"Thời của
thánh thần"
dưới cái nhìn phản biện xã hội
Cuốn tiểu thuyết "Thời của thánh thần" của nhà văn Hoàng
Minh Tường vừa phát hành đã bị cấm lưu hành, không những thế,
Ban Tuyên giáo trung ương còn có công văn ra lệnh cho các phương
tiện thông tin không được đăng tải những bài phê bình. Nhà xuất bản Đà Nẵng vừa bị đình chỉ hoạt động 3 tháng...
Khi các bạn đang đọc những dòng này cũng là lúc mà giới trí thức
ở quê hương phải sống trong một bầu không khí ảm đạm bao trùm
toàn xã hội. "Thời của thánh thần" là một tác phẩm xuất sắc xứng
đáng được tôn vinh. Đó cũng là lý do thôi thúc người trí thức
Đào Văn Thái vượt lên trên mọi đe dọa để giống lên tiếng chuông
nhân phẩm trong môi trường ảm đạm dày đặc tử khí này. Phù Sa
trân trọng giới thiệu.
Vậy là "Thời của thánh thần" vừa kịp "oe oe" mấy tiếng đã
ngay lập tức chết yểu. Cuốn tiểu thuyết dầy 680 trang bị khai tử
trong sự im lặng đáng sợ, nhưng đằng sau nó là cả một kế hoạch
hoàn chỉnh được dàn dựng theo kịch bản rất khó phản bác. Ấy
là tác phẩm có nội dung không lành mạnh, gây ảnh hưởng xấu cho
chế độ xã hội chủ nghĩa tươi đẹp của chúng ta. Lệnh cấm được
ban hành khá kịp thời nhưng chắc chắn số sách thu hồi chẳng đáng
là bao so với số đã đến tay bạn đọc sau hơn một tháng trôi nổi
trên thị trường. Điều đáng quan tâm là ở chỗ, chính "lệnh cấm"
ấy lại là một cú "đề pa" ngoạn mục cho các "đồng chí" đầu nậu
nhanh tay "xuất xưởng" vài vạn cuốn, tuy in ấn nhòe nhoẹt nhưng
cũng đầy đủ các tiêu chí cơ bản của một ấn phẩm, kịp thời đáp
ứng nhu cầu bức xúc của phần lớn tầng lớp trí thức vốn khát khao
một nền văn học sáng tạo nhưng hàng ngày vẫn cứ bị "xài" của giả
bởi công nghệ lăng xê thượng thặng của các nhà phê bình hàn lâm.
Một ông bạn làm nghề đạp xích lô chở vật liệu xây dựng, vốn là
chuyên gia ngành thủy lực, từng du học ở cộng hòa Czech, sau khi
đọc xong "Thời của thánh thần", chép miệng bảo với tôi "
cuốn sách này mà ở Trung Quốc, Đài Loan hay Singapore thì tác
giả ăn đủ, và số lượng in ít ra cũng phải mười vạn cuốn. Nhưng ở
Việt Nam thì tác giả trắng tay, không bị tù là phúc bảy mươi
đời, chỉ béo bọn in lậu. Thật là một nghịch lý ". Ông nói
không sai, nhưng nếu xét đến cùng, sự kiện tiểu thuyết "Thời
của thánh thần" bị "nhập kho", cũng chẳng mấy ảnh hưởng đến
nhịp sống bình thường của bàn dân thiên hạ, bởi đã từ lâu, cộng
đồng người nghèo đã gần như vô cảm với đủ các loại văn chương,
giá bị đội lên cao ngất ngưởng vốn chỉ để làm giầu cho các đại
gia. Với hơn bảy chục phần trăm nông dân, sách là một cái gì đó
quá xa vời với khả năng thu nhập.
"Thời của thánh thần" là bi kịch của một gia đình thông qua
tấn đại bi kịch của dân tộc, trong một thời kỳ lịch sử biến động
dữ dội. Tất nhiên không thể phủ nhận tính luận đề khá rõ của tác
phẩm nhưng nó lại được diễn đạt dưới hình thức sử thi mà điểm
nhấn là những sự kiện quan trọng, được tái hiện bằng ngôn ngữ
văn chương cổ điển cùng với lớp nhân vật khá điển hình trong
suốt mấy chục năm, làm nên diện mạo khác thường của dân tộc Việt
với cộng đồng nhân loại.
"Thời của thánh thần", thực chất là là loại văn chương
truy tìm nguồn gốc của những sự bất cập, bởi các sự kiện lịch sử
tác động đến số phận dân tộc, cái sự vinh nhục của đất nước cũng
như hệ quả của nền chính trị được thực thi hơn sáu mươi năm qua,
không cần đào bới quá khứ cũng có thể cảm nhận khá chính xác.
Vấn đề là nguyên nhân sâu xa của nó. Không hiếm trường hợp, lịch
sử lưu giữ trong chuỗi ký ức của các thế hệ có khi lại chính xác
hơn rất nhiều thứ đã được định dạng trong các văn bản chính thức
của nhà cầm quyền. Bằng vào hệ thống nhân vật hư cấu, được tích
hợp từ rất nhiều con người có thật, từng bị vùi dập, tù đầy,
khủng bố tư tưởng, bị vô hiệu hóa hoặc loại ra khỏi cộng đồng
biến thành cái bóng dặt dẹo của chính mình, tác giả đã tái hiện
thành công số phận bi đát của người trí thức Việt Nam
từng bị coi là "tiểu tư sản", "lập trường bấp bênh". Đọc
"Thời của thánh thần", ngay cả lớp người trẻ tuổi còn đang
ngồi trên ghế nhà trường, không phải trải nghiệm nỗi kinh hoàng
của những cuộc chiến máu lửa, những trận đấu tố đầy chất bi hài,
những chiến dịch tẩy não cưỡng bức sắt máu, cũng phải rùng mình
bởi sự bất ổn của của một xã hội tôn thờ bạo lực vốn được xây
dựng trên thứ triết lý không tưởng, vừa cuồng tín vừa ấu trĩ,
vừa tàn bạo vừa giả trá. Hậu quả của nó là, chính chúng ta chứ
không phải ai khác, đã và đang phải lãnh đủ một cơ đồ rách nát,
một môi trường xã hội ô nhiễm nặng khiến các thế hệ tương lai
mất niềm tin, thiếu lý tưởng, vô văn hóa, suy thoái đạo đức
nhưng lại thừa kiêu ngạo trên cái nền phì nhiêu của nạn tham
nhũng.
Được viết bằng lối hành văn truyền thống, khá gần với loại chuyện
kể, "Thời của thánh thần" không mấy quan tâm đến phong
cách ngôn ngữ mà lại chinh phục người đọc ở khả năng liên kết,
móc xích các sự kiện lịch sử, xã hội, kết hợp với những lời bình
trí tuệ, có sự cân nhắc, được "cài đặt" rất khéo vào không ít
trường đoạn như là sự phản biện xã hội của người cầm bút. Có thể
xem, cái làm nên diện mạo cuốn tiểu thuyết trường thiên này
chính là những lời phản biện vừa trực cảm vừa có tính khoa học,
rất minh bạch, không né tránh về một giai đoạn lịch sử xã hội
Việt Nam cùng với những hệ lụy của nó.
Từ quan điểm trên, các nhân vật tiêu biểu trong "Thời của thánh
thần" như Chiến Thắng Lợi, Nguyễn Kỳ Vỹ, Nguyễn Kỳ Vọng, Đào
Thị Cam, Tư Vuông, Châu Hà, Văn Quyền, Khuất Sỹ Hào... đều được
nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau để tìm ra bản chất của họ
trong mối tương quan với hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, đạo
đức cũng như các giá trị truyền thống.
Chiến Thắng Lợi là một trong những nhân vật trung tâm của tiểu
thuyết mà hệ ý thức được hình thành qua cuộc kháng chiến chống
Pháp, mang tính khái quát cao nhưng hoàn toàn không cá biệt.
Loại người như ông ta rất phổ biến, mang dáng dấp người hùng,
tiêu biểu cho lý tưởng xã hội của một thời kỳ lịch sử. Tác
giả không chỉ dừng lại ở việc lý giải hết sức thuyết phục
quá trình tha hóa nhân cách của một quan chức cách mạng từ
Nguyễn Kỳ Khôi đến Chiến Thắng Lợi, mà còn chỉ ra được
nguyên nhân của sự tha hóa ấy bằng thao tác phản biện lịch sử.
Viết về Chiến Thắng Lợi tức là phải ngược dòng lịch sử, phải
minh định lại những sự kiện, những nhân vật, những quan điểm
từng bị khai thác thiếu công tâm, thậm chí bóp méo hay ém nhẹm
đi để phục vụ mục đích độc quyền chân lý. Để trở thành cán bộ
nòng cốt, được cấp trên tin tưởng, Chiến Thắng Lợi đã phải trải
qua một quá trình tự lột xác. Nói cách khác, trong con người ấy
có hai con người. Chàng trai làng Động có chút học vấn, đa tình,
khao khát nhục dục Nguyễn Kỳ Khôi với tuổi trẻ phơi phới chết
dần sau mỗi năm ở "thủ đô gió ngàn". Trên nấm mộ nhân cách ấy
đồng thời tái sinh một chiến sỹ cộng sản, mang trong mình khát
vọng "thế giới đại đồng" được xây dựng trên quan điểm đấu tranh
giai cấp, lấy chuyên chính vô sản làm phương châm hành động. Thứ
tôn giáo này có vẻ như không chấp nhận con người phàm tục với
bản tính tự nhiên trời đất ban cho mà chỉ dung nạp những thành
phần hoàn hảo thuộc THẾ GIỚI THÁNH THẦN. Chính vì thế,
người ta nghĩ ra phương pháp "phê bình và tự phê bình"
thông qua các cuộc "chỉnh huấn", "nhận đường", nhằm thủ tiêu
bằng hết những gì thuộc về bản tính tự nhiên, xóa sạch quyền tư
hữu cá nhân, tẩy não một cách triệt để, biến con người tầm
thường thành các chiến sỹ vô sản, chuẩn bị nhân sự cho cuộc cách
mạng thế giới trong tương lai không xa. Nói như Nguyễn Khải,
những người cộng sản phải tự tin và kiêu ngạo lắm mới có tham
vọng kiểm soát tâm hồn con người, cho dù đó là cái thứ rất không
cụ thể, lại cực kỳ vi diệu, biến thái khôn lường. Và xét đến
cùng, trong cõi nhân gian, chính thứ tài sản tinh thần ấy, chẳng
những làm cho con người là NGƯỜI mà còn khu biệt được từng cá
thể trong cộng đồng NGƯỜI. Để đối phó với công nghệ kiểm soát
đặc thù trên, chẳng riêng Chiến Thắng Lợi mà hầu hết mọi cá thể
đã từng dấn thân vào cuộc "trường chinh cách mạng" đều không dám
là chính mình. Cái tôi thật phải lẩn đi, cái tôi giả được thế
chỗ để tương thích với tôn chỉ mục đích của chủ thuyết. Thói
đạo đức giả xuất hiện. Dần dà nó trở thành phương châm hành
xử của con người như một thứ văn hóa. Tư Vuông, Chiến Thắng Lợi,
Văn Quyền, Khuất Sỹ Hào, Đào Thị Cam... là những nhân vật điển
hình cho thói đạo đức giả một cách hồn nhiên, xem giả như thật,
biến nó thành loại hành trang tinh thần, di truyền cho các thế
hệ mai sau mà chẳng hề băn khoăn đến nguy cơ đổ vỡ nhân cách của
cả một dân tộc.
Với Chiến Thắng Lợi, ngay cả cái tên được "đồng chí" Tư Vuông ngẫu
hứng đặt cho sau khi lập thành tích trên căn cứ địa cũng đã manh
nha một cái gì đó không ổn. Nó vừa ẽo ợt, kệch cỡm vừa lên gân
một cách giả tạo, là bằng chứng không thể bác bỏ về thói kiêu
ngạo của một lớp người mắc bệnh vĩ cuồng. Sau khi đoàn quân
chiến thắng trở về, được cơ cấu vào vị trí quan trọng của nền
chuyên chính, mỗi khi nghĩ đến quá khứ, Chiến Thắng Lợi lại toát
mồ hôi hột, cho dù những hành vi ấy chính là "vật chứng" biểu
hiện chất NGƯỜI trong tư cách làm người của ông ta. Tuy nhiên,
với thứ tôn giáo Chiến Thắng Lợi đang thờ phụng, việc ăn nằm với
"người đẹp Sơn Minh" Đào Thị Cam trong chuyến đóng giả cặp vợ
chồng nhà buôn vào nội thành, chuyện làm tình lu bù với cô gái
Tày Ma Thị Là, phải hối lộ thủ trưởng hai lạng cao hổ với chiếc
mật gấu mới thoát hiểm, rồi chuyện nhờ vả thượng tá Võ Khang sắp
xếp để Lê Kỳ Chu không phải đi B mà được sang Nga Xô học ngành
sỹ quan điều khiển tên lửa đều là những tội tày trời, nếu bị
phát giác sẽ mất sạch sự nghiệp. Trên nguyên tắc, viên chức đảng
và nhà nước mà dính vào hủ hóa hoặc lừa dối tổ chức thì sinh
mệnh chính trị khó có thể bảo toàn. Mất ghế như chơi. Mà cái ghế
quyền lực nó lại có sức hấp dẫn người ta ghê gớm, đến mức có thể
hy sinh cả những tình cảm thiêng liêng nhất để giữ cho bằng
được. Tấn hài kịch cuộc đời của Chiến Thắng Lợi có lẽ cũng bắt
đầu từ đó.
Gần như suốt cuộc đời quan chức, Chiến Thắng Lợi phải sống bằng con
người giả. Chỉ khi bị "hạ cánh an toàn" sau ngón đòn thọc sườn
hiểm độc của đàn em Văn Quyền ông ta mới phần nào ngộ ra thực
chất của cái gọi là tình đồng chí trong trò chơi quyền lực. Về
hưu rồi, Chiến Thắng Lợi mới được là chính mình. Lần đầu tiên
sau mấy chục năm ông dám thắp hương trên bàn thờ cụ cử Phúc,
thậm chí còn đồng tình cho vợ đến điện cô đồng Hằng xem quẻ...
Một nét nổi bật nữa trong bản chất con người Chiến Thắng Lợi là thói
kiêu ngạo cộng sản và độc quyền chân lý dẫn đến sự sai lầm trong
nhận thức thế giới khách quan. Ông ta thừa lệnh Tư Vuông thực
thi một cách mẫn cán công nghệ tẩy não giới trí thức, văn nghệ
sỹ, luôn được coi là "đối tượng" cần phải "uốn nắn" của cách
mạng vì họ dám đòi tự do tư tưởng, tự do sáng tác. Ngay với cả
em trai mình, nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ, cũng bị ông ta đồng lõa với
Tư Vuông, đày ải cho đến thân tàn ma dại, ra tù không việc làm,
không nguồn thu nhập, phải chuyển sang nghề chữa trĩ kiếm sống.
Chính Chiến Thắng Lợi, một yếu nhân của thể chế được gọi là "dân
chủ gấp triệu lần tư sản", đã góp phần làm thui chột biết bao
tài năng, mà đáng lý ra họ chính là nguyên khí quốc gia, là
nguồn động lực cơ bản thúc đẩy tiến trình phát triển của đất
nước. Từ chuyên chính vô sản đến độc quyền yêu nước, coi đất
nước là của riêng những người cộng sản, hạ thấp vai trò tầng lớp
trí thức, những người như Chiến Thắng Lợi, dù vô tình hay hữu ý,
đã liên tục đẩy đất nước vào những thảm họa mà lẽ ra có thể
tránh được sau cuộc kháng chiến chống Pháp. "Cải cách ruộng
đất", "Nhân văn giai phẩm", "Cải tạo công thương nghiệp", "Xét
lại hiện đại", "Hợp tác hóa nông nghiêp"... thực chất đều là
những bi kịch dân tộc bắt nguồn từ sự ngộ nhận về thứ chủ nghĩa
xã hội trại lính, triệt để tôn sùng cá nhân, thủ tiêu quyền làm
người, coi thường những giá trị phổ quát của nhân loại mà ngay
từ năm 1956, tại Đại hội XX đảng cộng sản Liên Xô, N.X. Khrushev
đã kịch liệt lên án.
Với thói đạo đức giả và thói kiêu ngạo cộng sản, những ông "đầy tớ"
dân kiểu như Tư Vuông, Chiến Thắng Lợi v.v... chẳng những làm
đất nước rơi vào cảnh khủng hoảng triền miên mà còn tạo ra một
thế hệ tương lai, những "ông trời con", thừa hưởng bộ gene quyền
lực và đống tài sải kếch xù do tham nhũng mà có của cha ông,
chẳng cần phải tốn mồ hôi, nước mắt, tuy nhân cách kém cỏi, học
vấn lem nhem, mà vẫn là những ông chủ đích thực, tiếp tục đè đầu
cưỡi cổ nhân dân. Để kiểm chứng nhận xét này, chỉ cần đọc lại
đoạn Chiến Thống Nhất chửi Đinh Mạn bằng những lời rất thô tục
vì người anh ta không chiều theo ý thích chơi trội của hắn mà
phá vỡ quy hoạch từ đường do Nguyễn Kỳ Vọng đầu tư xây dựng là
hiểu ra ngay.
Tương phản với Chiến Thắng Lợi, Nguyễn Kỳ Vỹ là một nhân cách nghệ
sỹ lớn, được đào tạo khá bài bản từ nền văn hóa Pháp. Vỹ giầu
lòng tự trọng, hơi lãng mạn và trung thực đến tận cùng. Chính
nền giáo dục phương Tây, chứ không phải Bình dân học vụ
thời Cải cách ruộng đất, hay phong trào thi đua Hai tốt
sau này, đã đào luyện cho Việt Nam những nhân tài thực sự như
Nguyễn Kỳ Vỹ, Nguyễn Kỳ Vọng, Châu Hà... cho dù họ đến với nhân
dân và phục vụ nhân dân bằng những cách khác nhau. Chủ trương
độc quyền chân lý, kỳ thị giai cấp đã đẩy một bộ phận không nhỏ
nhân tài ra ngoài lề xã hội, đưa một bộ phận khác có bản lĩnh
hơn, dám phản biện đường lối cai trị sai lầm của giới lãnh đạo
vào tù, biến đất nước thành của riêng một nhóm người.
Nếu Chiến Thắng Lợi vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của nền chính
trị xơ cứng, giáo điều, bảo thủ dẫn đến bi kịch của cả một cộng
đồng, thì Nguyễn Kỳ Vỹ bị vùi dập chỉ với tư cách nạn nhân bởi
anh quá yêu nhân dân, đã hoàn thành nhiệm vụ vượt mức yêu cầu
của Đảng. Cái tội của Nguyễn Kỳ Vỹ là dám "cầm đèn chạy trước ô
tô", dám khôn hơn Đảng về cách nhìn tương lai đất nước bằng con
mắt phê phán. Ngược dòng thời gian, qua các vụ "Nhân văn giai
phẩm", "Xét lại hiện đại"... giới văn nghệ sỹ đều khá hèn, thiếu
chính kiến và luôn "biết sợ" nên chẳng bao giờ dám có ý tưởng
"lật đổ" chính quyền bằng văn thơ. Cho nên, những vụ án trên, dù
là có thật hay bởi ai đó đã chế tạo ra, cũng luôn nửa hư nửa
thực, nhằm mục đích răn đe từ phía những quan chức thượng tầng
luôn có tinh thần "cảnh giác cách mạng" cao như Tư Vuông theo
lời dạy của lãnh tụ Mao "thà giết nhầm còn hơn bỏ sót".
Văn nghệ sỹ đôi lúc chỉ là những vật tế thần để người ta giải
quyết bài toán ở hậu trường trong tương quan lực lượng.
Tuy nhiên, nguyên nhân chính làm cho Nguyễn Kỳ Vỹ thân bại danh liệt
lại là cái tội dám chê tập thơ "Thủ đô gió ngàn", cho dù
lời chê cũng chỉ rất nhẹ nhàng. Thời ấy, thơ Ngô Sỹ Liên là
thống soái, hay nhất, có tính đảng cao nhất, nghệ thuật tuyệt
vời nhất. Đọc rồi chỉ được khen, chê là lãnh đủ. Nguyễn Kỳ Vỹ
dám "mó dái ngựa" như Châu Hà bảo "thật thà một cách ngu xuẩn"
thì bị loại ra khỏi cuộc chơi, ngồi bóc lịch dài dài là đúng
luật, bởi vì những người cộng sản như Tư Vuông không bao giờ sai
lầm. Nhưng đấy cũng chính là nét đáng trân trọng trong tính
trung thực của nhà nghệ sỹ tài hoa. Thiếu cái đó không còn là
Nguyễn Kỳ Vỹ. Tội thứ hai của Vỹ là bướng, không chịu khuất
phục. Nếu anh chịu "mài nhẵn như hòn bi" theo quy trình
Tư Vuông chỉ thị cho Chiến Thắng Lợi thì có lẽ số phận nhà thơ
đã xoay chuyển, chẳng những không bị gọi về nước, yên tâm học
tập ở Grugia mà còn thoát khỏi bảy năm tù không án, đến nỗi
thành kẻ tâm thần vô tích sự, báo hại gia đình.
Nguyễn Kỳ Vỹ là nhân vật hư cấu nhưng cũng là con người bằng xương
bằng thịt từ cuộc đời chìm nổi nhập vào trang sách, rồi lại từ
trang sách bước ra, nhân danh một lớp văn nghệ sỹ bị hàm oan,
nói theo nhà thơ Lê Đạt là bị "giẻ rách hóa", tố cáo
những thế lực đen tối đã đẩy họ đến bước đường cùng. Là nhân vật
tiểu thuyết nhưng đồng thời cũng là nhân chứng lịch sử, Nguyễn
Kỳ Vỹ được xem như hình tượng văn học khá điển hình, giầu cá
tính, mở đầu cho thời kỳ "văn học vết thương" làm người
đọc phải tự vấn lương tâm, phải xét lại quan niệm của mình về số
phận đất nước, tương lai dân tộc mà bấy lâu nay người ta chỉ
nhận dạng một cách mơ hồ qua những dòng khẩu hiệu sáo rỗng.
So với anh trai mình, Nguyễn Kỳ vọng có phần may mắn hơn khi anh kịp
thời di tản vào
Nam theo gia đình Tạ Đôn, Tạ Thu Uyên. Qua nhân vật Vọng, người đọc
nhận ra sự so sánh ngầm nhưng rất rõ ràng của tác giả về hiệu
quả của hai nền giáo dục. Hệ thống giáo dục miền Nam sau năm năm
tư là hệ thống mở mang tính hội nhập với thế giới văn minh, tuy
vẫn còn những hạn chế nhưng nhìn chung là tiến bộ, khác hẳn với
thứ giáo dục nhồi sọ, lấy chính trị làm thống soái, lại khép
kín, mang nặng tính bảo thủ, dẫn đến triệt tiêu khả năng sáng
tạo, kết quả là chỉ đào luyện ra những lớp người biết vâng dạ.
Vào đến Sài gòn, tuy mới chỉ ở bậc tú tài bán phần, Nguyễn Kỳ
Vọng đã có đủ bản lĩnh sống nơi đất khách. Anh vừa đi học vừa
dạy kèm làm kế sinh nhai rồi đàng hoàng bước vào giảng đường một
trường đại học danh giá với suất học bổng ngành kỹ sư công
chính. Là người có chí tiến thủ, Vọng còn quyết định sang Hoa Kỳ
tu nghiệp nhằm học hỏi công nghệ làm cầu hiện đại của cường quốc
khoa học kỹ thuật hàng đầu thế giới dẫu rằng khi về chưa chắc đã
còn được ngồi ghế trưởng ty. Nếu chính quyền Sài gòn cũng hành
xử giống những người cộng sản thì, với cái lý lịch bất hảo, anh
trai là cán bộ Việt Cộng cao cấp như Vọng, làm sao được bén mảng
đến cổng trường đại học, nói gì đến việc xuất ngoại. Vọng là một
trí thức có nhân cách lớn. Anh học và làm đều vì sự thăng tiến
của cộng đồng, được vinh danh như một kỹ sư đặc hạng với nhiều
bằng tưởng thưởng ghi nhận công tích phục vụ đất nước. Đó thật
sự là những công trình sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực chứ
không phải những bản báo cáo dối trá trong một xã hội tôn thờ
chủ nghĩa thành tích thể hiện qua khẩu hiệu "Thi đua yêu nước"
mà hậu quả của nó là cầu sập, đường vỡ, nhà đổ, người chết...
nhưng trách nhiệm lại chẳng biết thuộc về ai. Nói một cách công
bằng, cũng có thể Nguyễn Kỳ Vọng chẳng mấy yêu quý chế độ Sài
gòn bởi bản thân nó cũng có không ít điều bất ổn, nhưng người
trả lương xứng đáng với công sức đã bỏ ra, cấp trên quý trọng
tài năng của anh, thế là đủ. Vậy mà, sau 30 tháng 4 năm 1975,
những tài năng như Nguyễn Kỳ Vọng lại bị xếp xó, chỉ chút nữa
thôi phải đi cải tạo nếu không có sự hiểu lầm của người đại diện
chính quyền mới khi anh ra trình diện. Thân phận bọt bèo của lớp
trí thức lưu dung sau năm 1954 ở miền Bắc lại được tái lập ở
miền
Nam. Có vẻ như, sau hai mươi năm những người cộng sản vẫn chưa đủ thời
gian thay đổi cách nhìn.
Dù tỉnh táo đến mấy Nguyễn Kỳ Vọng cũng không thoát khỏi tấn bi kịch
của một trí thức nhẹ dạ cả tin, đem số phận mình đặt vào lũ lưu
manh chính trị trong canh bạc đầy may rủi. Khuất Sỹ Hào chỉ vì
muốn chiếm ngôi biệt thự mà dùng mỹ nhân kế cùng với những lời
đường mật sắp xếp cho Vọng vượt biên trong một đường dây bán
chính thức do những nhân vật có thế lực bảo kê. Cuộc hành trình
biển Đông của Nguyễn Kỳ Vọng thật sự là nỗi kinh hoàng đối với
những người con đất Việt đi tìm miền đất hứa, nhưng chưa thấm
vào đâu nếu so với sự kiện đứa con gái 13 tuổi của anh bị hải
tặc cưỡng bức phải nhảy xuống biển tự tử. Bé Nguyễn Thị Kỳ Vân
cũng như ba trăm ngàn thuyền nhân xấu số bỏ xác dưới đáy đại
dương là cái giá quá đắt đối với sự tự do của một đời người. Anh
tâm sự với Châu Hà: "Anh là một nhà văn, không thể không biết
sự thật về cuộc di tản đau đớn và khủng khiếp nhất của lịch sử
người Việt. Cuốn hồi ký này, tôi viết tặng anh Vỹ tôi. Nhưng anh
ấy đã là phế nhân rồi…". Vọng trở thành kẻ tha hương
trên đất Hoa Kỳ với những mặc cảm tội lỗi về trách nhiệm của
người chồng, người cha đối với gia đình cho dù nơi ấy là xứ sở
được bảo đảm nhất về quyền làm người. Hình như định mệnh đã tạo
ra số phận nghiệt ngã đối với một trí thức tài hoa. Bi kịch dân
tộc truy đuổi người con trai làng Động đến tận cùng trời cuối
đất. Vọng mất tất cả nhưng không mất nhân cách. Chính đứa con
lưu lạc chân trời góc bể, bị ông anh cả Chiến Thắng Lợi gọi là
kẻ phản quốc lại là người đưa vàng cho bố con Nguyễn Kỳ Cục
chuộc Nguyễn Kỳ Viên. Rồi cũng chính Nguyễn Kỳ Vọng hồi hương
mang tiền về xây lại ngôi từ đường dòng họ.
Nhưng cái đáng trọng hơn cả ở Nguyễn Kỳ Vọng vẫn là một trí tuệ sáng
láng, một lập luận tỉnh táo, logic đầy tính biện chứng qua cuộc
chuyện trò với nhóm Châu Hà khi các nhà văn này được mời sang
Hoa Kỳ. Là kỹ sư công chính nhưng Vọng có cái nhìn sắc sảo về
cách làm chính trị và quản lý đất nước của những người cộng sản:
"Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930, Nam Kỳ Khởi nghĩa năm 1940, rồi
Mậu Thân 1968, thành cổ Quảng Trị 1972… hy sinh toàn bộ lực
lượng cốt cán, hàng vạn tinh hoa ưu tú nhất của dân tộc, thì các
anh bảo là tập dượt, là tiền khởi nghĩa, là đêm trước của cách
mạng… Nhân dân luôn là vật thí nghiệm… Và các vị, giống
như người đẽo cày giữa đường, người gọt chân cho vừa giày… ở bên
này nhưng chúng tôi vẫn thuộc câu ca: "Mất mùa là tại thiên
tai. Được mùa là bởi thiên tài Đáng ta". Dân biết hết cả.
Nhưng dân mình hiền. Không nỡ giận con chuột mà đập vỡ cái bình
quí. Lấy đại cục làm trọng, chứ không câu nệ cái tiểu tiết. Dân
tộc mình như thế, văn hoá lịch sứ mình như thế, đất đai sông núi
như thế, có kém gì nước Nhật, nước Hàn, nước Thái… mà mãi vẫn
không trở thành cường quốc được, vẫn luôn xếp hàng cuối sổ của
thế giới?… Đau lắm chứ…". Quan điểm của Vọng vốn bắt
nguồn từ tư duy khoa học với những biện luận chặt chẽ và dẫn
chứng có sức thuyết phục: "Giành được nước là các anh đút túi
như của cải riêng của mình. Các anh vô ơn, chẳng cần biết rằng
đất nước này có tới bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, mà các
anh mới chỉ là khoảng khắc, công lao như cái móng tay",
hoặc : "Độc quyền trong thương hiệu hàng hoá,
trong phát minh sáng chế, chiếm lĩnh tài năng, sẽ tạo ra sự cạnh
tranh, sáng tạo, nhưng độc quyền yêu nước… sẽ tiêu diệt mọi khát
vọng, tự do, dân chủ". Chưa dừng ở đấy, bằng quá
trình trải nghiệm đau đớn, nhất là từ cái chết không toàn thây
của cha mình, Vọng nhận xét : "Cải cách ruộng đất là một ví
dụ. Khi chúng ta kịp sửa sai thì hàng vạn đảng viên ưu tú, hàng
vạn những nhà quản lý nông nghiệp giỏi, đã bị nghi oan là địa
chủ cường hào gian ác và bị hành quyết. Thầy tôi là một nạn nhân
của tội ác lịch sử đó. Vụ khoán ruộng của ông Kim Ngọc ở Vĩnh
Phú là một ví dụ khác. Đến khi nhận ra sai lầm, thì nông nghiệp,
nông thôn đã kiệt quệ... Rồi ai sẽ chịu trách nhiệm trước lịch
sử về sự tụt hậu này?". Chẳng phải là người cầm bút
chuyên nghiệp mà Nguyễn Kỳ Vọng bàn về văn chương cứ như đã từng
nghiên cứu lý luận sáng tác ở đâu đó : "Anh là nhà văn, chắc
anh phải trăn trở hơn tôi rất nhiều. Bởi văn chương sẽ là vô bổ,
nếu không ký thác được điều gì. Nhà văn nếu không phải là người
phản biện của xã hội thì anh ta còn có ích gì?"
Thật đáng buồn, những trí thức chân chính, tài năng như Nguyễn Kỳ
Vọng nếu được dùng vào việc canh tân đất nước mà không nghi kỵ,
dè chừng thì dân tộc này đã mở mặt được với năm châu bốn biển.
Những lời cảm khái của Vọng trước nhà văn Châu Hà là minh chứng
cho sự thật đau lòng đó: "Ai tin tôi? Ai cho tôi cống
hiến? Các vị có cả một hệ thống tổ chức từ cơ sở tới Trung ương
để chọn lọc những người được cầm quyền. Từ tổ phó trở lên đã
phải qua hệ thống sàng lọc trước khi đề bạt. Dân thường chẳng ai
chen vào được. Đất nước của các vị chứ đâu phải của mọi người
Việt?"
Trong guồng máy quan chức trung cao cấp được tác giả đề cập, ngoài
những ông lớn đầy quyền uy như Tư Vuông tức nhà thơ Nga Sỹ Lún
(sau đổi thành Ngô Sỹ Liên), Chiến Thắng Lợi, còn thấp thoáng
bóng giai nhân làm cách mạng rồi sau cũng được chia phần. Một
trong những nhân vật nổi bật là Đào Thị Cam. Đào Thị Cam tức
Bướm hoặc ni sư Thích Đàm Hiên là một trong những người phụ nữ
mở đầu cho "chính sách cán bộ nữ" của đảng Cộng sản Việt Nam.
Tuy nhiên đấy chỉ là phần nổi của một vấn đề hết sức tế nhị
trong mưu mẹo cai trị của những người ở tầm văn hóa thấp. Nguồn
gốc của Đào Thị Cam hết sức phức tạp, thậm chí còn có phần bí
hiểm nữa. Cái quá khứ gắn liền với cả Trương Phiên, Lê Thuyết
lẫn Nguyễn Kỳ Khôi rất không bình thường ấy luôn là nỗi ám ảnh
với người cán bộ Hội Phụ nữ. Cũng như Chiến Thắng Lợi, Đào Thị
Cam sống trong một tổ chức mà mọi hành vi luôn bị giám sát chặt
chẽ nên không dám sống thật với ngay cả chính mình. Thói đạo đức
giả cùng với bệnh ham mê quyền lực có lúc tưởng đã giết chết
tình cảm cá nhân trong tâm hồn người đàn bà sắc sảo. Nhưng rồi
tình mẫu tử đã thắng. Người mẹ quyết định vứt bỏ sĩ diện cá nhân
cũng như tư cách đảng viên để cứu đứa con trai lẽ ra sẽ phải vào
chiến trường, phó mặc sinh mệnh cho thần Chiến tranh.
Có thể xem, Đào Thị Cam là bậc tiền bối, đã tạo ra một thông lệ cho
những đàn em phái yếu sau này, tuy trình độ học vấn thấp nhưng
nhan sắc mặn mà, đem cái "vốn tự có làm vật tiến thân, được bổ
nhiệm vào các cơ quan công quyền, làm danh giá cho gia đình,
dòng họ như một cô Tư Hồng thời hiện đại.
Không còn nghi ngờ gì nữa, "Thời của thánh thần" là hiện
tượng phản biện xã hội thành công với các sự kiện mà từ mấy chục
năm qua người ta vẫn cố tình giấu kín hoặc làm biến dạng nó để
dẫn dắt dư luận sang hướng có lợi hơn cho nền chính trị. Tác giả
viết về bi kịch lịch sử gia đình họ Nguyễn Kỳ cùng với số phận
chìm nổi của mỗi thành viên, cũng chính là đã khái quát được
hình ảnh cả dân tộc trong một giai đoạn lịch sử bi tráng bởi
những cuộc chiến đẫm máu do xung đột ý thức hệ. Cải cách ruộng
đất là ngọn đòn trời giáng, xóa sổ tầng lớp nông gia ưu tú của
nền nông nghiệp Việt Nam thông qua các hình thức đấu tố man rợ
thời trung cổ, đưa giai cấp bần cố nông, trong đó phần lớn là vô
học, lười biếng, thậm chí lưu manh lên làm lãnh đạo. Kết quả là
nạn đói hoành hành, làng xóm tiêu điều sau khi ruộng đất bị tịch
thu, chia chác, hàng loạt đình chùa đền miếu bị phá hủy, sách
được thu gom làm mồi cho thần lửa là nỗi ám ảnh suốt đời đối với
những người còn chút lương tri.
Với giới trí thức, những người cộng sản chưa bao giờ tin tưởng tuy
họ đã có những đóng góp xứng đáng vào cuộc trường kỳ kháng
chiến. Theo Tư Vuông, trí thức, nhất là trí thức văn nghệ sỹ,
hay nhiễu sự, cần phải được dạy bảo, vì Bác Mao từng dạy: "trí
thức không bằng cục phân". Biện pháp tốt nhất cho những đối
tượng được đào tạo bài bản bằng thứ văn hóa "nô dịch" của đế
quốc sài lang là "chuyên chính vô sản". Tư Vuông lăng xê Nguyễn
Kỳ Vỹ không hẳn chỉ vì quý trọng nhân tài mà ông ta muốn nhào
nặn chàng thi sỹ làng Động thành công cụ trong tay mình để dễ
dàng thao túng giới văn nghệ sỹ. Chính vì thế, khi Nguyễn Kỳ Vỹ
có ý định trượt ra khỏi quỹ đạo vạch sẵn thì ông ta lập tức ra
đòn chí mạng đến nỗi ngay cả Chiến Thắng Lợi cũng không cứu nổi.
Với tư cách đầu lĩnh của ngành tư tưởng , Tư Vuông từng nói về
Vỹ với Chiến Thắng Lợi đại loại như: ”Phải mài cho hắn tròn
như hòn bi", hay : "Thằng em ông nó đã bắt đầu biết sợ
rồi đấy". Rõ ràng, chân lý ở đây thuộc về những người như Tư
Vuông, Chiến Thắng Lợi, Văn Quyền, Tiến Tới, cho dù đó là thứ
chân lý của những chuyên viên "lưỡi gỗ". Bài thơ "Tiếng hát
nhân dân", bước đầu được bốc lên tận mây xanh, nhưng cũng
chính nó, sau khi tác giả "ngã ngựa" vì dám phê bình "Thủ đô
gió ngàn" thì bị quy kết đủ thứ tội trong đó có tội "tay sai
Mỹ Diệm", "phản cách mạng". Cả một xã hội bị khủng bố tư tưởng.
Con người luôn sống trong tình trạng bất an, lúc nào cũng nơm
nớp sợ, bất ngờ bị còng tay đưa đi mà không hề biết mình đã mắc
tội gì. Lời của giám thị trại tù Bản nói với Nguyên Kỳ Vỹ lúc
anh được phóng thích nghe mà tức cười cho cái nền tư pháp XHCN :
"Ôi cái ông văn sĩ này, rõ rách việc. Người ta bảo chúng tôi
tha ông thì chúng tôi viết giấy. Chứ chúng tôi cũng chẳng biết
gì hơn ông. Mấy chục năm nay hàng nghìn con người vào, ra trại,
cũng đều thế cả. Chúng tôi chỉ biết làm việc theo lệnh. Có tội
danh hay không có tội danh, đã vào đây đều phải xử theo lệnh. Ai
tuyên án ông ngồi tù? Án đâu? Tội danh gì? Tù thời hạn bao nhiêu
năm? Đến như giám đốc trại là tôi mà cũng không có nổi những văn
bản ấy, thì làm sao có phiên toà để xử ông được?".
Như phần trên đã nói, ngôn ngữ của "Thời của thánh thần" thuộc dạng
cổ điển, không có mấy sáng tạo nhưng quả thật, văn rất đẹp. Nó
đẹp ở cách diễn đạt chân phương qua nghệ thuật kể đầy biểu cảm,
nghệ thuật tả tâm lý sắc sảo cùng với những đoạn bình luận ngoại
đề làm cho người đọc hưng phấn, góp phần đáng kể vào việc tiếp
nhận các giá trị tác phẩm. Cái làm nên sự thành công của tác
phẩm còn là giá trị phản biện lịch sử thông qua số phận của các
nhân vật thuộc gia đình dòng họ Nguyễn Kỳ. Lịch sử vốn công
bằng. Không ai có thể cưỡng bức lịch sử. Sẽ đến một ngày không
xa, những sự thật đau buồn trên dãi đất hình chữ S này sẽ được
phơi bày trước bàn dân thiên hạ.
Xóm liều, những ngày cuối năm con chuột
(23 /12 / 2008)
Đào Thái Văn |