Người nghèo đi
đâu, về đâu ?
Người nghèo ở đô thị |
Mức chuẩn nghèo của thế giới hiện nay là thu nhập bằng hoặc ít
hơn 1,25 đô la Mỹ/người/ngày (tức khoảng 600.000 đồng Việt
Nam/người/tháng), còn mức nghèo khổ của châu Á là 1,35 đô la
Mỹ/người/ngày (khoảng 650.000 đồng/người/tháng).
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB): trên thế giới còn đến 1,4
tỉ người sống dưới mức nghèo khổ…
Ngày 27-8-2008, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công bố cả
nước hiện còn 13,08% hộ nghèo, giảm 1,75% so với năm 2007 (SGGP,
28-7-2008). Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 ở Việt
Nam là những người nghèo có thu nhập bình quân từ
200.000-260.000 đồng/tháng, quy ra đô la theo thời giá ngày
24.10.2008 là từ 0,40$/ngày đến 0,51$/ngày thấp hơn chuẩn quốc
tế quy định (1,25$/ngày) đến 3 lần. Năm 2006, theo tính toán của
UNDP, trong khi toàn xã hội đang được hưởng lợi từ sự tăng
trưởng kinh tế, thì người nghèo ở Việt Nam được hưởng lợi ít
nhất, chỉ bằng 76,6% so với mức trung bình; trong khi đó người
giàu được hưởng lợi hơn hẳn là 115%. Trước khi “chuẩn nghèo”
được xem xét trước tình hình kinh tế khó khăn từ đầu năm 2008
đến nay, chuẩn “hết nghèo” áp dụng ở nước ta là thu nhập hơn
180.000, 220.000, 250.000 đồng/tháng ứng với từng khu vực vùng
núi hải đảo, nông thôn, thành thị.
Như vậy chuẩn nghèo của ta tính chung cỡ 1/2 chuẩn nghèo tuyệt
đối (trên thế giới) thì hộ nghèo đã là 22% (1) và chắn
chắn thực tế sẽ còn lớn hơn khi áp dụng mức chuẩn nghèo chung
của thế giới. Các em bé bán vé số, đánh giày ngày kiểu gì một
ngày cũng kiếm được vài chục ngàn xem như đã thoát nghèo (!?).
Như vậy có nghĩa là cái "chuẩn nghèo" của Việt Nam ta so với
chuẩn nghèo của thế giới vẫn còn là một khoảng cách, mặc dù
trước đó "chuẩn nghèo" của Việt Nam đã thấp hơn rất nhiều
(100.000 và 150.000 đồng ở mỗi khu vực khác nhau ).
Lên thành phố bán báo dạo đã thoát nghèo ? |
Với "chuẩn nghèo" mới này, cái ngưỡng phấn đấu vào cuối năm nay
còn khoảng 1,1 triệu hộ nghèo sẽ miễn cưỡng "vượt" lên mức gấp 3
tức 4,6 triệu hộ. “Con số 4,6 triệu hộ nghèo theo chuẩn mới kia,
chúng ta nên mừng hay nên lo ?” là câu hỏi của những ai quan tâm
đến vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nước ta . Lấy thí dụ như trường
hợp Hà Nội, Phó Giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Hà
Nội Lê Tuấn Hữu, sau hợp nhất, cho biết chuẩn nghèo của Hà Nội
(cũ) và Hà Tây (cũ) còn ở mức khác nhau., rằng "Chúng tôi đang
đề xuất chuẩn nghèo mới của khu vực thành thị Hà Nội là 500.000
đ/người/tháng, nông thôn là 330.000 đ/người/tháng". Hiện tại,
chuẩn nghèo đang áp dụng với Hà Nội (cũ) là 350.000
đ/người/tháng đối với khu vực thành thị và 270.000 đ/người/tháng
với khu vực nông thôn. Chuẩn nghèo của Hà Tây (cũ) theo mức
chung của cả nước ở mức 260.000 và 200.000đ.Theo kế hoạch từ nay
đến cuối năm, dự kiến tỷ lệ hộ nghèo của Hà Nội sẽ là 1,6% so
với mức 1,95% hiện nay của Hà Nội (cũ) và 8,47% của Hà Tây (cũ).
Thành phố Hồ chí Minh đã đề xuất một chuẩn nghèo cao hơn ” điều
chỉnh tiêu chí thu nhập đối với người nghèo tại thành phố giai
đoạn 2009 - 2015 lên mức bình quân dưới 12 triệu đồng một người
một năm đối với các quận nội thành, 10 triệu đồng đối với các
huyện ngoại thành” mặc dù từ đầu năm 2004, TP HCM đã nâng mức
chuẩn nghèo theo tiêu chí thu nhập bình quân 6 triệu đồng một
người một năm (tương đương một USD một người một ngày) cao gấp
đôi so với chuẩn nghèo cả nước. Đến năm 2006, Ban chỉ đạo XĐGN
TP HCM đã nhìn thấy sự không hợp lý của mức chuẩn nghèo hiện
tại.(2) .
Siêu thị, chợ của người giàu |
Từ năm 2006-2010,chuẩn nghèo áp dụng cho khu vực nông thôn là
200.000 đồng/người/tháng và khu vực thành thị là 260.000
đồng/người/tháng. Phương án chuẩn nghèo này được đánh giá phù
hợp với mức sống và thu nhập của dân cư nói chung, cũng như thu
nhập của 20% nhóm nghèo nhất; phù hợp với tốc độ tăng của chuẩn
nghèo trong cả quá trình từ năm 1996-2005; đảm bảo được khả năng
huy động nguồn lực thực hiện mục tiêu dự kiến và đáp ứng được
yêu cầu từng bước tiếp cận và hội nhập quốc tế. Dự báo về tình
trạng nghèo năm 2006, khi áp chuẩn nghèo mới, cả nước sẽ có 4,6
triệu hộ nghèo, chiếm 26,3% tổng số hộ cả nước.Tỷ lệ hộ nghèo ở
khu vực thành thị sẽ khoảng 10%, trong khi tỷ lệ hộ nghèo ở khu
vực nông thôn là 31%. Cơ cấu hộ nghèo giữa các khu vực thành thị
- nông thôn đồng bằng - nông thôn miền núi là: 10% - 42% -48%,
tương ứng. Tỷ lệ hộ nghèo của nhóm dân tộc thiểu số ở khu vực
miền núi là 75%.
Trong bối cảnh hiện nay, dự kiến mức tăng trưởng kinh tế 2008
chỉ 7%, trong khi chỉ số CPI có thể cao hơn 25%(lạm phát gần
30%), thì mức chuẩn nghèo cũ dường như như không còn phù hợp.
Đây cũng là lý do chính khiến Bộ LĐ-TB-XH đề xuất với Thủ tướng
Chính phủ cho phép điều chỉnh chuẩn nghèo cập nhật theo chỉ số
CPI (tức là mức chuẩn nghèo phải tăng lên ít nhất bằng mức tăng
của chỉ số giá tiêu dùng). Bởi nếu không tăng lên, thì chuẩn
nghèo hiện nay chỉ còn trên danh nghĩa. ông Ngô Trường Thi, Phó
Cục trưởng Cục Bảo trợ Xã hội, Bộ LĐ-TB-XH: "Chuẩn nghèo ở nông
thôn là thu nhập dưới 200.000đ/người/tháng. Trước đây, 200.000
mua được 30kg gạo, thì nay chỉ còn 20kg, có nghĩa là đời sống
của người nghèo đi xuống. Nếu chúng ta không điều chỉnh thì vô
hình chung, chúng ta đã loại một số đối tượng khó khăn ra khỏi
đối tượng được thụ hưởng chính sách". Lạm phát vẫn diễn biến
phức tạp và đối tượng chịu ảnh hưởng nhất chính là người nghèo.
Thế nhưng tỉ lệ hộ nghèo trong những năm gần đây liên tục giảm -
điều này được Viện Khoa học lao động và xã hội chỉ ra là không
phản ánh đúng thực tế chuẩn nghèo(3) . Theo tờ trình của Viện
khoa học lao động và xã hội, căn cứ vào tốc độ tăng giá thời kỳ
2006 - 2008, năm 2008 dự kiến chuẩn nghèo đối với thành thị là
390.000 - 400.000 đồng/tháng, nông thôn là 300.000 - 310.000
đồng/tháng. Nếu áp dụng chuẩn nghèo này, tỉ lệ hộ nghèo sẽ không
còn giảm mà phải tăng (thay vì 13,83% theo dự kiến sẽ là lên tới
gần 17% trong năm 2008). chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng nhanh,
năm 2007 là 12,63%, 6 tháng đầu năm 2008 là 18,44%, ước tính cả
năm 2008 từ 24,5-28,5%, làm cho giá trị thực của chuẩn nghèo
giảm xuống(nghĩa là số hộ nghèo sẽ tăng cao). Để bảo đảm
đúng giá trị thực của chuẩn nghèo như khi đã ban hành thì phải
tính thêm vào chuẩn nghèo chỉ số CPI từ năm 2007 và năm 2008.
Chồm
hổm, chợ của người nghèo |
Sau khi thống nhất với Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề xuất phương án điều
chỉnh chuẩn nghèo theo phương án: Chuẩn nghèo điều chỉnh giá năm
2008 sẽ bằng chuẩn nghèo hiện nay cộng với chỉ số giá CPI trong
2 năm 2007-2008 (khi xây dựng đã ước tính chỉ số năm 2006 là
6,5%); nếu cập nhật giá, giá trị chuẩn nghèo sẽ tăng khoảng
40-45% so với chuẩn nghèo hiện tại.
Theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Phương án
1: Chuẩn nghèo được cập nhật chỉ số CPI năm 2007 (12,63%) và năm
2008 (dự kiến là 24,5%). Do vậy chuẩn nghèo được cập nhật chỉ số
CPI năm 2007 (12,63%) và năm 2008 (dự kiến là 24,5%). Chuẩn
nghèo được tính ở 2 khu vực: Nông thôn-những hộ có mức thu nhập
bình quân từ 270.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 360.000
đồng/ người/tháng trở xuống là hộ nghèo. Theo phương án này, dự
báo tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đến cuối năm 2008 khoảng 15-16%,
tương ứng với 2,9-3,1 triệu hộ. Với Phương án 2, chuẩn nghèo
được cập nhật theo chỉ số CPI năm 2007 (12,63%) và năm 2008 (dự
kiến là 27,5%)(4)
Theo mức đề xuất mới, chuẩn hộ nghèo khu vực nông thôn là thu
nhập bình quân dưới 300.000đ/người/tháng trở xuống và với khu
vực thành thị là dưới 390.000đ. Một dự báo khác nói rằng, tỷ lệ
hộ nghèo trong cả nước sẽ tăng thêm khoảng 17%, tương ứng với
3,4 triệu hộ, lệch gần 1 triệu hộ so với con số 4,6 triệu hộ. Dù
vậy các chính sách giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội sẽ phải
chịu thêm áp lực là điều không thay đổi(5). Trong khi đó, bản
phúc trình“Bối cảnh kinh tế Thế giới và dự báo chỉ
tiêu vĩ mô năm 2009” của Bộ Kế hoạch - đâù tư cho biết
tình trạng tái nghèo ở khu vực nông thôn và miền núi
gia tăng, và tỉ lệ hộ nghèo ở Việt Nam cuối năm 2008 sẽ
là khoảng 14,5%, cao hơn chỉ tiêu nhà nước đặt ra là 11
đến 12%.”. Bản phúc trình nói đến thời điểm 20/6/2008,
cả nước có tới 452,5 ngàn lượt nhân khẩu bị thiếu đói
- tức là tăng gần 60% so với cùng kỳ năm trước - tập
trung chủ yếu ở khu vực Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung
Bộ(6).
Thay lời kết
Công nhân đình công ở Đồng nai |
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phân tích ”Trong suốt hai thập niên đổi
mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực để xóa đói giảm nghèo.
Tỉ lệ người nghèo, tính theo chuẩn mực quốc tế (có mức sống dưới
1 USD/ngày), đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 14,7% năm 2007. Một
số viên chức quốc tế đã đánh giá cao những nỗ lực của VN. Nhưng
những đánh giá ấy chủ yếu dựa trên các báo cáo trong nước và
chúng ta hiểu khoảng cách giữa thực tế và báo cáo là còn đáng
kể. Tôi nhớ cách đây không lâu, báo chí phát hiện thêm rất nhiều
nhà tranh vách đất ở một số địa phương mà theo báo cáo trước đó
đã "100% ngói hóa". Mặt khác, dù phần lớn dân chúng đã "thoát
nghèo" nhưng chỉ cần sau một mùa bão lụt, sau một đợt rét hại,
những thành quả kinh tế mà những người dân này tần tảo để có lại
gần như bị xóa sạch. Tôi vừa đến một số vùng như vậy và không
khó lắm để thấy người nghèo đang chiếm một tỉ lệ lớn thế nào,
đang phải sống vất vả ra sao”. Ông cho rằng “Người nông dân chịu
thiệt một cách trực tiếp trong quá trình công nghiệp hóa. Mỗi
khi có những nhà máy, những khu công nghiệp, đô thị mọc lên,
những phúc lợi xã hội mà sự phát triển mang lại cho nông dân chỉ
chiếm một giá trị rất nhỏ so với lợi nhuận mà đất đai của nông
dân đem lại cho những tầng lớp khác."Công nghiệp hóa" theo kiểu
tiếp nhận những đầu tư, chủ yếu khai thác lao động giá rẻ, tuy
có giải quyết được công ăn việc làm có tính nhất thời cho một số
lao động thiếu việc làm, về lâu dài không thể nào thay đổi địa
vị nghèo khó của nông dân.Trong khi đó, sự trả giá về mặt tinh
thần là rất lớn vì đa số những nông dân này đang phải ly hương,
ly gia để có việc làm. Công nghiệp hóa, đô thị hóa của chế độ ta
mà không nhất quán quan điểm, không xuất phát từ người nghèo (số
đông người nghèo) thì chúng ta không tránh khỏi càng làm sâu sắc
thêm khoảng cách giữa hai tầng lớp giàu, nghèo”(7)
“tăng lương giảm lao động ngoài giờ” |
Thực tế của tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân trong
những tháng đầu năm 2008 càng thể hiện điều nầy rất rõ nét khi
hàng chục sân golf, khu du lịch…đua nhau nhảy vào đăng kí để
“chiếm đất” và nhà nước trung ương cũng như địa phương không
giải đáp nhu cầu tái định cư và tạo nghề mới cho người nông dân
bị giải tỏa(8). Giáo sư Tô Duy Hợp, chuyên gia về nghèo đói,
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam khẳng định tỉ lệ nghèo đói ở Việt
Nam có thể tới 50%, bao gồm cả nhóm tái nghèo, nếu áp dụng theo
chuẩn nghèo quốc tế” ( của Ngân hàng Thế giới) (9). GS Hợp đã có
lý nếu chúng ta nhìn vào tỷ lệ tăng giá các mặt hàng lương thực,
thực phẩm chiểm tỷ trọng 80%(và hơn thế nữa) trong rổ hàng hóa
của người nghèo năm 2008 so cùng kỳ với năm 2007 đã tăng trên
44% . Theo TS Lê Đăng Doanh “Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam được coi
là cao nhất ở châu Á..Lạm phát cao là do chính sách của Việt Nam
chứ không thể coi là do tác động của thế giới…”.
Trong vòng 2 tháng qua, lạm phát đã có dấu hiệu giảm. Tuy nhiên,
tỷ lệ nầy đã tăng ở mức quá cao tháng bảy là 27,04%, một tháng
trước đó là 26,8% và tháng năm là 25,2%. …So với một năm trước,
giá lương thực tăng tới 44,15%. Giá nhà và vật liệu xây dựng
tăng 27,4%. Giá vận tải tăng“25,6%” (10)
Rõ ràng vấn đề “ăn” của người nghèo trong đó có tầng lớp công
nhân lao động theo lương công nhật hay ở khu công nghiệp, chế
xuất ngày càng bị bóp lại, chi phí sinh hoạt ở đô thị buộc họ
phải bỏ việc trở về quê (qui hương) hay biểu tình đòi tăng lương
liên tục trong ba năm nay với qui mô ngày càng lớn(11).Chính
điều nầy đã tạo ra cơn sốt thiếu hụt công nhân trầm trọng và gây
không ít hoang mang cho giới chủ đầu tư nước ngoài(12) trong khi
vốn FDI đăng ký trong năm nay có thể lên đến mức 62 tỷ đô la.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A, giám đốc Viện nghiên cứu phát triển Hà
Nội cảnh báo rằng “Con số các cuộc đình công càng ngày càng gia
tăng có lẽ đã làm tổn thương nặng nề đến hình ảnh của Việt Nam
và làm nản chí những người hiện đang muốn đầu tư vào đây, họ
chắc sẽ tự hỏi rằng không biết cả thị trường lao động lẫn đất
nước này có ổn định hay không”(xem chú thích 11).
công nhân đòi tăng lương ở Bình Dương |
Vấn đề “an sinh xã hội” đã được đề cập khá nhiều kể từ nạn lạm
phát bột phát, đời sống của nhân dân nói chung và của tầng lớp
công nhân, nông dân trở nên khốn đốn vì vật giá leo thang, nền
kinh tế phát triển chậm lại buộc mọi người phải “thắt lưng buộc
bụng” nhưng hơn 72% dân số là người nghèo ở địa phương là người
chịu thiệt thòi nhât.
Bằng mọi khả năng có thể, cần có giải pháp hạ thấp mặt bằng giá
cả trong đời sông kinh tế quốc dân bằng cách giảm thiểu toàn bộ
nhân tố cấu thành nền kinh tế “bong bóng” -đặc biệt là nhu yếu
phẩm, gạo, xăng dầu, lãi suất cho vay của ngân hàng…hiện nay vẫn
còn ở mức cao, trong khi đó giá điện, dịch vụ công cộng, thuế,
phí công cộng… có khả năng tăng cao trong năm 2009- là điều cơ
bản nay vẫn chưa được tính đến mặc dù giá dầu thô trên thế giới
đã giảm hẳn, ở mức 80-90 USD/thùng so với mức 145 USD/thùng so
với tháng 8, giảm thiểu sức ép của lạm phát lên đời sống người
dân chính là phương cách để xóa đói giảm nghèo hiệu quả nhất.
Việc duy trì mức sống cao hiện nay càng làm cho sự phân hóa
giàu-nghèo dãn ra rộng hơn, những thành tích về xóa đói giảm
nghèo trong hơn 10 năm qua sẽ thụt lùi hay triệt tiêu khi hiện
tượng tái nghèo trở nên phổ biến vì lạm phát, mọi nổ lực của
chính phủ sẽ mất tác dụng tích cực trong đó vấn đề học hành,
khám chữa bệnh của người nghèo vùng sâu vùng xa, cao nguyên càng
ngày càng bi đát. Hơn thế nữa, nạn ô nghiễm môi trường, môi sinh
trầm trọng ở mọi nơi mà những người nghèo sống bên sông, quanh
những nhà máy gây ô nhiễm, khói bụi độc hại là tầng lớp dễ bị
thương tổn nhất mà thí dụ điển hình gần đây nhất là nông-ngư dân
bên dòng sông Thị Vải ở tỉnh Đồng Nai, nông dân sinh sống dọc
theo sông Hồng ở tỉnh Phú Thọ…và nhiều địa phương, thành phố
khác phải chăng là điều quá ư bình thường ? Những người nghèo
liệu phải đi đâu, về đâu, thành “lưu dân” khi bị đuổi việc, di
dời vì giải tỏa và nghề nông, ngư nghiệp đã bao đời để sinh nhai
nay không còn…là câu hỏi chưa có lời giải thỏa đáng hiện nay.
Hồng Lê Thọ
10/10/2008
_______________________
Phụ lục:
Điều chỉnh chuẩn nghèo
05/09/2008
Một cảnh nghèo ở ven đô |
Chuẩn nghèo điều chỉnh giá năm
2008 sẽ bằng chuẩn nghèo hiện nay cộng với chỉ số giá CPI trong
2 năm 2007-2008.
Sau khi thống nhất với Tổng cục Thống kê và Bộ Kế hoạch và đầu
tư, với hai phương án điều chỉnh chuẩn nghèo, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội đã kiến nghị Thủ tướng cho phép điều chỉnh
chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 theo phương án 2 với 300.000
đồng/người/tháng đối với nông thôn và 390.000 đồng/người/tháng
đối với khu vực thành thị.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc xem xét
điều chỉnh chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội đã phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư
nghiên cứu đề xuất phương án chuẩn nghèo trình Thủ tướng phê
chuẩn theo chỉ số thực tế giá cả của năm 2008.
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chuẩn nghèo hiện nay
của nước ta được ban hành từ năm 2005 (theo QĐ số
170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ). Chuẩn
nghèo này được tính toán dựa vào nhu cầu chi tiêu cơ bản của
lương thực thực phẩm (nhu cầu ăn hàng ngày) và nhu cầu chi tiêu
phi lương thực thực phẩm (mặc, nhà ở, y tế, giáo dục, văn hoá,
đi lại, giao tiếp xã hội).
Theo phân tích của Cục Bảo trợ xã hội (Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội): Chi cho nhu cầu ăn khoảng 60% tổng chi tiêu và 40%
dành cho phi lương thực, thực phẩm. Cách tính này để thuận lợi
cho việc điều chỉnh, rà soát và tiết kiệm chi phí, nhận diện hộ
nghèo ở các địa phương cơ sở, chuẩn nghèo được chuyển đổi tính
theo thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình.
Nhưng do chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng nhanh, năm 2007 là
12,63%, 6 tháng đầu năm 2008 là 18,44%, ước tính cả năm 2008 từ
24,5-28,5%, làm cho giá trị thực của chuẩn nghèo giảm xuống. Để
bảo đảm đúng giá trị thực của chuẩn nghèo như khi đã ban hành
thì phải tính thêm vào chuẩn nghèo chỉ số CPI từ năm 2007 và năm
2008.
Sau khi thống nhất với Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề xuất phương án điều
chỉnh chuẩn nghèo theo phương án: Chuẩn nghèo điều chỉnh giá năm
2008 sẽ bằng chuẩn nghèo hiện nay cộng với chỉ số giá CPI trong
2 năm 2007-2008 (khi xây dựng đã ước tính chỉ số năm 2006 là
6,5%); nếu cập nhật giá, giá trị chuẩn nghèo sẽ tăng khoảng
40-45% so với chuẩn nghèo hiện tại.
Theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Phương án
1: Chuẩn nghèo được cập nhật chỉ số CPI năm 2007 (12,63%) và năm
2008 (dự kiến là 24,5%). Do vậy chuẩn nghèo được cập nhật chỉ số
CPI năm 2007 (12,63%) và năm 2008 (dự kiến là 24,5%). Chuẩn
nghèo được tính ở 2 khu vực: Nông thôn-những hộ có mức thu nhập
bình quân từ 270.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
Kiếp nghèo mẹ quê |
Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 360.000
đồng/ người/tháng trở xuống là hộ nghèo. Theo phương án này, dự
báo tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đến cuối năm 2008 khoảng 15-16%,
tương ứng với 2,9-3,1 triệu hộ. Với Phương án 2, chuẩn nghèo
được cập nhật theo chỉ số CPI năm 2007 (12,63%) và năm 2008 (dự
kiến là 27,5%).
Theo đó chuẩn nghèo cụ thể như sau: Khu vực nông thôn: Những hộ
có mức thu nhập bình quân từ 300.000 đồng/người/tháng trở xuống
là hộ nghèo. Đối với khu vực thành thị, những hộ có mức thu nhập
bình quân từ 390.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
Theo phương án này, dự báo tỷ lệ hộ nghèo cả nước đến cuối năm
2008 khoảng 16,5-17,5%, tương ứng với 3,2-3,4 triệu hộ.
Tuy nhiên, một quan chức của Cục Bảo trợ xã hội cho biết: “Tổng
cục Thống kê còn đề xuất phương án cao hơn là 310.000
đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn; 390.000
đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị.
Kinh phí thực hiện các chính sách giảm nghèo như sau: đối với
chính sách giảm nghèo tác động trực tiếp tới hộ nghèo (y tế,
giáo dục) các bộ ngành chức năng sẽ tính toán cụ thể kinh phí
tăng thêm và bổ sung từ năm 2009; đối với các chính sách liên
quan đến đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số, đề nghị Uỷ ban Dân
tộc căn cứ vào chuẩn nghèo mới tính toán đề nghị bổ sung kinh
phí thực hiện.
Theo VNEconomy
http://saga.vn/Sukiendoanhnghiep/taxsocresp/12884.saga
-----------------------------------
Chú thích:
(1) VietnamNet: http://vietnamnet
(2) “ Chính sách thoát nghèo chưa bền vững “
http://www.baodatviet.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=12023.vn/chinhtri/2006/04/557465/
(3)
http://dantri.com.vn/kinhdoanh/Lam-phat-dang-bop-meo-chuan-ngheo/2008/9/250242.vip
(4) TBKTVN, www.molisa.gov.vn.
(5) http://www.vtv.vn/VN/TrangChu/TinTuc/CKX/2008/7/24/171065/
(6)
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080829_viet_econ_report.shtml
(7)
http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=44124.
(8) xem “Mặc chiếc áo quá khổ ?” HLT Vietsciences Free. fr
“Theo Vietnam News, hơn 140 sân golf ở Việt Nam, hiện đang được
sử dụng hoặc được dự trù xây dựng, sẽ lấy mất ít nhất 50 000 ha
đất canh tác. Trong khi đó, do quá trình công nghiệp hóa và đô
thị hóa, đất canh tác ở Việt Nam, trong thời gian từ 2000 đến
2006, đã giảm từ 4,5 triệu ha xuống còn 4,1 triệu ha. Hàng ngàn
nông dân đã bị mất đất và phương tiện sinh sống do các dự án xây
dựng sân golf. Họ chỉ được các nhà thầu bồi thường với giá rẻ
mạt, khoảng 2 hoặc 3 đôla một mét vuông.
Sân golf cũng gây tác hại nặng nề về môi trường, vì theo một
chuyên gia thuộc Trung tâm Công nghệ Môi trường ở Cần Thơ, một
sân golf 18 lỗ tiêu thụ mỗi ngày khoảng 5 000 mét khối nước,
bằng mức tiêu thụ của 20 000 hộ gia đình, đồng thời sử dụng gấp
ba lần khối lượng thuốc trừ sâu phân bón và các hóa chất khác
dùng cho nông nghiệp”.
(9) “Sắp
điều chỉnh đúng 'chuẩn nghèo'?”
(10)
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080829_viet_econ_report.shtml
(11) “Giá cả tăng cao, đình công liên tiếp xảy ra”
Đó là giải thích của nhiều đại biểu tham gia hội nghị lần thứ 11
Ban chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam khóa IX, khai mạc
ngày 25/7 tại Hà Nội. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 354
cuộc đình công và ngừng việc tập thể, tăng hơn 200 cuộc so với
cùng kỳ năm 2007.
http://www.vnexpress.net/GL/Viec-lam/2008/07/3BA04D6D/?q=1
“Vì
sao công nhân đình công?”
“Làn
sóng đình công vẫn tiếp diễn”
“Các
cuộc đình công đòi tăng lương tại Việt Nam có dấu hiệu nổ lớn
12. “Lao động Việt Nam đình công đòi tăng lương; các nhà máy của
nước ngoài là nạn nhân nặng nề nhất với các cuộc bãi công gia
tăng” Roger Mitten, Thông tín viên của Straits Times(Singapore)
--số báo ngày 14/4/2008-- tại Việt Nam.
”Những công nhân đang đình công oán trách chính phủ đã cản trở
một cách bất công đối với họ trong cuộc đấu tranh đòi hỏi mức
tiền lương đủ sống, trong khi đó lại nhắm mắt làm ngơ khi những
giới chức hàng đầu của đảng tùy tiện đưa ra những thỏa thuận dễ
dãi cho các nhà đầu tư và nhận lại những tỉ lệ hoa hồng hậu hĩ”.
Theo : viet-studies.info
|