Liên bang miền
Bắc
Lực lượng
hai bên được xác định rõ: Miền Bắc là một khối 23 tiểu bang với
dân số 22 triệu, Miền Nam có 11 tiểu bang với 9 triệu dân trong đó
3,5 triệu là dân nô lệ da đen. Khoảng 85% cơ xưởng kỹ nghệ, 2/3
đường xe lửa,... đều ở miền Bắc. Miền Nam có lợi thế về tự túc
lương thực, sản xuất bông gòn để tìm ngoại tệ cần thiết, có kinh
nghiệm và truyền thống quân sự và chỉ chiến đấu trên lãnh thổ của
mình. Trong thực tế, ở cả hai miền, dư luận mau chóng trở thành
bất lợi cho chiến tranh. Lịnh động viên được ban hành và áp dụng
cho các công dân dưới 45 tuổi. Ở miền Nam, chiến tranh là một sản
phẩm của tầng lớp người giàu mà người nghèo phải gánh chịu. Ở miền
Bắc, giới thợ thuyền cũng bất mãn vì các dân nô lệ được trả tự do
và cạnh tranh công việc với dân nghèo da trắng và Lincoln phải
luôn luôn cảnh giác về sự trung thành của càc tiểu bang giáp giới
với miền Nam,... Đồng thời, chiến tranh cũng là động lực phát
triển kinh tế miền Bắc, chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của quân đội,
phục vụ chiến tranh. Đảng Cộng hòa lợi dụng cơ hội để thực hiện
thành công chương trình 1860: cấp phát 160 mẫu đất cho các người
tình nguyện khai thác 5 năm, khởi sự xây dựng đường xe lửa xuyên
lục địa, thành lập một Ngân hàng Quốc gia mới,... để tài trợ chiến
tranh, đặt cơ sở căn bản tài chánh cho một quốc gia kỹ nghệ hiện
đại sau này.
Trận đánh lớn
đầu tiên diễn ra ở miền Đông, trong tiểu bang Virginia. Quân miền
Bắc muốn tấn công Richmond, Thủ đô miền Nam, nhưng thảm bại trong
trận Bull Run phải rút lui vô trật tự. Ở mặt trận phía Tây nhằm
kiểm soát Mississippi, quân miền Bắc dưới sự chỉ huy của Ulysses
Grant chiến thắng trong trận đánh Shiloh (nhưng thiệt hại khoảng
20000 quân) và David Farragut chiếm đóng New Orleans. Năm 1862,
quân miền Bắc dưới sự chỉ huy của Mc Clellan tiến đánh Richmond
nhưng bị quân miền Nam dưới sự chỉ huy của Robert E. Lee ngăn chận
và phản công trở lại.
Tháng 8/1862, ở
Antientam, 50000 quân miền Nam ở váo thế thủ trước 80000 quân miền
Bắc, làm cho Lee thiệt hại 1/4 quân số. Sau chiến thắng này,
Lincoln tuyên bố: nếu không trở lại với Liên bang trước ngày
1/1/1863 thì các nô lệ trong các tiểu bang phản loạn sẽ được giải
phóng. Được chính thức hoá sau ngày 1/1/1863, các nô lệ được trả
tự do, ngoại trừ các nô lệ đang ở dưới quyền kiểm soát của Liên
bang để thoả mãn các thành phần bảo thủ miền Bắc. Tháng 12/1863,
Lincoln tuyên bố ân xá cho những ai tuyên thệ trung thành với Liên
bang và tiểu bang náo có 10% cử tri tuyên thệ trung thành và chấp
nhận giải phóng nô lệ đều có thể thành lập chính quyền mới để trở
lại với Liên bang. Năm 1864, Quốc hội muốn nâng cao tỷ số 10%
thành 50% nhưng Lincoln dùng quyền phủ quyết bác bỏ. Đồng thời
Andrew Johnson, một thành viên Dân chủ ở Tennessee, được Lincoln
chọn làm Phó Tổng thống và thắng cử váo tháng 11/1864.
Trong năm 1863,
Lee thắng trận ở Chancellorsville nhưng quân miền Bắc chiếm đóng
Mississippi và bao vây Vicksburg. Để làm giảm áp lực ở Vicksburg,
Lee đem quân tấn công miền Bắc ở Pennsylvania nhưng thua trận ở
Gettysburg vào tháng 7/1863, tổn thiệt 28000 quân. Trong trận này,
miền Bắc mất 23000 quân nhưng lại được tăng cường thêm với các dân
nô lê da đen vừa được giải phóng. Quân miền Bắc tiếp tục tấn công
trên hai mặt: Ở mặt trận phía Đông, Grant chiến thắng quân miền
Nam dưới sự chỉ huy của Lee, váo mùa xuân 1864, nhưng Grant mất
đến 55000 quân trong khi Lee tổn thất 31000 người. Grant cho quân
bao vây Richmond và tiến đánh Petersburg. Trận chiến chỉ kết thúc
vào đầu tháng 4/1865, khi Lee rút quân khỏi Richmond và đầu hàng ở
Appomatox ngày 9/4/1865 với 25000 quân còn lại. Trong cùng thời
gian, William T. Sherman chỉ huy mặt trận Tennessee và bao vây
Atlanta, tiến đánh Savannah, phá huỷ mọi cơ sở vật chất và khủng
bố dân chúng trên đường tiến quân. Mất tinh thần, đào ngũ gia
tăng, quân đội miền Nam tan biến.
Chiến tranh
Nam-Bắc kéo dài 4 năm, kể từ khi quân miền Nam dánh chiếm đồn
Sumter ngày 14/4/1861 cho đến khi đầu hàng ở Appomatox ngày
9/4/1865., với một tổng kết nặng nề: 620000 nhân mạng, nhà cửa,
nông trại, đường xá, cơ xưởng bị tàn phá. Liên bang được toàn vẹn
thống nhất, nô lệ được giải phóng nhưng bằng bạo lực mà không trù
liệu trước các giải pháp tổ chức lại Liên bang.
II.3. Nền
tảng hiện đại của Liên bang Hoa kỳ.
II.3.1. Thời
kỳ hậu chiến tại miền Nam.
Lincoln bị
ám sát ngày 15/4/1865 mà không để lại một chương trình xây dựng
mới cho Liên bang. Phó Tổng thống Andrew Johnson lên thay là một
thành viên Dân chủ ở Tennessee và thực hiện lời tuyên bố ân xá của
Lincoln năm 1863. Đảng Cộng hòa thì chống lại, cho rằng lời ân xá
này là quá khoan dung và các tranh chấp giữa Johnson và Quốc hội
ngày càng tăng. Chế độ nô lệ được xoá bỏ với Tu chỉnh Hiến pháp
thứ 13 (1865). Các tiểu bang miền Nam được chấp nhận trở lại trong
Liên bang nhưng tình hình ngày càng trở nên tồi tệ. Các tầng lớp
ly khai cũ trở lại cầm quyền, hạn chế các quyền tự do và quyền bầu
cử của người da đen. Các dân da đen không ký kết các hợp đồng lao
động hàng năm đều bị xem như là du đảng và gởi đi lao động như nô
lệ. Các kết quả bầu cử ở miền Nam đều bị Quối hội bác bỏ. Ngược
lại Johnson cũng dùng quyền phủ quyết để bác bỏ các dự luật nhắm
bảo vệ các quyền của người mới được giải phóng.
Cho đến tháng
3/1866 Quốc hội mới tìm được đa số 2/3 cần thiết, nhờ váo phiếu
của thành phần ôn hòa, để vô hiệu hóa quyền phủ quyết của Johnson.
Tu chính án Hiến pháp thứ 14 được thông qua, công nhận quyền công
dân cho mọi người sinh ra ở Hoa kỳ hay đã được nhập tịch, tất cả
đều bình đẳng và được sự bảo vệ của Pháp luật. Trong cuộc bầu cử
năm 1866, Đảng Cộng hòa đạt được đa số 2/3 ở Quốc hội và có thể áp
đặt đường lối của mình váo công cuộc xây dựng Liên bang. Dưới sự
kiểm soát của các Uỷ ban Quân sự, Hiến pháp của các Tiểu bang miền
Nam được viết lại để tôn trọng các quyền của người da đen, phù hợp
với các Tu chính án Hiến pháp 13 và 14. Đảng Cộng hoà thắng cuộc
bầu cử năm 1868, với Tổng thống Grant và cho thông qua Tu chính án
Hiến pháp thứ 15, ngăn cấm hạn chế quyền bầu cử vì các lý do sắc
tộc, màu da hay quá khứ nô lệ. Tới năm 1870 thì mọi Tiểu bang miền
Nam mới được chấp nhận trở lại trong Liên bang, Đảng Cộng hoà kiểm
soát hầu hết các Tiểu bang, cử tri bầu cho Đảng Cộng hòa phần lớn
là dân da đen.
Đảng Dân chủ
không bao giờ chấp nhận các chính sách của Đảng Cộng hòa. Chương
trình của Đảng Cộng hòa muốn miền Nam phát triển theo mô hình tư
bản của miền Bắc cũng thất bại trên cả hai mặt: giải phóng nô lệ
và phát triển kinh tế, vì thiếu sự cộng tác của người da trắng,
thiếu vốn đầu tư và các tổ chức tài chánh. Miền Nam vẫn còn là một
vùng nông nghiệp nghèo nàn. Các tệ nạn tham nhũng, sự bất ổn định
và sự bất lực của chính quyền miền Nam cũng gắn liền với sự loại
trừ tầng lớp ly khai cũ. Đến năm 1872 tầng lớp này mới được khôi
phục các quyến của mình, đồng thời với cuộc khủng hoảng kinh tế
năm 1873. Năm 1874 Đảng Dân chủ trở thành đa số ở Quốc hội, Đảng
Cộng hòa ở miền Nam cũng không còn điểm tựa. Năm 1876, hai Đảng
tranh chấp nhau về kết quả cuộc bầu cử Tổng thống ở 3 tiểu bang
Florida, Georgia và South Carolina, bắt buộc hai bên phải tìm kiếm
một giải pháp hòa giải, cho phép Rutherford B. Hayes của Đảng Cộng
hòa đắc cử nhưng Đảng Cộng hoà phải rút quân đội khỏi miền Nam,
đồng thời cho phép miền Nam tham gia váo chính quyền Liên bang và
tài trợ cho công cuộc xây dựng lại miền Nam.
Loại trừ được
ảnh hưởng của miền Bắc, miền Nam mau chóng trở lại với hệ thống
độc tài cũ, hạn chế quyền bầu cử của người da đen, trước sự bất
lực của miền Bắc. Người nô lệ miền Nam hằng mong ước sự giải phóng
sẽ mang lại cho họ quyền được chia đất và thoát khỏi sự kiểm soát
của dân da trắng. Trong thực tế, không có một sự cấp phát đất đai
mới nào cho người da đen. Dân da đen từ chối lao động tôi đày
nhưng đa số (75%) chấp nhận vay mượn tiền với lãi xuất cao để khai
thác một khu đất của chủ cũ. Giá các hàng sản xuất lại thường do
các chủ nợ qui định nên vẫn sống trong cảnh thiếu nợ thường xuyên,
nghèo khó. Số còn lại thì di cư váo các thành phố nhưng số phận
của họ cũng không hơn gì đối với số người ở lại nông thôn.
II.3.2. Sự
khai thác và phát triển các lãnh thổ mới ở miền Viễn Tây.
Sự chiến
thắng cho phép Đảng Cộng hòa vị trí ưu thế chính trị trong nhiều
thập niên sắp tới.
Việc khai thác
lãnh thổ rộng lớn phía Tây Mississippi được khởi sự ngay sau khi
chiến tranh chấm dứt và được kích thích bởi phong trào tìm vàng đã
bắt đầu từ trước chiến tranh Nam Bắc tại California, Colorado,
Nevada, Montana, Wyoming, Idaho,.. Các tiểu bang mới được mau
chóng thành lập và chấp nhận vào Liên bang: Minesota
(1858), Oregon (1859) trước chiến tranh; Kansas
(1861), West Virginia (1863), Nevada (1864),
Nebraska (1867). trong thời gian chiến tranh. Cho đến chiến
tranh Thế giới thứ nhất, các tiểu bang sau đây được chấp nhận gia
nhập vào Liên bang: Colorado (1876), North Dakota,
South Dakota (1889), Montana , Washington
(1889),Wyoming, Idaho (1890), Utah (1896),
Oklahoma (1907), Arizona và New Mexico (1912).
Sự xây dựng
đường xe lửa cho phép khai thác vùng đồng bằng rộng lớn cho đến
vùng núi Rocky Mountains rồi đến vùng cao nguyên phía tây núi
Rocky Mountains cho đến biên giới huyền thoại cuối cùng miền Tây:
các dãy núi Sierra Nevada và Cascade Range. Xe lửa đưa tới các
vùng lân cận lớp người khai thác các hầm mỏ bừa bãi, các thị trấn
được xây dựng khắp nơi, các xí nghiệp được thành lập cạnh tranh
lẫn nhau, tạo thành một thành phần kinh tế quan trọng trong thập
niên 1880. Sau một thời gian ngắn khai thác, các thị trấn này bị
bỏ phế hoặc chuyển qua các hoạt động khác: thời kỳ Cao bồi và các
trại nông nghiệp.
Cuộc di
dân về phương Tây hiển nhiên bắt buộc các thổ dân da đỏ phải liên
tục tìm nơi định cư mới, trước sự tiến tới ồ ạt của dân da trắng
miền Đông. Để duy trì an ninh, giải pháp cuối cùng là dùng vũ lực
để tập trung và cô lập các thổ dân da đỏ vào các vùng riêng biệt,
cùng một lúc với sự tàn sát giống bò rừng, phương tiện sinh sống
của người da đỏ (trong 3 thập niên, trên 15 triệu bò rừng bị tàn
sát, đến năm 1893 chỉ còn lại vài ngàn con)..
Giống bò
rừng bị giết để lại một vùng đồng cỏ rộng lớn và được biến thành
các trại chăn nuôi bò. Bò đã sẵn có khoảng 5 triệu con đang sống
tự do trong thiên nhiên ở Texas vào năm 1867 và chỉ cần tập trung
lại trong các trại chăn nuôi mới,... cung cấp cho thị trường miền
Đông, qua trung gian của các thành phố Chicago, Kansas City, St
Louis,...Trong hai thập niên, các trại chăn nuôi ở miền Tây được
phồn thịnh, nhưng tầng lớp người làm công chăn bò Cao bồi cũng chỉ
sống và lao động trong những điều kiện chật vật. Thời kỳ phồn
thịnh các trại chăn nuôi chấm dứt vì nạn hạn hán trong nhiều năm
liên tiếp vào cuối thập niên 1880, làm thiệt hại 90% đàn súc vật
và nhường chổ ưu tiên cho sự phát triển các nông trại.
Đường xe lửa là
trung tâm của sự phát triển miền Tây và phần đông nông dân chọn
đến định cư trên vùng đồng bằng rộng lớn dọc theo đường xe lửa và
thuộc quyền sở hữu của Công ty. Trong thời gian 1870-1900, các
Công ty Xe lửa.tuyển mộ được khoảng 2 triệu người đến định cư, cơ
giới hoá nền nông nghiệp. Năng suất tăng lên gấp 10 lần trong thời
gian 1850-1900, Nông nghiệp trở thành một yếu tố quan trọng của
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc trang bi máy móc cho các
nông trại rất tốn kém, tiên vay mượn lãi xúât cao, giá chuyên chở
hàng hóa tăng dần làm cho nông dân ngày càng mắc nợ. Năm 1870,
nhân dip hạn hán và mất mùa, tổ chức Granges được thành lập giúp
nông dân chống lai sự độc quyền của các Công ty xe lửa.
Năm 1875, Granges qui tu dược
800000 hội viên. Năm 1880, số hội viên chỉ còn lại 100000, khi thị
trường trở lại thịnh vượng,...
Ở miền Nam, cuộc khủng hoảng
kinh tế vào các năm cuối của thập niên 1880 đưa tới sự thành lập
tổ chức nông dân Southern Alliance mạnh, nhất là ở Texas,
Louisianna và Arkansas. Năm 1888, tổ chức qui tụ được 250000 hội
viên và năm 1892 đưa đến sự thành lập của Đảng Nhân dân, The
People's Party, trong mục tiêu tranh đấu chính trị và đưa James B.
Weaver ra ứng cử Tổng thống cùng với Đảng Cộng hòa và Dân chủ.
Thất bại trong cuộc bầu cử năm 1892, Đảng Nhân dân tan rã, nhưng
các mục tiêu cải tổ của Đảng Nhân dân được chấp nhận sau này, khi
nền kinh tế trở lại thịnh vượng. Grover Cleveland, thuộc Đảng Dân
chủ thắng cử năm 1892 không giải quyết được khủng hoảng kinh tế và
thất nghiệp. Trong cuộc bầu cử năm 1896, William McKinley thuộc
Đảng Cộng hòa chủ trương bảo trợ mậu dịch và phát hành tiền tệ dựa
trên kim bản vị, lấy vàng làm tiêu chuẩn,... thắng cử và đưa Hoa
kỳ trở lại thời kỳ phồn thịnh kỹ nghệ như trước. Các nông thôn
cũng dần dần ổn định lại, sản xuất và giá cả hàng hóa lên cao, đem
lại lợi tức cho nông dân và ổn định chung,...
II.3.3. Cách mạng kỹ nghệ
cuối thế kỷ XIX.
Chiến tranh là cơ hội
tạo điều kiện cho một thay đổi mới, với phát triển kỹ nghệ, với
các hình thức tập trung các xí nghiệp, kinh tế độc quyền,... và là
cơ hội làm giàu cho tầng lớp doanh nhân,... làm suy giảm tiến bộ
trong các lãnh vực cải cách xã hội, chính tri.
Sự gia tăng dân số mau
chóng, từ 32 triệu lên 76 triệu trong khoảng thời gian 1860-1900.
Các thành phố kỹ nghệ phát triển mau chóng. Năm 1900, dân các
thành phố New York, Philadelphia, Chicago đều vượt quá con số 1
triệu. Sau chiến tranh, các phong trào di dân tới Hoa kỳ được đẩy
mạnh, với số lượng 14 triệu người trong khoảng thời gian
1865-1900. Các thành phần di dân mới xuất phát từ mọi vùng Âu
châu, với nhiều thành phần tôn giáo, quốc tịch và ngôn ngữ khác
nhau trong khi tỷ số người Anh và Ái nhĩ lan thì giảm dần. Trong
thập niên 1880, 72% là người Bắc và Tây Âu. Người di dân đến từ
Đông và Nam Âu chiếm 52% trong thập niên 1890 và 70% trong thập
niên 1910. Đa số các dân này đều sống tập trung thành các cộng
đồng lớn trong các thành phố kỹ nghệ và sinh hoạt trong những
ngành nghề riêng biệt.
Nhờ nhu cầu phục vụ
chiến tranh, kỹ nghệ ở miền Bắc đã tăng trưởng vượt bực và cho
phép tạo ra xã hội doanh nhân, nhiều thành phần thu được các số
vốn khổng lồ để đầu tư vào xây dựng phát triển kinh tế sau này.
Cho đến cuối thập niên 1880, nền kinh tế Hoa kỳ chính yếu là sản
xuất nông nghiệp nhưng đến năm 1890 thì trị giá các sản phẩm kỹ
nghệ bắt đầu vượt quá các sản phẩm nông nghiệp và đến năm 1900 thì
trị gía hàng hoá kỹ nghệ lại gấp đôi so với nông nghiệp. Nền kỹ
nghệ chủ yếu dựa vào khai thác sắt thép ở Minnesota, than đá và
dầu lửa ở Pennylvania, West Virginia, Ohio,... Yếu tố thứ hai của
cuộc cách mạng kỹ nghệ là việc sử dụng các bằng cấp phát minh mới
về khoa học kỹ thuật, việc tổ chức và phương pháp sản xuất dây
chuyền và sự tập trung các xí nghiệp.
Căn bản của nền kinh tế tư
bản được khuyến khích ngay từ đầu và xây dựng trên căn bản tập
trung các phương tiện đầu tư trong những tổ hợp rộng lớn có khả
năng thích ứng với mọi tiến hóa. Công ty đường xe lửa là ví dụ
điển hình đầu tiên của hình thức đại doanh nghiệp tư bản. Đường xe
lủa là phương tiện giao thông thay thế các kinh đào, cho phép mọi
kỹ nghệ dễ dàng tìm kiếm nguyên liệu và phân phối các sản phẩm.
Khởi sự xây dựng đường xuyên lục địa từ năm 1862, năm 1869 hệ
thống đường xe lửa được tiếp tục với 5 mạng lưới khác. Năm 1860,
Hoa kỳ sẵn có 48000 Km đường xe lửa, đến năm 1900 tổng cộng đạt
được con số khổng lồ 308000 Km.
Sư tập trung các xí
nghiệp là một hiện tượng phổ biến vào cuối thế kỷ xix, dưới hai
hình thức khác nhau. Trong sự tập trung theo chiều cao, đó là sự
kiểm soát mọi giai đoạn sản xuất của sản phẩm, như trường hợp của
Andrew Carnegie với kỹ nghệ thép: Bắt đầu từ đường xe lửa, sau năm
1873 Carnegie tâp trung vào lãnh vực thép và sản xuất được thép
với giá rẻ hơn các đối thủ, nhờ vào các kỹ thuật mới. Từ đó
Carnegie mua lại các xí nghiệp của các đối thủ, mua được các mỏ
sắt, mỏ than, đường xe lửa, xưởng đóng tàu thủy và sau cùng kiểm
soát được kỹ nghệ thép, từ các hầm mỏ cho đến phân phối hàng hóa
trên thị trường. Năm 1900, Carnegie sản xuất được 1/3 số lượng
thép của Hoa kỳ.
Sự tập trung theo chiều ngang
là sự tập trung các xí nghiệp sản xuất cần thiết cho mọi giai
đoạn chế biến trung gian của một sản phẩm, như trường hợp của Công
ty Standard Oil của John D. Rockefeller. Năm 1863, Rockefeller góp
vốn vào một công ty lọc dầu ở Cleveland (Ohio) và tìm được một
phương thức lọc dầu ít tốn kém. Năm 1870 Rockefeller trở thành Chủ
tịch Standard Oil Company và kiểm soát được 90% thị trường lọc
dầu. Với cuộc khủng hoảng năm 1873, Rockefeller loại trừ các đối
thủ và trở thành độc quyền trong ngành lọc dầu và kiểm soát cả hệ
thống ống dẫn và thị trường phân phối dầu.
Các hình thức độôc
quyền trên đây ngày càng phổ biến và được lạm dụng trong mọi ngành
hoạt động kinh tế: dệt vải, thuốc lá, đồng, thực phẩm,.. đem đến
sự phồn vinh kinh tế và lợi tức khổng lồ cho một thiểu số các
doanh nhân, kỹ nghệ gia và giới tài phiệt,.. không cân xứng với
nỗ lực làm việc của tầng lớp người lao động. Sự tập trung các xí
nghiệp bằng phương tiện tài chánh cũng thường được lợi dụng để
loại trừ một cách bất chánh. các đối thủ, dành độc quyền
định đoạt giá cả hàng hóa, thay đổi các thánh phần kinh tế,.. và
tạo ra một tình trạng bất ổn định thường xuyên vì cạnh tranh bất
chính. Năm 1890, Luật Sherman chống độc quyền được thông qua nhưng
không có hiệu lực thực tiễn đối với các giới đại độc quyền, đa số
chỉ phải trả những số tiền phạt tượng trưng.
Sự phát triển vượt bực
của nền kỹ nghệ không kèm theo những biện pháp cải tiiến xã
hội thích đáng cho tầng lớp người lao động. Trong các xí nghiệp,
các công nhân phải làm việc theo nhịp của các máy móc, lương kém,
thời gian lao động quá nhiều (10 giờ mỗi ngày, 6 ngày mỗi tuần),
không có thanh tra lao động. Nhìn chung, các tổ chức công đoàn bảo
vệ quyền lợi người lao động thiếu tổ chức trong khi dư luận lại
không chấp nhận các hình thức đấu tranh ý thức hệ và bị đàn áp
ngay, một khi có dấu hiệu dung túng các hình thức tranh đấu bạo
động. Năm 1866 The National Labor Union được thành lập tranh đấu
đòi chỉ lao động 8 giờ mỗi ngày. Năm 1872 Labor qui tụ được 300000
hội viên và đề cử người tham gia cuộc bầu cử. Bị thất bại, Labor
tan rã cùng lúc với cuộc khủng hoảng năm 1873. Sau vụ đình công
của nhân công đường xe lửa năm 1877, tổ chức Knights of Labor xuất
hiện, năm 1886 qui tu được 700000 hội viên thuộc đủ thành phần,
tranh đấu đem lại cho 200000 công nhân làm việc 8 giờ mỗi ngày.
Nhưng cuộc biểu tình bạo động ngày 4/5/1886 ở Chicago là cơ hội để
đàn áp và tổ chức Knights of Labor mất dần hội viên. Chỉ có hình
thức Công đoàn thương thuyết với giới chủ xí nghiệp trên từng nghề
nghiệp chuyên môn nhất định, trên những mục tiêu ngắn hạn, cụ
thể,... mới tồn tại lâu dài và đạt được các kết quả. Các hình thức
công đoàn này đã xuất hiện từ đầu thập niên 1870 và được Samuel
Gompers tập trung thành một tổ chức chung: American Federation of
Labor vào năm 1886.
II.3.4. Bước đầu của một
Đế quốc. Chiến tranh Hoa kỳ và Tây ban nha năm 1898.
Cho đến trước chiến
tranh Nam - Bắc, Hoa kỳ đã chỉ bành trướng lãnh thổ trong lục địa
Bắc Mỹ từ Đông sang Tây giữa hai Đại dương và giới hạn bởi Canada
ở phương Bắc và Mexico ở phương Nam, trong khuôn khổ của Chủ
thuyết Monroe (1823), và được Tổng thống James K.Polk xác định lại
năm 1845, trong mục tiêu cần thiết bảo vệ các quyền tự do hành
động của Hoa kỳ. Điểm căn bản của chủ trương này ngăn cấm mọi sự
can thiệp của các cường quốc đương thời vào an ninh và nội tình
của Hoa kỳ, đồng thời với lập trường trung lap của Hoa kỳ trong
các tranh chấp quốc tế giữa các cường quốc. Nhưng sự phát triển
vượt bực của Hoa kỳ trong mọi lãnh vực, về lãnh thổ cũng như về
dân số và kinh tế, nhất là từ sau cuộc nội chiến Nam - Bắc, đã đưa
Hoa kỳ lên vị trí của một cường quốc thế giới. Hoa kỳ không thể
giữ yên vị trí cô lập như trước nữa mà còn phải giải quyết việc
tìm kiếm các nguyên liệu cần thiết và thị trường tiêu thụ các sản
phẫm của nền kỹ nghệ của mình. Đồng thời để giải quyết cuộc khủng
hoảng kinh tế của thập niên 1890, những yếu tố thúc đẩy Hoa kỳ
phải thay đổi chiến lược toàn cầu của mình, thoát ra khỏi giới hạn
của lục địa Bắc Mỹ, với tham vọng trở thành một đế quốc có khả
năng đương đầu với các cường quốc khác.
Năm 1867, ngay sau khi
chiến tranh chấm dứt, Hoa kỳ đã thực hiện việc mua lãnh thổ Alaska
từ tay Nga hoàng. Đến năm 1875, Hoa kỳ đã là thành phần chính sản
xuất đường ở Hawai, năm 1887 xây dựng ở đây căn cứ Pearl Harbor,
năm 1893 đặt Hawai dưới sự bảo hộ (và sáp nhập vào lãnh thổ Hoa kỳ
năm 1898). Năm 1878, Hoa kỳ đã can thiệp vào Samoa và đặt Somoa
dưới quyền bảo hộ của mình vào năm 1889. Năm 1895, trong cuộc
tranh chấp giữa Anh quốc và Venezuela về lãnh thổ Guyanne, Hoa kỳ
xác nhận với Anh ý muốn giải quyết các vấn đề trên toàn lục địa Mỹ
châu theo lập trường của mình. Chủ trương của Monroe trở thành lỗi
thời, Hoa kỳ xác nhận ý chí bành trướng toàn cầu của mình.
Lãnh thổ Cuba của Tây ban nha
cũng không thoát khỏi sự dòm ngó của Hoa kỳ. Các tiểu bang miền
Nam Hoa kỳ tìm được ở đây một địa điểm thuận lợi cho thị trường
mua bán nô lệ. Năm 1890, Cuba trở thành nơi đầu tư chính của Hoa
kỳ. Năm 1895 kỹ nghệ đường ở Cuba bị khủng hoảng, Hoa kỳ giảm 50%
nhập cảng đường từ Cuba, gây nội loạn và bị chính quyền Tây ban
nha đàn áp. Tổng thống Hoa kỳ Grover Cleveland (và kế tiếp là
McKinley, một nhân vật thuộc khuynh hướng bành trướng lãnh thổ)
làm áp lực đòi Tây ban nha thành lập một qui chế tự trị cho Cuba.
Ngày 15/2/1898 chiến hạm Maine của Hoa kỳ, vì một lý do không rõ
rệt, bị chất nỗ làm chìim trong hải cảng La Havana. Ngày
19/4/1898 Quốc hội Hoa kỳ cho phép McKinley dùng quân đội can
thiệp vào Cuba, ngoại trừ giải pháp sáp nhập Cuba vào lãnh thổ Hoa
kỳ. Chiến tranh giữa Tây ban nha và Hoa kỳ khởi sự ngày 29/4/1898.
Ngay sau đó, ngày 1/5/1898, Ham đội Hoa kỳ ở Thái bình dương đã
đánh tan Hạm đội Tây ban nha ở Manila và McKinley đưa thêm 5000
quân để chiếm đóng Philippines. Ở mặt trận phương Đông, ngày
1/7/1898, quân đội Hoa kỳ thành công đổ bộ và chiếm đóng vùng cửa
biển Santiago, mặc dầu bị thiệt hại 1572 quân và ngày 3/7/1898
đánh chìm Hạm đội Tây ban nha trong vịnh Santiago. Mất chỗ dựa vào
hải quân, quân đội Tây ban nha ở Cuba ra đầu hàng ngày 17/7/1898.
Ngày 25/7/1898 Porto Rico bị Hoa kỳ chiếm đóng trong khi đó, ở
Thái bình dương, tháng 8/1898 Manila rơi vào tay Hoa kỳ.
Chiến tranh chấm dứt với Hiệp
định Paris, Cuba rời khỏi đế quốc Tây ban nha và trở thành một
quốc gia độc lập, Hoa kỳ trở thành chủ nhân các đảo Porto Rico,
Guam và Hawaii bị sáp nhập vào lãnh thổ Hoa kỳ đặt
Philippines dưới sự bảo hộ của Hoa kỳ (cai trị bằng quân đội.và
mau chóng gặp phải sự chống đối của dân bản xứ, năm 1904 một chính
quyền dân sự được thành lập và đòi quyền độc lập). Với các chiến
thắng này, Hoa kỳ đương nhiên là thành viên hội các Đế quốc của
Thế giới hiện đại, đóng một vai trò chủ yếu không những trong vùng
biển Caraibes mà còn ở những vùng xa xôi xa hơn nữa trong Thái
bình dương.
Tổng kết.
Khi bước vào thế kỷ XX,Hoa ky
hầu như đã đạt đơợc nền tảng ổn định như hiện nay trong mọi lãnh
vực.
Trong lãnh vực bành trướng
lãnh thổ, ngoại trừ vùng kinh đào Panama được sáp nhập vào
lãnh thổ Hoa kỳ năm 1903 và Haiti được đặt dưới sự bảo hộ của Hoa
kỳ vào năm 1914; Hoa kỳ hầu như không còn chinh phục thêm một miển
đất mới nào nữa.
Trong lãnh vực quản trị hành
chánh, Hoa kỳ đã có 48 đơn vị hành chánh Tiểu bang khi chấm dứt
thế kỷ XIX. Hai lãnh thổ cuối cùng được chấp nhận vào Liên bang là
Alaska (1958) và Hawai (1959).
Trong lãnh vực chính trị, chế
độ nô lệ được chính thức bãi bỏ từ sau cuộc chiến tranh phân ly
Nam - Bắc. Chỉ còn lại yếu tố căn bản xây dựng một chế độ Dân chủ
là Quyền phổ thông đầu phiếu của mọi công dân, không phân biệt
giới tính nam hay nữ, nhưng điều này sẽ được bổ túc vào năm 1920
với Tu chính án Hiến pháp thứ 19..Đến năm 1971, Tu chính án Hiến
pháp thứ 26 ấn định quyền bầu cử của mọi công dân trên 18 tuổi.
Trong lãnh vực phát triển
kinh tế, cuộc cách mạng kỹ nghệ đã đưa Hoa kỳ lên vị trí của một
cường quốc giàu manh, thúc đẩy Hoa kỳ từ bỏ dần dần chính sách cô
lập để can thiệp vào các quan hệ quốc tế, tìm thị trường tiêu thụ
các sản phẩm thặng dư của mình,... để sau này trở thành một Đế
quốc Tư bản hàng đầu trong thế giới hiện đại...
Tôn Thất Long