Năm nay
(2007) xấp xỉ 80 tuổi, nhà lý thuyết ngữ pháp Noam Chomsky – với
những kiến thức siêu phàm về luận lý, triết, và toán học – là một
trong những bộ óc có nhiều ảnh hưởng nhất trong thời đại chúng ta.
Ông cũng là một trong số rất ít các khoa học gia mà công trình
nghiên cứu được quần chúng quan tâm theo dõi.
Sau khi hoàn
tất văn bằng tiến sĩ ngữ học tại Viện Đai Học Pennsylvania vào năm
1955, Chomsky bắt đầu dạy tại Viện Kỹ Thuật Massachusetts (MIT).
Ông được thăng giáo sư thực thụ năm 1961, và năm 1976 được nhận
tước vị “Institute Professor”, tức là được gia nhập một hàng ngũ
chọn lọc các đồng nghiệp mà đa số đã lãnh giải Nobel về các bộ môn
khác nhau. Rất nhiều chuyên viên ngữ học thời danh khắp năm châu
từng là học trò cũ của ông hoặc từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của
ông nên vẫn một lòng tiếp tục ngưỡng mộ và quảng bá những lý
thuyết cũ cũng như mới của Chomsky.
NGỮ PHÁP BIẾN TẠO
Sự đóng góp
độc đáo nhất của Chomsky là đã đề xướng được một mô thức không ai
sánh kịp để mở đường cho các khám phá ngoạn mục trong các môn khoa
học tri thức (cognitive sciences). Mô thức riêng cho ngôn ngữ,
thường được biết đến dưới danh hiệu “ngữ pháp biến tạo”
(transformational / generative grammar), được trình làng trong
cuốn Syntactic Structures (1957), khi ông mới 29 tuổi đời. Cuốn
sách nho nhỏ không quá 120 trang này, xuất bản tại Hòa Lan, đã
đánh dấu một kỷ nguyên mới cho khoa ngữ học trong hậu bán thế kỷ
20, thách thức mọi ức thuyết trong các lãnh vực triết lý, tâm lý,
và lịch sử trí thức. Chomsky đã làm thay đổi hướng đi của khoa ngữ
pháp bằng cách không đoái hoài tới những công việc mô tả và xếp
loại các câu nói thực sự (như các nhà ngữ học thời đó thường làm –
một lối làm việc mà Chomsky mỉa mai ví như là nỗ lực “sưu tầm các
loại bươm bướm”), mà là bắt đầu đặt những câu hỏi về bản chất cái
hệ thống sản xuất ra ngôn ngữ. Chomsky cho rằng lý thuyết về ngôn
ngữ của trường phái “hành vi” (behaviorist), mà những đại diện lẫy
lừng là Leonard Bloomfield và B. F. Skinner, quá hạn hẹp vì chỉ
chú trọng đến việc mô tả những câu nói đã thực sự xảy ra và không
cắt nghĩa được bản chất sáng tạo (creativity) của ngôn ngữ cá
nhân. Theo Chomsky, một ngữ pháp phải có khả năng cắt nghĩa được
cái bản chất sáng tạo quan yếu đó, vì chính nhờ vào nó mà chúng ta
có thể thốt ra và hiểu được một con số vô hạn định những câu nói
hoàn toàn mới mẻ (novel utterances).
Một trong
những xác quyết quan trọng nhất của ngữ pháp biến tạo là sự thừa
nhận một “ngữ pháp đại đồng” (universal grammar), được phản ánh
qua một số các đặc trưng hiện diện trong toàn thể ngôn ngữ nhân
loại, chắc hẳn vì bản chất đồng nhất của bộ óc con người. Ngữ pháp
biến tạo chủ trương làm sáng tỏ, qua những công thức có hình dạng
toán học, tất cả những quy luật ngữ pháp có thể tạo sinh ra các
“cấu thức nổi” (surface structures) tức là tất cả những gì chúng
ta thực sự nói, nghe, đọc, và viết. Nó cũng giả định sự hiện hữu
của các “cấu thức chìm” (deep structures) ở một mức độ trừu tượng
hơn, nằm trong não bộ của người nói, người nghe, người viết, hoặc
người đọc để giúp chúng ta hiểu nghĩa các cấu thức nổi. Để cụ thể
hóa ý niệm “deep structure” cho dễ hiểu hơn, trường phái Chomsky
cũng đưa ra ý niệm tương đương là “kernel sentence”(tạm dịch là
“câu lõi”). Một câu lõi là một câu đơn gồm có một chủ từ, một động
từ ở thời hiện tại và thể xác định, và một túc từ, chẳng hạn như
“The boy eats an apple.”
Xin đưa ra
một vài thí dụ trong tiếng Việt để làm sáng tỏ phần nào những ý
niệm trên đây của ngữ pháp biến tạo. Câu nói “Kim Trọng và Thúy
Kiều nhớ nhau” là một cấu thức nổi, gọn gàng hơn so với câu có thể
được coi như cấu thức chìm là “Kim Trọng nhớ Thúy Kiều và Thúy
Kiều nhớ Kim Trọng.” Và sau đây là một thí dụ về ý niệm biến tạo:
Câu “Kim Trọng được Thúy Kiều yêu” là một cấu thức nổi, biến tạo
từ câu lõi “Thúy Kiều yêu Kim Trọng” qua luật biến tạo thụ động
cách. Luật này, nhanh như điện, đã hoán chuyển vị trí hai nhân
vật, đẩy động từ xuống cuối câu, và thêm ngữ vị chức năng “được”
vào giữa hai nhân vật.
Một cấu thức
chìm có thể được thể hiện qua vài cấu thức nổi (nhờ vào các quy
luật biến tạo khác nhau) mà ý nghĩa vẫn là một, chẳng hạn như ba
câu sau đây: (1) “Kiều trao Kim của tin”, (2) “Kiều trao của tin
cho Kim”, và (3) “Kim được Kiều trao của tin” đều có cùng một cấu
thức chìm. Câu (2) có thể được coi như là gần gũi nhất với cấu
thức chìm chung cho cả ba. Ngược lại, hai cấu thức nổi rất giống
nhau về hình thức nhưng lại có thể khác nhau rất nhiều về ý nghĩa
vì chúng có hai cấu trúc chìm khác biệt. Thí dụ hai câu (4) “Người
Việt dễ chiều chuộng” và (5) “Người Việt sẵn sàng chiều chuộng”
giống hệt nhau về hình thức, nhưng về ý nghĩa thì trong câu (4)
“Người Việt” là túc từ của động từ “chiều chuộng” và trong câu (5)
“Người Việt” lại là chủ từ của động từ “chiều chuộng.” Trường phái
hành vi của Bloomfield và Skinner đã không thể nào giải thích được
sự khác biệt về ý nghĩa này trong các câu có hình thức tương tự.
Xin thú nhận rằng hai câu thí dụ (4) và (5) của tôi trong tiếng
Việt đã do cảm hứng từ hai thí dụ lừng lẫy của Chomsky trong sách
vở: “John is easy to please” và “John is eager to please.”
Chomsky đã
từng tuyên bố “người nào ở tuổi 50 mà vẫn còn dạy những điều đã
dạy khi 25 tuổi thì nên chọn nghề khác,” và ông đã thực hành
phương châm ấy một cách ngoạn mục. Từ khi cuốn Syntactic
Structures ra đời năm 1957, Chomsky đã không ngừng cập nhật hóa lý
thuyết của mình với nhiều ý niệm mới trong những cuốn sách về sau,
nhất là trong các cuốn Aspects of the Theory of Syntax (1965),
Rules and Representations (1980), Barriers (1986), và The
Minimalist Program (1995).
CƠ QUAN NGÔN NGỮ
Chomsky đã
làm giới nghiên cứu tâm lý và ngữ học trên hoàn cầu (lúc ấy còn
đang cho rằng trí não của trẻ thơ chỉ là một trang giấy trắng)
sửng sốt với ý niệm mới mẻ rằng ngôn ngữ, cũng như đa số các năng
khiếu khác của con người, tùy thuộc vào các cơ cấu trí não đã được
an bài trong nhiễm thể. Theo ông, sự trở nên thành thạo tiếng mẹ
đẻ một cách dễ dàng và nhanh chóng trong thời thơ ấu là một phần
của sự trưởng thành cơ thể đã được thiên nhiên “thảo chương” từ
trước. Cũng như di truyền tính đã ban cho mỗi hài nhi một trái tim
và hai lá phổi càng ngày càng phát triển sau khi lọt lòng mẹ, di
truyền tính cũng ban cho nó một “cơ quan ngôn ngữ” (language
organ) vô cùng phức tạp và hiệu nghiệm. Những thăng trầm trong đà
tiến hóa của loài người đã uốn nắn cái cơ quan ngôn ngữ ấy sao cho
nó chỉ có thể học được những ngôn ngữ nhất định nào đó trong một
phạm vi tương đối nhỏ hẹp của các cấu trúc luận lý. Những ngôn ngữ
khác không ở trong phạm vi ấy thì ngay cả các thần đồng cũng không
tài nào học nổi!
Theo
Chomsky, qua những tác động với môi trường ngôn ngữ ngoài đời, cơ
quan ngôn ngữ sẽ dần dần trở thành ngữ pháp của tiếng nói ấy. Như
vậy, nếu một cá nhân sinh trưởng ở Philadelphia, như trường hợp
Chomsky, khối óc người ấy sẽ ký hiệu hóa (encode) kiến thức về
phương ngữ Philadelphia của tiếng Mỹ. Nếu khối óc ấy sinh trưởng ở
Saigon thì nó sẽ ký hiệu hóa phưỡng ngữ Saigon của tiếng Việt.
NGỮ PHÁP ĐẠI ĐỒNG
Chomsky
không những đã khai sáng ra ngữ pháp biến tạo mà còn kêu gọi các
nhà nghiên cứu hãy lưu tâm đến “những nét đại đồng của ngôn ngư”õ
(language universals) để tìm thấy những yếu tố cùng những cơ cấu
có thể hiện diện trong mọi ngôn ngữ, hoặc đa số ngôn ngữ. Và quan
trọng hơn cả, họ phải xác định được những giới hạn, “những kiềm
chế đại đồng” (universal constraints) mà trong đó ngôn ngữ loài
người thực hiện chức năng. Những kiềm chế này, theo Chomsky, có
tính cách di truyền, và con người rất có thể đã được cung cấp
trong nhiễm thể một kiến thức căn bản về ngôn ngữ và cách thao
tác của ngôn ngữ loài người. Chomsky mệnh danh cái nòng cốt thừa
hưởng (inherited core) đó là “ngữ pháp đại đồng” (thường được viết
hoa là Universal Grammar và viết tắt là UG).
Ngữ pháp đại
đồng cho rằng mỗi cá nhân đều biết một số “nguyên lý” (principles)
áp dụng cho tất cả ngôn ngữ và một số “thông số” (parameters) có
thể khác biệt từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia, nhưng chỉ trong
những giới hạn nhất định. Như vậy, học hỏi một ngôn ngữ có nghĩa
là áp dụng những nguyên lý của ngữ pháp đại đồng vào ngôn ngữ đó,
và khám phá ra giá trị của mỗi thông số trong ngôn ngữ đó.
Một nguyên
lý của ngữ pháp đại đồng là “sự phụ thuộc cấu trúc” (structure
dependency). Điều này có nghĩa là nếu chúng ta muốn hiểu một ngôn
ngữ, chúng ta phải dựa vào kiến thức của những “tương quan cấu
trúc” (structural relationships) trong câu, thay vì chỉ nhìn vào
câu đó như một chuỗi chữ nối tiếp nhau. Vậy thì sự hiểu ý của câu
“Kiều và Vân nép dưới hoa” không phải là “Kiều / và / Vân / nép /
dưới / hoa” mà là như sau: Câu này gồm hai phần mệnh danh “chủ
ngữ” (subject) và “vị ngữ” (predicate). Chủ ngữ là vai trò của cụm
danh từ (noun phrase) gồm các từ “Kiều và Vân”, và vị ngữ là vai
trò của cụm động từ (verb phrase) gồm các từ “nép dưới hoa.” Cái
tương quan cấu trúc giữa chủ ngữ và vị ngữ trong câu này giúp
người nghe, người đọc hiểu ý nghĩa của nó.
Cấu trúc câu
tiếng Việt trên đây cũng nằm trong cái “quy luật kết cấu cụm từ”
(phrase-structure rule) khét tiếng trong cuốn Syntactic
Structures: S -> NP + VP. Trong quy luật này, S đọc là
“sentence”, -> đọc là “consists of” hoặc “is rewritten as”, NP đọc
là “noun phrase”, và VP đọc là “verb phrase.” Về chức năng thì NP
ở đây đóng vai “subject” và VP đóng vai “predicate.”
Một trong
những thông số có thể thay đổi – trong những giới hạn nào đó tùy
ngôn ngữ – là “thông số đầu” (head parameter) tức là yếu tố chính
của mỗi cụm từ (phrase). Vì trong tiếng Anh, yếu tố đầu thường
đứng đầu trong cụm từ, Chomsky mệnh danh tiếng Anh là một
“head-initial language.” Và tiếng Nhật, vì hoàn toàn trái ngược
với tiếng Anh trong thông số này, được coi là một “head-final
language.” Hai thí dụ sau đây về các cụm từ Anh và Nhật (với ý
nghĩa tương đương) sẽ làm sáng tỏ vấn đề, trong đó các “heads”
được viết bằng chữ lớn: (1) IN Japan = Nihon NI, và (2) (I) AM
Japanese = (Watashi wa) nihonjin DESU.
HƯỚNG VỀ TƯƠNG LAI
Chomsky
trông đợi ngày các nhà nghiên cứu ngữ pháp đại đồng sẽ hoàn tất
một bảng liệt kê các “nguyên tử ngôn ngữ” (linguistic atoms) cùng
với những sự kết hợp của chúng để nhờ vào đó chúng ta có thể điểm
mặt bất cứ một ngữ pháp nào của nhân loại, tương tự như “bảng tuần
hoàn” (periodic table) mà nhà bác học Dmitry Mendeleyev đã thực
hiện cho các hóa chất vào năm 1869.
Gần đây hơn,
Chomsky trong cuốn The Minimalist Program (1995) đã áp dụng một
“thảo chương ở mức tối thiểu” để sắp xếp loại toàn bộ lý thuyết
ngữ pháp mà ông đã xây đắp trên căn bản “nguyên lý và thông số”
(principles and parameters approach) trong cuốn Lectures on
Government and Binding(1981). Lần này, Chomsky đã bỏ đi rất nhiều
và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết tối thiểu, vì ông đã hết tâm
chú trọng đến các nguyên tắc “tiết kiệm” (economy) và “đồ án tối
lợi” (optimal design).
Có thể một
ngày nào đó lý thuyết của Chomsky sẽ bị đào thải, do sự đồng thuận
của các nhà ngữ học cho rằng lý thuyết ấy không còn phù hợp hoặc
đã “đi trật đường rầy” trong việc giải thích ngữ pháp nhân loại.
Nhưng giả dụ ngay cả khi điều ấy xảy ra thì nỗ lực siêu phàm hình
thức hóa được những ý niệm của ông trong công việc phân tích ngôn
ngữ đã giúp chúng ta hiểu được những ý niệm kiệt xuất đó. Và chỉ
điều này thôi cũng đã đủ cho chúng ta có thể kết luận rằng “cuộc
cách mạng Chomsky” đã thành công to rồi.
ĐÀM TRUNG PHÁP